Tải bản đầy đủ (.docx) (202 trang)

Modun 6 Ho tro day hoc tieng viet cho HS thieu so

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 202 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO DỰ ÁN GIÁO DỤC THCS VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT. -----*****----. TÀI LIỆU TẬP HUẤN GIÁO VIÊN. HỖ TRỢ DẠY HỌC TIẾNG VIỆT CHO HS DTTS CẤP THCS VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT. Nhóm biên soạn: Cao Đức Tiến (Chủ biên) Nguyễn Quang Ninh Nguyễn Thị Phương Lan Đào Thị Thúy Nga Nguyễn Thị Xuân Huệ. Hà Nội – 2011.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> MỤC LỤC Trang Lời nói đầu ……………………………………………………………………4 Kế hoạch triển khai tập huấn………………………………………………. 7 Phần I. Những vấn đề chung ………………………………………12 Phần II. Những vấn đề cụ thể ……………………………………...21 Bài 1 - Một vài vấn đề về bình đẳng giới và tăng cường tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất ……………………………….21 - Đặc điểm của tiếng Việt …………………………………………....59 Bài 2. Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất……………………………………………………73 Bài 3. Mở rộng vốn từ cho học sinh dân tộc thiểu số vùng khó khăn nhất…………………………………………………..105 Bài. 4.. Dạy. học. ngữ. pháp. cho. HS. DTTS. vùng. khó. khăn. nhất…………..upload.123doc.net Bài 5. Các lỗi thường gặp và biện pháp khắc phục lỗi sử dụng tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất………….134 Bài 6. Tăng cường tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp…………………159 *Thư mục tài liệu tham khảo ………………………………………………..195.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> BẢNG MỘT SỐ CHỮ VIẾT TẮT - CBQL: Cán bộ quản lí - DTTS: Dân tộc thiểu số - GD & DT : Giáo dục và đào tạo - GV : Giáo viên - HS : Học sinh - HSDT: Học sinh dân tộc - HS DTTS: Học sinh dân tộc thiểu số - NHD : Người hướng dẫn - NTG : Người tham gia - QLGD: Quản lí giáo dục - SGK: Sách giáo khoa - SGV : Sách giáo viên - TDT: Tiếng dân tộc - THCS : Trung học cơ sở - TLTK: Tài liệu tham khảo - TMĐ: Tiếng mẹ đẻ - TV: Tiếng Việt - VN: Việt Nam.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> LỜI NÓI ĐẦU Tài liệu Hỗ trợ dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp trung học cơ sở vùng khó khăn nhất được biên soạn để tập huấn cho 2900 giáo viên Trung học cơ sở đang công tác tại 17 tỉnh được thụ hưởng từ Dự án giáo dục THCS vùng khó khăn nhất. Tài liệu này được kế thừa những ưu điểm của Tài liệu tập huấn Module VI của Dự án đã có trước đó (2010) là Hỗ trợ việc dạy học tiếng Việt và tiếng dân tộc cho học sinh dân tộc thiểu số. Các bài học trong Tài liệu này cũng đã có sự bàn bạc, thống nhất của các cán bộ, giáo viên tham dự Hội thảo tại Hà Nội, Đắk Lak và Cà Mau do Dự án tổ chức. Tài liệu gồm hai phần: Phần I. Những vấn đề chung Tài liệu được biên soạn theo định hướng chung của Dự án, nhằm đạt tới Mục tiêu tổng quát là: Giúp giáo viên THCS vùng khó khăn nhất có thêm hiểu biết và có khả năng vận dụng các phương pháp dạy học nhằm tăng cường tiếng Việt cho HS DTTS cấp THCS. Đồng thời với Mục tiêu tổng quát nêu trên, Tài liệu cũng hướng đến những Mục tiêu cụ thể như sau: - Hỗ trợ việc dạy học Tiếng Việt cho giáo viên và HS DTTS cấp Trung học cơ sở vùng khó khăn nhất. - Giúp giáo viên các môn học khác có thể tham khảo để hỗ trợ việc dạy học Tiếng Việt trong khi dạy học các bộ môn do mình đảm nhiệm. Phần I của Tài liệu dành cho việc trình bày một số vấn đề có tính chất tổng quát, giúp giáo viên quán triệt vào việc dạy học tiếng Việt và các môn học khác cho HS DTTS ở vùng khó khăn nhất. Phần II. Những vấn đề cụ thể Tài liệu được bố trí thành 6 bài học. Mỗi bài bọc thường có ba phần : Phần tổ chức các hoạt động; phần tài liệu học tập và phần phiếu bài tập. Ba phần này có sự liên kết chặt chẽ với nhau : để hoạt động được cần phải đọc tài.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> liệu học tập, tài liệu đọc thêm; và kế theo đó là phải làm bài tập thực hành để khắc sâu cả kiến thức và kĩ năng mới được trang bị hoặc được ôn lại. Sáu bài học tương ứng với thời gian tập huấn như sau: Bài 1. A. Một vài vấn đề về bình đẳng giới và tăng cường tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất B. Đặc điểm của tiếng Việt Bài 2. Rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất Bài 3. Mở rộng vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất Bài 4. Dạy học ngữ pháp cho HS DTTS vùng khó khăn nhất Bài 5. Các lỗi thường gặp và biện pháp khắc phục lỗi sử dụng tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất Bài 6. Tăng cường tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp Tuy Tài liệu có mong muốn là “giúp giáo viên các môn học khác có thể tham khảo để hỗ trợ việc dạy học tiếng Việt trong khi dạy học các bộ môn do mình đảm nhiệm”, nhưng cũng không hoàn toàn có tham vọng là điều này có thể trở thành hiện thực một cách tuyệt đối. Bởi vì, mỗi môn học đều có vai trò và vị trí nhất định trong chương trình giáo dục THCS; các giáo viên của những môn học khác không thể làm nhiệm vụ của các giáo viên dạy học Ngữ văn. Điều hi vọng là các giáo viên của những môn học khác, khi tham khảo Tài liệu này cộng với vốn hiểu biết nhất định về tiếng Việt, có thể sử dụng tiếng Việt để dạy học bộ môn của mình một cách hiệu quả hơn. Qua đó, góp phần hỗ trợ việc dạy học tiếng Việt cho HS DTTS cấp THCS vùng khó khăn nhất..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Tài liệu được hoàn thành với những cố gắng nhất định của nhóm biên soạn, điều chỉnh, đồng thời cũng được sự góp ý rất thiện chí ban đầu của các bạn đồng nghiệp trong các hội thảo ở cả ba miền : Nguyễn Đắc Diệu Lam (Bộ GD & ĐT); Cầm Thị Phượng (CĐSP Điện Biên); Cầm Đức Bình (CĐSP Sơn La); Nguyễn Thị Ngọc Oanh (THCS Thành phố Yên Bái); Phan Đình Dũng (CĐSP Ninh Thuận); Huỳnh Thị Thanh Vân (CĐSP Gia Lai); Nguyễn Thị Hương (CĐSP Kon Tum); Huỳnh Thị Ngọc Lan (CĐSP Trà Vinh)… Nhóm biên soạn, điều chỉnh xin trân trọng cảm ơn. Việc biên soạn, điều chỉnh Tài liệu Hỗ trợ dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp trung học cơ sở vùng khó khăn nhất đã hoàn tất theo yêu cầu của Dự án. Tuy nhiên, những khiếm khuyết chắc chắn vẫn có thể khó tránh khỏi. Mong rằng, trong quá trình tập huấn và trong việc sử dụng Tài liệu này, các thày cô giáo, các bạn đồng nghiệp sẽ cho những ý kiến đóng góp để Tài liệu được chỉnh lí, bổ sung, nhằm đáp ứng việc dạy học tiếng Việt nói riêng và việc hỗ trợ dạy học tiếng Việt từ các môn học khác cho HS DTTS cấp THCS vùng khó khăn nhất được hiệu quả hơn. Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2011 TM Nhóm biên soạn, Chủ biên CAO ĐỨC TIẾN.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI TẬP HUẤN Mô đun 3. Hỗ trợ về ngôn ngữ cho giáo viên dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số 1. Mục tiêu 1.1. Mục tiêu tổng quát Giúp giáo viên THCS vùng khó khăn nhất có thêm hiểu biết và có khả năng vận dụng các phương pháp dạy học nhằm tăng cường tiếng Việt cho HS DTTS cấp THCS. 1.2. Mục tiêu cụ thể - Hỗ trợ việc dạy học Tiếng Việt cho giáo viên và HS DTTS cấp THCS vùng khó khăn nhất. - Giúp giáo viên các môn học khác có thể tham khảo để hỗ trợ việc dạy học Tiếng Việt trong khi dạy học các bộ môn do mình đảm nhiệm. - Sẵn sàng chia sẻ những kiến thức và kĩ năng đã tiếp nhận được qua lớp tập huấn với các đồng nghiệp. 2. Thành phần tham gia 2900 GV THCS tham gia khóa tập huấn. Các thành viên được lựa chọn căn cứ vào chuyên môn đào tạo giáo viên của họ, đồng thời tuân thủ tiêu chí lựa chọn chung theo quy định của Dự án. 3. Nội dung đào tạo bồi dưỡng (6 ngày) Mô đun “Hỗ trợ về ngôn ngữ cho giáo viên dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số” đã được điều chỉnh và viết thành Tài liệu “Hỗ trợ dạy học tiếng Việt cho học sinh DTTS cấp THCS vùng khó khăn nhất”, được dùng để tập huấn giáo viên THCS vùng khó khăn nhất trong thời gian 6 ngày..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Phần 1. Những vấn đề chung Phần này dành cho việc trình bày một số vấn đề có tính chất tổng quát, giúp GV quán triệt vào việc dạy học tiếng Việt và các môn học khác cho HS DTTS ở vùng khó khăn nhất. Phần này không thiết kế thành một bài học, mà chỉ để cho NTG tập huấn tự đọc để nắm bắt tinh thần và vận dụng vào dạy học. Phần 2. Những vấn đề cụ thể *Bài 1. A. Một vài vấn đề về bình đẳng giới và tăng cường tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất 1. Khái quát về dân tộc, ngôn ngữ DTTS ở địa phương và ở VN. 2. Việc dạy học tiếng Việt và TMĐ cho HS DTTS ở VN. 3. Vấn đề giới và bình đẳng giới ở địa phương. B. Đặc điểm của tiếng Việt 1. Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt ngữ âm . 2. Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt từ vựng - ngữ nghĩa. 3. Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt ngữ pháp. *Bài 2. Rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất 1. Rèn luyện kĩ năng nghe. 2. Rèn luyện kĩ năng nói. 3. Rèn luyện kĩ năng đọc. 3. Rèn luyện kĩ năng viết. *Bài 3. Mở rộng vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất 1. Thực trạng sử dụng từ ngữ của HS DTTS vùng khó khăn nhất. 2. Mở rộng vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. 3. Luyện tập mở rộng vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. *Bài 4. Dạy học ngữ pháp cho HS DTTS vùng khó khăn nhất 1. Thực trạng sử dụng câu trong hoạt động giao tiếp của HS DTTS vùng khó khăn nhất..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> 2. Dạy học ngữ pháp cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. 3. Luyện tập ngữ pháp cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. *Bài 5. Các lỗi thường gặp và biện pháp khắc phục lỗi sử dụng tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất 1. Các lỗi về chính tả. 2. Các lỗi về dùng từ. 3. Các lỗi về đặt câu. *Bài 6. Tăng cường tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 1. Chủ đề “Em yêu tiếng Việt”. 2. Chủ đề “Tiếng Việt với quê hương”. 3. Chủ đề “Tiếng Việt với văn hóa dân gian”. 4. Chủ đề “Tham quan di tích, danh thắng ở địa phương”. 4. Phương pháp tập huấn - Đọc hợp tác. - Thực hành. - Thảo luận. - Sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực.. 5. Kế hoạch tập huấn Thời gian 7h30 8h30. Ngày 1 Bài 1. Ngày 2 Bài 2. *Mục tiêu, nội dung, phương pháp. *Làm quen. Mong đợi, Nội quy. - Khái quát về dân tộc, ngôn ngữ DTTS ở địa phương và ở VN. - Thảo luận. - Rèn luyện kĩ năng nghe. - Việc dạy học. - Rèn luyện kĩ. - Thực hành rèn luyện kĩ năng nghe Thảo luận.. Ngày 3 Bài 3 - Thực trạng sử dụng từ ngữ của HS DTTS vùng khó khăn nhất. - Thảo luận. - Mở rộng. Ngày 4 Bài 4 - Thực trạng sử dụng câu trong hoạt động giao tiếp của HS DTTS vùng khó khăn nhất.. Ngày 5 Bài 5 - Lỗi về chính tả của HS DTTS vùng khó khăn nhất.. Ngày 6 Bài 6 - Chủ đề : Em yêu tiếng Việt. - Thảo luận. - Thảo luận - Thảo luận. - Dạy học ngữ. - Lỗi về dùng. - Chủ đề :.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> 8h30 -. tiếng Việt và TMĐ cho HS DTTS ở VN.. 9h45 - Thảo luận.. năng nói. - Thực hành rèn luyện kĩ năng nói. - Thảo luận.. vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất.. pháp cho HS DTTS vùng khó khăn nhất.. từ của HS DTTS vùng khó khăn nhất.. - Thảo luận. - Thảo luận.. - Thảo luận.. Tiếng Việt với quê hương. - Thảo luận.. 9h45 -. Nghỉ giải lao. Nghỉ giải lao. Nghỉ giải lao. Nghỉ giải lao. - Vấn đề giới và bình đẳng giới ở địa phương.. - Rèn luyện kĩ năng đọc.. - Luyện tập mở rộng vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất.. - Luyện tập dạy học ngữ pháp cho HS DTTS vùng khó khăn nhất.. Nghỉ giải lao. Nghỉ giải lao. 10h00. 10h00 -. - Thảo luận.. 11h30. - Thực hành rèn luyện kĩ năng đoc. - Thảo luận.. - Thảo luận.. - Lỗi về đặt câu của HS DTTS vùng khó khăn nhất.. - Chủ đề : - Tiếng Việt với văn hóa dân gian.. - Thảo luận.. - Thảo luận.. Nghỉ ăn trưa. Nghỉ ăn trưa. - Thực hành sửa lỗi chính tả cho HS DTTS vùng khó khăn nhất.. - Chủ đề : Tham quan di tích, danh thắng địa phương.. - Thảo luận. 11h30 -. Nghỉ ăn trưa. Nghỉ ăn trưa. Nghỉ ăn trưa. Nghỉ ăn trưa. 1h30. 1h30 2h30. 2h30 3h00. - Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt ngữ âm - Thực hành phân tích đặc điểm đơn lập của TV về ngữ âm. - Thảo luận. - Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt từ vựng – ngữ nghĩa - Thực hành phân tích đặc điểm đơn lập của TV về từ vưng – ngữ nghĩa. - Thảo luận .. -Rèn luyện kĩ - Thực hành năng viết. luyện tâp mở rộng vốn -Thực hành từ… rèn luyện kĩ (thiết kế bài năng viết. học và dạy thử). - Thảo luận - Thảo luận.. - Thực hành luyện tập dạy học ngữ pháp… (thiết kế bài học và dạy thử.. - Thực hành thiết kế và dạy thử về rèn luyện bốn kĩ năng (theo môn học).. - Tiếp tục thực hành luyện tập dạy học ngữ pháp…(thiết kế bài học và dạy thử).. - Thảo luận.. - Thực hành luyện tâp mở rộng vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất (thiết kế bài học và dạy thử).. - Thảo luận.. - Thảo luận. - Thảo luận.. - Thảo luận.. - Thực hành sửa lỗi dùng từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. - Thảo luận.. - Thảo luận.. - Thực hành : Tự chọn và thiết kế một chủ đề về hoạt động ngoài giờ lên lớp để tăng cường TV cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. - Thảo luận.. 3h00 -. Nghỉ giải lao. Nghỉ giải lao. Nghỉ giải lao. Nghỉ giải lao. Nghỉ giải lao. Nghỉ giải lao.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> 3h15. 3h15 4h30. - Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt ngữ pháp. - Thực hành phân tích đặc điểm đơn lập của TV về ngữ pháp. - Thảo luận.. - Tiếp tục thực hành thiết kế và dạy thử về rèn luyện bốn kĩ năng (theo môn học). - Thảo luận.. - Thực hành luyện tâp mở rộng vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất (thiết kế bài học và dạy thử).. - Tiếp tục thực hành luyện tập dạy học ngữ pháp…(thiết kế bài học và dạy thử). - Thảo luận.. - Thảo luận.. Phần I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG. - Thực hành sửa lỗi đặt câu cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. - Thảo luận.. - Thực hành : Tự chọn và thiết kế một chủ đề về hoạt động ngoài giờ lên lớp để tăng cường TV cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. - Thảo luận..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Như đã trình bày ở Lời nói đầu, Tài liệu này được biên soạn theo định hướng chung của Dự án, nhằm đạt tới Mục tiêu tổng quát là: Hỗ trợ giáo viên THCS vùng khó khăn nhất có thêm hiểu biết và có khả năng vận dụng các phương pháp dạy học để tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, cấp THCS. Để thực hiện mục tiêu nói trên, khi sử dụng tài liệu này, giáo viên cần quán triệt một số điểm cơ bản dưới đây. 1. Quan tâm tới những khó khăn trong học tiếng Việt của học sinh dân tộc Khi học lên cấp Trung học cơ sở, học sinh dân tộc đã có một vốn tiếng Việt được trang bị ở cấp Tiểu học. Tuy nhiên, vốn tiếng Việt này của các em vẫn chưa đủ để nghe, nói, đọc, viết đối với tất cả các môn học ở cấp học này, nhất là ở các lớp đầu cấp. Vốn tiếng Việt của các em vẫn chưa thật chuẩn trong cách phát âm và trong sử dụng. Các em vẫn còn bị chi phối bởi tiếng mẹ đẻ. Nói cách khác, trong khi học tiếng Việt, học sinh dân tộc luôn luôn chịu ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Điều này gần như đương nhiên, bởi vì khi học tiếng Việt, những thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ thường được các em mang theo. Và điều dễ thấy là những điểm giống nhau giữa tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ thì có nhiều thuận lợi, ngược lại, những điểm khác nhau thì lại là “rào cản” đối với các em khi học tiếng Việt. Đây cũng chính là những lỗi sử dụng tiếng Việt mà các em thường mắc phải về phát âm, dùng từ, đặt câu,… Thêm nữa, môi trường học tiếng Việt ở THCS tuy có mở rộng hơn, các em có điều kiện giao tiếp với nhiều thày cô và bạn hữu hơn, nhưng không ít em vẫn còn tâm lí rụt rè, ngại tiếp xúc với thày cô. Trong khi đó, những nội dung giao tiếp với các thày cô bằng tiếng Việt thường chỉ gắn với các bài học, mà ở các bài học thì phần lớn đều là những vấn đề khoa học, không mấy dễ dàng cho việc lĩnh hội. Còn những hoạt động như vui chơi hay những sinh hoạt khác, các em lại thường sử dụng tiếng mẹ đẻ..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Tất cả những điều nói trên đều gây không ít khó khăn cho các em khi học tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Vì vậy, khi dạy học, các giáo viên của tất cả các bộ môn cần có sự quan tâm thỏa đáng để có thể làm bớt đi những khó khăn của các em trong học tập. 2. Tạo môi trường học tiếng Việt cho học sinh dân tộc Môi trường học tiếng ở đây được hiểu là những điều kiện về tự nhiên, xã hội, các phương tiện dạy học, các hoạt động trong và ngoài nhà trường có tác động đến quá trình học tập, rèn luyện để sử dụng ngôn ngữ của học sinh. Có thể tạo môi trường học tập tiếng Việt cho học sinh dân tộc ở một vài phương diện cơ bản như sau : 2.1. Tạo môi trường học tiếng Việt trong nhà trường. Việc tạo môi trường học tiếng Việt trong nhà trường có thể sử dụng các biện pháp như sau : a. Tạo “khung cảnh tiếng Việt” trong và ngoài lớp học Khung cảnh này cốt tạo điều kiện cho học sinh luôn được tiếp xúc với tiếng Việt thông qua các đồ dùng dạy học của thày cô, thông qua các sản phẩm do chính các em làm ra trong quá trình học tập. Đó là những đồ dùng dạy học như : mô hình, tranh ảnh, vật mẫu, bản đồ, biểu bảng… và các sản phẩm của học sinh như: tranh vẽ, báo tường, các bài kiểm tra… Các sản phẩm cần được trưng bày trong lớp theo những chủ đề và thường xuyên được thay đổi, bổ sung làm cho mới mẻ, phong phú đối với tất cả các môn học theo sự hướng dẫn của các thày cô. Ở ngoài lớp, trong không gian chung của nhà trường, có thể treo hoặc dán những bản tin, panô, áp phích, khẩu hiệu…ở những điểm dễ nhìn nhất. Tất cả những việc làm nói trên đều góp phần tạo khung cảnh tiếng Việt cho học sinh dân tộc. b. Tạo lập các hoạt động giao tiếp - Ở THCS, học sinh dân tộc có nhiều hơn cơ hội giao tiếp tiếng Việt trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy vậy, tâm lí nhút nhát, thiếu tự tin, ngại giao tiếp với người lạ chưa hẳn đã được khắc phục hoàn toàn. Vì vậy, thày cô ở tất cả các môn học cần tạo nhiều cơ hội để các em được thực hành giao tiếp bằng tiếng Việt theo những cách sau :.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> + Sử dụng thật hiệu quả các tình huống có thực : Trong dạy học, thày cô cần thường xuyên đặt câu hỏi và hướng dẫn học sinh cách trả lời, đồng thời cũng hướng dẫn các em cách đặt câu hỏi về những điều mình muốn biết; dạy các em cách giao tiếp với người lớn trong trường (Giáo viên, cán bộ, phụ huynh, khách đến thăm trường); tăng cường tổ chức các hoạt động tập thể như trò chơi, biểu diễn văn nghệ, các hoạt động ngoại khóa về bộ môn… + Tạo lập các tình huống giả định : Cho học sinh đóng vai các nhân vật trong bài học để trình bày, lí giải một vấn đề; xây dựng các tình huống và hướng dẫn các em xử lí các tình huống… -. Cần mở rộng dần phạm vi giao tiếp của học sinh :. + Từ gần đến xa : Học sinh với học sinh; học sinh với giáo viên chủ nhiệm lớp; học sinh với giáo viên các bộ môn; học sinh với cán bộ, công nhân viên; học sinh với khách đến thăm và làm việc với nhà trường… + Từ hẹp đến rộng : Từ giao tiếp với một người đến giao tiếp với nhiều người; giao tiếp giữa các nhóm học sinh : nhóm 2, nhóm 3 - 4, nhóm cùng tuổi, nhóm cùng sở thích, theo tổ học tập… Cần lưu ý học sinh : Phải sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với bạn bè trong khi vui chơi, trong các hoạt động ngoại khóa, đặc biệt là ở những trường có học sinh thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Các nội dung giao tiếp cần gắn với các môn học, các sinh hoạt của bản thân, gia đình và cộng đồng… 1.2. Tạo môi trường học tiếng Việt trong gia đình Ngày nay, hòa trong sự phát triển và tiến bộ chung của đất nước là sự phát triển và tiến bộ không ngừng về kinh tế, văn hóa và xã hội của đồng bào dân tộc ở các vùng khác nhau. Các phương tiện truyền thông như sách báo, máy phát thanh, máy thu hình đã có mặt trong nhiều gia đình. Thêm vào đó, phải kể đến số phụ huynh trẻ, biết tiếng Việt ngày càng nhiều. Đây là những dấu hiệu đáng mừng làm chỗ dựa vững chắc cho việc tạo môi trường học tiếng Việt ngay trong từng gia đình. Mặc dầu vậy, vẫn còn nhiều phụ huynh học sinh vẫn chưa có ý thức hoặc chưa biết cách tạo điều kiện cho con em học tiếng Việt ở nhà..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Vì vậy, các thày cô cần có kế hoạch để vận động phụ huynh học sinh tạo môi trường học tiếng Việt sao cho phù hợp với từng gia đình. Cụ thể là những việc làm dưới đây : - Vận động phụ huynh xây dựng góc học tập cho con em (Bằng cách : chọn vị trí có đủ ánh sáng, yên tĩnh để đặt bàn học; trang trí góc học tập gồm có : thời khóa biểu, giấy khen về thành tích học tập (nếu có), các tranh ảnh về các hoạt động học tập do chính các em sưu tầm…). - Hướng dẫn phụ huynh thường xuyên trò chuyện, kiểm tra việc học của con em. Cụ thể là : + Tạo điều kiện về thời gian và nhắc nhở con em học bài (dành một khoảng thời gian thích hợp, cố định trong ngày để con em học, không yêu cầu làm việc nhà). + Thường xuyên hỏi han con em về việc học ở trường và việc học hành, vui chơi với bạn (bằng tiếng Việt). + Nhắc nhở con em có ý thức nghe đài phát thanh, xem truyền hình, đọc sách báo và trao đổi với những nội dung thu nhận được với mọi người trong gia đình (bằng tiếng Việt). 1.3. Tạo môi trường học tiếng Việt trong cộng đồng Cộng đồng có vai trò không nhỏ trong việc giúp học sinh dân tộc học tiếng Việt hàng ngày. Có thể huy động cộng đồng góp sức vào việc tạo môi trường học tiếng Việt cho các em bằng những biện pháp sau : - Tổ chức vận động toàn thể cộng đồng cùng nói tiếng Việt với học sinh. Việc này cần có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, đặc biệt là cán bộ xã, cán bộ các đoàn thể của xã. - Tổ chức các lễ hội, văn nghệ, thể thao cho thanh thiếu niên; huy động học sinh tham gia cắt dán, vẽ tranh cổ động, viết các khẩu hiệu tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Nhà nước và của địa phương ở những nơi công cộng . 3.Vận dụng các nguyên tắc và phương pháp dạy học tiếng Việt với sự lưu ý tới việc dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc như là ngôn ngữ thứ hai.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Để dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc, thì bên cạnh việc phải tuân thủ những nguyên tắc và phương pháp dạy học tiếng Việt, còn phải có sự lưu ý cần thiết tới những phương diện của việc dạy học ngôn ngữ thứ hai. Dưới đây là một vài điểm cần được quán triệt. 3.1.Các nguyên tắc dạy học tiếng Việt Nguyên tắc được hình thành trên cơ sở các quy định của tự nhiên và xã hội, được con người nhận thức, phản ánh nhằm hướng hoạt động đạt tới mục đích đã định. Nguyên tắc dạy học tiếng Việt là những quy định làm điểm tựa cho việc lựa chọn nội dung, phương pháp, biện pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học tiếng Việt. Hiện có nhiều hệ thống nguyên tắc khác nhau trong dạy học tiếng. Ở đây chỉ đề cập tới những nguyên tắc được coi là chung nhất, mang tính đặc thù cho việc dạy học tiếng Việt nói chung và cho học sinh người dân tộc nói riêng. a). Nguyên tắc phát triển lời nói (còn gọi là nguyên tắc giao tiếp) : Nguyên tắc này được coi là trung tâm của việc dạy học tiếng. Nguyên tắc này đòi hỏi phải đảm bảo được các yêu cầu sau : - Phải xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức, tức là đưa chúng vào các đơn vị lớn hơn trong chức năng giao tiếp của chúng. - Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao tiếp làm mục đích, tức là hướng vào việc hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. - Phải tổ chức tốt hoạt đọng nói của học sinh để dạy tiếng Việt, nghĩa là phải sử dụng giao tiếp như là một phương pháp dạy học. b). Nguyên tắc phát triển tư duy – Nguyên tắc này yêu cầu đạt được những điểm sau : - Phải chú ý rèn luyện các thao tác và phẩm chất tư duy trong giờ dạy học tiếng. - Phải làm cho học sinh thông hiểu được ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> - Phải tạo điều kiện cho học sinh nắm được nội dung các vấn đề muốn nói và viết, đồng thời biết thể hiện nội dung đó bằng các phương tiện ngôn ngữ. c). Nguyên tắc chú ý đến trình độ tiếng mẹ đẻ của học sinh – Nguyên tắc này được vận dụng khi dạy học tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đẻ và với tư cách là ngôn ngữ thứ hai có khác nhau. Đối với học sinh người Kinh, khi học tiếng Việt, các em được tiếp xúc với một đối tượng quen thuộc, gắn bó trực tiếp với cuộc sống hàng ngày của mình. Học qua cấp Tiểu học và lên cấp THCS, các em đã có những hiểu biết và kĩ năng nhất định về các hoạt động nghe, nói, đọc, viết. Còn đối với học sinh dân tộc, học tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai, thì việc vận dụng nguyên tắc này là rất quan trọng. Nếu tiếng mẹ đẻ có đặc điểm giống tiếng Việt, thì học sinh cần sử dụng kinh nghiệm học tiếng mẹ đẻ sang học tiếng Việt. Nếu là những điểm khác biệt thì phải tuân thủ những yêu cầu của dạy học tiếng Việt. Lưu ý : Trong những trường hợp không có phương pháp nào để thay thế thì có thể sử dụng tiếng dân tộc để giúp học sinh hiểu bài. Nhưng cũng cần tránh việc lạm dụng tiếng dân tộc trong quá trình dạy học và tổ chức các hoạt động giáo dục. Giáo viên cần chuẩn bị trước những mẫu câu, vốn từ tiếng dân tộc trước khi lên lớp. 3.2. Các phương pháp dạy học tiếng Việt a). Phương pháp phân tích ngôn ngữ Phương pháp phân tich ngôn ngữ được sử dụng một cách có hệ thống trong việc xem xét tất cả các mặt của ngôn ngữ : ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, cấu tạo từ, chính tả, phong cách với mục đích làm rõ cấu trúc các kiểu đơn vị ngôn ngữ, hình thức và cấu tạo, ý nghĩa của việc sử dụng chúng trong nói năng. Có thể kể đến các dạng phân tích ngôn ngữ như sau : - Quan sát ngôn ngữ : là giai đoạn đầu trong quá trình phân tích ngôn ngữ; đây là giai đoạn quan trọng vì nó mang tính định hướng. - Phân tích ngữ âm : thường được sử dụng trong dạy học vần, dạy học tập đọc (luyện đọc những tiếng khó)..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Phân tích chính tả : được dùng trong việc dạy học chính tả, dạy học viết. - Phân tích ngôn ngữ các tác phẩm văn học : thường được dùng trong dạy đọc - hiểu văn bản và dạy học làm văn. Tất cả các dạng phân tích nêu trên đều được chuyển hóa vào các bài tập. Giáo viên cần xem xét tính chất của các dạng bài tập thuộc về dạng phân tích ngôn ngữ nào để giúp học sinh tìm ra lời giải mà bài tập yêu cầu. Tuy nhiên, trên thực tế, các dạng phân tích ngôn ngữ thường đan xen, hỗ trợ cho nhau trong quá trình tìm hiểu, giảng dạy và học tập. Ví dụ, trong giờ đọc – hiểu văn bản, có thể vừa sử dụng phân tích ngữ âm (đọc các từ khó), vừa sử dụng dạng phân tích tác phẩm văn học. b). Phương pháp luyện theo mẫu Là phương pháp mà học sinh tạo ra các đơn vị ngôn ngữ, lời nói bằng cách mô phỏng lời giáo viên, sách giáo khoa và các phương tiện dạy học khác…Phương pháp này gồm nhiều dạng bài tập như : kể lại, đặt câu theo mẫu cho trước, phát âm hoặc đọc diễn cảm theo giáo viên…Phương pháp này thường được dùng trong các giờ đọc - hiểu văn bản, kể chuyện, làm văn… Đây là một phương pháp mô phỏng, vì vậy, giáo viên cần hạn chế tính “bắt chước” để phát huy tính sáng tạo của học sinh. c). Phương pháp giao tiếp Là phương pháp dạy học tiếng dưạ vào lời nói, vào những thông báo sinh động, vào giao tiếp bằng ngôn ngữ. Phương pháp này gắn liền với phương pháp luyện theo mẫu. Cơ sở của phương pháp giao tiếp là chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ được coi là phương tiện giao tiếp thì lời nói được coi là bản thân sự giao tiếp bằng ngôn ngữ. Dạy học tiếng Việt theo hướng giao tiếp tức là dạy phát triển lời nói cho từng cá nhân học sinh. Phương pháp giao tiếp coi trọng sự phát triển lời nói, còn những kiến thức lí thuyết thì được nghiên cứu trên cơ sở phân tích các hiện tượng đưa ra trong bài học. Để thực hiện phương pháp giao tiếp, phải tạo cho học sinh nhu cầu giao tiếp, nội dung giao tiếp, các phương tiện giao tiếp, các thao tác giao.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> tiếp…Phương pháp giao tiếp được coi trọng đặc biệt trong việc rèn luyện cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. 4.Dạy học tiếng Việt trong các môn học khác a). Trong nhà trường, các môn học và các hoạt động giáo dục đều sử dụng tiếng Việt như một phương tiện để chuyển tải kiến thức tới học sinh. Vì vậy, khi học các môn học khác, học sinh dân tộc cũng phải sử dụng tiếng Việt, và thông qua đó, những kĩ năng sử dụng tiếng Việt cũng dần dần thành thục hơn. Ví dụ, trong khi học Toán, các kĩ năng sử dụng tiếng Việt cũng được thể hiện ở các hoạt động sau : - Nói : Học sinh được nói những điều đã nghe và nhìn thấy; được nêu thắc mắc hoặc phát hiện vấn đề bằng lời nói; được nói khi trao đổi với bạn và hỏi thày cô về bài học. - Đọc : Học sinh được đọc thành tiếng các số, quan hệ số, các biểu thức toán, bài toán có lời văn… Đọc thầm các lệnh, câu hỏi, mệnh đề, bài toán, thao tác tính toán; đọc hiểu các lệnh, câu hỏi, mệnh đề, phép tính, các yêu cầu của bài học toán… - Viết : Học sinh được viết các biểu thức toán, thực hiện các phép tính; Viết thành các câu trong bài toán có lời giải, có đáp số… Học lên cấp THCS, được tiếp xúc với nhiều môn học, nhiều học sinh dân tộc chưa sử dụng tiếng Việt thành thạo, nhất là ở các lớp đầu cấp, nên cũng còn khó khăn trong việc lĩnh hội các khái niệm, thuật ngữ. Vì vậy, cần sử dụng các phương pháp phù hợp để để giúp học sinh hiểu tiếng Việt trong các môn học nhằm nâng cao chất lượng học tập của các em. Việc giúp các em hiểu tiếng Việt trong các môn học vừa nhằm tăng cường kĩ năng sử dụng tiếng Việt, vừa trực tiếp giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản về bài học, môn học. Ví dụ trong giờ Toán, giáo viên và học sinh không chỉ giao tiếp với nhau bằng các con số và bằng các bài toán, mà những con số, những phép tính, những bài toán cũng phải đọc lên thành tiếng rồi kết lại bằng lời. Vì vậy, trong giờ học toán, giáo viên phải tháo gỡ những vướng mắc về ngôn ngữ trong lời giảng và ngôn ngữ chứa đựng trong từng bài học lí.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> thuyết cũng như trong từng bài tập thực hành. Có như vậy, việc dạy học Toán mới đạt kết quả mong muốn. b). Về vốn từ tiếng Việt, nếu chỉ trông chờ vào vốn từ được trang bị trong sách giáo khoa thì chưa đủ. Những bài học trong sách giáo khoa tiếng Việt có đầy đủ đến mấy cũng khó đáp ứng được nhu cầu học tập và sinh hoạt của học sinh. Trong các môn học, có nhiều từ ngữ, khái niệm của môn học và nhiều từ ngữ của đời sống nhằm dắt dẫn học sinh đến với các khái niệm của môn học. Vì vậy, việc tăng cường tiếng Việt trong các môn học khác cũng là một biện pháp tốt để nâng cao trình độ tiếng Việt nói chung cho học sinh dân tộc. Học tiếng Việt trong các môn học khác là hình thức mở rộng môi trường học tiếng và đưa các tri thức tiếng Việt mà các em đã học được trong môn tiếng Việt vào thực hành. c). Cần thống nhất rằng : Mỗi môn học có đặc trưng riêng và nhiệm vụ riêng phải hoàn thành để đạt mục tiêu của môn học. Không phải vì tiếng Việt có tầm quan trọng đối với học sinh dân tộc mà biến các giờ dạy học các môn học khác thành giờ dạy học tiếng Việt. Trong quá trình giảng giải cho học sinh hiểu các khái niệm của môn học, cách diễn đạt…cũng đã là góp phần giúp học sinh nâng cao trình độ tiếng Việt. Dạy học tiếng Việt trong các môn học khác không chỉ là đòi hỏi của môn tiếng Việt, mà còn chính là đòi hỏi của bản thân từng môn học. Như là một hệ quả tất yếu, ở các môn học khác, nếu học sinh được học tiếng Việt một cách bài bản, có ý thức thì chất lượng học tiếng Việt của học sinh sẽ được nâng lên.. Phần II.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ BÀI 1. MỘT VÀI VẤN ĐỀ VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT; ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾNG VIỆT -------------------------------A. MỘT VÀI VẤN ĐỀ VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ TĂNGCƯỜNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT I. MỤC TIÊU Sau bài này, NTG có khả năng : Kiến thức: - Hiểu được những vấn đề chung về ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ở địa phương và ở Việt Nam. - Hiểu được vai trò xã hội của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số nói chung - Thấy được tầm quan trọng của vấn đề bảo tồn, phát triển tiếng nói của dân tộc thiểu số đồng thời nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt cho HS.. - Hiểu rõ nguyên nhân học sinh DTTS học tiếng Việt chưa tốt và tác động của vấn đề này đến chất lượng học tập nói chung. - Hiểu biết các vấn đề về giới biểu hiện trong việc sử dụng ngôn ngữ ở địa phương, trong nhà trường. Kĩ năng: Có kĩ năng làm việc theo nhóm và kĩ năng tập huấn các nội dung trong bài cho đồng nghiệp ở địa phương nơi GV công tác. Thái độ: - Tôn trọng văn hoá và ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. - Kiên trì, chủ động giúp đỡ HS DTTS học tập, rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt tốt hơn. - Có ý thức tránh những biểu hiện bất bình đẳng giới trong dạy học, giáo dục HS. II. TÀI LIỆU VÀ THIẾT BỊ DẠY HỌC - Người hướng dẫn:.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> + Kế hoạch bài tập huấn, tài liệu học tập, phiếu bài tập. + Giấy A0, giấy A4, bút dạ, băng dính, giấy bìa mầu, kéo. + Máy chiếu, màn chiếu (nếu điều kiện cho phép). - Người tham gia : SGK, SGV, Giáo án,… III. PHƯƠNG TIỆN ĐÁNH GIÁ - Thông qua các sản phẩm làm việc của nhóm; - Các nội dung trình bày của cá nhân và nhóm trước lớp. IV. KẾT QUẢ MONG ĐỢI Giáo viên THCS vùng khó khăn nhất có những hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về các vấn đề ngôn ngữ và bình đẳng giới ở địa phương để vận dụng vào thực tế dạy học tiếng Việt và các bộ môn khoa học khác một cách có hiệu quả. V. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Thời. Tên. Hoạt động của. Hoạt động của. gian. hoạt. người hướng dẫn. người tham gia. Ghi chú. động 5’. Hoạt. - Khởi động. động 1: 5’ 15’. - Khởi động bằng trò chơi hoặc văn nghệ.. Tìm. -Yêu cầu kể tên các dân tộc thiểu số - Thực hiện theo yêu cầu của. hiểu. ở nơi mình giảng dạy (xã, huyện). khái. -Yêu cầu các nhóm thảo luận: mô tả - Các nhóm (theo xã, huyện) - Sử dụng. quát về. bằng sơ đồ các dân tộc và ngôn ngữ ở thảo luận ghi vào giấy A0.. dân tộc,. địa phương (dân tộc, nơi cư trú, đặc - 1->2 nhóm báo cáo kết quả bút. ngôn. điểm ngôn ngữ: tiếng nói, chữ viết...). ngữ. - Nhận xét, tổng hợp ý kiến của các chia sẻ, bổ sung cho nhau.. kéo.. DTTS. nhóm, kết luận về sự đa dạng dân tộc -Theo dõi, phản hồi.. Máy. ở địa. và ngôn ngữ ở địa phương.. chiếu. người hướng dẫn. dạ,. thảo luận, các nhóm cùng băng keo,. phương. Projector.. và ở VN. - Yêu cầu: 5’. giấy A0,. - Cá nhân:. - Sử dụng. + Kể tên một số văn bản, sách báo, + Ghi tên văn bản, sách, giấy A0, tác phẩm văn học, chương trình chương trình tiếng DT ở địa bút truyền thanh, truyền hình bằng tiếng phương (huyện, tỉnh).. dạ,. băng keo,.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> dân tộc ở địa phương mà thầy/cô biết. + Nêu ý kiến nhận xét.. kéo.. + Nêu nhận xét về vị trí của tiếng - Báo cáo. Máy. Việt và tiếng DTTS trong giao tiếp và - Trao đổi, thảo luận chung.. chiếu. cuộc sống.. Project-. - Tổng hợp, nhận xét, kết luận về vị. or. trí chính thống của tiếng Việt và việc tăng cường sử dụng, bảo tồn ngôn ngữ các DTTS ở địa phương. 8’. - Yêu cầu :. - Đọc tài liệu số 1:. + Đọc tài liệu số 1.. ngữ các dân tộc thiểu số ở nhân. + Nêu nhận xét về tình hình dân tộc. Việt Nam.. và ngôn ngữ ở VN.. - Nêu ý kiến nhận xét về tình tác.. - Yêu cầu cá nhân/nhóm nêu ý kiến;. hình dân tộc và ngôn ngữ ở. các thành viên khác góp ý, bổ sung.. Việt Nam.. - Nhận xét, nêu kết luận (trên máy chiếu) về sự đa dạng dân tộc và ngôn ngữ ở VN. + VN có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 87% dân số; 53 dân tộc khác có số lượng dao động trên dưới một triệu người như Tày, Nùng, Thái, Mường, Khmer, H’Mông, cho đến vài trăm người như dân tộc Ơ Đu và Brâu. + Các dân tộc có ngôn ngữ riêng và nền văn hóa truyền thống đặc sắc của mình; các dân tộc có chữ viết riêng như Thái, H’Mông, Tày, Nùng, Khmer, Jrai, Êđê, Hoa, Chăm… + Tiếng Việt được chọn là ngôn ngữ chung cho các dân tộc. Trong hệ thống giáo dục từ Mẫu giáo đến Đại. Ngôn - Đọc cá đọc. và hợp.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> học, tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông, là công cụ để truyền thụ kiến thức, đồng thời cũng là công cụ giao tiếp, quản lí Nhà nước của các dân tộc trên lãnh thổ VN.. 5’. - Yêu cầu :. - Đọc tài liệu số 2: Bảo tồn - Sử dụng. + Đọc Tài liệu số 2.. ngôn ngữ các dân tộc thiểu giấy A0,. + Thảo luận nhóm chỉ ra Vai trò của số.. bút. dạ,. ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trong. băng keo,. cộng đồng ngôn ngữ của mỗi quốc - Thảo luận trong nhóm ghi kéo. gia.. kết quả tài liệu vào giấy A0. Máy chiếu. - Các nhóm báo cáo.. - Cho các nhóm báo cáo kết quả thảo luận - Nhận xét, khái quát nội dung báo cáo của các nhóm. - Nêu kết luận về vai trò của ngôn 5’. ngữ các dân tộc thiểu số đối với ngôn ngữ của mỗi quốc gia nói chung và việc bảo tồn tiếng nói các DTTS: Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) của các dân tộc là sự thể hiện - Theo dõi, phản hồi tích cực. trình độ phát triển văn hoá và tư duy của từng dân tộc. Ngôn ngữ đã tích tụ lưu giữ quá khứ lịch sử truyền thống, phản ảnh quan niệm về vũ trụ, cái nhìn về cuộc sống và tương lai. Projector..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> mà từng dân tộc đã đúc kết và xây dựng nên... Khi một ngôn ngữ biến mất, thì những kiến thức này cũng sẽ mất theo và điều đó đồng nghĩa với việc một phần lịch sử và văn hóa của nhân loại bị xóa sổ và nền văn hoá chung của thế giới cũng bị “nghèo đi”. Ngày nay, số ngôn ngữ có thể mất đi chủ yếu là ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Sự mất đi này diễn ra với mức độ ngày càng nhanh hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá nếu chúng ta không có các giải pháp tích cực để bảo tồn và phát triển nó. Để bảo tồn và phát triển ngôn ngữ các dân tộc thiểu số thì cần phải xem xét, đánh giá nguyên nhân tại sao các ngôn ngữ này lại đang đứng trước nguy cơ mất đi, từ đó tìm biện pháp bảo tồn và phát triển. 7’. Yêu cầu :. + Đọc tài liệu số 3. - Đọc tài liệu số 3: Tiếng nói - Đọc cá và chữ viết của người dân nhân. + Thảo luận nhóm, chỉ ra vai trò tộc thiểu số - công cụ tốt đọc. và hợp. của ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở nhất để bảo tồn, phát huy và tác. Việt Nam.. phát triển bản sắc văn hóa. + Liên hệ vấn đề bảo tồn ngôn ngữ dân tộc.. - Sử dụng. DTTS ở địa phương.. - Thảo luận nhóm.. giấy A0,. - Báo cáo kết quả thảo luận.. bút. dạ,. - Cho các nhóm báo cáo, nhận xét. băng keo,. phản hồi lẫn nhau.. kéo. Máy chiếu.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Projector..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> - Tổng hợp, kết luận nội dung trên - Lắng nghe, ghi chép; - Sử dụng máy chiếu: 5’. phản hồi tích cực.. giấy A0,. + Tiếng nói và chữ viết của đồng bào. bút. các dân tộc thiểu số có tầm quan. băng keo,. trọng đặc biệt đối với việc giữ gìn,. kéo.. bảo tồn, phát huy và phát triển bản. Máy. sắc văn hóa dân tộc.: Tiếng nói và. chiếu. chữ viết là vật mang tin (công cụ) và. Projector.. lưu giữ bản sắc văn hóa tốt nhất; Tiếng nói và chữ viết là công cụ quan trọng nhất trong việc nghiên cứu, phổ biến sâu rộng các giá trị văn hóa trong một dân tộc và cộng đồng các dân tộc Việt Nam. + Vấn đề bảo tồn ngôn ngữ DTTS: khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn học nghệ thuật là người dân tộc thiểu số; Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số và tạo điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê hương;điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hoá, văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số; tăng cường hơn nữa việc đưa tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân tộc thiểu số vào giảng dạy ở các. dạ,.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> cấp giáo dục..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> TÀI LIỆU HỌC TẬP Tài liệu số 1 NGÔN NGỮ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM 1. Các dân tộc thiểu số Việt Nam Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó người Kinh có số người nhiều nhất, chiếm 87% dân số. Các dân tộc thiểu số như: Tày, (1.190.000 người), Thái (1.040.000 người), Mường (940.000 người). Hoa (900.000 người), Khmer (895.000 người), Nùng (706.000 người), H’Mông (558.000 người), Dao (474.000 người), Jrai (242.000 người), Êđê (195.000 người). Một số dân tộc có dân số 10.000-100.000 người. Các dân tộc Brâu, Ơ Đu và Rơ Măm có khoảng vài trăm người. Tuy số dân của các dân tộc ở VN có sự chênh lệch đáng kể, song từ ngàn đời nay họ luôn quí trọng, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau như anh em một nhà, cùng chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Địa bàn cư trú Ở Việt Nam, các dân tộc thiểu số cư trú phân tán và đan xen với nhau. Người Kinh, Hoa, ....cư trú tập trung ở các đô thị, vùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long, vùng ven biển, trung du và những thung lũng ở miền núi. Người Tày, Nùng, Dao...cư trú tập trung ở vùng Đông Bắc bộ. Người Thái, Mường, Lào, H’Mông...cư trú tập trung ở vùng Tây Bắc bộ. Người Chăm, Hrê, M’Nông....cư trú tập trung ở vùng Duyên Hải miền Trung. Người Jrai, Bana, Mạ....cư trú tập trung ở vùng Tây Nguyên. Người Chăm, Khmer cư trú ở đồng bằng sông Cửu Long. Cư trú đan xen giữa các dân tộc ở nước ta tạo điều kiện để các dân tộc hiểu biết lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm trong lao động sản xuất, giao lưu văn hoá.... Tình đoàn kết các dân tộc thiểu số Việt Nam được xây dựng từ lâu đời và ngày càng bền chặt. Về dân số, các dân tộc thiểu số ở nước ta chiếm 1/3 dân số cả nước nhưng lại cư trú trên 3/4 diện tích cả nước. Mặt khác đây lại là những vùng có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái và có tiềm năng phát triển kinh tế - xã hôi. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thường sống theo cộng đồng làng bản. Mỗi làng bản là tập hợp những gia đình có thể có quan hệ huyết thống hoặc không có,.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> nhưng sống hoà thuận với nhau để cùng làm ăn sinh sống. Làng bản là nơi các cư dân tập trung sinh sống chủ yếu…Với các thiết chế riêng của mình (hương ước), làng bản của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam luôn đóng vai trò là nơi sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng chính của đồng bào. Hôn nhân và gia đình của mỗi dân tộc cũng có những khác biệt (người Chăm, Jrai theo chế độ mẫu hệ. Nhưng bộ phận người Chăm ở ở Châu Đốc – An Giang do ảnh hưởng của đạo Hồi nên chế độ gia đình phụ hệ được thiết lập). 2. Ngôn ngữ các dân tộc các dân tộc thiểu số ở Việt Nam Theo số liệu chính thức của Nhà nước, Việt Nam có 54 dân tộc. Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam được phân thành 4 ngữ hệ chính gồm 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau. Đó là: Thứ nhất, ngữ hệ Nam Á: 1) Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường: gồm ngôn ngữ các dân tộc Kinh, Mường, Thổ, Chứt. 2) Nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer: Gồm các dân tộc Khmer, Ba-na, Xơđăng, Cơ-ho, Hrê, Mnông, Xtiêng, Bru-Vân kiều, Cơ –tu, Gié-triêng, Mạ, Khơ–mú, Tà Ôi, Chơ-ro, Kháng, Xinh-mun, Brâu, Ơ- đu, Rơmăm. 3) Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái: gồm các dân tộc Tày, Thái, Nùng, Sán Chay, Giáy, Lào, Lự, Bố Y. 4) Nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao: Gồm các dân tộc Hmông, Dao, Pà Thẻn Thứ hai, ngữ hệ Nam Đảo: 5) Nhóm ngôn ngữ Mã lai- Đa đảo: Gồm các dân tộc Chu- ru, Gia- rai, Ê-đê. Thứ ba, ngữ hệ Hán-Tạng: 6) Nhóm ngôn ngữ Tạng- Mianma: Gồm các dân tộc Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Si La. 7) Nhóm ngôn ngữ Hán: Gồm các dân tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu. Thứ tư, ngữ hệ Kađai : 8) Nhóm ngôn ngữ Kađai: Gồm các dân tộc Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo. (Theo Nguyễn Văn Khang. Ngôn ngữ học xã hội-Những vấn đề cơ bản. NXB KHXH).

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Tài liệu số 2 BẢO TỒN NGÔN NGỮ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) của các dân tộc là sự thể hiện trình độ phát triển văn hoá và tư duy của từng dân tộc. Ngôn ngữ đã tích tụ lưu giữ quá khứ lịch sử truyền thống, phản ảnh quan niệm về vũ trụ, cái nhìn về cuộc sống và tương lai mà từng dân tộc đã đúc kết và xây dựng nên... Khi một ngôn ngữ biến mất, thì những kiến thức này cũng sẽ mất theo và điều đó đồng nghĩa với việc một phần lịch sử và văn hóa của nhân loại bị xóa sổ và nền văn hoá chung của thế giới cũng bị “nghèo đi”. Mặc dù có ý nghĩa và tầm quan trọng như thế, nhưng hiện nay nhân loại chúng ta đang phải đối mặt với sự mất dần một số ngôn ngữ dân tộc. Theo Viện Nhân chủng học và Lịch sử quốc gia Mexico, trên thế giới tồn tại khoảng 6.700 loại ngôn ngữ khác nhau, các con số thống kê và dự đoán dự báo đã chỉ ra rằng cứ 2 tuần thì thế giới này mất đi một ngôn ngữ và đến khoảng cuối thế kỷ XXI có đến 50% ngôn ngữ trên trái đất sẽ có thể biến mất. Vấn đề đặt ra là số ngôn ngữ có thể mất đi đó lại chủ yếu là ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Sự mất đi này diễn ra với mức độ ngày càng nhanh hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay và nếu chúng ta không có các giải pháp tích cực để bảo tồn và phát triển nó. Vấn đề đặt ra là để bảo tồn và phát triển ngôn ngữ các dân tộc thiểu số thì cần phải xem xét, đánh giá nguyên nhân tại sao các ngôn ngữ này lại đang đứng trước nguy cơ mất đi. Nhiều cá nhân và tổ chức đã đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau đây: 1. Các ngôn ngữ của dân tộc thiểu số đã, đang và sẽ tiếp tục chịu một sức ép rất lớn trước ngôn ngữ dân tộc đa số để tồn tại. Ngôn ngữ của dân tộc đa số có sự tác động mạnh đến nỗi nó trở thành ngôn ngữ chính thức tại các vùng có nhiều dân tộc thiểu số, được sử dụng trên các phương tiện truyền thông (báo chí, Intemet, truyền hình...), tại các trường học (sách giáo khoa, tài liệu nghiên cứu) và trong các văn bản hành chính của chính quyền... Trong khi đó ngôn ngữ của dân tộc thiểu số dù được công nhận sự tồn tại, nhưng lại chỉ được phổ biến trong các phạm.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> vi có giới hạn và không quá phổ biến như: làng mạc, gia đình và các buổi lễ cổ truyền... Vấn đề này đã làm cho ngôn ngữ đa số ngày càng “phình to” và “lan toả” vào mọi ngõ ngách của cuộc sống xã hội, tạo ra sức ép làm cho ngôn ngữ dân tộc thiểu số ngày càng “thu hẹp” và trở nên ít phổ biến hơn. Bên cạnh đó còn phải kể đến sự xâm nhập của ngôn ngữ dân tộc đa số vào ngôn ngữ dân tộc thiểu số làm cho ngôn ngữ của dân tộc thiểu số bị pha tạp bởi rất nhiều từ ngữ của dân tộc đa số, kết quả của sự xâm nhập này đã làm cho ngôn ngữ các dân tộc thiểu số nghèo đi và tất yếu sẽ dẫn tới nguy cơ suy thoái. 2. Ngay một bộ phận những người dân tộc thiểu số cũng từ bỏ phong tục của mình và hòa nhập với những người không cùng ngôn ngữ. Bởi thế họ càng ít có cơ hội để sử dụng tiếng mẹ đẻ. Kết quả là ngôn ngữ của họ dần bị quên lãng và biến mất theo mức độ và thời gian hội nhập. 3. Khi ngôn ngữ không còn được coi là niềm tự hào thì việc duy trì và gìn giữ ngôn ngữ trong cộng đồng, thành phần dân tộc thiểu số gặp không ít khó khăn. Trong số 6.700 ngôn ngữ đang được sử dụng khắp thế giới, chỉ có khoảng gần 4.000 tiếng nói được truyền lại cho các thế hệ tiếp nối, số còn lại chỉ được truyền lại rất ít, hoặc không được truyền lại do nhiều nguyên nhân khác nhau. Người ta thường chỉ thấy việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ trong những người già ở cộng đồng, trong gia đình, trong khi đó với tuổi trẻ, ngôn ngữ dân tộc thiểu số lại rất ít được sử dụng, thậm chí còn được coi là “nhà quê”, không thích nghi với xã hội hiện đại. Chẳng có gì ngạc nhiên khi họ chủ yếu nói tiếng dân tộc đa số hoặc đua nhau học tiếng Anh, Pháp... để giao tiếp với thế giới bên ngoài. 4. Giải pháp bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số của nhiều quốc gia hoặc tỏ ra không hiệu quả hoặc chưa đủ sức mạnh để ngăn cản những tác động bất lợi do quá trình hội nhập và phát triển làm ảnh hưởng đến ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Hàng ngày qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hoạt động khác, chúng ta thường hay nói nhiều và bày tỏ sự lo lắng, chú tâm về ô nhiễm môi trường, sinh thái tự nhiên, về nguy cơ tuyệt chủng của các loài sinh vật, từ đó kêu gọi nhân loại bằng các hoạt động thiết thực của mình chung tay góp sức để bảo vệ sự đa dạng sinh học. Nhưng đối với việc bảo vệ sự đa dạng ngôn ngữ, văn hóa của.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> các dân tộc, nói cách khác là bảo vệ môi trường, sinh thái văn hóa trước nguy cơ tiêu vong của một số lớn ngôn ngữ nhân loại thì có ít người đề cập và quan tâm đến. Trong khi đó ngôn ngữ có nguy cơ bị tiêu vong lớn hơn nhiều so với sự mất đi của các loài sinh vật. Ngoài những nguyên nhân được coi là cơ bản nêu trên với mỗi một quốc gia, một vùng, một cộng đồng, một dân tộc thiểu số cụ thể còn có những nguyên nhân khác nữa. Việc nhận biết ra các nguyên nhân đó là rất quan trọng nhưng vấn đề quan trọng hơn đó là thái độ ứng xử và hành động của chúng ta để hạn chế các nguyên nhân đó như thế nào, việc xây dựng và thực thi chính sách về ngôn ngữ ra sao để có thể ngăn chặn được nguy cơ suy thoái và biến mất của ngôn ngữ dân tộc thiểu số từ đó bảo tồn vào phát triển vốn văn hoá của nhân loại. Đây là câu hỏi cấp bách đang đặt ra với các quốc gia và cả đối với Việt Nam chúng ta, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới đang hưởng ứng cuộc vận động toàn cầu của UNESCO với nội dung “Năm ngôn ngữ 2008”. (Tạp chí LL của UB dân tộc) Tài liệu số 3 TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐCÔNG CỤ TỐT NHẤT ĐỂ BẢO TỒN, PHÁT HUY VÀ PHÁT TRIỂN BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC. - Việt Nam là một Quốc gia có 54 dân tộc anh em sinh sống xen kẽ, mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa mang đặc sắc riêng gắn liền với cội nguồn, phong tục tập quán, nếp sống, sinh hoạt, văn học- nghệ thuật… của dân tộc đó. Các nền văn hóa ấy tương đối thống nhất và hài hòa với nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng trong thể thống nhất của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam. - Có thể nói, các nền văn hóa ấy không chỉ là món ăn tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong cuộc sống hàng ngày mà còn tạo nên nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - du lịch vùng đồng bào dân tộc thiểu số,.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực. Vấn đề này đã được khẳng định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII, Nghị quyết số 03/NQ-TW ngày 16 tháng 7 năm 1998 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 03/NQ-TW)), đó là: “Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc, là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hoá của các dân tộc anh em”. Thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, sớm giảm tỉ lệ hộ đói nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, xoá mù chữ, nâng cao dân trí, xoá bỏ hủ tục”. - Để thực hiện được nhiệm vụ trên không thể bỏ quên tầm quan trọng của tiếng nói và chữ viết của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi lẽ: Để giữ gìn, bảo tồn, củng cố và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số góp phần tạo nên nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết 03/NQ-TW tiếp tục khẳng định: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hoá, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn học nghệ thuật là người dân tộc thiểu số. Ưu tiên tài trợ cho các tác giả dân tộc thiểu số có tài năng sáng tạo các tác phẩm về đề tài dân tộc và miền núi. Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> dân tộc thiểu số và tạo điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê hương. Phát huy tài năng các nghệ nhân. Đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hoá, văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số. Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, mở rộng mạng lưới thông tin ở vùng dân tộc thiểu số. 1) Tiếng nói và chữ viết là vật mang tin (công cụ) và lưu giữ bản sắc văn hóa tốt nhất Tiếng nói, chữ viết của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam là công cụ mang thông tin, ghi chép, truyền đạt lại một cách tối ưu nhất các giá trị văn hóa, phong tục tập quán, thể hiện sâu sắc ý chí của người truyền đạt thông tin cũng như các nội dung và hình thức thể hiện của các giá trị văn hóa để người được tiếp cận nắm bắt và hiểu rõ ý nghĩa của các giá trị văn hóa đó. Đồng thời, tiếng nói và chữ viết là vật lưu giữ các giá trị văn hóa, thông qua tiếng nói và chữ viết thì người nghe, đọc sẽ cảm nhận được các nội dung và mục đích, ý nghĩa mà người truyền đạt mong muốn hay để lại. 2) Chỉ có tiếng nói và chữ viết của dân tộc nào thì mới thể hiện đầy đủ, đúng đắn và sâu sâu sắc các giá trị văn hóa của dân tộc đó Các giá trị văn hóa của đồng bảo dân tộc thiểu số phải được sưu tầm, ghi chép, trao đổi, nghiên cứu bằng chính chữ viết của dân tộc đó, sau đó mới phiên dịch, biên tập sang chữ phổ thông và các thứ tiếng khác. Khi văn hóa của một dân tộc được thể hiện dưới dạng ngôn ngữ của dân tộc khác thì ít hay nhiều cũng không thể diễn tả, phản ánh đầy đủ nội dung biểu cảm, sắc thái và bản chất của văn hóa (do sự bất đồng về ngôn ngữ, trong khi đó người dân tộc thiểu số có khả năng sử dụng tốt ngôn ngữ phổ thông để thể hiện văn hóa dân tộc mình còn ít và hạn chế). Mặt khác, người truyền đạt các giá trị văn hóa dân tộc phải là người dân tộc có nền văn hóa đó và thấu hiểu sâu rộng nền văn hóa ấy thì việc truyền đạt mới cô động, súc tích, đầy đủ và đúng bản chất..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> 3) Tiếng nói và chữ viết là công cụ quan trọng nhất trong việc nghiên cứu, phổ biến sâu rộng các giá trị văn hóa trong một dân tộc và cộng đồng các dân tộc Việt Nam - Để nghiên cứu các giá trị văn hóa của một dân tộc một cách hiệu quả nhất, trước tiên chúng ta phải có ngôn ngữ, trong đó rất cần chữ viết để sưu tầm, ghi chép lại, sáng tác mới, phân tích, đánh giá, nghiên cứu từng giá trị văn hóa nhằm phân loại rõ văn hóa tiến bộ, hiện đại, văn minh với văn hóa lạc hậu, phản tiến bộ cũng như làm rõ được các mặt thế mạnh, hạn chế của một nền văn hóa; tìm ra bản chất của một nền văn hóa…từ đó có phương án nghiên cứu, hỗ trợ nhằm thúc đẩy phát huy, phát triển nền văn hóa tiến bộ, đậm đà bản sắc. - Sưu tầm, biên tập, biên soạn thành sách các giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số bằng ngôn ngữ, chữ viết của chính dân tộc đó để tuyên truyền, phổ biến những mặt tích cực cũng như tiêu cực của các nền văn hóa để có hướng khai thác đúng đắn, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, du lịch vùng dân tộc thiểu số. Mặt khác, khi biên soạn các giá trị văn hóa thành sách sẽ dễ dàng cho việc nghiên cứu, lưu giữ, tuyên truyền, tránh được việc xuyên tạc, lợi dụng các nền văn hóa cũng như tránh mất nhiều thời gian, kinh phí tìm kiến khi cần thiết. - Từ những phân tích trên, chúng ta không thể phụ nhận vai trò của tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân tộc thiểu số trong việc bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trong nền văn hóa Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ “Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn học nghệ thuật là người dân tộc thiểu số” nêu tại Nghị Quyết trên, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật như: Nghị định 206/CP và Thông tư 14/TT ngày 12/4/1962 của Bộ Giáo dục hướng dẫn thực hiện Nghị định 206/CP của Chính phủ về dạy chữ dân tộc trong các trường lớp phổ.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> thông và xoá mù chữ; Quyết định 153/CP và Thông tư 19/TT ngày 18/2/1972 của Bộ Giáo dục hướng dẫn thực hiện Quyết định 153/CP của Chính phủ về dạy chữ dân tộc trong ngành giáo dục; Quyết định số 53/CP ngày 22 tháng 2 năm 1980 về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số; Luật Giáo dục….. (Theo Vừ Bá Thông, Vụ Pháp chế - Ủy ban Dân tộc) Thời Tên hoạt. Hoạt động của người hướng dẫn. Hoạt động. Ghi chú. gian. động. của người tham gia. 15’. Hoạt động 2 :. - Yêu cầu :. Tìm hiểu việc. + Đọc tài liệu số 4, 5.. Hiện tượng song ngữ, đa nhân. và. dạy học TV. + Thảo luận nhóm : Tình. ngữ; Việc dạy tiếng dân đọc. hợp. và TMĐ cho. hình dạy tiếng DTTS, TMĐ. tộc thiểu số ở Việt Nam.. HS DTTS ở. ở VN.. VN.. + Liên hệ vấn đề này ở địa. - Đọc tài liệu số 4 và 5: - Đọc cá. tác.. - Thảo luận ghi vào A4.. phương : Ngôn ngữ nào được dạy, hình thức tổ chức. - Các nhóm trình bày. dạy ? - Yêu cầu 1, 2 nhóm báo cáo.. - Sử dụng : Tài liệu. - Các nhóm khác góp ý, số 4, 5; bổ sung. các phiếu bài. - Theo dõi, tiếp nhận, phản hồi tích cực. 5’. tập;. Giấy A4, A0. để. - Nhận xét, kết luận về vấn đề. soạn bài,. dạy TDT ở VN :. thảo luận. + Có nhiều TDT đã,. và. trình. đang được dạy ở trên 20. bày. sản. tỉnh, thành phố, trong các. phẩm.. trường Tiểu học : tiếng Khmer, Chăm, Hoa, Êđê, Bana, H’Mông, Jrai. + Các hình thức dạy :.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Hình thức dạy 2 giai đoạn (1955-1960); Hình thức dạy xen kẽ TMĐ và TV; Hình thức dạy TMĐ như một môn học (từ 1980 đến nay); Dạy TMĐ như một chuyển ngữ (2000-2004); Chương trình giáo dục song ngữ dựa trên TMĐ. 10’. - Yêu cầu làm bài tập (phiếu. - Thực hiện bài tập ghi. BT số 1 : Những khó khăn. trong. trong học tập của HS DTTS ở THCS hiện nay).. Phiếu bài tập số1 - Lắng nghe, phản hồi.. - Nhận xét, tổng hợp kết quả của người tham gia => Kết luận về những khó khăn của HSDT TS trong học tập: do năng lực tiếng Việt hạn chế, Giáo viên dạy không biết TDT. - Nhận xét, bình luận về kết quả thực hiện bài tập. 10’. Yêu cầu :. + Đọc tài liệu 6, 7:. -. Đọc tài liệu 6,7: Dạy - Đọc cá. tiếng Việt cho HS DT thiểu nhân. + Thảo luận nhóm về vấn đề số; Giáo dục song ngữ.. đọc. và hợp. dạy TV và TMĐ cho HS - Thảo luận nhóm chỉ ra tác. DTTS hiện nay... tình hình dạy TV và TMĐ. + 1-2 nhóm báo cáo kết quả cho học sinh DTTS ở VN. thảo luận.. - Các nhóm báo cáo kết qủa thảo luận.. - Nhận xét, kết luận về việc. - Sử dụng.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> dạy học TV và TMĐ cho HS. giấy A0,. DTTS.. bút. + Cấp học mầm non cần huy. băng keo,. động tối đa trẻ 5 tuổi đến lớp,. kéo.. tích cực chuẩn bị TV cho trẻ. Máy. trước khi vào lớp 1 với tinh. chiếu. thần liên thông giữa mầm non. Projector.. và tiểu học. Các địa phương cũng cần triển khai chương trình làm quen với TV trong hè đối với trẻ chưa học qua lớp mẫu giáo 5 tuổi, nhằm chuẩn bị tốt khả năng lĩnh hội khi trẻ vào lớp 1. + Dạy học thí điểm môn TV lớp 1 cho HSDT theo định hướng chỉ đạo tăng thời lượng dạy học từ 350 tiết thành 500 tiết sẽ được áp dụng trên toàn quốc. - Yêu cầu thảo luận nhóm 15’. dạ,. -. (chia nhóm theo địa phương: huyện - xã) làm bài tập 2.. Phiếu bài tập số 2 -. - Yêu cầu: Liên hệ thực tế địa phương (trường mình dạy): Thực trạng HS DTTS học môn TV và kết quả học tập nói chung, năng lực TV có ảnh hưởng đến việc học các môn học khác không? Thày/cô đã có biện pháp gì để giúp HS DTTS rèn kĩ năng sử. Làm bài tập theo Một vàì nhóm trình bày. -. Các nhóm khác chia sẻ, bổ sung..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> dụng TV tốt hơn? - Tổng hợp những khó khăn 5’. của HSDT khi học TV qua kết quả làm bài tập theo phiếu. - Kết luận về vấn đề giữ gìn bảo tồn ngôn ngữ các DTTS và phát triển TV cho HS DTTS: + Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các. DTTS. học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. + Tăng cường và nâng cao chất lượng dạy học TV cho HS DTTS nhằm rút ngắn khoảng cách giữa miền xuôi với miền ngược.. -. Tiếp nhận, phản hồi tích cực..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> TÀI LIỆU HỌC TẬP Tài liệu số 4 HIỆN TƯỢNG SONG NGỮ, ĐA NGỮ Song ngữ, theo cách hiểu chung nhất là hiện tượng sử dụng hai hay trên hai ngôn ngữ của người song ngữ trong xã hội đa ngữ. Đây là một hiện tượng phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên xung quanh hiện tượng này có nhiều điểm cần làm sáng tỏ. - Người sử dụng song ngữ là người biết và sử dụng khá tốt hai hoặc trên hai ngôn ngữ. Có người sử dụng song ngữ hoàn toàn và có người sử dụng song ngữ không hoàn toàn hay song ngữ bộ phận. - Khái niệm “tiếng mẹ đẻ”: Khi nói đến đến hiện tượng song ngữ, người ta thường nói đến một ngôn ngữ được gọi là “ngôn ngữ thứ nhất”. Nói đến ngôn ngữ thứ nhất, người ta hay nghĩ đến tiếng mẹ đẻ, đó là tiếng của dân tộc mình. Tuy nhiên có nhiều trường hợp lại không phải như vậy. UNESCO đã định nghĩa “tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ mà con người học được trong những năm đầu của đời mình và thường trở thành công cụ tư duy truyền thống tự nhiên”. Nếu theo cách suy luận kiểu tương ứng 1-1, mỗi dân tộc có một ngôn ngữ, thì trên đất nước Việt Nam hiện có 54 dân tộc với 54 ngôn ngữ. Tuy nhiên trên thực tế không phải như vậy. Cả về số lượng về thành phần dân tộc lẫn thành phần ngôn ngữ ở Việt Nam vẫn là một vấn đề cần tiếp tục làm sáng tỏ. Chẳng hạn, hiện nay có những cộng đồng nói các ngôn ngữ khác nhau nhưng được gộp chung vào một dân tộc như người Rục, Mày, Sách, Mã Liềng, A Rem được gọi chung là dân tộc Chứt. Phải chăng có hiện tượng trên vì trong thực tế, một dân tộc đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau (theo thống kê của Bùi Thiết, Việt Nam có 54 dân tộc với 700 tên gọi khác nhau) hay ẩn sâu trong đó là cả vấn đề ngôn ngữ - tộc người cần làm sáng tỏ? Vì thế, xét riêng về mặt ngôn ngữ, không ít ý kiến cho rằng số lượng ngôn ngữ ở Việt Nam không dừng lại ở con số 54 mà có thể nhiều hơn thế nữa. UNESCO cho rằng Việt Nam có tới 104 ngôn ngữ. Đây là vấn đề phức tạp liên quan đến vấn đề tách nhập dân tộc cũng như tách nhập ngôn ngữ. Nhìn từ góc.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> độ ngôn ngữ học xã hội, có thể thấy tình hình ngôn ngữ ở Việt Nam có vài nét chính như sau: 1. Cư trú đan xen là đặc điểm phổ biến về sự phân bố tộc người- ngôn ngữ ở VN. Nếu như trước đây, đặc điểm này có tính phổ biến đối với cư dân các dân tộc thiểu số, thì hiện nay, tình trạng cư trú đan xen được tăng lên rất mạnh không chỉ giữa cư dân các dân tộc thiểu số ở vùng đa dân tộc thiểu số mà còn là sự đan xen giữa cư dân kinh với các cư dân các dân tộc thiểu số không chỉ ở vùng dân tộc thiểu số mà còn cả ở vùng thị thành, khu công nghiệp. Điều này, có thể giải thích được nhờ vào lí do lịch sử- xã hội cũng như lí do về tác động của công cuộc đổi mới với nền kinh tế thị trường đối với sự phân bố dân cư hiện nay. 2.Các ngôn ngữ trên đất nước Việt Nam nhìn ở tổng thể có sự phân bố rất rõ ràng về chức năng: Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Nhà nước trong đối nội cũng như đối ngoại; thuật ngữ “tiếng phổ thông” để chỉ tiếng Việt trong quan hệ với ngôn ngữ các dân tộc. Vì thế việc nắm vững tiếng Việt - ngôn ngữ giao tiếp chung trong xã hội Việt Nam vừa là nhu cầu vừa là nguyện vọng của người dân Việt Nam. Cùng với tiếng Việt, ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là ngôn ngữ giao tiếp của từng dân tộc. “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán truyền thống và nét văn hoá tốt đẹp của dân tộc mình (Điều 5, Chương I, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) 3. Từ hai đặc điểm trên ta có thể thấy: - Đa ngữ là trạng thái phổ biến trong sử dụng ngôn ngữ của cư dân ở các vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đây là trạng thái song ngữ tiếng Việt-tiếng dân tộc (thí dụ Việt - Dao, Việt- Mường...) hoặc trạng thái đa ngữ tiếng Việt – hai hoặc hơn hai tiếng dân tộc (ví dụ Việt - Hoa - Khmer). Mức độ đa ngữ ở xã hội cũng như giữa các cá nhân đa ngữ hết sức khác nhau. Điều này trước hết phụ thuộc vào khả năng sử dụng tiếng Việt của cư dân. Đáng chú ý là trong một phạm vi địa lí hẹp hoặc trong phạm vi cư dân hẹp hiện đang tồn tại hai trạng thái: 1) Trạng thái song ngữ, hay đa ngữ chỉ giữa các dân tộc thiểu số với nhau; 2) Trạng thái song ngữ, hay đa ngữ giữa tiếng dân tộc thiểu số và tiếng Việt. - Do trình độ phát triển, áp lực dân số, sự phân bố mật độ dân cư và các điều kiện khác mà vị thế (thể hiện ở chức năng) giữa các ngôn ngữ có những điểm.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> khác nhau. Ngoại trừ tiếng Việt là tiếng phổ thông, các ngôn ngữ các dân tộc thiểu số có các chức năng xã hội khác nhau. Thí dụ có ngôn ngữ được sử dụng rộng trên cả vùng như tiếng Thái, tiếng Mường, Khmer ; lại có có những ngôn ngữ chỉ được sử dụng để giao tiếp trong bản thậm chí trong gia đình như tiếng Pà Thẻn, tiếng Xinh Mun, tiếng Rơ Ngao... Điều này dẫn đến nguy cơ làm “suy yếu” ngôn ngữ các dân tộc thiểu số không có ưu thế. - Vì ở trong trạng thái đa ngữ nên các ngôn ngữ có điều kiện tiếp xúc với nhau và hệ quả dẫn đến là có sự giao thoa, vay mượn các yếu tố giữa các ngôn ngữ. Tuy nhiên do quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ lại chịu áp lực của ưu thế chức năng xã hội giữa chúng nên có thể thấy nhiều yếu tố của tiếng Việt, đặc biệt là từ vựng du nhập vào ngôn ngữ các dân tộc. Điều này đã tạo nên một hiện tượng là trong khá nhiều trường hợp giao tiếp của người dân tộc không phân biệt được đâu là sự vay mượn ngôn ngữ với đâu là sự chuyển mã trong giao tiếp. - Ngoại trừ một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số có truyền thống chữ viết như chữ Thái, Khmer, Hmông...nhiều ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam không có chữ viết. Trong nhiều năm qua, việc chế tác chữ viết cho ngôn ngữ các dân tộc chưa có chữ viết là nhiệm vụ trọng yếu của các nhà ngôn ngữ học. Nhờ đó một số dân tộc thiểu số đã có chữ viết. Tuy nhiên xung quanh vấn đề chữ viết của các ngôn ngữ các dân tộc còn có một số vấn đề cần lưu ý như sau: + Một vài ngôn ngữ có nhiều dạng chữ viết (như tiếng Thái có chữ Thái cổ, chữ Thái cải tiến, chữ Thái Latinh...) + Do đặc điểm sống phân tán của cư dân trong một dân tộc và việc sống xen kẽ giữa các cư dân của nhiều dân tộc đã làm cho việc giao lưu giữa các dân tộc nói các phương ngữ khác nhau của ngôn ngữ đó trở nên ít có điều kiện. Điều này tạo nên khỏang cách khác biệt rất lớn, thậm chí không hiểu được nhau giữa các phương ngữ của một ngôn ngữ ở một số ngôn ngữ dân tộc. Đây chính là khó khăn cơ bản của việc làm chữ viết hiện nay, nhất là trong việc xác định hệ thống ngữ âm cơ bản. (Theo Nguyễn Văn Khang - Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản, NXB KHXH).

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Tài liệu số 5 VIỆC DẠY TIẾNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM 1.Những tiếng dân tộc (TMĐ) đã và đang được dạy ở Việt Nam : Có nhiều TDT đã, đang được dạy ở trên 20 tỉnh, thành phố, trong các trường tiểu học: tiếng Khmer, Chăm, Hoa, Ê-đê, Ba-na, Hmông, Jrai; trong các trường THCS và THPT: tiếng Khmer, Hoa; trong các cơ quan công sở Nhà nước: Hmông, Ba-na, Chăm, Cơ-ho, Jrai...... 2. Tình hình dạy- học TMĐ trong cộng đồng DTTS ở Việt Nam : Dạy học TMĐ ở Việt Nam đã thực hiện hơn 50 năm và trải qua nhiều thời kì với các hình thức dạy học, qui mô dạy học khác nhau. Hình thức dạy hai giai đoạn (1955-1960) Các dự án thử nghiệm giáo dục song ngữ được triển khai cuối những năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỉ XX với việc dạy chữ Thái, H’Mông, Tày - Nùng ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Nghĩa Lộ và các tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc theo hình thức dạy 2 giai đoạn. Giai đoạn 1, TMĐ được giảng dạy ở các lớp 1, 2, 3; Giai đoạn 2, TMĐ được giảng dạy ở các lớp 4 và 5. Tài liệu các môn học của lớp 1, 2, 3 được biên soạn hoàn toàn bằng tiếng và chữ dân tộc. Môn học vần tiếng Việt bắt đầu dạy ở lớp 3, lớp 4, 5 dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt và sử dụng tài liệu dạy học theo chương trình chung của cả nước. Thời kì này đã có một số trường mẫu giáo dạy tiếng Tày - Nùng, trường mẫu giáo song ngữ H’Mông -Việt. Hình thức dạy hai giai đoạn này vì chưa có sự chuẩn bị tiếng Việt cho HS ngay từ đầu cấp nên khi chuyển sang lớp 4, 5 học sinh chưa có đủ vốn từ tối thiểu để tiếp nhận kiến thức, nên chưa đạt hiệu quả như mong muốn. a) Hình thức dạy xen kẽ TMĐ và tiếng Việt (TV). Hình thức dạy xen kẽ TMĐ và TV khởi đầu với việc dạy xen kẽ tiếng TàyNùng - Việt từ 1962-1978 ở các tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc; dạy xen kẽ tiếng H’Mông -Việt từ 1970-1978 ở Lào Cai, Nghĩa Lộ, Hà Giang, dạy xen kẽ tiếng Êđê -Việt, tiếng Jrai -Việt, tiếng Ba-na và tiếng Việt từ 1982-1987 ở các tỉnh thuộc Tây Nguyên. Với hình thức dạy xen kẽ hai thứ tiếng, các môn học hay một số môn được dạy bằng 2 thứ tiếng, 2 thứ chữ. Các tài liệu cũng được biên soạn bằng 2 thứ tiếng xen.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> kẽ theo hướng ở lớp 1, 2, 3 dạy học bằng TMĐ nhiều hơn. Ngược lại, đến lớp 4, 5 dạy học bằng TMĐ ít dần và dạy bằng tiếng Việt nhiều lên. Không những thế, học sinh còn được học nói TV trong cả cấp I để trang bị vốn TV cần thiết. Nội dung dạy học xen kẽ được sắp xếp theo chiều hướng đi từ học TMĐ sang học tiếng Việt.; đi từ học nghe - nói đến học đọc, học viết; đi từ sự giống nhau đến sự khác nhau của hai thứ tiếng, hai thứ chữ. Hình thức dạy xen kẽ TMĐ và TV đã chuyển tải được các nội dung văn hoá dân tộc và cả các kiến thức tự nhiên-xã hội gần gũi với HS khiến các em có hứng thú trong học tập và kết quả học tập cũng tốt hơn. Tuy nhiên, mức độ xen kẽ hay sự chuyển tải nội dung kiến thức các môn học giữa hai ngôn ngữ sao cho khoa học và hợp lí vẫn là một vấn đề chưa được giải quyết. c) Hình thức dạy TMĐ của HS dân tộc như một môn học (từ 1980 đến nay) Hình thức này được triển khai rộng ở các vùng ngôn ngữ Jrai, Ba-na, Chăm, Khmer...Tiếng Chăm được dạy từ từ năm 1980 ở Ninh Thuận và Bình Thuận; Tiếng Khmer được dạy từ năm 1979 đến nay ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long; tiếng H’Mông được dạy từ 1972 đến nay ở các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Nghệ An, Thái Nguyên; tiếng Êđê, Jrai, Ba-na được dạy trong những năm gần đây ở Tây Nguyên. Từ năm 1995, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã triển khai dạy học thí điểm 8 thứ TMĐ của 8 DT thiểu số. Chương trình và SGK các môn học này được biên soạn, in và phát đến tận tay GV và HS ở các trường tiểu học. Dạy TMĐ cho HS DTTS nhằm đáp ứng nguyện vọng được học tiếng nói, chữ viét của đồng bào các DT; bảo tồn và phát triển văn hoá các DTTS. Chính vì thế, môn học này vừa chuyển tải kiến thức về ngôn ngữ vừa chuyển tải kiến thức về văn hoá dân tộc; ngoài ra một số kiến thức, kĩ năng mà HS đã học bằng TV sẽ được thực hành thêm trong, môn tiếng DT nhằm củng cố kiến thức đã học được. d) Dạy TMĐ như một chuyển ngữ (2000-2004) Năm 2000, Bộ GD & ĐT đã triển khai trhực nghiệm chương trình giáo dục song ngữ Jrai -Việt với hình thức dạy TMĐ như một chuyển ngữ (ngôn ngữ chuyển tải kiến thức hay ngôn ngữ dạy học). HS được học tiếng Jrai ngay từ lớp 1. Tiếng Jrai và tiếng Việt được dạy như một môn học từ lớp 1 dến lớp 5. Đồng thời từ lớp 1 đến lớp 3, tiếng Jrai được dùng làm ngôn ngữ giảng dạy. HS Jrai được sử dụng TMĐ để tiếp thu kiến thức các môn học. Sau khi HS có những kiến thức cần.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> thiết được học từ TMĐ, các em sẽ chuyển sang học bằng tiếng Việt. HS nghe nói tiếng Việt trước khi học chữ . Kiến thức trong quá trình học TMĐ trở hành cơ sở tốt để HS tiếp nhận kiến thức TV ở các lớp sau. HS được học các nội dung mang đậm chất văn hoá Jrai, được tiếp nhận văn hoá Jrai trước khi tiếp cận nền văn hoá các dân tộc khác. Trong chương trình này, các môn học được chuyển giao sang học TV từ lớp 3, riêng môn toán được chuyển giao sớm hơn (từ lớp 2). Chương trình giáo dục song ngữ Jrai - Việt đã tiếp cận khá gần với mô hình giáo dục song ngữ của thế giới và được đánh giá là thành công ở Việt Nam. Trẻ em Jrai thích đi học; kết quả học tập tốt hơn; cộng đồng ủng hộ và quan tâm hơn đến giáo dục. e) Chương trình giáo dục song ngữ dựa trên TMĐ: Chương trình được Bộ GD & ĐT tổ chức thực nghiệm và UNICEF là nhà thiết kế chính và tài trợ cho chương trình (được triển khai từ năm 2006 và năm học 2008 -2009 được bắt đầu) với 3 thứ tiếng ở 3 tỉnh: tiếng H’Mông ở Lào Cai, tiếng Khmer ở Trà Vinh, tiếng Jrai ở tỉnh Gia Lai. Giáo dục song ngữ dựa trên TMĐ là một chương trình giáo dục được thực hiện từ cấp mẫu giáo bằng TMĐ của HS. Ngôn ngữ thứ hai (TV) được dạy bắt đầu từ việc dạy nghe – nói, sau đó HS được học đọc, học viết. Việc sử dụng linh hoạt cả hai thứ tiếng trong dạy học bắt đầu từ lớp 3 đến lớp 5 là sách song ngữ. Bài kiểm tra của HS dùng cả hai thứ tiếng. Kết quả giáo dục của HS được xác nhận bình đẳng TMĐ hoặc TV. Nhìn chung, cho đến nay, vẫn còn một số hình thức dạy tiếng dân tộc đang được thực hiện ở Việt Nam, tuy nhiên phổ biến hơn cả là: - Dạy TMĐ như một môn học (triển khai chính thức, đại trà) cho các ngôn ngữ Khmer, Jrai, H’Mông, Ba-na, Chăm. - Dạy TMĐ như một chuyển ngữ bản chất là giáo dục song ngữ dựa trên TMĐ (kết thúc thực nghiệm dạy ngôn ngữ Jrai ở Gia Lai và đang mở ra một hướng mới tiếp tục thực nghiệm ở 3 tỉnh với sự hợp tác của tổ chức UNICEF)..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> Tài liệu số 6 DẠY TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ: RÚT NGẮN KHOẢNG CÁCH MIỀN XUÔI - MIỀN NGƯỢC. Từ tháng 8-2008, Bộ GD&ĐT đã triển khai trên toàn quốc việc dạy học tiếng Việt lớp 1 cho học sinh dân tộc chưa biết tiếng Việt với 5 phương pháp cơ bản. Thực tế cho thấy, chương trình đã mang lại nhiều kết quả khả quan, tuy nhiên, xuất phát từ điều kiện khó khăn trong việc tổ chức trường lớp, áp dụng chương trình tại các địa phương miền núi, dẫn đến tỉ lệ trẻ em dân tộc thiểu số không đọc thông, viết thạo tiếng Việt còn khá cao. Thực trạng 40-50% học sinh dân tộc thiểu số địa bàn miền núi trên cả nước chỉ đạt trung bình hoặc yếu về kỹ năng sử dụng tiếng Việt đang là bài toán nan giải đối với giáo dục vùng cao. Theo ông Lương Đức Soòng, Giám đốc Sở GD & ĐT tỉnh Hà Giang, việc thực hiện chương trình dạy học tiếng Việt lớp 1 cho học sinh thiểu số vấp phải nhiều khó khăn, cơ bản vẫn là các em chưa nói sõi tiếng Kinh (tiếng phổ thông). Việc triển khai đề án của Bộ GD & ĐT năm 2008 về dạy tiếng Việt đặt ra 2 vấn đề: nếu dạy kiến thức phổ thông bằng TDT thì trẻ tiếp thu rất nhanh, nhưng sau đó dạy kèm song ngữ (tiếng phổ thông và TMĐ) sẽ mất nhiều thời gian và thiếu giáo trình chuẩn. Còn nếu dạy tiếng phổ thông từ đầu, học sinh khó tiếp thu, buộc giáo viên phải biết cả “nội ngữ”, tức là tiếng dân tộc thiểu số! Do đó giải pháp của ngành Giáo dục Hà Giang là mở hàng loạt lớp dạy tiếng H’Mông, Dao, Tày cho các giáo viên, nhằm góp phần nâng cao truyền thụ kiến thức trong giảng dạy đối với học sinh dân tộc thiểu số. Thứ trưởng Bộ GD & ĐT Nguyễn Vinh Hiển nhận định, việc áp dụng giáo trình dạy cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 trên toàn quốc như hiện nay gây khó khăn rất lớn đối với học sinh dân tộc thiểu số. Do chưa thạo tiếng phổ thông, việc tiếp thu kiến thức của những học sinh này luôn bị hạn chế. Trước thực trạng trên, ngày 2-9-2009, Bộ GD & ĐT đã tiếp tục ban hành công văn hướng dẫn nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số từ năm học 2009-2010. Theo đó, nhiều giải pháp, nội dung phù hợp được áp dụng trong năm học này. Cấp học mầm non cần huy động tối đa trẻ 5 tuổi; tích cực chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1 với tinh thần liên thông giữa.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> mầm non và tiểu học. Các địa phương cũng cần triển khai chương trình làm quen với tiếng Việt trong hè đối với trẻ chưa học qua lớp mẫu giáo 5 tuổi, nhằm chuẩn bị tốt khả năng lĩnh hội khi trẻ vào lớp 1. Bộ GD & ĐT cũng chỉ đạo, việc dạy học thí điểm môn tiếng Việt lớp 1 cho học sinh dân tộc theo định hướng chỉ đạo tăng thời lượng dạy học từ 350 tiết thành 500 tiết sẽ được áp dụng trên toàn quốc. Đối với 7 tỉnh (Lào Cai, Sơn La, Tây Ninh, Kiên Giang, An Giang, Kon Tum, Quảng Bình) đang thử nghiệm dạy học Tiếng Việt lớp 1 cho học sinh dân tộc theo tài liệu của Trung tâm Công nghệ Giáo dục. (Theo Hoàng Anh Thắng – Báo Đại Đoàn Kết) Tài liệu số 7 GIÁO DỤC SONG NGỮ CÓ THỂ CẢI THIỆN CUỘC SỐNG CỦA DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM Mặc dù Việt Nam đạt được những tiến bộ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, các dân tộc thiểu số vẫn còn là những người nghèo nhất trong nhóm được xếp vào tầng lớp nghèo, một chuyên gia về nhân quyền của Liên Hợp Quốc nhận xét. Bà cũng nói thêm rằng, giáo dục song ngữ có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc khắc phục tình trạng này : "Việc tiếp cận với chương trình giáo dục thích hợp và chất lượng là chìa khóa để phát triển và xóa bỏ đói nghèo cho các dân tộc thiểu số, việc này cũng rất quan trọng để bảo tồn và phát huy các bản sắc văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số". (Bà Gay McDougall, chuyên gia độc lập của Liên Hợp Quốc về các vấn đề dân tộc thiểu số). Bà ghi nhận rằng, VN vừa có một thời kỳ tăng trưởng kinh tế tốt. Bên cạnh đó, VN cũng đang trong quá trình đạt được những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ - tức các mục tiêu đã thống nhất trên toàn cầu về xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy tỉ lệ học sinh nhập học, cải thiện sức khỏe sinh sản, tăng tỉ lệ người dân được dùng nước sạch và đảm bảo vệ sinh. Các mục tiêu này sẽ hoàn thành vào năm 2015. Tuy nhiên, ngoài những phát triển đó, vẫn còn nhiều "vấn đề dai dẳng" đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số của VN..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Bà McDougall nhấn mạnh giáo dục song ngữ là lĩnh vực cần được "ưu tiên cao" tại VN. Hiện nay VN có 54 nhóm dân tộc khác nhau, với những đặc điểm văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo và các bản sắc dân tộc đặc thù riêng đang cùng chung sống. "Các dân tộc thiểu số không có cơ hội thỏa đáng để được giảng dạy bằng chính ngôn ngữ của họ từ những năm tháng đầu tiên khi đi học và gặp khó khăn khi chỉ được giảng dạy bằng tiếng Việt", bà viết trong báo cáo gửi cho Hội đồng nhân quyền của Liên Hợp Quốc tại Geneva. "Giáo dục song ngữ giúp trẻ em các dân tộc thiểu số gặt hái được những thành quả tốt hơn khi còn trẻ, tạo ra một nền tảng vững chắc và cơ sở văn hóa thích hợp cho việc học tập trong tương lai," bà nói, kèm theo việc trích dẫn một dự án thí điểm thành công về giáo dục song ngữ được tiến hành bởi Bộ GD & ĐT và Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF). (Theo united nations Viet Nam ngày 22/7/2010).

<span class='text_page_counter'>(50)</span> PHIẾU BÀI TẬP PHIẾU BÀI TẬP 1 Dựa vào tài liệu số 5, nêu hình thức và đặc điểm của các hình thức dạy TMĐ ở Việt Nam theo thời gian ở bảng sau: Hình thức Từ 1955-1960. Từ 1962-1978. Từ 1980 – 1999. Từ 2000-2004. Từ 2006-2009. Đặc điểm.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> PHIẾU BÀI TẬP 2 Điền thông tin vào cột 2 theo gợi ý ở cột 1 trong bảng sau: Những khó khăn của HS DTTS trong học tập Nhiều HS, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa không được đi học. Giáo viên thường không biết tiếng dân tộc và văn hoá địa phương. Nội dung tài liệu học tập khó đối với học sinh. Không có chương trình học tiếng Việt phù hợp khi đến trường (từ Mầm non đến Tiểu học). Tiếng mẹ đẻ của HS chưa được sử dụng hỗ trợ HS trong học tập ở trường. Thực trạng và nguyên nhân.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> HS không hiểu nội dung bài học. HS không tự tin trong học tập. Thời Tên hoạt động gian. 5’. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Ghi chú. Hoạt dộng. - Yêu cầu học viên tìm hiểu các - Cá nhân/Nhóm làm bài tập -. 3:. khái niệm về giới, bình đẳng theo Phiếu bài tập số 3. dụng. giới (phát Phiếu bài tập số 3). các. Tìm hiểu. - Báo cáo kết quả.. Sử :. vấn đề giới. - Nhận xét, kết luận (nêu đáp án. Phiếu bài. và bình. bài tập: nối 1-4; 2-3; 3-1; 4-2). tập, giấy. đẳng giới ở. nhấn mạnh thêm vấn đề quan. A4,. địa phương niệm về giới, bình đẳng giới.. để. A0 soạn. bài, thảo luận. và. trình bày sản phẩm. 10’. Yêu cầu thảo luận nhóm:. - Thảo luận: quan niệm về. Liên hệ vấn đề bình đẳng giới giới, bình đẳng giới; những ở địa phương (quan niệm về biểu hiện của bình đẳng giới giới, hiện tượng bất bình đẳng và bất bình đẳng giới ở địa giới, nêu ví dụ cụ thể).. phương . - Báo cáo.. - Nhận xét, tổng hợp ý kiến - Trao đổi giữa các nhóm. các nhóm. - Yêu cầu làm bài tập trong 10’. Phiếu bài tập 4. Làm bài tập theo Phiếu bài tập số 4.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> - Nhận xét, kết luận :. -. Trong ngôn ngữ SGK THCS tồn tại vấn đề định kiến về giới:. Báo cáo. Tiếp nhận, phản hồi tích cực.. số từ ngữ chỉ người nam nhiều hơn nữ (nữ nhân vật xuất hiện trong 5/20 trường hợp nghiên cứu hoặc câu chuyện kể được xem xét tới, nam nhân vật xuất hiện 11/20). - Yêu cầu: Đọc tài liệu 8. - Đọc tài liệu 8: “Bình đẳng. “Vấn đề bình đẳng giới trong giới trong giáo dục”. giáo dục”; chỉ ra những vấn đề - Thảo luận nhóm chỉ ra mất cân bằng giới trong giáo những biểu hiện mất cân dục.. bằng giới, ghi vào giấy A0. - Đại diện nhóm báo cáo.. - Yêu cầu đại diện 1 nhóm báo - Các nhóm khác góp ý, bổ cáo, các nhóm còn lại nêu ý sung hoặc nêu thắc mắc. kiến trao đổi - Tổng hợp, kết luận về vấn đề mất cân bằng giới trong giáo dục và hướng khắc phục: + Ở các vùng nghèo và vùng DTTS : Học sinh nam có nhiều cơ hội quay trở lại học tiếp hơn học sinh nữ. + Tỉ lệ nữ CBQL giáo dục vẫn còn thấp, phần lớn chỉ giữ vị trí phó. Họ thường không được tham gia vào quá trình đưa ra quyết định, không được tiếp cận các thông tin và thiếu cơ.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> hội trao đổi, thảo luận, nhất là ở những vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. + Dự án SREM đã triển khai các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức cho cả nam giới và phụ nữ ở các cương vị quản lý trong ngành giáo dục về tầm quan trọng của bình đẳng giới trong quá trình đổi mới QLGD, thông qua việc tăng cường sự tham gia của nữ cán bộ QLGD ở các vùng xa xôi, hẻo lánh và làm nổi bật sự đóng góp của họ vào sự nghiệp đổi mới GD. - Yêu cầu: Tìm hiểu vấn đề giới - Đọc tài liệu số 9: “Sự phân 10’. - Đọc cá. thể hiện trong ngôn ngữ (Tài biệt đối xử về giới thể hiện nhân và liệu số 9). trong ngôn ngữ”.. đọc hợp. - Yêu cầu cá nhân/nhóm báo - Dựa vào bài đọc, kết hợp tác. cáo.. kết quả bài tập 4 chỉ ra những biểu hiện về giới thể hiện trong ngôn ngữ.. - Nhận xét, kết luận vấn đề giới thể hiện trong ngôn ngữ: + Ở bình diện cấu tạo từ: Hàng loạt các từ tiếng Anh được cấu tạo có yếu tố man (đàn ông) phản ánh vị thế của nam quyền. Trong tiếng Hán, một số từ có nghĩa “không lấy gì làm tốt đẹp” đều có bộ nữ bên cạnh..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> + Ở Việt Nam, có hiện tượng đặt từ phụ nữ trước một số từ chỉ chức danh nghề nghiệp như: Nữ bác sĩ, nữ kĩ sư, nữ tiến sĩ, nữ phóng viên, nữ giám đốc, nữ du kích... Hình như các chức danh, nghề nghiệp này đối với nam giới là chuyện đương nhiên còn đối với phụ nữ là chuyện lạ, chuyện hiếm. - Yêu cầu làm bài tập theo - Thực hiện bài tập theo 10’. nhóm.. Sử. Phiếu bài tập5. dụng. -. Làm theo nhóm. các. - Nhận xét, tổng hợp kết quả -. Báo cáo kết quả. Phiếu bài. làm bài tập và báo cáo kết quả.. Trao đổi, thảo luận.. tập, giấy. -. :. A4, để. A0 soạn. bài, thảo luận. và. trình bày sản phẩm. - Tổng hợp, kết luận về giới 5’. trong cuộc sống và khi sử dụng ngôn ngữ: Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày (nhiều vùng có thói -. Tiếp nhận, ghi chép.. quen gọi tên người vợ bằng tên -. Nêu ý kiến. của chồng, hay của con) và. (nếu có).. ngay trong ngôn ngữ SGK vẫn còn những định kiến về giới tồn. thắc mắc.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> tại. =>Người giáo viên cần nâng cao hiểu biết về giới và bình đẳng giới để khắc phục rào cản về giới trong giáo dục HS. - Giải đáp thắc mắc về các nội dung bài học. - Tổng kết nội dung đã học. TÀI LIỆU HỌC TẬP Tài liệu số 8 BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIÁO DỤC - Trong GD & ĐT), sự bất bình đẳng bén rễ ngay trong hệ thống giáo dục và biểu hiện ở tỷ lệ học sinh nữ tham gia ở cấp tiểu học và THCS thấp hơn tỷ lệ học sinh nam, nhất là ở các vùng nghèo và vùng dân tộc thiểu số. Học sinh nam có nhiều cơ hội quay trở lại học tiếp hơn học sinh nữ. Tỷ lệ trẻ em gái ở các tỉnh miền núi đi học còn thấp, chủ yếu là các em phải ở nhà giúp gia đình, trường nội trú ở quá xa nhà và một vài nơi vẫn còn tục lệ lấy chồng sớm. Báo cáo 'Đánh giá tình hình giới ở Việt Nam 12-2006' do các tổ chức quốc tế: WB, ADB, DFID và CIDA phối hợp thực hiện cho thấy, trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc lồng ghép giới vào chương trình và các hoạt động ngoài giờ lên lớp, nhưng hiện nay vẫn còn có các định kiến giới trong các tài liệu giáo dục và sách giáo khoa trong việc chia sẻ việc nhà, phân biệt đối xử trong lực lượng lao động và các hành vi mang lại rủi ro cho nam và nữ thanh niên (khảo sát sách giáo khoa Giáo dục Công dân lớp 9 mới cho thấy: nữ nhân vật xuất hiện trong 5/20 trường hợp nghiên cứu hoặc câu chuyện kể được xem xét tới, nam nhân vật xuất hiện 11/20 và nhân vật trung tính xuất hiện 4/20). - Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi Luật Bình đẳng giới được thông qua và có hiệu lực, việc thực hiện bình đẳng giới trong giáo dục nói chung và trong QLGD đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tỷ lệ nữ cán bộ QLGD.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> ngày càng tăng, nhất là ở các cấp học cao, vị thế và vai trò của nữ CBQL ngày càng được khẳng định rõ nét. Tuy nhiên, trong thực tế tỷ lệ nữ cán bộ GLGD vẫn còn thấp, phần lớn chỉ giữ vị trí phó. Họ thường không được tham gia vào quá trình đưa ra quyết định, không được tiếp cận các thông tin và thiếu cơ hội trao đổi, thảo luận, nhất là ở những vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. - Dự án hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục (SREM) đã tiến hành khảo sát tại các tỉnh Kiên Giang, Gia Lai, Kon Tum, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang và Phú Yên, nơi được xem là tỉnh 'khó khăn' cho thấy: Phụ nữ đang phải gánh nặng gấp hai lần so với nam giới, điều đó có phần ảnh hưởng đến sự phát triển chuyên môn của phụ nữ. Suy nghĩ truyền thống về việc phân chia vai trò của nam giới và nữ giới trong gia đình vẫn còn. Thực tế nhiều trường hợp chồng không chia sẻ công việc nhà với vợ. Công việc gia đình là cản trở chính đối với sự phát triển chuyên môn của phụ nữ, đặc biệt khi họ phải dành thời gian cho tập huấn và tự học. - Để cải thiện điều kiện và tăng sự tham gia của nữ CBQL trong tiến trình đổi mới QLGD, Dự án SREM đã triển khai các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức cho cả nam giới và phụ nữ ở các cương vị quản lý trong ngành giáo dục về tầm quan trọng của bình đẳng giới trong quá trình đổi mới QLGD, thông qua việc tăng cường sự tham gia của nữ CBQL giáo dục ở các vùng xa xôi, hẻo lánh và làm nổi bật sự đóng góp của họ vào sự nghiệp đổi mới QLGD. Nhiều ý kiến của nữ cán bộ ngành giáo dục đã đề xuất đưa năng lực 'quản lý gia đình' vào tiêu chí bổ nhiệm hiệu trưởng bởi vì các công việc quản lý gia đình có liên quan những chức năng quan trọng trong công việc của hiệu trưởng, như quan tâm, chăm sóc, khả năng nắm bắt tổng quan vấn đề, khả năng thực hiện nhiều công việc cùng một lúc. - Ngoài sự quan tâm của Nhà nước trong đổi mới các cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng xã hội được cải thiện để họ có điều kiện để phát triển sự nghiệp (hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo tốt hơn...). Để nâng cao quyền hạn hơn nữa cho phụ nữ trong giáo dục, nhiều ý kiến cho rằng: Cần thực hiện hai giải pháp. Trước hết là, giải pháp về mặt chính trị, tức là thiết lập một hệ thống luật pháp nhằm thúc đẩy sự bình đẳng giới và đánh giá tác động của các chính sách để bảo đảm hiệu quả của chúng. Thứ hai là, giải pháp về mặt văn hóa, tức là thay đổi nhận thức của mọi.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> người trong xã hội nhằm góp phần loại bỏ những suy nghĩ định kiến về vai trò và chức năng của phụ nữ và nam giới. Thực hiện bình đẳng giới không chỉ liên quan nữ giới mà liên quan cả nam giới vì chỉ khi nào đạt được sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, chất lượng cuộc sống và điều kiện kinh tế-xã hội mới được nâng lên... Tài liệu số 9 SỰ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỀ GIỚI THỂ HIỆN TRONG NGÔN NGỮ Là chiếc hàn thử biều của xã hội, ngôn ngữ thường phản ánh và lưu giữ lại trong bản thân nó những biến động của xã hội. Chính vì vậy, dấu ấn của sự phân biết đối xử về giới thể hiện khá rõ trong ngôn ngữ. Việc phân biệt giới thể hiện rõ rệt nhất là ở bình diện cấu tạo từ. Hàng loạt các từ tiếng Anh được cấu tạo có yếu tố man (đàn ông) phản ánh vị thế của nam quyền. Thí dụ: congress man (nghị viện), Chairman (chủ tịch), saleman (thương gia), spokeman (người phát ngôn), loài người, nhân loại cũng cần có yếu tố man (human, mankind). Còn trong tiếng Hán, theo thống kê của một số nhà ngôn ngữ học, một số từ có nghĩa “không lấy gì làm tốt đẹp” đều có bộ nữ bên cạnh. Trong tiếng Việt, yếu tố phân biệt giới cũng thể hiện khá rõ rệt ở việc cấu tạo từ. Trước đây có hiện tượng đặt từ phụ nữ trước một số từ chỉ chức danh nghề nghiệp như: Nữ bác sỹ, nữ kỹ sư, nữ tiến sỹ, nữ phóng viên, nữ giám đốc, nữ du kích... Hình như các chức danh, nghề nghiệp này đối với nam giới là chuyện đương nhiên còn đối với phụ nữ là chuyện lạ, chuyện hiếm. Các nhà ngôn ngữ học đã khảo sát hiện tượng cấu tạo từ kiểu này và thấy rằng chúng được sử dụng khá phổ biến vào những năm 60 và 70 của thế kỷ trước. Hiện nay cách dùng từ này hầu như không còn nữa. Điều này phản ánh vị thế xã hội của phụ nữ đã được nâng lên, người phụ nữ đã tham gia rộng rãi vào các lĩnh vực hoạt động mà trước kia chỉ là nam giới. Ở Việt Nam, nhiều vùng có thói quen gọi tên người vợ bằng tên của chồng, hay của con. Nhìn bề mặt đây là một thói quen văn hoá dường như rất bình thường nhưng thực tế là sự bất bình đẳng và phân biệt đối xử, nó phản ánh người phụ nữ bị ở địa vị phụ thuộc sau khi kết hôn..

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Có những sự khác biệt trên là vì giới, là một vấn đề rộng lớn, không chỉ đơn thuần là đặc trưng cá nhân mà còn bao gồm các hành động và quan hệ xã hội, chính trị và ý thức hệ. ( Theo Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội - những vấn đề cơ bản – NXB khoa học xã hội) PHIẾU BÀI TẬP PHIẾU BÀI TẬP 3 Hãy nối thuật ngữ ở cột 1 với khái niệm phù hợp ở cột 2. 1. Có nghĩa là nam và nữ có các cơ hội ngang bằng để nhận thức một cách đầy đủ quyền con người của mình để đóng 1. Giới tính. góp vào và được hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. 2. Là quá trình mang đến sự công bằng cho nam và nữ. Để đảm bảo tính công bằng cần phải tiến hành các biện pháp. 2. Giới. để bù đắp lại những thiệt thòi mang tính lịch sử và xã hội. Điều này dựa trên nền tảng nam và nữ là các đối tác đầy đủ trong mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội. 3. Mô tả sự khác nhau về mặt sinh học giữa nam và nữ, sự khác nhau này là phổ biến và được xác định ngay từ khi. 3. Bình đẳng giới. con người được sinh ra. 4. Là hiện tượng cấu trúc xã hội xảy ra do xã hội gán cho hai giới tính các vai trò, nhiệm vụ, cách cư xử và phong. 4. Công bằng giới. cách khác nhau dựa trên cơ sở tín ngưỡng và truyền thống của một xã hội nhất định..

<span class='text_page_counter'>(60)</span> PHIẾU BÀI TẬP 4 Bảng thống kê vấn đề về giới thể hiện trong SGK Giáo dục công dân lớp 9. Nhân vật nữ. Nhân vật Nam Giám đốc doanh nghiệp. Mẹ có con trai nhiễm HIV dương tính Chủ tịch tỉnh Cô gái bất hạnh kết hôn sớm Thầy giáo nổi tiếng Một cô gái có quan hệ tình dục trước hôn nhân Nhà khoa học nổi tiếng Một nữ công nhân bỏ việc bất hợp pháp Sinh viên nhận giải thưởng quốc gia Một phụ nữ không trả được các khoản nợ Giáo sư Bác sĩ Nghệ nhân khắc gỗ. PHIẾU BÀI TẬP 5 Nêu ý kiến của thầy/cô theo gợi ý trong bảng sau: Gợi ý những vấn đề về giới trong cách. Ý kiến của bạn. sử dụng ngôn ngữ trên lớp và SGK. (nêu các biểu hiện cụ thể ). THCS Ngôn ngữ có dụng ý những vấn đề về giới không?.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> Các bài học, truyện kể có đưa ra số nhân vật nam và nữ bằng nhau không? Trẻ em trai và gái có được đề cập tới như nhau trong các hoạt động không?. Vai trò, trách nhiệm và hoạt động của trẻ em gái và trai có phản ánh bằng nhau trong vấn đề tăng cường quyền năng và ra quyết định không?. Vai trò trong gia đình, cộng đồng, sự tự nguyện của trẻ em trai và gái có giành được vị trí và giá trị ngang nhau hay không? Trẻ em gái và trẻ em trai có được mô tả trong tranh ảnh minh hoạ với số lượng, tần suất, địa vị ngang bằng nhau hay không? Trong lớp học, GV có so sánh kết quả thực hiện nhiệm vụ của HS nam và HS nữ không?.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> B. ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾNG VIỆT I. MỤC TIÊU Sau bài này, NTG có khả năng : Kiến thức: - Hiểu được những đặc điểm cơ bản nhất của một ngôn ngữ đơn lập. - Những đặc điểm cơ bản nhất của tiếng Việt như một ngôn ngữ đơn lập. Kĩ năng: - Biết sử dụng những đặc điểm của tiếng Việt vào việc dạy học tiếng Việt và các bộ môn khoa học khác cho HS DTTS cấp trung học cơ sở vùng khó khăn nhất. Thái độ: - Có ý thức thường xuyên vận dụng những hiểu biết về tiếng Việt vào việc dạy học cho HS DTTS cấp trung học cơ sở vùng khó khăn nhất . II. TÀI LIỆU VÀ THIẾT BỊ DẠY HỌC - Máy chiếu, giấy A0, A4, bút dạ, băng dính, kéo... để phục vụ cho việc trình bày kết quả tìm hiểu và phân tích các ví dụ của cá nhân, của nhóm trước lớp. - Tài liệu học tập; phiếu bài tập. IV. PHƯƠNG TIỆN ĐÁNH GIÁ - Thông qua kết quả của việc phân tích các bài tập. - Thông qua kết quả làm việc của cá nhân/nhóm. IV. KẾT QUẢ MONG ĐỢI - NTG nhận thức được nét tương đồng và khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng dân tộc để có thể tìm ra cách học và cách sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả nhất. - Biết cách phân tích tính đơn lập của tiếng Việt về các mặt ngữ âm, từ vựng – ngữ nghĩa và ngữ pháp thông qua các lời nói cụ thể. V. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC. Thời gian 20’. Tên hoạt động. Hoạt động của người hướng dẫn. Hoạt động của người tham gia. Ghi chú. Hoạt động 1: - Phát tài liệu đọc và phiếu bài - Làm việc cá nhân theo -. Sử. Tìm hiểu đặc tập số 1 và 2.. phiếu bài tập 1và 2.. dụng. điểm đơn lập - Nêu yêu cầu:. - Làm việc theo nhóm cùng Giấy A0,. của tiếng Việt + Làm việc cá nhân/nhóm.. bộ môn, nhóm trình bày sản bút. dạ,.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> về mặt ngữ âm + Làm việc theo nhóm: Nêu phẩm trên giấy A0.. băng. rõ những đặc điểm đơn lập. dính. để. của tiếng Việt về mặt ngữ âm.. trình bày sản phẩm. -. Sử. dụng các kĩ. thuật. dạy học tích cực. 10’. - Các nhóm tự xem xét lại kết quả làm việc, chuẩn bị cho việc trình bày trước lớp. Yêu cầu: Các nhóm trình bày - Các nhóm trình bày trước. 20’. sản phẩm.. lớp. - Lớp nhận xét, góp ý kiến, bổ sung.. - Nhận xét kết quả làm việc - Lớp lắng nghe, có thể đặt 10’. của các nhóm.. một số câu hỏi để trao đổi. - Kết luận về những đặc điểm thêm. đơn lập của tiếng Việt về mặt - Nêu thắc mắc, phản hồi. ngữ âm. - Giải đáp thắc mắc..

<span class='text_page_counter'>(64)</span> TÀI LIỆU HỌC TẬP Tài liệu số 1 ĐẶC ĐIỂM ĐƠN LẬP CỦA TIẾNG VIỆT - Để dạy tốt chương trình Tiếng Việt ở THCS, người giáo viên không thể không có những hiểu biết nhất định về tiếng Việt. Thực tế cho thấy, chưa một giáo viên nào được đánh giá là dạy tốt Tiếng Việt ở nhà trường nói chung, ở THCS nói riêng lại không có một số vốn hiểu biết nhất định về tiếng Việt. Có sự hiểu biết về tiếng Việt chưa hẳn đã dạy tốt bộ môn Tiếng Việt, nhưng chắc chắn người dạy tốt bộ môn này phải là người có những kiến thức nhất định về tiếng Việt. Chính vì vậy, việc nắm được một số đặc điểm của tiếng Việt là kiến thức nền hết sức cần thiết, góp phần tích cực vào việc giúp giáo viên dạy đúng rồi tiến đến dạy hay bộ môn Tiếng Việt ở nhà trường. - Tiếng Việt thuộc họ Nam Á - một họ ngôn ngữ đã có từ rất xa xưa được sử dụng trên một khu vực rộng lớn ở vùng Đông Nam Á. Vùng này thời cổ là một trung tâm văn minh lớn của thế giới. - Tiếng Việt có đặc điểm là một ngôn ngữ đơn lập. Đặc điểm này được thể hiện ở tất cả các mặt: ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp. Các nhà nghiên cứu đã nêu lên một số đặc điểm tiêu biểu của ngôn ngữ đơn lập như sau: + Hệ thống âm vị có nhiều nguyên âm. + Không có sự biến hoá ngữ âm. + Không có sự biến hoá hình thái của từ. + Đặc điểm của từ loại được thể hiện không thật rõ ràng. + Trật tự từ chặt chẽ trong cấu trúc ngữ pháp. + Sự biểu hiện của từ với tư cách là một đơn vị ngôn ngữ không thật rõ rệt (ranh giới giữ từ và ngữ khó phân biệt) Để hiểu rõ hơn về những đặc điểm đơn lập của tiếng Việt được thể hiện ra như thế nào, dưới đây chúng ta sẽ xem xét một cách cụ thể hơn về từng phương diện: ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa và ngữ pháp. ● Số lượng nguyên âm tiếng Việt khá phong phú. Có thể nói, số lượng nguyên âm của tiếng Việt so với một số ngôn ngữ thường gặp khác như Anh, Pháp, Nga là trội hơn. Tiếng Việt có tới 11 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi:.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> - a, ă, â, i (y), ê, e, u, ư, ô, o, ơ - iê (ia, ya, yê), uô (ua), ươ (ưa) Chính số lượng nguyên âm nhiều như vậy đã phản ánh rõ nét đặc tính đơn lập của tiếng Việt. ● Bên cạnh việc có nhiều nguyên âm, số lượng thanh điệu trong tiếng Việt cũng khá phong phú. Số lượng các thanh điệu đó là: - Thanh không (thanh ngang) - Thanh huyền - Thanh sắc - Thanh hỏi - Thanh ngã - Thanh nặng ● Việc phát âm tiếng Việt trong ngôn ngữ và trong lời nói là như nhau, không có sự biến âm. Trong hệ thống âm vị a, âm vị ô được phát âm như thế nào thì khi đi vào hoạt động, đi vào lời nói, các âm vị ấy vẫn được phát âm như thế, không hề thay đổi, không hề biến âm. Ví dụ: - a, ô - a lô, a ha, la hét, hò la... - cái ô, ô hô, dô hò... Đây là một trong những dấu hiệu dễ nhận nhất của ngôn ngữ đơn lập. Khẳng định tiếng Việt không biến âm không có nghĩa là khi đi vào hoạt động, các âm tiết tiếng Việt không có sự biến đổi âm thanh. Trong hệ thống từ láy tiếng Việt, ở một số trường hợp láy nhất định, tiếng Việt cũng chấp nhận sự biến đổi hoặc ở thanh điệu, hoặc ở phần âm cuối... Ví dụ: - trắng → trăng trắng ( đổi thanh); trắng trẻo (đổi vần) - xốp → xôm xốp. (đổi âm cuối). - ngọt → ngòn ngọt (đổi âm cuối) - đẹp → đẹp đẽ, đèm đẹp (đổi âm cuối) Tuy vậy, những trường hợp biên âm như vậy trong tiếng Việt là không đáng kể..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> ● Trong cấu tạo của âm tiết tiếng Việt, nguyên âm và thanh điệu là những thành phần bắt buộc phải có mặt. Đó là hai yếu tố cần và đủ để cấu tạo nên một âm tiết đơn giản nhất. Ví dụ: - ô (trong cái ô) - u (trong thầy u) - ư (trong thế ư) - e (trong e hèm) Âm tiết tiếng Việt, ở dạng đầy đủ nhất gồm 5 thành phần: - Âm đầu - Âm đệm - Âm chính - Âm cuối - Thanh điệu Chúng ta có thể hình dung rõ hơn cấu trúc của âm tiết tiếng Việt qua mô hình dưới đây: T. H. A. N. PHẦN ÂM ĐẦU. H. Đ. PHẦN. I. Ê. U. VẦN. Âm đệm. Âm chính. o. a. Âm cuối. Ví dụ: toan t. n. Trong số 5 thành phần này, âm chính và thanh điệu là hai thành phần quan trọng nhất của âm tiết. Ngoài hai thành phần đó, các thành phần khác có thể khuyết. Do mỗi âm tiết đều mang một thanh điệu nên trong chuỗi lời nói, ranh giới giữa các âm tiết được thể hiện một cách tương đối rõ ràng, dễ nhận. ● Trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt, trừ phần phụ âm đầu và thanh điệu, phần còn lại của âm tiết được gọi chung là phần vần. Phần vần luôn luôn có mặt trong một cấu trúc âm tiết. Chính vì lẽ đó, vần của tiếng Việt rất phong phú. Người.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> Việt, do đặc điểm của cấu trúc âm tiết, trong cách nói năng thường chuộng vần điệu và rất nhạy cảm với các vần điệu đó. Kho tàng tục ngữ, ca dao của người Việt là một ví dụ rất cụ thể về điều này. Dưới đây, chúng ta hãy đọc một số câu tục ngữ ca dao để hiểu rõ hơn về khả năng thẩm âm ấy của người Việt: - Có thực mới vực được đạo. - Có cứng mới đứng đầu gió. - Nhãn cành sa, na cành bổng. - Trẻ trồng na, già trồng chuối. - Được mùa cau, đau mùa lúa. Bên cạnh những đặc tính đơn lập của tiếng Việt như vừa trình bày trên, chúng ta còn thấy việc cấu tạo dạng láy trong tiếng Việt cũng là điểm thể hiện đậm nét hơn đặc tính đơn lập đó. Dạng láy được cấu tạo theo phương thức phối âm mà không phải là phối nghĩa. Ví dụ: - xinh: xinh xắn - xốp : xốp xồm xộp - lúng túng: lúng ta lúng túng Những cách láy như trên, chúng ta có thể thường xuyên gặp trong nói năng giao tiếp thường ngày. Tài liệu số 2 ĐẶC ĐIỂM ĐƠN LẬP CỦA TIẾNG VIỆT VỀ MẶT NGỮ ÂM [...] Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt ở mặt ngữ âm cũng được phát huy trong cấu tạo của loại đơn vị gọi là dạng láy của từ, từ một tiếng và từ hai tiếng, láy hay ghép. Dạng láy của từ không làm xuất hiện một từ mới. Dạng láy của từ là loại đơn vị có giá trị tương đương với ngữ, đó là những đơn vị cùng bậc. Nhưng dạng láy được cấu tạo theo phương thức phối hợp ngữ âm, còn ngữ thì theo phương thức phối hợp ngữ nghĩa. Ví dụ: - hơi nặng là một ngữ; nằng nặng là một dạng láy, dạng láy của từ nặng. - rất lúng túng là một ngữ; lúng ta lúng túng là một dạng láy, dạng láy của từ láy lúng túng..

<span class='text_page_counter'>(68)</span> - đi lại nhiều lần là một ngữ; đi đi lại lại là một dạng láy, dạng láy của từ ghép đi lại. Dạng láy có giá trị tương đương với ngữ, về mặt nghĩa. Ví dụ: hơi nặng, hơi buồn, hơi xấu ... là những ngữ biểu thị tính chất (nặng, buồn, xấu) với mức độ (hơi) thì những dạng láy (nằng nặng, buồn buồn, xâu xấu) cũng biểu thị tính chất với mức độ như vậy. nhưng nghĩa của dạng láy có sức gợi tả hình tượng. Dạng láy có giá trị tương đương với ngữ, về vai trò làm thành phần trong câu. Ví dụ: Nó đi lại nhiều lần trên đường phố. Nó đi đi lại lại trên đường phố. Trong thơ văn, cũng như trong lời nói thông thường, dạng láy có vai trò quan trọng đáng chú ý. [...] PHIẾU BÀI TẬP Phiếu bài tập số 1 1. Thầy/Cô hãy nêu và phân tích một số đặc điểm quan trọng nhất của một ngôn ngữ đơn lập? 2. Vì sao tiếng Việt lại được xác định là một ngôn ngữ đơn lập? Hãy nêu và phân tích đặc điểm đó bằng những ví dụ cụ thể.. Phiếu bài tập số 2 Hãy phân tích đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt ngữ âm qua việc phân tích đoạn thơ sau: Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như tiếng suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. (Truyện Kiều – Nguyễn Du).

<span class='text_page_counter'>(69)</span> Thời Tên hoạt động gian. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. Ghi chú. của người tham gia. Hoạt động 2 : - Phát tài liệu đọc và phiếu - Làm việc cá nhân theo - Sử dụng 20’. Tìm hiểu đặc bài tập số 3.. phiếu bài tập 3.. điểm đơn lập - Nêu yêu cầu:. - Làm việc theo nhóm dạ,. của tiếng Việt + Làm việc cá nhân.. cùng bộ môn, nhóm trình dính. để. từ + Làm việc theo nhóm: Nêu bày sản phẩm trên giấy trình. bày. về. mặt. vựng nghĩa. -. ngữ rõ những đặc điểm đơn lập A0.. Giấy A0, bút băng. sản phẩm.. của tiếng Việt về mặt từ. - Sử dụng. vựng – ngữ nghĩa.. các kĩ thuật dạy học tích cực. - Các nhóm tự xem xét lại. 10’. kết quả làm việc, chuẩn bị cho việc trình bày trước lớp. Yêu cầu: Các nhóm trình - Các nhóm trình bày. 20’. bày sản phẩm.. trước lớp. - Lớp nhận xét, góp ý kiến, bổ sung.. 10’. - Nhận xét kết quả của các -. Lớp lắng nghe, có thể. nhóm.. đặt một số câu hỏi để. - Kết luận về những đặc. trao đổi thêm.. điểm đơn lập của tiếng Việt -. Nêu thắc mắc, phản. về mặt từ vựng - ngữ nghĩa.. hồi.. - Giải đáp thắc mắc.. -. Ghi chép..

<span class='text_page_counter'>(70)</span> TÀI LIỆU HỌC TẬP ĐẶC ĐIỂM ĐƠN LẬP CỦA TIẾNG VIỆT VỀ MẶT TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA Tài liệu số 1 Đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt từ vựng - ngữ nghĩa được thể hiện rõ nhất trong cách cấu tạo từ ghép. Đó là những từ do sự kết hợp ngữ nghĩa giữa các yếu tố để tạo nên nghĩa mới. Khi kết hợp, nghĩa riêng của từng yếu tố có sự biến đổi. Điều này được thể hiện cụ thể qua các từ ghép hợp nghĩa dẫn ra dưới đây: - đất + nước  đất nước - sông + núi  sông núi - đỏ + đen.  đỏ đen. - học + hỏi.  học hỏi. - theo + đuổi  theo đuổi Trong kiểu từ ghép có một tiếng chính và một tiếng phụ, việc biến đổi nghĩa cũng có thể nhận thấy được. Tiếng chính để biểu thị nghĩa chung của cả loại, tiếng phụ dùng để hạn định nghĩa của tiếng chính. Trong tiếng Việt, rất nhiều trường hợp nghĩa của tiếng chính biến đổi và trở nên khái quát hơn. Ví dụ: - chân + trời.  chân trời. - đầu + tàu.  đầu tàu. - cổ + chai.  cổ chai. - mắt + võng  mắt võng - tim + đường  tim đường Và ngay trong những trường hợp ghép như trên, nghĩa của tiếng phụ cũng có sự biến đổi theo, khác với nghĩa của tiếng đó khi đứng độc lập. Ví dụ: - gan, mật trong to gan, lớn mật - lời trong ăn lời - đá trong nước đá.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> Ngoài ra, từ trong tiếng Việt còn thể hiện đặc tính đơn lập của mình ở khả năng tách đôi hoặc khả năng đan chéo các tiếng khi được sử dụng trong hoạt động nói năng. Ví dụ: - thề nguyền nước non Nhớ lời nguyện nước thề non Nước đi chưa lại, non còn đứng không (Tản Đà) - xuôi ngược Tôi nhớ bờ tre gió lộng Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau (Hồng Nguyên) Sự biến đổi ngữ nghĩa cũng như khả năng tách đôi, đan chéo các tiếng của tiếng Việt như vừa trình bày trên chính là sự thể hiện rõ rệt nhất những đặc điểm cụ thể của ngôn ngữ đơn lập về mặt từ vựng - ngữ nghĩa. Tài liệu số 2 [...] Đặc điểm đơn lập của tiếng ở mặt ngữ nghĩa được phát huy chủ yếu trong phạm vi cấu tạo từ ghép. Như đã nói, từ ghép là những từ mà giữa các tiếng có phối hợp nghĩa và sự phối hợp này tạo nên nghĩa mới cho từ ghép. Như vậy, trong sự phối hợp đó, nghĩa gốc của từng tiếng có biến đổi. Nói chung, đó là sự biến đổi nghĩa theo phương thức hình tượng hóa. Hiện tượng ấy có thể nhận thấy ở những từ ghép mà các tiếng kết đôi song song với nhau. Ví dụ: trong từ đất nước, nghĩa của tiếng đất cũng như của tiếng nước, không còn là nghĩa gốc về những chất liệu, những sự vật cụ thể trong thiên nhiên mà đã trở thành hình tượng và đó là sự hình tượng hóa thông qua giá trị biểu trưng của những sự vật ấy; nhờ vậy mà sự kết đôi đất nước trở thành có nghĩa tổ quốc..

<span class='text_page_counter'>(72)</span> Trong tiếng Việt, có nhiều từ ghép kiểu này với nghĩa hình tượng được hình thành theo phương thức đó, ví dụ: non sông, ruộng đất, ăn ở, làm ăn, trong sạch, vuông tròn... Ở kiểu từ ghép trong đó có tiếng chính và tiếng phụ, cũng có thể nhận thấy hiện tượng nói trên. Tiếng chính có nghĩa chung, tiếng phụ là để hạn định nghĩa của tiếng chính, ví dụ: xe đạp, xe máy, xe tải... Trong nhiều trường hợp, nghĩa của tiếng chính có thể biến đổi và trở thành rất khái quát với giá trị hình tượng, ví dụ: chân trời, cánh quạt, trả lời, ăn ý, thẳng tay, non gan... và nghĩa của tiếng phụ cũng có thể có giá trị hình tượng, thông qua biến đổi nghĩa, ví dụ: xe đò, nước đá, ăn lời, bắt đầu, to gan, xấu bụng... Nói chung, khả năng biến đổi nghĩa của tiếng - phần lớn là những tiếng gốc Việt hay đã Việt hóa lâu đời – là rất phong phú. Khả năng đó được thể hiện rất rõ trong cấu tạo từ ghép. PHIẾU BÀI TẬP Phiếu bài tập số 3 Qua đoạn trích sau, hãy phân tích đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt từ vựng – ngữ nghĩa: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy. (Tùy bút Sông Đà – Nguyễn Tuân). Thời Tên hoạt động gian Hoạt động 3:. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Phát tài liệu đọc và phiếu bài - Làm việc cá nhân theo - Sử dụng. Tìm hiểu đặc tập số 4. 20’. Ghi chú. điểm đơn lập - Nêu yêu cầu:. phiếu bài tập 4.. Giấy. - Làm việc theo nhóm bút. A0, dạ,.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> của tiếng Việt + Làm việc cá nhân. về pháp. mặt. cùng bộ môn, nhóm trình băng dính. ngữ + Làm việc theo nhóm: Nêu bày sản phẩm trên giấy để rõ những đặc điểm đơn lập A0.. bày. của tiếng Việt về mặt ngữ. phẩm.. pháp.. - Sử dụng các. 15’. - Các nhóm tự xem xét lại kết quả làm việc, chuẩn bị cho việc trình bày trước lớp. Yêu cầu: Các nhóm trình bày - Các nhóm trình bày sản phẩm.. trước lớp. - Lớp nhận xét, góp ý kiến, bổ sung.. 10’. - Nhận xét kết quả của các - Lớp lắng nghe, có thể nhóm.. đặt một số câu hỏi để trao. - Kết luận về những đặc điểm đổi thêm. đơn lập của tiếng Việt về mặt - Nêu thắc mắc. ngữ pháp. - Giải đáp thắc mắc.. - Ghi chép; phản hồi.. sản. kĩ. thuật. dạy. học. tích. cực.. 15’. trình.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> TÀI LIỆU HỌC TẬP ĐẶC ĐIỂM ĐƠN LẬP CỦA TIẾNG VIỆT VỀ MẶT NGỮ PHÁP Tài liệu số 1 Trong tiếng Việt, việc dùng trật tự cú pháp và quan hệ từ làm phương tiện ngữ pháp là một đặc điểm nổi bật. Trật tự sắp xếp các từ trong câu là phương tiện chính để biểu thị mối quan hệ ngữ pháp giữa các từ. Thay đổi trật tự từ trong câu là thay đổi cả mối quan hệ ngữ pháp, thay đổi cả nội dung ngữ nghĩa cần thông báo của câu. Ví dụ: - Đây là người tôi tin nhất. - Đây là người tin tôi nhất. - Đại hội các cô nuôi dạy trẻ tiên tiến lần thứ ba đã khai mạc. - Đại hội lần thứ ba các cô nuôi dạy trẻ tiên tiến đã khai mạc. - Hôm qua tôi đi chơi với người yêu tôi. - Hôm qua tôi đi chơi với người tôi yêu. Việc dùng quan hệ từ cũng có tầm quan trọng tương tự như vậy trong tiếng Việt. Tuy ở một số trường hợp nào đấy, việc dùng quan hệ từ không làm thay đổi nội dung thông báo, như: mẹ tôi - mẹ của tôi; nhưng phần lớn các trường hợp khác, việc dùng hay không dùng sẽ không phải là một việc làm tuỳ tiện. Bởi lẽ, không dùng, nghĩa của kết hợp sẽ khác, còn ngược lại nếu dùng, nghĩa sẽ khác. Ví dụ: - Gà mẹ được nhốt trong chuồng. Gà của mẹ được nhốt trong chuồng. - Đây là sách học sinh mà không phải là sách giáo viên. Đây là sách của học sinh mà không phải là sách của giáo viên. - Tôi làm nhà. Tôi làm ở nhà. Việc phân biệt từ và cụm từ là việc phân biệt quan trọng trong nhận diện cấu trúc và xác định nghĩa của câu, vì vậy cần phải nhận biết được quan hệ giữa tiếng với tiếng trong cấu tạo từ và giữa từ với từ trong cấu tạo câu mới có thể hiểu chính xác nội dung của câu. Ví dụ, cần phải xác định rõ mới vừa trong câu “Cô giáo mới vừa đến” là một từ ghép hay là hai từ đơn, chúng ta mới có thể hiểu được nghĩa của câu một cách đúng đắn nhất. Đây chính là đặc điểm của một ngôn ngữ đơn lập..

<span class='text_page_counter'>(75)</span> Tài liệu số 2 - Yêu cầu cơ bản của ngữ pháp tiếng Việt là nhận ra được hai loại quan hệ khác nhau: quan hệ giữa tiếng và tiếng trong phạm vi cấu tạo từ và quan hệ giữa từ và từ trong phạm vi cấu tạo câu. Nhận ra được những mối quan hệ ấy tức là phân biệt được những đơn vị ngữ pháp là tiếng, từ, câu và những đơn vị ngữ pháp khác là ngữ và dạng láy. - Điều cần chú ý là để biểu thị những mối quan hệ ấy, tiếng Việt không sử dụng sự biến đổi hình thức ngữ âm của tiếng, cũng như của từ. Một tiếng có thể chỉ là tiếng mà cũng có thể là từ; một từ có thể chỉ là từ mà cũng có thể là một ngữ. Nói cách khác, những tư cách, những vai trò ngữ pháp khác nhau của tiếng cũng như của từ không biểu hiện trên hình thức ngữ âm. Đó là đặc điểm chính của loại hình ngôn ngữ đơn lập mà tiếng Việt là một trường hợp tiêu biếu nhất. Đặc điểm ấy cần được nhận thức đúng. Nó không chứng tỏ một sự thô sơ nào đó khi so sánh với những loại hình ngôn ngữ khác. Do những giá trị của tiếng về các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, đặc điểm ấy chỉ làm cho cấu tạo của các đơn vị ngữ pháp, đặc biệt của từ và câu tiếng Việt, có tính chất sinh động, uyển chuyển. Đó là cái khó mà cũng là cái độc đáo, cái hay của ngữ pháp tiếng Việt. (Ngữ pháp tiếng Việt – Trung tâm KHXH và nhân văn quốc gia – NXBKHXH, Hà Nội 2000, trang 32). PHIẾU BÀI TẬP Phiếu bài tập 4 Hãy phân tích đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt ngữ pháp qua việc phân tích một số câu dẫn ra dưới đây: Từ chiều lại bắt đầu trở rét. Gió. Mưa. Não nùng. Đường vắng ngắt. Chưa đến 8 giờ mà đường đã vắng ngắt. (Anh xẩm – Nguyễn Công Hoan).

<span class='text_page_counter'>(76)</span> BÀI 2 RÈN KĨ NĂNG SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT I. MỤC TIÊU Sau bài này, NTG có khả năng : Kiến thức: Hiểu được tầm quan trọng của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; phát triển kiến thức, kĩ năng tiếng Việt trong dạy học ở các môn học cụ thể. Kĩ năng: Biết thiết kế các hoạt động dạy học phù hợp để học sinh DTTS ở vùng khó khăn nhất có cơ hội rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt qua các giờ học. Thái độ: Có ý thức rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết qua các môn học cụ thể cho học sinh DTTS vùng khó khăn nhất thực sự có hiệu quả. II. TÀI LIỆU VÀ THIẾT BỊ DẠY HỌC - Người hướng dẫn: + Kế hoạch bài tập huấn, tài liệu học tập, phiếu bài tập. + Giấy A0, giấy A4, bút dạ, băng dính, giấy bìa mầu, kéo. + Máy chiếu, màn chiếu (nếu điều kiện cho phép). - Người tham gia : SGK, SGV, Giáo án,… III. PHƯƠNG TIỆN ĐÁNH GIÁ - Thông qua các sản phẩm làm việc của nhóm; - Các nội dung trình bày của cá nhân và nhóm trước lớp. IV. KẾT QUẢ MONG ĐỢI Giáo viên THCS vùng khó khăn nhất vận dụng được các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết vào thực tế dạy học tiếng Việt và các bộ môn khoa học khác một cách có hiệu quả..

<span class='text_page_counter'>(77)</span> V. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Thời Tên hoạt động gian 10’. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Ghi chú. Hoạt động 1:. - Giới thiệu khái quát bài - Làm việc nhóm: Làm - Ghi vào :. - Làm quen. học.. quen, chia sẻ thông tin Phiếu. - Nêu các yêu - Phát phiếu ghi thông tin cá nhân. cầu của bài học. cá nhân.. ghi. thông tin cá. - Đại diện từng nhóm nhân.. - Nêu yêu cầu: Chia lớp trình bày vắn tắt thông thành các nhóm bộ môn, tin về nhóm trước lớp. các thành viên trong nhóm - Các nhóm nghe, xác làm quen với nhau.. nhận lượng thông tin,. - Yêu cầu người tham gia nhận xét các tin. chọn giáo án.. - Chọn một giáo án thuộc bộ môn mình phụ trách. (Nếu chưa có thì soạn tại lớp).. - Nhận xét hoạt động làm quen. - Lắng nghe, ghi chép. Hoạt động 2: 30’. - Phân tích các. - Phát tài liệu và phiếu bài - Làm việc cá nhân - Sử dụng : tập số 1.. theo phiếu bài tập 1.. Giấy A4, A0,. - Nêu yêu cầu:. - Làm việc theo nhóm bút dạ, băng. hoạt động dạy. + Người tham gia làm việc cùng bộ môn, nhóm dính để làm. học trong giáo. cá nhân.. án đã chuẩn bị. + Làm việc theo nhóm: Nêu trên giấy A0.. và trình bày. bật được vai trò của. sản phẩm.. trình bày sản phẩm việc kĩ. nhóm. năng nghe trong bộ môn mà. - Sử dụng. người tham gia đảm nhận.. các kĩ thuật dạy học tích cực.. 20’. - Yêu cầu các nhóm hoàn - Các nhóm xem lại chỉnh sản phẩm.. kết. quả. làm. việc,. chuẩn bị trình bày trước lớp..

<span class='text_page_counter'>(78)</span> Yêu cầu: Các nhóm trình - Các nhóm trình bày 20’. bày sản phẩm.. trước lớp. - Lớp nhận xét, góp ý kiến, bổ sung.. - Nhận xét kết quả của các - Lớp lắng nghe, có thể 10’. nhóm.. đặt một số câu hỏi để. - Kết luận:. trao đổi thêm.. Vai trò của kĩ năng nghe - Nêu thắc mắc, phản trong việc giúp học sinh hồi. dân tộc phát triển kiến thức, - Ghi chép. kĩ năng qua mỗi giờ học. - Giải đáp thắc mắc. TÀI LIỆU HỌC TẬP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NGHE Theo thống kê của các nhà Tâm lí học, trong giao tiếp ngôn ngữ của con người thì hai phần ba là giao tiếp miệng. Đối với người giáo viên, tỉ lệ này còn cao hơn nữa. Người giáo viên phải nói trên lớp trong giờ dạy học, trong giờ sinh hoạt, ngoài sân trường … với học sinh, nhưng đồng thời người giáo viên cũng phải lắng nghe ý kiến của học sinh, hiểu cho đúng ý định của học sinh khi các em phát biểu về bài học, về một cảm nghĩ nào đó…Vì vậy, việc rèn luyện kĩ năng nghe là không thể thiếu được đối với mọi người nói chung và nhất là đối với những người làm công việc dạy học nói riêng. Vậy phải nghe như thế nào ? 1. Những điều kiện để nghe có hiệu quả - Muốn nghe hiểu tốt bất kì một vấn đề nào đó, người nghe phải có một sự hiểu biết tối thiểu về những điều mà người nói trình bầy. Không thể nghe có kết qủa khi mà người nghe không biết một tí gì về nội dung mà người nói trình bầy. Nghe mà không hiểu thì chẳng khác nào “đàn gảy tai trâu”. Do vậy, vốn hiểu biết về những vấn đề được người nói trình bầy có ảnh hưởng lớn tới việc hiểu của.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> người nghe. Vốn kiến thức càng lớn, càng rộng thì việc nghe hiểu càng đầy đủ, chính xác và sâu sắc. - Phải có hứng thú nhất định đối với nội dung nói thì việc nghe mới có hiệu quả. Điều này đảm bảo cho người nghe duy trì được sự chú ý trong suốt quá trình người nói trình bầy. Nếu không có hứng thú, nghe sẽ lõm bõm, “câu được câu chăng”, không thể hiểu được vấn đề, thậm chí hiểu sai ý định của người nói. - Để nghe có hiệu quả cần phải có một trí nhớ tốt. Điều này giúp cho người nghe tìm hiểu được đầy đủ, chi tiết mọi khía cạnh của vấn đề từ đầu chí cuối. Trí nhớ không tốt sẽ không giúp được người nghe tái hiện lại vấn đề, khôi phục lại những điều đã nghe trong những trường hợp cần thiết. - Ngoài ra, để việc nghe có hiệu quả phải có môi trường nghe tốt, phải có đủ sức khỏe để theo dõi cả quá trình của một bài nói, bài giảng. Nghe hiểu là nhận tín hiệu bằng âm thanh. Nếu người nghe ở quá xa người nói, nghe không rõ, nghe âm nọ xọ âm kia thì hiệu quả của việc nghe sẽ vô cùng hạn chế. Và nếu như người nghe phải cố gắng hết sức mới nghe được, thì việc nghe sẽ làm ức chế họ và như vây, hiệu quả của việc nghe cũng bị ảnh hưởng rất lớn. 2. Những cách nghe khác nhau a). Thông thường, có ba cách nghe khác nhau: - Nghe chủ động : Là nghe một cách cẩn thận, tập trung chú ý cao độ vào những điều mà người nói đang trình bầy. - Nghe thụ động : Là nghe mà không tập trung chú ý, tức là không lắng nghe, nghe mà không thu nhận được điều gì. - Nghe với định kiến : Nghe mang tính áp đặt những kinh nghiệm, những định kiến riêng của cá nhân vào điều đang nghe, có khi làm sai lạc ý người nói. b).Những điều cần lưu ý để nghe có hiệu quả : - Đảm bảo được những nguyên tắc lắng nghe có hiệu quả : + Giữ yên lặng trong quá trình nghe + Thể hiện rõ là mình muốn nghe + Tránh sự bàn tán trong khi nghe + Thể hiện sự đồng cảm, tôn trọng người nói + Biết kiên nhẫn khi thấy có điều trái ý mình.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> + Giữ được sự bình tĩnh + Biết đặt câu hỏi cho người nói. -. Những điều nên và không nên làm khi lắng nghe :. Nên. Không nên. + Tập trung. + Cãi cọ, tranh luận. + Giao tiếp bằng mắt. + Kết luận quá vội vàng. + Sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ tích cực. + Cắt ngang lời người nói. + Nghe để hiểu. + Diễn đạt phần còn lại trong câu nói của người khác.. + Tỏ thái độ tôn trọng và đồng cảm. + Đưa ra lời khuyên khi người ta không yêu cầu. + Không tỏ thái độ phán xét. + Để cho những cảm xúc của người nói tác động quá mạnh đến tình cảm của mình. + Thể hiện khi xác định được những. + Luôn nhìn vào đồng hồ. điểm cơ bản + Khuyến khích người nói phát triển + Giục người nói kết thúc khả năng tự giải quyết vấn đề của chính họ + Giữ im lặng khi cần thiết. 3. Cách nghe và ghi chép - Khi nghe cần phải nắm những vấn đề cốt lõi nhất, tránh sa vào những chi tiết mở rộng mà quên điểm trọng tâm. Nếu như trong một bài nói, người nói giới.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> thiệu trước nội dung trình bầy thì người nghe cần nắm vững đề cương đó để ghi chép, tiếp nhận. - Trước khi nghe cần phải xác định mục đích nghe. Mục đích này quyết định những phần cần nghe cẩn thận, cần ghi chép đầy đủ. Khi đã xác định được mục đích rõ ràng, giải quyết được yêu cầu của mình, những vấn đề đó sẽ được chú ý nghe và ghi lại tỉ mỉ. Những vấn đề người nghe thấy không cần thiết, có thể chỉ nghe mà không cần ghi chép. - Khi nghe, không phải chỉ cần nắm những luận điểm được nêu, mà một điều khác hết sức quan trọng là phải nắm được mối quan hệ giữa các luận điểm được người nói trình bầy. Chính cách lập luận, dắt dẫn của người nói sẽ giúp cho người nghe hiểu sâu thêm những luận điểm được đưa và từ đó cũng thấy được lôgic của việc trình bầy các sự kiện, các vấn đề. - Để nghe được đầy đủ và ghi chép được chi tiết, cần phải biết cách ghi. Nếu chỉ nghe mà không ghi thì khi cần sử dụng lại những điều đã nghe được sẽ không thể nhớ lại hết và nhiều khi còn bị sai lạc, không chính xác. Thường thì vừa nghe, vừa ghi, nhưng cũng có khi nghe xong một phần rồi mới ghi lại tóm tắt bằng vài ba câu tùy theo cách hiểu của mình. + Cách ghi thứ nhất: vừa nghe, vừa ghi có ưu điểm là ghi lại được gần như trung thành lời nguời nói, nhưng đôi khi lại bỏ sót mất những chi tiết quan trọng mà người nghe ghi không kịp. + Cách ghi thứ hai : nghe xong mới ghi có ưu điểm là tóm tắt được những ý chính, nghe – ghi xong là có được một đề cương tương đối hoàn chỉnh, nhưng lại có điểm yếu là không ghi chép được lời lẽ của người nói. Vì vậy, khi nghe, cần sử dụng cả hai cách ghi chép. Tùy nội dung bài nói, tùy mục đích cá nhân của từng người nghe, việc ghi chép có thể chỗ này theo cách thứ nhất, chỗ kia theo cách thứ hai để sao có được hiệu quả cao nhất cho mỗi buổi nghe. 4. Những kĩ năng cần rèn luyện khi nghe - Cần phải biết phát hiện những vấn đề chính trong một bài nói. Không phát hiện được điều này, người nghe có thể chỉ nắm được những cái phụ, cái bề ngoài mà không nắm được cái bản chất của vấn đề trình bầy. Muốn có kĩ năng này, cần.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> phải không ngừng nâng cao vốn sống, vốn hiểu biết của mình và phải tập nghe thường xuyên. Chẳng hạn, nghe qua đài phát thanh, qua vô tuyến truyền hình, rồi tóm tắt lại, ghi lại những điều đã nghe được. - Biết ghi nhanh, ghi đúng, ghi đầy đủ cũng là một kĩ năng cần rèn luyện. Muốn đạt được sự thành thạo trong kĩ năng này, cần phải có sự luyện tập hết sức lâu dài và phải làm thường xuyên. Ghi nhanh để ghi được nhiều, ghi đúng để hiểu chính xác nội dung và ghi đầy đủ để khỏi bỏ sót những chi tiết quan trọng. Cần phải luyện tập liên tục để tránh tình trạng ghi nhanh mà không đúng, ghi đúng mà không nhiều, ghi nhiều mà mất chính xác. - Ngoài hai kĩ năng trên, người nghe cũng phải luyện cho mình một thói quen duy trì sự chú ý liên tục trong suốt cả quá trình nghe. Bởi lẽ, trong thực tế (tất nhiên, còn phụ thuộc nhiều yếu tố) có người không quen nghe cả quá trình, không thể tập trung chú ý trong suốt cả buổi, dễ bị chi phối bởi hoàn cảnh, vì thế, kết quả thường kém, họ nhớ lõm bõm, nhớ không có hệ thống, hiểu sai lạc…Do vậy, việc duy trì sự chú ý cũng là một yêu cầu cần được rèn luyện. 5. Vận dụng các kĩ năng nghe vào dạy học như thế nào ? - Trong cuộc sống, kỹ năng nghe của con người được sử dụng rất nhiều. Các dạng của kỹ năng nghe cũng rất đa dạng: Nghe ngẫu nhiên, nghe có chủ đích. Ngay cả với dạng nghe có chủ đích cũng không giống nhau: Nghe để giải trí (nghe ca nhạc, nghe kể chuyện…), nghe để thu thập thông tin (hội họp, nghe tin tức thời sự, khoa học qua đài phát thanh, qua tivi…), nghe để giải quyết vấn đề; nghe để chia sẻ giao lưu về thông tin, tình cảm (trò chuyện, tâm tình), nghe để học… - Với học sinh, mục đích nghe phải được xác định rõ ràng nếu không các em sẽ không hiểu mình nghe để làm gì. Việc chúng ta giúp học sinh xác định mục đích nghe buộc các em phải nghe chăm chú hơn. Ví dụ: khi giáo viên trình bày một vấn đề nào đó có dùng cách nói “tôi sẽ kiểm tra xem các em đã nghe được tôi nói những gì”, thì sau lệnh đó, học sinh sẽ nghe chăm chú hơn nhiều và hiệu quả hơn rõ rệt. - Trước mỗi bài học, giáo viên nên giới thiệu khái quát về bài học. Ví dụ: Bài học gồm những nội dung nào, phần nào là trọng tâm, mục đích, yêu cầu.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> của bài học là gì… để cuối giờ các em có sự liên kết lại các vấn đề và chú tâm hơn khi nghe giảng và thực hiện các hoạt động. - Khi tổ chức các hoạt động tìm hiểu nội dung của bài học, cần xác định xem chúng ta sẽ đưa ra các hướng dẫn cho học sinh bằng cách nào? Cần có những yêu cầu gì? Có thể huy động những kiến thức liên quan nào đã biết giúp học sinh nghe và hiểu dễ hơn (nghe điều mới trên cơ sở cái học sinh đã biết). - Cuối mỗi bài học nên có sự tóm lược những nội dung đã học trong bài để học sinh có cái nhìn tổng quát. - Với HS DTTS sẽ dễ hơn nếu giáo viên nói chậm rãi, rõ ràng, diễn đạt bằng những từ ngữ giản dị, gần gũi với đối tượng học sinh. Điều này không khó nhưng có nhiều giáo viên lại hay quên, họ thường nói nhanh, dùng những từ ngữ phức tạp, xa lạ với học sinh. Để thực hiện được điều này, giáo viên cần lập rõ kế hoạch ngôn ngữ sẽ sử dụng trong bài học (từ, mẫu câu) khi soạn bài. - Khi nói, giáo viên cần quan sát xem ánh mắt, thái độ, phản ứng của học sinh để xem sự chú ý của các em đến mức độ nào, từ đó tìm cách để điều chỉnh kịp thời. Nếu lớp học ồn, cần phải có những hoạt động, lời nói để lấy lại sự tập trung của học sinh bằng thái độ thân thiện, có thể pha chút hài hài hước; không nên sử dụng hình thức nói to hơn hoặc chỉ trích nặng lời… - Cũng có thể kiểm tra sự chú ý, sự hiểu của học sinh bằng cách dừng lại và đặt một câu hỏi về vấn đề các em đang theo dõi. - Sử dụng các thiết bị hỗ trợ giúp cho việc nghe hiệu quả hơn như tranh ảnh, mô hình, vật thật… để học sinh có thể kết hợp nhìn bằng mắt. Sự hỗ trợ này đặc biệt tốt cho phần giảng giải và làm mẫu. Nó có hiệu quả cao với học sinh bình thường; riêng với HSDT cần phải chú trọng nhiều hơn và được chuẩn bị sẵn trong bài giảng của giáo viên. - Những đoạn văn bản dài cần đọc cho học sinh nghe, điều quan trọng là các em phải hiểu được những từ khó, những thuật ngữ… trong bài đọc, giáo viên có thể giới thiệu và giải nghĩa trước. - Cần có thời gian chờ đợi: Khi giáo viên đặt một câu hỏi tìm hiểu giáo viên vừa nói và có thời gian để suy nghĩ câu trả lời. Điều này rất cần thiết nhưng giáo viên lại hay quên, cứ dứt câu nói là lập tức gọi học sinh đứng dậy trả lời..

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Trên đây là những điều lưu ý nói chung cho việc “nghe” của học sinh và cũng có những điều cần đặc biệt quan tâm đối với HS DTTS khi các em “nghe” trong giờ học. PHIẾU BÀI TẬP. Phiếu bài tập 1 Đọc tài liệu học tập và trình bày các vấn đề sau: -Vai trò của việc nghe trong đời sống. . -Phân tích kĩ năng nghe trong các hoạt động dạy học. - Cách thức rèn luyện kĩ năng nghe để giúp học sinh phát triển kĩ năng này trong mỗi giờ học.. Thời. Tên hoạt động. gian Hoạt động 3: 25’. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Ghi chú. - Phát tài liệu, phiếu bài - Làm việc với sản - Sử dụng :. - Tìm hiểu kĩ năng tập số 2.. phẩm của nhóm : Tìm Giấy A4, A0,. nói.. hiểu kĩ năng nói.. - Nêu yêu cầu:. - Chỉ rõ những khó khăn của học sinh dân tộc khi học bài… Nguyên nhân của. những. hiện. tượng học sinh dân tộc thiểu số diễn đạt, trình bày (chú ý vào kĩ năng nói) một vấn đề còn yếu hoặc rất khó khăn.. + Trình bày những nét cơ bản về kĩ năng nói.. bút dạ, bìa. - Các thành viên trong mầu,. băng. nhóm thảo luận; đề dính để thảo. + Chỉ ra những khó khăn xuất các biện pháp hỗ luận và trình của học sinh dân tộc khi trợ HS DTTS rèn luyện bày học bài.. kĩ năng nói.. sản. phẩm.. + Nguyên nhân của những - Trình bày kết quả trên - Sử dụng hiện tượng: Học sinh dân giấy A0.. các kĩ thuật. tộc diễn đạt, trình bày một. dạy học tích. vấn đề còn yếu hoặc rất. cực.. khó khăn? Học sinh không nói được những điều muốn nói..

<span class='text_page_counter'>(85)</span> 25’. - Nhắc các nhóm chuẩn bị. - Các nhóm xem lại kết - Sử dụng :. trình bày ý kiến trước lớp.. quả làm việc, chuẩn bị Giấy A4, A0, cho việc trình bày, trao bút dạ, bìa đổi trước lớp.. mầu,. băng. dính để thảo luận và trình bày phẩm. Yêu cầu: các nhóm trình - Các nhóm cử đại diện 25’. bày sản phẩm; Thuyết trình bày sản phẩm minh cách thức khắc phục trước lớp. những khó khăn về diễn - Lớp lắng nghe, nhận đạt (khi nói). của HS xét, bổ sung; chất vấn .. DTTS. - Tóm tắt kết quả thảo - Lớp lắng nghe, có thể 15’. luận.. hỏi hoặc trao đổi thêm.. - Kết luận: Về những khó - Ghi chép, phản hồi, khăn của HSDT khi học chất vấn. bài. Nguyên nhân của việc học sinh nói còn yếu trong giờ học. Cách thức khắc phục . - Giải đáp thắc mắc.. sản.

<span class='text_page_counter'>(86)</span> TÀI LIỆU HỌC TẬP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NÓI 1. Những điều kiện để nói có hiệu quả - Nội dung bài nói tốt là điều kiện quyết định nhất đến hiệu quả của việc nói. Dù nói hay, hấp dẫn nhưng nội dung vụn vặt, tản mạn…thì không thể đánh giá được đó là bài nói có hiệu quả. Khi nội dung nói lôi cuốn được sự chú ý lắng nghe của hàng trăm, hàng nghìn người, đáp ứng được những điều mong đợi của họ, thì những bài nói đó là những bài nói có nội dung tốt, đạt hiệu quả giao tiếp cao. - Người nói phải có sự hiểu biết sâu rộng, kĩ càng về nội dung định trình bầy mới có thể làm người nghe hiểu được nội dung trình bầy. Sự hiểu biết của người nói càng đầy đủ, càng thấu đáo thì hiệu quả lời nói càng cao. Ngược lại, người nói hiểu lờ mờ, hiểu hời hợt, nông cạn thì chắc chắn sẽ không tạo ra được sự hấp dẫn, lôi cuốn đối với người nghe. - Xác định đúng đối tượng nói và mục đích nói cũng là điều kiện đảm bảo cho bài nói thành công. Không hiểu về đối tượng, không có mục đích rõ ràng, bài nói sẽ mất phương hướng, sẽ không chọn được cách thức tối ưu cho việc nói, và trong những trường hợp ấy chỉ là nói cho xong chuyện, “nói để nói” mà thôi. - Bên cạnh những yếu tố trên, uy tín của người nói cũng là một điều kiện đảm bảo cho hiệu quả giao tiếp. Uy tín về học thuật, uy tín về phẩm chất và cương vị chính quyền…càng lớn bao nhiêu thì sự lôi cuốn, thu hút người nghe càng cao bấy nhiêu. Người thiếu uy tín không nên nói trước đông đảo quần chúng (trừ những trường hợp như giải trình, thanh minh…). - Ngoài ra, để lời nói được người nghe tiếp nhận có hiệu quả, người nói cần phải có giọng nói tốt. Bởi lẽ, nói là giao tiếp bằng âm thanh, nếu giọng nói lè nhè, ồm ồm hoặc đứt quãng…sẽ gây ức chế rất lớn đối với người nghe, là lực cản đôi khi rất khó vượt quan đối với người nghe. Tùy điều kiện cụ thể của bối cảnh nói, người nói phải điều chỉnh lời nói sao cho thích hợp với khoảng không gian diễn ra của buổi nói đó..

<span class='text_page_counter'>(87)</span> 2. Chuẩn bị bài nói Có thể chia giai đoạn chuẩn bị một bài nói ra thành hai bước: bước chuẩn bị (trước khi giao tiếp) và bước thực hiện (nói trước công chúng). Trong bước chuẩn bị, cần phải thực hiện những công việc sau: -. Xác định nội dung dự kiến sẽ trình bày.. -. Xác định mục đích nói.. -. Lựa chọn tài liệu, lập đề cương (sơ lược hoặc chi tiết) cho bài nói.. -. Dự kiến cách thức trình bầy (lựa chọn văn phong; các hình thức hỗ trợ : biểu bảng, máy trình chiếu…).. Đây là bước mang tính chất chuẩn bị, tính toán và dự kiến tất cả những vấn đề về nội dung, cách thức, thời gian…cho bài nói. Trong bước thực hiện gồm các công việc cụ thể là : -. Tiến hành trình bầy.. -. Theo dõi diễn biến (bối cảnh, hứng thú, tâm trạng…của người nghe) để có thể điều chỉnh kịp thời cách nói cho phù hợp.. -. Trả lời, giải đáp hoặc tranh luận với người nghe.. Bước chuẩn bị là cần thiết, nhưng bước quyết định sự thành công hay thất bại của một bài nói lại ở bước thứ hai. Vì vậy, trong cả hai bước, người nói không được coi nhẹ một bước nào. 3. Những kĩ năng cần rèn luyện khi nói - Biết xác định đúng nội dung cần trình bầy và phù hợp với từng đối tượng cụ thể, từng bối cảnh cụ thể là điều cần phải luyện tập, vì đó là yếu tố đảm bảo sự thành công của một bài nói. Lựa chọn đúng tài liệu, trình bày hợp lôgic và đặc điểm tâm lí của người nghe…là những điều cần phải đặt ra cho bất kì một bài nói nào. - Biết giao tiếp với người nghe, biết tuân thủ những nguyên tắc giao tiếp bằng ngôn ngữ là những điều người nói cần hết sức chú ý. Bởi lẽ, giao tiếp miệng là giao tiếp trực tiếp giữa người với người, vì vậy, thái độ và hành vi giao tiếp sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của lời nói..

<span class='text_page_counter'>(88)</span> - Người nói phải biết làm chủ lời nói của mình. Điều này bao gồm : giọng nói, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ…Cần phải luôn luôn tỉnh táo trong khi nói để khi thấy người nghe có những biểu hiện nào đó (đồng tình hoặc không đồng tình), thì có thể điều chỉnh ngay lời nói. Khi nói, cần hết sức khiêm tốn, thận trọng và có tinh thần trách nhiệm, coi trọng người nghe. Điều đó làm cho người nghe gần gũi hơn, tạo không khí thoải mái để tiếp nhận nội dung do người nói trình bầy. - Biết sử dụng ngôn ngữ nói một cách tinh tế. Nói khô khan, nói lí trí (mặc dù là nói chuyện khoa học) dễ làm cho người nghe phân tán tư tưởng và cũng làm cho họ dễ bị căng thẳng, chóng mệt mỏi. Vì vậy, cần có những cách nói uyển chuyển, khi dí dỏm, khi thâm trầm, khi vui tươi…sao cho sự chuyển đổi không khí của buổi nói được linh hoạt. Có như vậy, lời nói mới đạt hiệu quả giao tiếp cao. 4. Vận dụng các kĩ năng nói vào dạy học như thế nào ? Trên thực tế, hai kĩ năng nghe - nói luôn gắn liền với nhau. Vậy làm thế nào để HS tự tin hơn và đạt hiệu quả cao hơn trong khi trình bày, phát biểu suy nghĩ, ý tưởng của mình trước người khác? Dưới đây là một số gợi ý để thực hiện : - Luyện cho HS kĩ năng nghe và đáp lời, nói những câu rõ ràng, mạch lạc trong giao tiếp, khi trả lời câu hỏi trong bài học. - Luyện cho HS cách hỏi bằng những câu hỏi để có thể hiểu chính xác hơn nội dung khi nghe chưa rõ. - Luyện cho HS nghe và hiểu được theo nội dung lời nói. Tăng dần mức độ nghe đến mức hiểu và theo kịp những chỉ dẫn bằng lời nói. - Luyện cho HS chia sẻ và trao đổi những thông tin, ý tưởng với bạn bè, thể hiện ra bằng câu nói hoàn chỉnh và mạch lạc, diễn đạt chính xác để người nghe hiểu đúng suy nghĩ của mình. - Luyện cho HS biết kể một câu chuyện đã trải qua, đã nghe kể hoặc đã đọc theo kết cấu cơ bản và kết nối các sự kiện của câu chuyện bằng cách trả lời câu hỏi về Ai? Cái gì? Khi nào? Tại sao? Như thế nào? Chú ý đến các mức độ của âm thanh (sự lên giọng, xuống giọng, tốc độ…), điệu bộ, cử chỉ… - Luyện cho HS kể lại một sự kiện quan trọng trong đời sống hoặc một kinh nghiệm cá nhân bằng một cốt truyện đơn giản..

<span class='text_page_counter'>(89)</span> - Luyện cho HS trình bày những kinh nghiệm, sở thích cá nhân bằng những đoạn trình bày ngắn gọn và có chủ đề rõ ràng, bám sát chủ đề khi nói, có mở đầu và kết thúc hợp lí. - Mô tả, trình bày lại một công việc đã làm của bản thân trước nhóm hoặc cả lớp (thứ tự các bước thực hiện, kĩ thuật thực hiện, kết quả…); trình bày kết quả thảo luận của nhóm trước lớp… - Luyện cho HS biết cách đề xuất ý riêng của cá nhân khi thảo luận nhóm, khi tranh luận về một vấn đề trong nhóm hoặc tập thể lớp; hoặc đề xuất ý kiến riêng với GV. - Luyện cho học sinh có thói quen và biết cách nói những lời yêu cầu, đề nghị người khác giúp đỡ khi cần thiết. - Luyện cho HS biết cách nêu câu hỏi cho GV về bài học. Đôi khi HS muốn hỏi GV nhưng các em không biết cách diễn đạt câu hỏi hoặc nội dung câu hỏi lại không phù hợp với điều các em muốn hỏi. GV cần chú ý giúp HS hiểu rõ mục đích hỏi về ai? Nội dung gì? Biết cách diễn đạt câu hỏi cũng như sử dụng những từ để hỏi trong tiếng Việt như : Ai? Cái gì? Ở đâu? Tại sao? Như thế nào? Để làm gì?.... PHIẾU BÀI TẬP. Phiếu bài tập 2 Đọc tài liệu học tập và trình bầy các vấn đề sau : - Phân tích vai trò của hoạt động nói trong đời sống xã hội. - Những kĩ năng cơ bản để rèn luyện nói là những kĩ năng nào ? - Chỉ ra những khó khăn của học sinh DTTS khi học bài và nguyên nhân của hiện tượng : HS DTTS diễn đạt, trình bầy một vấn đề còn yếu hoặc rất khó khăn. - Đề xuất các biện pháp để giúp học sinh DTTS nói được những điều các em muốn nói..

<span class='text_page_counter'>(90)</span> Thời. Tên hoạt động. gian. 40’. Hoạt động 4: Phân tích cách thức rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc trong các môn học để đạt hiệu quả.. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. - Phát tài liệu, phiếu bài - Làm việc theo nhóm: Các - Sử dụng : tập số 3.. thành viên trong nhóm Giấy A4, A0,. - Nêu yêu cầu : Phân tích thảo luận; đề xuất các biện bút dạ, bút nguyên nhân học sinh pháp rèn luyện kĩ năng đọc mầu để thảo đọc mà không hiểu nội cho HS DTTS. môn. do. anh/chị. phụ giấy A0.. phẩm. - Sử dụng. - Nêu yêu cầu: Phân tích. các kĩ thuật. các cách thức để rèn cho. dạy học tích. HS DTTS kĩ năng đọc. cực.. - Yêu cầu các nhóm hoàn - Các nhóm xem lại kết chỉnh sản phẩm; chuẩn bị quả. làm việc của nhóm. cho việc trình bày trước mình; chuẩn bị cho việc lớp.. trình bày trước lớp. - Thảo luận - Nêu thắc mắc. - Nêu yêu cầu: Trình bày - Đại diện từng nhóm trình sản phẩm của nhóm; bày sản phẩm của nhóm Thuyết minh cách thức trước lớp. rèn luyện kĩ năng đọc - Lớp theo dõi, nhận xét, cho HS DTTS... góp ý kiến; chất vấn.. - Tóm tắt kết quả thảo - Lớp lắng nghe. 15’. sản. trách.. học.. 25’. luận và trình. dung bài học thuộc bộ - Trình bày sản phẩm trên bày. hiệu quả trong giờ dạy. 10’. Ghi chú. luận.. - Ghi chép.. - Khẳng định tính khả thi - Phản hồi, chất vấn. của những biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc cho HS DTTS..

<span class='text_page_counter'>(91)</span> - Giải đáp thắc mắc.. TÀI LIỆU HỌC TẬP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ĐỌC I. Hoạt động đọc trong đời sống xã hội - Trong đời sống xã hội, “sách báo in”, “sách báo mạng” có một vai trò vô cùng to lớn. Có thể nói sách báo là phương tiện chủ yếu để truyền lại những thành tựu văn hóa và khoa học từ thế kỉ này sang thế kỉ khác. Sách báo giúp con người ở những lứa tuổi khác nhau tìm hiểu và đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đặc biệt phải kể đến văn chương, nó giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành các lí tưởng thẩm mĩ và phẩm chất đạo đức của con người, giúp con người nhận thức hiện thực và đánh giá hiện thực theo các tiêu chuẩn của đời sống xã hội. - Ở nhà trường, công việc giảng dạy và giáo dục phần lớn dựa vào sách. Sách khoa học và văn học là những phương tiện để học sinh nhận thức về thiên nhiên, về đời sống của con người trong quá khứ và hiện tại, về phong tục, văn hóa, văn minh của các dân tộc trên thế giới. Một khi văn chương đã thực sự tác động đến tình cảm và lí trí của người đọc, nó sẽ làm nảy nở những ước mơ về một cuộc sống xứng đáng, được mọi người quý trọng và khơi dậy năng lực lao động, sức mạnh sáng tạo cho mỗi con người. Đọc tác phẩm văn chương có trình độ nghệ thuật cao, người đọc sẽ được bồi dưỡng về vốn hiểu biết, khiếu thẩm mĩ, sẽ tiếp cận được với cái đẹp trong cuộc sống và càng thêm yêu quý tiếng mẹ đẻ. - Nghệ thuật đọc và kể chuyện đã được các nhà sư phạm sử dụng rộng rãi vào việc dạy học. Bằng việc trình bầy các tác phẩm một cách có nghệ thuật, giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu được nội dung, đi vào tưởng tượng nghệ thuật, giúp học sinh nhận ra những hình tượng, những cảnh vật, những tình tiết…và biết đánh giá chúng bằng những lời lẽ thực sự đúng đắn. - Muốn làm được những công việc nói trên, không có con đường nào khác là mỗi giáo viên phải nắm vững những kiến thức cơ bản về việc đọc và phải rèn.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> luyện thật say mê, nghiêm túc để đạt được những kĩ năng đọc cần thiết. Đó chính là “cái vốn” để rèn luyện cho học sinh. II. Một vài dạng đọc Trong việc học tập ở nhà trường và trong đời sống hàng ngày, thường thấy có các dạng đọc như : đọc thầm, đọc thành tiếng, đọc nhẩm, đọc đồng thanh và đọc diễn cảm. Các dạng đọc thành tiếng, đọc nhẩm, đọc đồng thanh thường sử dụng nhiều ở các lớp đầu của bậc tiểu học. Còn đọc thầm và đọc diễn cảm là hai dạng đọc chủ yếu ở các lớp cuối của bậc tiểu học, rồi bậc trung học, bậc đại học và cả trong đời sống xã hội. 1 .Đọc thầm Đây là dạng đọc không thành tiếng do từng cá nhân thực hiện, nhằm tiếp nhận những nội dung thông tin từ các tài liệu, sách vở, báo chí… + Trong nhà trường, học sinh từ bậc tiểu học đã làm quen với việc đọc thầm. Việc đọc này bắt đầu rèn luyện các em làm quen với các văn bản viết một cách độc lập. Đến khi học hết bậc phổ thông rồi lên đại học và ra đời công tác, người ta lại càng sử dụng nhiều dạng đọc thầm. Con số thống kê cho thấy trong đời sống của người lớn có từ 95% đến 99% là “đọc thầm”. + Đối với các thầy cô giáo việc đọc nói chung và “đọc thầm” nói riêng bao giờ cũng gắn liền với mục đích học tập, bồi dưỡng nhằm mở rộng kiến thức và nâng cao tay nghề..

<span class='text_page_counter'>(93)</span> 2. Đọc thành tiếng + Đọc thành tiếng được coi là một biện pháp học tập, bởi vì nó cho phép rèn luyện sự phát triển kĩ năng đọc và nghe của học sinh dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo. + Để rèn luyện việc đoc thành tiếng có kết quả, giáo viên cần hiểu rõ cơ cấu bộ máy phát âm của con người. + Hoạt động ngôn ngữ nói chung và hoạt động đọc nói riêng là do sự điều khiển của hệ thống thần kinh trung ương (nằm ở vỏ đại não). Hệ thống phát âm gồm có 3 bộ phận : -. Phổi (gồm những cơ hô hấp và đường hô hấp : 2 phế quản và một khí quản).. -. Thanh quản (gồm những dây thanh đới).. -. Những khoang trống phía trên thanh quản (gồm thanh quản, khoang mũi, miệng, lưỡi, răng,môi).. + Bộ phận phức tạp nhất của bộ máy phát âm là thanh quản với những dây thanh đôi. Bộ phận này nằm trên khí quản ở mặt trước cổ (chỗ giữa), nó là một hệ thống xương sụn phức tạp, có những dây thanh đới ở giữa. + Khi người ta im lặng, thở bình thường, những dây thanh đới mở ra, không khí tự do đi qua khe thanh quản giữa các dây ấy. Lúc bắt đầu nói hoặc đọc, các dây thanh co giãn, luồng hơi từ phổi đẩy ra làm các dây thanh rung lên tạo thành âm thanh. + Bộ phận thứ ba của bộ máy phát âm là các khoang trống nằm trên thanh quản và là hộp cộng hưởng. Âm thanh từ thanh quản phát ra được khuyếch đại ở đây, cùng lúc phối hợp với hoạt động của các bộ phận cấu âm, tạo thành tiếng nói. + Cần phải giữ gìn bộ máy phát âm. Đây là công cụ quan trọng bậc nhất của người làm nghề dạy học. Phải thường xuyên chăm sóc, luyện tập để giọng nói, giọng đọc ngày một chuẩn xác hơn. Không nên gào thét, quát tháo ; giữ ấm cổ; đề phòng các bệnh về mũi và xoang để tranh làm hỏng bộ máy phát âm. Những hiểu biết về bộ máy phát âm của con người sẽ giúp giáo viên có thêm thuận lợi trong việc dạy học sinh “học ăn, học nói” và học tập hàng ngày..

<span class='text_page_counter'>(94)</span> 3. Đọc diễn cảm + Đọc diễn cảm là hoạt động nhằm chuyển tác phẩm bằng chữ viết sang tác phẩm bằng âm thanh một cách trung thành, giúp cho người nghe cảm thụ được đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Trong đọc diễn cảm, người đọc giữ vai trò trung gian giữa tác giả, tác phẩm với người nghe. Người đọc phải thâm nhập vào tác phẩm, phải hiểu tác giả thật tường tận trong từng ý, từng lời và hiểu được các đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm. Nếu người đọc không hiểu tư tưởng của tác giả, thì không thể biểu hiện thái độ của mình đối với tác phẩm và không thể truyền đến người nghe những điều tác giả muốn nói. Vì vậy, người đọc diễn cảm phải vừa là người nhận tin, vừa là người phát tin. + Trong đời sống hàng ngày, ta thường thấy hình thức đọc diễn cảm được sử dụng khi đọc văn, bình thơ ở các lễ hội, ở các buổi sinh hoạt văn nghệ của cơ quan, đoàn thể, ở các buổi phát thanh, truyền hình… + Trong nhà trường, đọc diễn cảm các tác phẩm văn chương là hình thức phổ biến của thầy và trò trong các giờ dạy học văn. Đọc diễn cảm giúp học sinh rèn luyện kĩ năng thâm nhập vào tác phẩm, cảm thụ được tác phẩm và truyền đạt được cho người nghe theo cách hiểu riêng. Như vậy, đọc diễn cảm là đọc thành tiếng, thể hiện được tình cảm và suy nghĩ một cách rõ ràng trong quá trình đọc. Nhìn chung, đọc diễn cảm phải đạt được những yêu cầu sau: - Khám phá được những nét đặc sắc của các hình tượng, các bức tranh nhân sinh được thể hiện trong tác phẩm. - Thể hiện được thái độ của tác giả đối với các sự kiện, các hành vi của nhân vật. - Truyền đạt được giọng điệu cảm xúc cơ bản của tác phẩm đến với người nghe. Để đạt được những yêu cầu nói trên, người giáo viên phải có những hiểu biết về những điểm cần thiết dưới đây trong việc đọc diễn cảm : a). Hiểu biết về ngắt giọng lôgic và ngắt giọng biểu cảm + Trong việc đọc diễn cảm, ngắt giọng có một vị trí đáng kể. Ngắt giọng là những chỗ ngừng giây lát khi đọc, nhưng nó không chỉ giản đơn là ngừng lại, mà nó còn là một cách để bộc lộ ý tứ của tác phẩm..

<span class='text_page_counter'>(95)</span> + Khi đọc, người ta sử dụng hai hình thức cơ bản đối với các tác phẩm văn xuôi là : ngắt giọng lôgic và ngắt giọng biểu cảm. Còn đối với thơ thì có thêm một cách nữa là ngắt giọng thi ca. * Ngắt giọng lôgic là những chỗ ngừng lại giữa các nhóm từ có ý nghĩa liên quan với nhau. Đây là hình thức được sử dụng nhiều trong lời nói của con người. Nhờ có ngắt giọng lôgic, tức là ngắt giọng theo ý nghĩa mà bài văn được hiểu một cách đầy đủ, mạch lạc hơn. Đặc biệt là ở những câu văn dài, ngắt giọng lôgic làm cho câu văn trở nên cân đối, làm rõ tính lôgic trong tư duy của tác giả. Ví dụ, hãy đọc đoạn văn sau: “Thật là tuyệt! Mấy bông hoa vàng tươi, như những đốm nắng, đã nở sáng trưng trên giàn mướp xanh mát. Cái giàn trên mặt ao soi bóng xuống làn nước lấp lánh hoa vàng. Mấy chú cá rô cứ lội quanh lội quẩn ở đó chẳng muốn đi đâu. Cứ thế, hoa nở tiếp hoa. Rồi quả thi nhau chòi ra, bằng ngón tay…bằng con chuột… rồi bằng con cá chuối to”. (Vũ Tú Nam - Giàn mướp) + Nghe đoạn văn này, ta cảm thấy cái giàn mướp được miêu tả khá đẹp. Câu có chấm cảm mở đầu đoạn văn đã định hướng cho người nghe điều ấy. Những dấu ngắt câu đòi hỏi có sự ngắt giọng dài ngắn khác nhau tùy theo mức độ hoàn chỉnh của ý để phô bầy dần cái đẹp của giàn mướp qua từng dòng, từng chữ. Chẳng hạn, dấu chấm nói rằng ý đã hết, vì thế cần phải nghỉ dài hơi hơn dấu phẩy là dấu được đặt vào khi lời văn mới có một phần hoàn chỉnh nhưng vẫn còn tiếp tục. Sau dấu phẩy chỉ nghỉ ngắn vì ý chưa hết. Đặc biệt, những dấu chấm lửng (…) mang đầy sức biểu hiện trong đoạn văn. Người đọc không thể đọc liền ngay một mạch, mà phải ngừng một chút khi đọc tới những chấm lửng này để truyền đạt sự chuyển biến của thời gian về sự sinh sôi, phát triển rất ngộ nghĩnh của từng trái mướp đáng yêu. + Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng dấu chấm cũng có thể biểu thị mức độ nghỉ dài ngắn khác nhau. Dấu chấm giữa các câu chỉ nói rằng mới có một ý về điều đang trình bầy là trọn vẹn, cho nên phải ngắt giọng ngắn hơn. Dấu chấm của những đoạn riêng biệt có ý nghĩa hơi khác một chút : nó báo hiệu một ý nhỏ hoặc một cảnh đã hết, nên phải ngắt giọng dài hơn. Còn dấu chấm ở cuối bài biểu hiện sự kết thúc một ý lớn thì được ngắt giọng dài hơn cả..

<span class='text_page_counter'>(96)</span> Độ dài của ngắt giọng đôi khi còn phụ thuộc vào tốc độ đọc. Nếu đọc nhanh, thì quãng ngắt giọng ngắn lại, nếu đọc chậm, thì quãng ngắt giọng dài ra. Từ những điều nói trên, ta có thể rút ra mấy kết luận như sau : - Dấu phẩy lôgic gắn liền với việc lên giọng, tức là một quãng ngắt cho thấy lời văn vẫn còn tiếp diễn, quãng ngắt này gắn liền với việc lên giọng. - Dấu chấm lôgic gắn liền với việc hạ giọng, tức là một quãng ngắt dùng để kết thúc một câu hoặc một ý. - Dấu chấm phẩy hầu như không làm thay đổi độ cao của giọng, mà chỉ hạ giọng xuống một chút. Về mức độ, dấu này nằm giữa dấu phẩy và dấu chấm, vì thế, nó không có biểu hiện lên giọng như dấu phẩy và xuống giọng như dấu chấm. - Dấu hai chấm cũng làm xuống giọng một chút. - Dấu chấm lửng không làm cho giọng đọc lên cao hoặc xuống thấp, nó giữ giọng ở mức trung bình. Như vậy là dấu ngắt câu thường chỉ ra chỗ kết thúc của một đoạn câu và nó cũng chỉ ra chỗ cần thiết phải ngắt giọng. Đó chính là những biểu hiện của ngắt giọng lôgic. *Ngắt giọng biểu cảm + Nếu ngắt giọng lôgic là phương tiện truyền đạt ý nghĩa của tác phẩm, thì ngắt giọng biểu cảm một phương tiện tác động đến tình cảm của người nghe. Ngắt giong lôgic thiên về mặt trí tuệ, ngắt giọng biểu cảm thiên về mặt cảm xúc, tình cảm. Sự im lặng đôi khi cũng có tác dụng truyền cảm, góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao, đó chính là ngắt giọng biểu cảm, ngắt giọng có dụng ý nghệ thuật. + Ngắt giọng biểu cảm bắt nguồn từ trạng thái tâm hồn của người đọc, nó được xác định bằng thái độ của người đọc đối với những điều phát ra, nó phản ánh hoạt động sáng tạo của người đó. Sự ngắt giọng này không phụ thuộc vào các dấu câu, mà có thể đặt vào bất kì chỗ nào trong câu : đầu câu, giữa câu, cuối câu. Nó có thể trùng hoặc không trùng với những dấu ngắt câu. Muốn sử dụng nó phải có lí do về tính chất tình cảm của nội dung tác phẩm. Ta có thể thấy rõ điều này qua ví dụ sau đây : “Khi bọn Đức vào làng, Iura ở lại cùng với mẹ, cha và anh của em đã gia nhập Hồng quân. Bọn Đức ra lệnh cho hai mẹ con phải chuyển sang ở phòng nhỏ để nhường phòng lớn cho tên sĩ quan phát xít..

<span class='text_page_counter'>(97)</span> Một lần, Iura bước ra khi tên sĩ quan đang ngồi uống cà phê dưới gốc cây lê. Tên sĩ quan hỏi : -. Thằng nhóc tên gì ?. -. Iura.. -. Mày là Đội viên hả ?. -. Phải.. -. Thế khăn quàng của mày đâu ?. -. Trong hòm.. -. Tại sao trong hòm ? Sao mày không đeo ?. -. Vì không thể quàng khăn trước mặt bọn phát xít. Cần phải giữ gìn nó chờ khi quân của chúng tao trở về.. Tên sĩ quan tái mặt. Tay nó run rẩy. Nhưng nó tự ghìm mình, tiếp tục tỏ ra là một tên lính ngây thơ, không quan tâm đến chính trị. -. Ăn kẹo mày !. -. Tao không ăn kẹo của chúng mày.. -. Tại sao ?. -. Bởi vì tao căm thù bọn phát xít chúng mày.. Tên sĩ quan trố mắt nhìn em bé. Nó đặt tách cà phê xuống bàn và đứng dậy. -. Iura, mày sẽ làm gì, nếu tao đưa cho mày khẩu súng ngắn của tao ?. -. Nạp đạn rồi à ?. -. Rồi.. -. Tao sẽ giết mày.. Tên sĩ quan lập cập rút súng ra // và bắn vào trái tim em bé”. (Xukhômlinxki – Trích : Giáo dục những người chân chính như thế nào ?) + Câu chuyện có diễn biến nhanh, cuốn hút người đọc theo từng dòng, từng chữ. Ai cũng muốn đọc gấp cho đến những chữ cuối cùng. Nhưng dòng cuối cùng chỉ đọc lướt nhanh thì sắc thái biểu cảm sẽ giảm đi rất nhiều. Nếu tạo ra một chỗ ngắt giọng giữa câu, trước những từ “bắn vào trái tim em bé” sẽ làm cho người.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> nghe hồi hộp, kích thích người nghe, trí tưởng tượng và sự chú ý của người nghe phải tập trung căng thẳng và cố gắng hình dung tên sĩ quan phát xít sẽ làm gì. Chỗ ngắt ở giữa câu như để có thời gian ngưng đọng cho người nghe thấy hết sự tàn bạo của tên sĩ quan phát xít, sự nguy hiểm sẽ đến với em bé và chuẩn bị cho người nghe đón nhận một nỗi đau thương, một sự căm hờn vụt đến. Ngắt giọng ở giữa câu đã tăng thêm sức gợi cảm, nó là chỗ để người đọc suy tưởng và khơi dậy sự hưởng ứng tương tự ở người nghe. Đó là cách ngắt gây căng thẳng, buộc người nghe phải chú ý. + Muốn cho chỗ ngắt giọng không phải là chỗ nghỉ trống rỗng, mà là chỗ ngắt thể hiện được tình cảm, người đọc phải ngắt sao cho tự nhiên. Chỗ ngắt cũng như giọng đọc phải chứa đựng biểu tượng, suy nghĩ và tình cảm của người đọc. + Ngắt giọng biểu cảm tác động mạnh đến người nghe, vì vậy, không nên lạm dụng nó. Người đọc phải áp dụng thật tự nhiên. Khiếu thẩm mĩ nghệ thuật sẽ gợi ý cho người đọc mức độ tình cảm trong việc sử dụng ngắt giọng. Nếu sử dụng nhiều lần mà thiếu cơ sở tình cảm, nó sẽ mất đi sức sắc bén, nó không làm cho nội dung thêm sâu sắc, mà ngược lại, còn làm mất đi tính nhất quán của tác phẩm. + Khi trình bầy xong bài đọc về một tác phẩm cũng rất cần phải có ngắt giọng. Phải tạo điều kiện cho người nghe vẫn còn chịu ảnh hưởng của tác phẩm mới nghe, sao cho họ vẫn còn vương vấn những dư âm của tác phẩm. Nếu người đọc đột nhiên cắt đứt câu chuyện, không biết tạo ra một quãng ngắt biểu cảm cần thiết, thì câu kết sẽ mất đi ý nghĩa của nó và ấn tượng về tác phẩm cũng sẽ yếu đi. *Ngắt giọng thi ca - Đọc thơ có vị trí đặc biệt đối với việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Thơ làm giàu thế giới tinh thần của các em, dạy cho các em thấy được cái đẹp của thiên nhiên, của lao động động sáng tạo và của trí tuệ con người. Thơ cũng đem lại cho các em cái nhạy bén của tình cảm, cái diệu kì của âm thanh, cái nhịp điệu, cái tinh hoa của ngôn từ. - Tiết tấu của bài thơ, âm vang của vần điệu, sự hài hòa của âm thanh là những tín hiệu nhằm diễn đạt nội dung thơ mà người ta chỉ có thể cảm nhận được thông qua việc đọc thành tiếng. Vì thế, đọc diễn cảm là một biện pháp quan trọng trong việc dạy học thơ. Bằng cách đọc của mình, giáo viên có thể truyền cho các.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> em cái vui tươi, cái đằm thắm của mỗi bài thơ. Nhờ vào cách đọc của giáo viên, các em có thể cảm nhận, hiểu biết và thuộc lòng những bài thơ được học. - Đọc diễn cảm ở các giai đoạn khác nhau là để xem các em đã nhận thức đến mức nào về ý nghĩa chính của bài thơ từ những cảm xúc, những hình ảnh riêng lẻ đến hình tượng thơ trọn vẹn của toàn bài. Để các em đọc thơ tốt thì khâu chuẩn bị của giáo viên cho từng bài đọc là rất cần thiết. Giáo viên cần giải thích những từ khó, xác định tốc độ, hình thái tiết tấu, tính biểu cảm của ngữ điệu và đọc thành tiếng nhiều lần. - Thêm vào đó, muốn dạy học thơ có hiệu quả thì ngoài việc phải hiểu biết đặc điểm tâm lí, sinh lí của học sinh, giáo viên còn phải nắm được những nét đặc trưng của thơ và trình tự tiến hành đọc thơ. + Những nét đặc trưng của thơ cần biết gồm có : dòng thơ, nhịp thơ, vần thơ, thể thơ. + Trình tự tiến hành dạy đọc thơ gồm các bước sau : . Chuẩn bị nhận thức hình tượng (tham quan, vẽ tranh, đàm thoại, phát triển tự do), mục đích là để tạo ra những biểu tượng, cho phép nhận thức đúng và rõ ràng hình tượng cảm xúc về cảnh, về tình của bài thơ. . Giáo viên đọc thành tiếng, diễn cảm ở lớp và kiểm tra sơ bộ xem học sinh đã nhận thức đúng và rõ ràng hình tượng đến mức nào. . Đọc bài thơ theo từng dòng, từng đoạn : khám phá, phân tích từng chi tiết, từng hình ảnh của toàn bộ bức tranh mà bài thơ đề cập đến. Lưu ý không những đến ý nghĩa của từng từ ngữ, mà cả đến tính chất gợi cảm của nó nữa. . Tiến hành đàm thoại có tính chất tổng hợp. Mục đích là dựng lại bức tranh, phát hiện quan hệ của tác giả đối với nó và so sánh nó với những cảm xúc trước những hiện tượng tự nhiên tương tự. . Minh họa bằng ngâm thơ hoặc lời phát biểu tự do về bài thơ. . Đọc diễn cảm (từng khổ, rồi toàn bài). . Chỉ dẫn về cách học thuộc lòng bài thơ hoặc tiến hành học thuộc lòng ngay tại lớp. Tất nhiên, trình tự nêu trên có thể thay đổi tùy theo quy mô, đặc điểm nội dung của bài thơ và đặc điểm lứa tuổi của học sinh. Giáo viên cần vận dụng thật linh hoạt để việc đọc thơ mang lại kết quả mong muốn..

<span class='text_page_counter'>(100)</span> Những điều đã trình bầy trên đây đều phù hợp hoàn toàn với việc đọc diễn cảm văn xuôi cũng như thơ, cho dù có những đặc điểm rất riêng đi nữa. b). Hiểu biết về tốc độ và tiết tấu - Tốc độ đọc (mức độ nhanh chậm khi phát âm) cũng ảnh hưởng đến sự diễn cảm. Yêu cầu cơ bản của tốc độ đọc diễn cảm là làm sao cho vừa tầm với tốc độ của lời nói. Đọc nhanh quá hoặc chậm quá đều có ảnh hưởng đến cảm nhận của người nghe. Tuy nhiên, cũng tùy theo văn cảnh mà tốc độ đọc sẽ thay đổi nhanh hay chậm cho thích hợp với nội dung. Thay đổi tốc độ đọc cũng là biện pháp tốt để làm cho ngôn ngữ sinh động, có màu sắc, nhất là khi đọc các đoạn văn đối thoại. - Tiết tấu rất cần được chú ý khi đọc thơ. Tính đều đặn của các chu kì hơi thở xác định cách đọc có tiết tấu cho từng trường hợp cụ thể, nhưng nhất thiết phải xuất phát từ nội dung tác phẩm. c). Hiểu biết về ngữ điệu + Trong nghĩa rộng của khái niệm này, bao gồm việc sử dụng tất cả các thủ pháp diễn cảm : chỗ ngừng, tốc độ và tiết tấu được thống nhất lại thành một tổ hợp nhằm phản ánh đúng nội dung của tác phẩm. Tổ hợp ấy nhằm phản ánh đúng thái độ của tác giả đối với những hành động hay sự kiện được mô tả : đồng tình, phản đối, mỉa mai, thán phục, lo lắng, khinh bỉ hoặc những cảm xúc và đánh giá khác nữa….Tổ hợp ấy cũng thể hiện rõ nhất nội dung của tác phẩm qua âm điệu của ngôn ngữ, tức là cất cao hay hạ thấp giọng đọc. Những thay đổi về giọng đọc như vậy gọi là ngữ điệu (theo nghĩa hẹp của khái niệm). Ngữ điệu thường được hạ thấp ở cuối các câu tường thuật; cất cao ở các trung tâm ý nghĩa của câu nghi vấn; cất cao rồi hạ thấp nhanh ở chỗ có dấu gạch ngang; nâng cao đều đều khi liệt kê các thành phần cùng loại… + Những hiểu biết như đã trình bày ở trên sẽ giúp ích rất nhiều cho giáo viên. Sự diễn cảm chỉ đạt được tính chân thật, sinh động và phong phú khi giáo viên có được khả năng truyền đạt cho học sinh những xúc động, những tình cảm… do chính giáo viên cảm nhận được. Việc ấy chỉ có thể thực hiện được với điều kiện là giáo viên tự nhận thức sâu sắc nội dung tác phẩm và biết lựa chọn cách diễn đạt thích hợp đối với học sinh. III. Các kĩ năng đọc cần rèn luyện.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> Để đọc có hiệu quả, người đọc ngoài việc phải có những hiểu biết về các dạng đọc (đọc thầm, đọc thành tiếng, đọc diễn cảm), hiểu biết về cách ngắt giọng (ngắt giọng lôgic, ngắt giọng biểu cảm, ngắt giọng thi ca), hiểu biết về tốc độ, tiết tấu, ngữ điệu và những hiểu biết về cách đọc các tác phẩm theo loại thể, còn phải rèn luyện để biến những hiểu biết thành những kĩ năng thực sự. Cụ thể, cần rèn luyện những kĩ năng sau : 1. Biết nắm bắt nhanh chóng tư tưởng cơ bản của một tác phẩm văn học nghệ thuật. Đó là cái nền để trên đó người đọc dựng lên những bức tranh, phân định các sự kiện và bày tỏ thái độ với từng nhân vật tham gia vào sự kiện đó. 2. Biết vận dụng các loại ngữ điệu vào việc đọc. Làm cho các tình tiết, ý tứ truyền đạt được sáng sủa, sinh động và tăng thêm sức thuyết phục. 3. Biết sử dụng cường độ của giọng đọc một cách hợp lí, tức là biết điều khiển độ vang, độ hoàn chỉnh của giọng, tạo ra các cung bậc cao – thấp, to – nhỏ trong quá trình đọc. 4. Biết sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ (tư thế, nét mặt, cử chỉ) cho thật hài hòa để tăng thêm hiệu quả cho việc đọc. IV. Vận dụng các kĩ năng đọc vào dạy học như thế nào ? Trong nhà trường, học sinh đọc các tài liệu giáo khoa để phục vụ cho học tập. Việc tiếp xúc với các loại văn bản (về văn chương, về khoa học chứa đựng các thuật ngữ khoa học, cách trình bày một định lí, định luật,…) trong chương trình học, vốn kiến thức ngôn ngữ, văn học, khoa học, nghệ thuật… của các em sẽ dần dần tăng lên. Vốn từ vựng và ngữ pháp của các em cũng ngày một phong phú, vững vàng, có tác dụng tích cực cho việc rèn luyện tư duy, rèn luyện kĩ năng diễn đạt mạch lạc, trong sáng cả khi nói lẫn khi viết. Để giúp học sinh đọc có hiệu quả, cần thực hiện những yêu cầu sau : 1. Thực hiện một số hoạt động trước khi cho học sinh đọc: + Nêu mục đích, yêu cầu của việc đọc để giúp học sinh đọc tốt hơn. + Xác định và luyện đọc một số từ khó đọc (do cấu trúc âm tiết khó đọc) để học sinh không bị vấp khi đọc..

<span class='text_page_counter'>(102)</span> + Xác định và luyện đọc một số câu dài, có cấu trúc khó trong bài (cấu trúc nguyên nhân - kết quả, điều kiện - kết quả; câu cảm thán, đoạn có lời thoại…). + Giải thích một số từ vựng chủ chốt trong bài (từ mới, từ có nghĩa trừu tượng, thuật ngữ khoa học…). 2. Rèn luyện những kĩ năng đọc cho học sinh a). Luyện đọc các loại văn bản khác nhau Trong học tập, học sinh phải đọc rất nhiều loại văn bản khác nhau: văn bản nghệ thuật, hành chính, khoa học, báo chí,… Mỗi loại văn bản thường thuộc về một phong cách nhất định, mang những đặc điểm riêng. Vì vậy, học sinh cần lựa chọn cách đọc, giọng đọc phù hợp với thể loại của văn bản. Chẳng hạn, đọc văn chính luận phải mạnh mẽ hùng hồn, phản ánh rõ chính kiến của người viết đối với vấn đề được đưa ra bàn bạc, tạo được sự thuyết phục đối với người nghe; đọc văn bản nghệ thuật phải truyền được cảm xúc, thái độ của tác giả đối với các sự kiện, nhân vật được đề cập trong tác phẩm và khiến cho người nghe bị lôi cuốn; đọc các văn bản thuyết minh, khoa học, hành chính… phải rõ ràng, mạch lạc, sao cho người nghe dễ theo dõi nội dung trình bầy trong văn bản… b). Luyện kĩ năng đọc thầm - Khi đọc thầm, do không phải phát ra thành tiếng, thành lời, nên người đọc đỡ hao phí sức lực, đỡ mệt mỏi hơn. - Đọc thầm không phải đọc lần lượt tất cả các chữ mà có thể đọc lướt nên tốc độ đọc thầm nhanh hơn đọc thành tiếng. - Đọc thầm giữ nguyên được sự yên tĩnh, không làm ảnh ưởng tới suy nghĩ, tới công việc của người khác khi làm việc trong cùng một không gian hẹp. - Đọc thầm cho phép người đọc có điều kiện tập trung tư tưởng theo dõi văn bản khi đọc và có thể đọc đi đọc lại những câu chữ mà mình chưa hiểu, giúp người đọc nắm chắc nội dung văn bản. c). Luyện kĩ năng đọc thầm, đọc lướt để nắm bắt thông tin - Đọc thầm, đọc lướt bằng mắt để nhận biết nội dung thông tin có trong văn bản. Đọc thầm vì không cần phát âm thành tiếng nên tốc độ đọc thường nhanh hơn so với đọc thành tiếng. Trong đời sống của người lớn, từ 95% đến 99% là đọc thầm, nên việc dạy học đọc thầm cho học sinh trong nhà trường không phải chỉ là.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> việc rèn luyện cho các em một năng lực học tập, mà quan trọng hơn, còn rèn luyện cho các em một năng lực hoạt động trong cuộc sống. - Chất lượng của việc đọc thầm sẽ được đánh giá qua chất lượng của việc HS trả lời các câu hỏi/ yêu cầu: đọc lướt để trả lời câu hỏi; đọc lướt để lấy thông tin chính trong mỗi đoạn; đọc lướt để tóm tắt nội dung của từng đoạn, của bài đọc… - Các thành tựu nghiên cứu của tâm lí học đã chỉ ra rằng độ dẫn thông (nhận và truyền thông tin) của các giác quan con người có sự khác nhau. Tuy nhiên việc đọc chóng mệt mỏi hơn việc nghe nhưng độ dẫn thông của mắt lại gấp 100 lần của tai. Khi đọc, cơ quan thị giác của con người phải lướt nhanh từ dòng chữ này sang dòng chữ khác nên việc đọc văn bản dài, đọc lâu là hết sức khó khăn. Hơn nữa, việc dịch chuyển các dòng chữ trên trang sách không ai giống ai. Có người dịch chuyển nhanh, có người dịch chuyển chậm; có người bao quát được một số lượng con chữ nhiều, có người lại bao quát được một số lượng con chữ ít… Và trên thực tế, có người đọc xong là nhớ và duy trì được độ nhớ trong suốt quá trình đọc văn bản, có những người vừa đọc đã quên. Cho nên đọc một phần, một đoạn lại phải dừng để nhớ lại, “hồi tưởng” lại những điều vừa đọc. Vì vậy, rèn luyện kĩ năng đọc lướt giữ vai trò hết sức quan trọng. Giáo viên có thể sử dụng một số hình thức bài tập giao cho học sinh đọc lướt với các yêu cầu tăng dần. Ví dụ, trong thời gian nhất định (5 phút, 10 phút) đọc thầm và đọc lướt một văn bản có độ dài, độ khó phù hợp với trình độ của các em với những yêu cầu sau : + Đọc và nói đại ý, nội dung chính của văn bản. + Đọc và viết lại ý chính của từng đoạn trong văn bản; lập lại dàn ý của toàn văn bản. + Đọc và tóm tắt một văn bản khoa học hoặc tự sự. + Đọc và kể lại cái đã đọc. d). Luyện kĩ năng đọc và tìm hiểu ý nghĩa của bài văn, bài thơ: Việc đọc để đạt được chất lượng cao phải được học sinh thực hiện một cách có ý thức. Đó là việc đọc và hiểu một cách sâu sắc về nội dung của bài văn, bài thơ. Kĩ năng này được hình thành trên cơ sở hiểu biết ý nghĩa của từng từ ngữ, ý nghĩa của từng câu, xác định được các quan hệ lôgic giữa các phần của văn bản. Có thể luyện cho học sinh thực hành những việc sau:.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> - Đọc và phát hiện các từ ngữ, hình ảnh, hoặc chi tiết có ý nghĩa trong bài văn, bài thơ, trích đoạn kịch; chi tiết có giá trị nghệ thuật (Theo những câu hỏi gợi ý, định hướng của giáo viên). - Đọc và nhận xét về nhân vật, về hình ảnh, hoặc cách sử dụng từ ngữ cũng như tình cảm và thái độ của tác giả (Theo những câu hỏi gợi ý, định hướng của giáo viên). e). Luyện kĩ năng đọc và tra cứu một số sách công cụ như : Từ điển các loại, Sổ tay từ ngữ, ngữ pháp… để tìm và ghi chép thông tin phục vụ bài học. g). Luyện kĩ năng đọc và nhận biết nội dung ý nghĩa của các kí hiệu, số liệu, biểu đồ, bản đồ có trong các bài học về địa lí, lịch sử… PHIẾU BÀI TẬP. Phiếu bài tập 3 Đọc tài liệu học tập và thực hiện công việc sau : - Hãy chỉ rõ đặc trưng của từng dạng đọc. - Các kĩ năng đọc phải rèn luyện cho học sinh là những kĩ năng nào ? - Phân tích những cách thức để rèn kĩ năng đọc cho HSDT trong môn học do anh/chị phụ trách.. Thờ. Tên hoạt động. i. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Ghi chú. gian Hoạt động 5: 30’. - Phát tài liệu, phiếu bài - Làm việc theo nhóm: - Sử dụng :. Chọn một bài tập số 4.. Soạn bài (soạn một đến SGK, SGV,. học và thiết kế - Nêu yêu cầu: Mỗi nhóm hai hoạt động), nhóm giấy A0, bút các. hoạt. động chọn một bài học và thiết thảo luận và trình bày dạ, bút mầu. dạy học để rèn kế các hoạt động để rèn sản phẩm trên giấy A0.. để soạn bài. các kĩ năng nghe, các kĩ năng nghe, nói,. và trình bày.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> nói, đọc, viết cho đọc, viết.. sản phẩm.. học sinh dân tộc.. - Sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực Yêu cầu các nhóm hoàn - Các nhóm xem lại kết. 30’. thiện sản phẩm.. quả. làm. việc. của. nhóm. - Đại diện từng nhóm trình bày sản phẩm của nhóm trước lớp. - Lớp nghe, nhận xét, bổ sung, chất vấn. - Tóm tắt kết quả thảo - Lắng nghe, ghi chép, 15’. luận của các nhóm và chốt phản hồi. lại từng vấn đề của bài học. - Tổng kết bài.. 15’. - Viết nội dung phản Thu. phiếu. - Yêu cầu: Phản hồi về nội hồi vào trong phiếu phản hồi. dung và các hoạt động tập của ban tổ chức lớp tập huấn trong ngày. - Giải đáp thắc mắc.. huấn..

<span class='text_page_counter'>(106)</span> TÀI LIỆU HỌC TẬP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT 1. Hoạt động viết trong đời sống xã hội - Trong cuộc sống của con người, viết là một hoạt động được diễn ra thường xuyên, liên tục. Viết các loại văn bản được coi như một dòng chảy kéo dài từ quá khứ cho đến hiện tại. Những biến cố lịch sử, những kinh nghiệm, những bài học về tự nhiên, về xã hội, về tư duy…đều do viết mà lưu truyền từ thời đại này qua thời đại khác và nó vẫn không ngừng tiếp diễn…Viết quả là một hoạt động vô cùng quan trọng của xã hội loài người. - Viết được coi là một dạng hoạt động giao tiếp cơ bản. Trong quá trình dạy học, dạng hoạt động viết luôn được xem là một phương tiện cần thiết để hỗ trợ cho việc hình thành các kĩ năng giao tiếp khác. - Việc sản sinh văn bản viết có nhiều khâu trùng với quá trình sản sinh lời nói miệng. Bởi vì chúng đều là những hoạt động ngôn ngữ chủ động, nhưng người viết thực hiện hoạt động trong những điều kiện giao tiếp khác với người nói. Sự khác biệt đó là do người viết không có người đối thoại trực tiếp hoặc không có đối tượng giao tiếp cụ thể. Cho nên, việc định hướng phát ngôn trên văn bản là khá tự do và chủ yếu dựa vào sự tưởng tượng chủ quan của người viết. - Người viết không dựa được vào những phương tiện biểu đạt ngoài ngôn ngữ như : cử chỉ, điệu bộ, môi trường giao tiếp…nên phải lựa chọn kĩ càng phương tiện ngôn ngữ để diễn đạt sao cho người đọc hiểu được đúng ý của mình. Tuy nhiên, người viết lại có lợi thế về thời gian để cân nhắc, đắn đo, tìm kiếm ngôn từ, kể cả việc viết đi viết lại nhiều lần, cốt sao để biểu đạt cho thật chính xác ý định của mình. Tóm lại, viết là một kĩ năng giao tiếp. Muốn hình thành kĩ năng này, dù là ở mức độ nào, cũng đòi hỏi phải tổ chức cho học sinh thực sự được luyện tập hoạt động viết với những nội dung giao tiếp phù hợp. 2. Làm thế nào để giúp học sinh viết có hiệu quả? Dưới đây, có thể nêu một số gợi ý :.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> - Luôn nhắc nhở học sinh những câu hỏi khi cầm bút viết : Viết về chủ đề gì? Viết nhằm mục đích gì ? Viết như thế nào ? Có thể cho học sinh nói ý tưởng của mình về nội dung của bài viết. Giáo viên hướng dẫn, đưa ra những câu hỏi gợi ý xem các em sẽ viết như thế nào. Nên cho học sinh tập nói trước khi viết thành bài. - Cần xây dựng dàn ý cho bài viết. Để trình bầy một vấn đề được trọn vẹn, cần có một dàn ý với những phần cốt yếu của một bài làm văn, gồm : Đặt vấn đề, Giải quyết vấn đề và Kết thúc vấn đề. - Cần giúp học sinh sử dụng được các kiểu câu, các loại văn bản, đặc biệt là văn bản nghị luận ở cấp Trung học cơ sở. - Khơi gợi vốn kiến thức đã có của học sinh về các môn học; giúp các em viết bài, làm bài kiểm tra theo những vấn đề nhất định của từng môn học với những cách diễn đạt phù hợp. - Biết huy động vốn từ ngữ liên quan đến chủ đề cần viết (sử dụng được những từ ngữ có tính chất miêu tả khi nói về con người, nơi chốn, đồ vật, sự kiện…; những thuật ngữ khoa học khi trình bày về một vấn đề; những từ ngữ thể hiện cảm xúc; cách thức lập ý, lập luận…). - Khi làm văn nghị luận, cần biết cách sắp xếp các luận điểm, luận cứ; cách triển khai một luận điểm, luận cứ; cách trình bày mạch lạc để chuyển tải nội dung (lựa chọn cách diễn đạt để truyền đạt thông tin; nhấn mạnh các ý quan trọng để làm nổi bật vấn đề cần viết). - Dành thời gian cho học sinh viết độc lập và hoàn thành bài viết (có thể làm bài ở lớp hoặc ở nhà). - Chấm và chữa bài : Giáo viên cần dành thời gian thỏa đáng để chấm và chữa bài cho học sinh. Có thể cho các em cùng xem và chữa bài cho nhau theo hình thức cặp, nhóm. Giáo viên hỗ trợ bằng cách đưa ra những câu hỏi để giúp các em tự tìm ra lỗi, tự sửa lỗi câu, chữ, cách diễn đạt cho mình và cho bạn. Nên có những nhận xét, đánh giá, động viên (nhất là đối với các em học yếu) để học sinh rút kinh nghiệm cho các bài viết tiếp theo..

<span class='text_page_counter'>(108)</span> PHIẾU BÀI TẬP. Phiếu bài tập 4 - Xem lại các tài liệu về nghe, nói, đọc, viết. - Chọn một bài học theo bộ môn của Thày/Cô và thiết kế các hoạt động để rèn các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho HS DTTT ở THCS vùng khó khăn nhất..

<span class='text_page_counter'>(109)</span> BÀI 3 MỞ RỘNG VỐN TỪ CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT I. MỤC TIÊU Sau bài này, NTG có khả năng : Kiến thức: Biết được cách hỗ trợ HS DTTS khi tiếp cận với các thuật ngữ khoa học, các từ chìa khóa trong từng bài để hiểu nội dung bài học. Kĩ năng: Có khả năng thiết kế các hoạt động phù hợp trong từng bài học cụ thể để mở rộng vốn từ tiếng Việt, rèn kĩ năng trình bày một vấn đề trong môn học cho HS DTTS. Thái độ: Có ý thức thường xuyên mở rộng vốn từ tiếng Việt cho HS DTTS trong các giờ học. II. TÀI LIỆU VÀ THIẾT BỊ DẠY HỌC - Người hướng dẫn: + Kế hoạch bài tập huấn, tài liệu học tập, phiếu bài tập. + Giấy A0, giấy A4, bút dạ, băng dính, giấy bìa mầu, kéo. + Máy chiếu, màn chiếu (nếu điều kiện cho phép). - Người tham gia : SGK, SGV, Giáo án,… III. PHƯƠNG TIỆN ĐÁNH GIÁ - Thông qua các sản phẩm làm việc của nhóm; - Các nội dung trình bày của cá nhân và nhóm trước lớp. IV. KẾT QUẢ MONG ĐỢI NTG biết được cách hỗ trợ HSDT trong mỗi bài học, biết thiết kế các hoạt động phù hợp để giúp học sinh hiểu nội dung bài học; mở rộng vốn từ; biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp trình bày một vấn đề trong môn học..

<span class='text_page_counter'>(110)</span> V. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Thời. Tên hoạt động. gian Hoạt động 1: 50’. Tìm hiểu thực. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Ghi chú. Nêu yêu cầu: Trình bày về - Chia sẻ những thông tin - Sử dụng : thực trạng sử dụng từ ngữ và cá nhân.. trạng sử dụng từ sử dụng câu trong hoạt động - Các nhóm thảo luận.. SGK, SGV, giấy A0, bút. ngữ của học sinh giao tiếp của HSDT ở trường - Trình bày những biểu dạ, bút mầu DTTS vùng khó. mình. Mỗi thành viên trình hiện của thực trạng sử để soạn bài. khăn nhất.. bày một ý kiến về một nội dụng từ ngữ của học sinh và trình bày dung cụ thể. (Các minh DTTS.. sản phẩm.. chứng cần lấy từ thực tiễn - Đề xuất các biện pháp - Sử dụng dạy hoc của NTG).. khắc phục. các kĩ thuật dạy học tích cực.. - Cho các nhóm trưng bày sản - Các nhóm nhận xét về 35’. phẩm.. sản phẩm của nhau.. - Nhận xét các ý kiến được - Thảo luận về các biện trình bày trước lớp về thực pháp khắc phục những trạng sử dụng từ ngữ của học điểm còn bất cập trong sinh DTTS vùng khó khăn thực tế sử dụng từ ngữ của nhất. HS DTTS vùng khó khăn nhất.. Kết luận chung: 35’. Nhận xét - Lắng nghe, Ghi chép. các ý kiến được trình bày - Nêu thắc mắc (nếu có). trước lớp về thực trạng sử dụng từ ngữ của học sinh DTTS vùng khó khăn nhất. - Khẳng định tính khả thi của các biện pháp khắc phục những điểm còn bất cập trong.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> thực tế sử dụng từ ngữ của HS DTTS vùng khó khăn nhất.. Thời. Tên hoạt động. gian Hoạt động 2: 40’. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. - Nêu vấn đề: Sau khi học - Đọc tài liệu :. Ghi chú - Sử dụng :. Mở rộng vốn xong Tiểu học, số lượng từ Phương pháp mở rộng SGK, SGV, từ cho học sinh của HSDT ở bậc THCS đã vốn từ.. giấy A0, bút. DTTS vùng khó tăng lên một cách đáng kể. - Thảo luận nhóm : Đề dạ, bút mầu khăn nhất. Tuy nhiên, số lượng từ đó xuất các biện pháp mở để soạn bài vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu rộng vốn từ cho HS và trình bày giao tiếp thường ngày của DTTS vùng khó khăn sản phẩm. các em. Nhiều lúc, do nội nhất. dung giao tiếp mở ra quá. - Sử dụng. rộng hoặc nội dung giao tiếp. các kĩ thuật. lại tinh tế thì các em tỏ ra bất. dạy học tích. lực vì vốn từ còn hạn hẹp.. cực.. Bởi vậy, việc cung cấp cho các em một vốn từ cần thiết phục vụ cho việc tiếp cận với các văn bản thông dụng là điều không thể không quan tâm. 20’. Yêu cầu: Tập hợp ý kiến. - Các thành viên trong lớp. thành các nhóm giống nhau. thảo luận và nêu ý kiến. và khác nhau về việc mở. bàn bạc, tranh luận.. rộng vốn từ cho HS DTTS. 30’. Nêu vấn đề : Trong mỗi bài - Làm việc nhóm. học, thầy/cô sẽ chọn những - Nêu rõ những từ ngữ loại từ ngữ nào để giải thích thường gặp trong các bài.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> cho HSDT, nhằm mở rộng học và cách thức mở vốn từ, giúp các em hiểu văn trộng vốn từ cho HS bản tốt nhất?. DTTS.. Yêu cầu: Các nhóm thảo. - Làm việc nhóm. Sau. luận, trình bày sản phẩm. khi bàn bạc xong, các nhóm cử đại diện lên trình bày trước lớp. - Các nhóm khác bố sung ý kiến, chất vấn.. 30’. Kết luận chung:. - Lắng nghe.. - Vai trò của việc mở rộng - Phản hồi. vốn từ cho HS DTTS. - Khẳng định tính khả thi của các biện pháp mở rộng vốn từ cho HS DTTTS do các nhóm đề xuất. TÀI LIỆU HỌC TẬP Tài liệu số 1 PHƯƠNG PHÁP MỞ RỘNG VỐN TỪ - Sự phát triển trí tuệ của học sinh tỉ lệ thuận với việc mở rộng vốn từ ngữ của các em. Vốn từ ngữ phong phú, đa dạng là điều kiện hết sức thuận lợi để học sinh tiếp thu các kiến thức khoa học và tổ chức giao tiếp một cách thuận lợi. Chính vì vậy, mở rộng vốn từ cho HSDT là việc quan trọng cần phải tiến hành thường xuyên, liên tục nhưng không thể làm cấp tập, ngay một lúc, mà phải thực hiện dần dần, theo đúng tiến trình định trước một cách có theo dõi, đánh giá và điều chỉnh. - Từ ngữ được tích luỹ trong bộ nhớ của học sinh không phải là một sự sắp xếp lộn xộn mà theo từng trường nghĩa, tạo thành những hệ thống liên tưởng nhất định. Nhờ được tập hợp theo những trường liên tưởng như vậy, nên khi sử dụng từ, học sinh có thể nhanh chóng huy động và lựa chọn được một từ ngữ chính xác nhất, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp của mình. Chính vì đặc điểm này, để mở.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> rộng vốn từ cho học sinh, giáo viên cần hết sức chú ý đến quy luật liên tưởng trong việc cung cấp, mở rộng vốn từ cho các em. Tuỳ theo chủ đề, chủ điểm cụ thể được giáo viên hay bài học định ra mà ở mỗi chủ đề, chủ điểm đó vốn từ vựng cá nhân của các em sẽ hiện lên trong trí nhớ trên cơ sở của những trường liên tưởng ấy. Ví dụ, khi nói về chủ điểm môi trường hoặc bảo vệ môi trường, lập tức trong óc các em sẽ hiện lên các từ ngữ như: cảnh quan, danh lam, thắng cảnh, sinh thái; bảo vệ, giữ gìn, bảo tồn... Trên cơ sở những từ ngữ đã biết ấy, giáo viên tiếp tục lựa chọn một số từ nào đấy để cung cấp và mở rộng cho các em. Việc mở rộng vốn từ này, giáo viên có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc vào bài học, vào đặc điểm vốn từ của học sinh. Dưới đây là một số cách cụ thể được sử dụng để mở rộng vốn từ cho HSDT: 1) Theo hệ thống từ cùng nghĩa, trái nghĩa: Để mở rộng vốn từ cho học sinh, giáo viên có thể tiến hành bằng cách cung cấp các từ trái nghĩa, cùng nghĩa hoặc gần nghĩa cho học sinh theo những đề tài, chủ đề, chủ điểm khác nhau. Ví dụ: - Trong trường hợp gặp từ vui vẻ, giáo viên có thể mở rộng vốn từ cho các em bằng việc cung cấp các từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa như: vui sướng, vui mừng, sung sướng, vui sướng... hoặc bằng những từ trái nghĩa như: buồn rầu, buồn bã, buồn chán, rầu rĩ, ủ ê... - Trong trường hợp gặp từ tổ quốc giáo viên đưa ra những từ đồng nghĩa, gần nghĩa như: đất nước, giang sơn, quốc gia, sông núi, xứ sở... (không cần đưa ra từ trái nghĩa với chủ đề này) Trong những trường hợp này, giáo viên có thể để cho học sinh tự tìm các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa hoặc bằng cách gợi mở, đặt câu hỏi và hướng dẫn học sinh trả lời. Cũng có thể tiến hành mở rộng từ theo cách này bằng việc cho học sinh thay thế một từ nào đó trong câu bằng một từ đồng nghĩa khác mà khi thay thế, nghĩa chung của cả câu không thay đổi. Ví dụ: Thay từ bảo vệ trong câu sau bằng một từ đồng nghĩa với nó: Chúng em bảo vệ môi trường sạch đẹp. Nếu học sinh tìm từ không chuẩn, giáo viên điều chỉnh, sửa chữa cho các em để cuối cùng tìm được từ thay thế phù hợp nhất. Mở rộng từ theo cách này, học.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> sinh có thể nắm nghĩa từ và nhớ từ nhanh hơn vì các em dựa vào những từ đã biết nghĩa để nhớ nghĩa và nhớ từ mới được cung cấp. 2) Tìm các từ cùng trường nghĩa: Giáo viên cũng có thể mở rộng vốn từ cho học sinh bằng cách hướng dẫn các em tìm các từ cùng trường được gợi ra từ những từ cho trước. Ví dụ, với từ “biển”, giáo viên sẽ mở rộng từ bằng việc hướng dẫn học sinh tìm các từ cùng trường gắn liền với “biển”. Những từ đó có thể là: sóng, nước, nắng, gió, cát, mây, trời... 3) Theo trường liên tưởng: Giáo viên cũng có thể mở rộng vốn từ cho học sinh theo trường liên tưởng bằng cách chọn ra một từ trung tâm (hoặc một đối tượng nào đấy), rồi xoay quanh từ trung tâm đó, tìm những từ khác dựa vào những liên tưởng khác nhau. Ví dụ, lấy từ trung tâm là “giáo viên”, chúng ta có thể mở rộng từ cho học sinh bằng cách dựa vào những liên tưởng khác nhau ở học sinh: + Nhờ liên tưởng đồng loại, có thể tìm được các từ ngữ như: thầy giáo, cô giáo, hiệu trưởng, hiệu phó, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn ... + Nhờ liên tưởng về hoạt động, có thể tìm được các từ ngữ như: soạn bài, chấm bài, giảng dạy, phụ đạo, lên lớp, hướng dẫn, thuyết trình, nghiền ngẫm, tìm tòi, sửa chữa, dắt dẫn, giảng giải... + Nhờ liên tưởng về địa điểm, có thể tìm được các từ ngữ như: bục giảng, lớp học, phòng học, phòng hội đồng, phòng giáo viên... + Nhờ liên tưởng về phương tiện hoạt động, có thể tìm được các từ ngữ như: giáo án, phấn màu, thước kẻ, giáo cụ trực quan, mẫu vật... + Nhờ liên tưởng về tính chất, có thể tìm được các từ ngữ như: dịu dàng, nhiệt tình, say sưa, gắn bó, quan tâm, yêu thương... Cũng có thể, giáo viên đưa ra một từ, rồi dựa vào các trường liên tưởng được gợi ra từ từ đó, mở rộng vốn từ cho các em. Ví dụ, với từ “mắt”, giáo viên có thể mở rộng từ cho các em bằng những liên tưởng khác nhau gợi ra từ từ này: + Hình dáng của mắt: mắt lá liễu, mắt lá dăm, mắt ốc nhồi, mắt diều hâu... + Đặc điểm của mắt: mắt xếch, mắt lác, mắt lé, mắt lồi... + Hoạt động của mắt: nhìn, liếc, trợn, trừng, quắc, nhòm... + Bệnh của mắt: cận thị, viễn thị, đau, nhức... + Tính chất: trong sáng, dịu dàng, tinh anh, gườm gườm....

<span class='text_page_counter'>(115)</span> Các loại bài tập mở rộng vốn từ cho học sinh được tiến hành theo cách này: - Tìm các từ chỉ đặc điểm của người và vật: Đặc điểm về tính tình của một người; Đặc điểm về màu sắc của một vật; Đặc điểm về hình dáng của người, vật. 4) Theo cách cấu tạo từ: Giáo viên có thể mở rộng vốn từ cho học sinh theo cách cấu tạo từ, dựa vào một yếu tố gốc cho sẵn, yêu cầu học sinh tìm những từ khác có chứa yếu tố đó. Ví dụ: Trong từ tổ quốc, tiếng quốc có nghĩa là nước. Tìm thêm những từ chứa tiếng quốc. Hoặc yêu cầu HS sắp xếp các từ cho sẵn có chứa cùng một yếu tố nhưng có nghĩa khác nhau vào nhóm thích hợp. Ví dụ: Xếp các từ có tiếng lạc cho trong ngoặc đơn thành hai nhóm: (a) Những từ trong đó lạc có nghĩa là “vui, mừng”; (b) Những từ trong đó lạc có nghĩa là “rớt lại, sai” (lạc quan, lạc hậu, lạc điệu, lạc đề, lạc thú) Trong một số trường hợp, giáo viên cũng có thể mở rộng từ cho HS bằng cách ghép tiếng đã cho với một tiếng khác để tìm ra từ mới. Ví dụ, với tiếng cho trước “sách”, HS có thể tìm thấy các từ khác như: sách vở, sách bút, đèn sách, sách báo... Cũng có thể tiến hành mở rộng vốn từ cho học sinh theo cách cấu tạo từ nhưng không phải là tìm yếu tố ghép mà tìm yếu tố láy. Ví dụ, giáo viên yêu cầu học sinh tìm từ láy có tiếng sạch. Học sinh sẽ tìm được các từ như: sạch sẽ, sạch sành sanh... Tài liệu số 2 PHƯƠNG PHÁP GIẢI THÍCH NGHĨA CỦA TỪ Một trong những khâu quan trọng nhất của việc dạy từ trong nhà trường phổ thông là việc giải thích nghĩa của từ. Chỉ khi các em hiểu được nghĩa của từ, các em mới có khả năng sử dụng đúng, từ đó tiến lên sử dụng hay một từ nào đấy trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Trong nghĩa của từ, thành phần nghĩa biểu niệm là thành phần cốt lõi, thành phần quan trọng nhất. Vì thế giải thích nghĩa của từ chủ yếu là giải thích nghĩa biểu niệm, giúp các em nắm được đầy đủ nhất các nét nghĩa chung và riêng, rộng và hẹp của từ đó. Trên cơ sở học sinh hiểu được nghĩa biểu niệm, giáo viên sẽ giúp các em hiểu nghĩa biểu vật, nghĩa biểu.

<span class='text_page_counter'>(116)</span> thái cũng như các mối quan hệ giữa nghĩa của từ đang được giải thích với nghĩa của các từ khác trong hệ thống hay trong những lời nói cụ thể. Dưới đây là một số phương pháp giải thích nghĩa của từ cho học sinh theo hướng trên. a) Giải thích nghĩa của từ bằng cách cho học sinh trực tiếp tiếp xúc với sự vật, hành động, tính chất v.v. hoặc xem các hình ảnh trên sách báo, trên màn ảnh vô tuyến v.v. những sự vật, hiện tượng mà từ đó biểu thị. Cách giải thích này thường chỉ phù hợp và phát huy được tác dụng tích cực đối với những từ có nghĩa cụ thể, tức là những từ mà nghĩa của nó có thể được minh hoạ bằng hiện vật mang tính trực quan, có thể cảm nhận được nhờ dựa vào năm giác quan của con người. Phương pháp này xuất phát từ lí luận ngôn ngữ cho rằng nghĩa của từ là sự phản ánh hiển nhiên của sự vật, hiện tượng hay quan hệ trong ý thức. Bởi vậy, việc tiếp xúc trực tiếp với hiện thực khách quan mà từ biểu thị sẽ giúp cho các em nhận thức rõ ràng và cụ thể hơn những hình ảnh về sự vật mà từ đó gợi ra trong ý thức của mình. Phương pháp này có ưu điểm là giúp các em hiểu nghĩa của từ một cách nhanh chóng, chính xác, trực quan nhưng bị hạn chế ở chỗ chỉ có hiệu quả đối với một số từ ngữ nhất định và người giáo viên cũng mất nhiều công sức, thời gian cho việc chuẩn bị những vật liệu trực quan cần dùng cho việc giảng dạy ấy. b) Giải thích nghĩa của từ bằng cách đặt từ vào văn cảnh mà từ xuất hiện. Văn cảnh này có thể là một câu văn, câu thơ, nhưng cũng có thể chỉ là một ngữ có chứa đựng từ cần giải thích. Ví dụ, khi giải thích nghĩa của từ lở ta có thể dẫn ra những câu như : “Khúc sông bên lở bên bồi, bên lở thì đục bên bồi thì trong”, “, dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi”, “ Miệng ăn núi lở”. Chúng ta có thể giải thích nghĩa của từ theo cách như vậy cho các em học sinh vì chính các nhà ngôn ngữ cũng đã từng cho rằng nghĩa của từ là cách sử dụng nó, hay “ Nếu một người nào đó hỏi nghĩa của một từ này hay từ khác là gì thì anh ta thường chờ đợi người ta giải thích cho anh ta từ được dùng như thế nào “ (P.H Nơell - Smith). Phương pháp này có ưu điểm là giáo viên không phải giải thích dài dòng mà học sinh vẫn có thể hiểu được nghĩa của từ nhờ dựa vào vốn từ đã có của mình,.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> dựa vào những kết hợp ngôn ngữ đã được các em hiểu nghĩa từ trước để tự rút ra nghĩa của từ cần hiểu. Nhưng cách này lại có nhược điểm là nghĩa của từ dễ bị các em hiểu không đầy đủ vì các em chỉ hiểu được một nghĩa nào đó của từ được hiện thực hoá trong cách dùng ấy, trong câu văn cụ thể ấy. c) Giải thích nghĩa của từ bằng cách đối chiếu, so sánh với những từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. Đây là một trong những phương pháp giải thích nghĩa của từ thường được các nhà nghiên cứu sử dụng trong việc biên soạn từ điển giải thích. Ví dụ, vô số : nhiều; vô ngần : cực kì ; heo : lợn ; tốt : trái nghĩa với xấu ; chết : trái nghĩa với sống v.v… Cách giải thích này được sử dụng dưới dạng các bài tập tìm từ, hoặc sắp xếp các từ. Ví dụ: - Xếp các từ cho dưới đây thành từng cặp có nghĩa trái ngược nhau (từ trái nghĩa): + đẹp, ngắn, nóng, thấp, lạnh, xấu, cao, dài + lên, yêu, xuống, chê, ghét, khen + trời, trên, đất, ngày, dưới, đêm - Tìm những từ cùng nghĩa và những từ trái nghĩa với từ dũng cảm. Phương pháp này có ưu điểm là việc giải thích nghĩa từ ngắn gọn và cho các em biết được những từ nào là đồng nghĩa với nhau, giúp các em có được một vốn từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa nào đó để khi cần có thể lựa chọn và sử dụng. Nhưng phương pháp này lại bị hạn chế ở chỗ dễ giải thích nghĩa của từ một cách luẩn quẩn, dùng từ chưa biết này để giải thích cho từ chưa biết khác. Chính vì thế, nếu như từ đồng nghĩa được sử dụng mà các em lại không hiểu nghĩa thì rút cục các em vẫn không thể nắm được nghĩa của từ cần giải thích. Ví dụ, khi giáo viên giải thích đậm là thẫm hoặc hợp lí là phù hợp mà thẫm và hợp lí các em lại chưa hiểu được nghĩa thì việc giải thích nghĩa như vậy là không có kết quả. Vì thế khi giải nghĩa từ theo phương pháp này, giáo viên cần chú ý qui từ cần giảng về những từ đồng nghĩa HS đã biết. Có như vậy việc giải thích nghĩa từ theo phương pháp này mới có kết quả. d) Giải thích nghĩa bằng cách định nghĩa khái niệm nhằm nêu lên những nét đặc trưng trong nghĩa của từ..

<span class='text_page_counter'>(118)</span> - Khi định nghĩa, những nét đặc trưng này được sắp xếp theo trình tự nét chung, khái quát nói trước, nét riêng, cụ thể nói sau. Ví dụ, chặt là một hoạt động; tác động lên vật khác; làm vật phân ra thành từng đoạn; bằng dụng cụ có lưỡi; với lực tác động theo chiều thẳng góc; từng đợt, không liên tục. - Cơ sở của phương pháp này là dựa vào cách miêu tả ngôn ngữ như các nhà từ điển học vẫn sử dụng trong các từ điển giải thích. Ở đây, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một cách tương đối đầy đủ những nét nghĩa của từ. Nhưng cái khó của phương pháp này là ở chỗ diễn đạt bằng lời một cách gãy gọn, khúc chiết một nghĩa của từ không phải là việc dễ dàng và hơn nữa, không phải bất kì từ nào cũng có thể nêu ra những nghĩa biểu niệm bằng lời. Như vậy, để giải thích nghĩa của từ, chúng ta có nhiều cách khác nhau. Mỗi cách có một cơ sở khoa học riêng, có những điểm mạnh và điểm hạn chế khác biệt. Điều quan trọng là chúng ta phải biết với một từ nhất định nào đó cần phải sử dụng phương pháp nào hoặc phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp với nhau để đạt được mục đích cuối cùng là giúp học sinh vừa hiểu được nghĩa của từ vừa nắm chắc được cả cách dùng của từ đó trong hoạt động giao tiếp. PHIẾU BÀI TẬP Phiếu bài tập 1 - Hãy xác định những cách thức hỗ trợ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất trong việc giải nghìa của từ và mở rộng vốn từ tiếng Việt qua các môn học. - Thầy/cô hãy cho những minh chứng cụ thể về việc hỗ trợ đó.. Thời. Tên hoạt động. gian. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Ghi chú. Nêu yêu cầu: HSDT chưa có - Làm việc nhóm: - Sử dụng : 40’. kĩ năng xác định các từ ngữ Thảo luận và trình SGK, SGV, Hoạt động 3:. cần thiết để sử dụng vào việc bày kết quả trên giấy giấy A0, bút. Luyện tập mở nói và viết Tiếng Việt. Nên A0.. dạ, bút mầu.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> rộng vốn từ cho. việc cung cấp từ ngữ (từ - Đề xuất các biện để soạn bài. học sinh DTTS. trong đời sống, từ trong SGK pháp luyện tập để và trình bày. vùng khó khăn. thuộc các môn học) và tạo mở rộng vốn từ cho sản phẩm.. nhất. điều kiện để HS luyện tập, HS DTTS vùng khó - Sử dụng nhằm mở rộng vốn từ là hết khăn nhất.. các kĩ thuật. sức cần thiết.. dạy học tích. - Cần xác định rõ các hình. cực.. thức, các biện pháp luyện tập để mở rộng vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. Yêu cầu: Các nhóm trưng - Các nhóm 30’. bày sản phẩm. tham. quan kết quả của nhau; có thể bổ sung cho nhóm bạn hoặc bổ sung cho nhóm của mình. - Các nhóm trình bày sản phẩm trước lớp; - Lớp nghe, nhận xét, bổ sung, chất vấn.. Kết luận chung: 30’. - Mở rộng vốn từ tiếng Việt cho HSDT là một việc làm thiết thực, rất có ý nghiã. - Làm việc nhóm. Học sinh DTTS chỉ có thể Sau khi thảo luận học tập tốt trên cơ sở một xong, các nhóm cử vốn từ tiếng Việt phong phú, đại diện lên trình đa dạng (cả về đời sống lẫn bày. khoa học). Các thày cô giáo - Các nhóm khác bố đều phải chung tay góp sức sung ý kiến. để làm giàu vốn từ ngữ tiếng.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> Việt cho HS DTTS. - Khẳng định tính khả thi của các biện pháp luyện tập để mở rộng vốn từ cho HS DTTS vùng khó khăn nhất. 20’. Yêu cầu: Phản hồi về nội - Hoàn thành các ý. Thu phiếu. dung và các hoạt động tập kiến phản hồi.. phản hồi.. huấn trong ngày (theo mẫu) TÀI LIỆU HỌC TẬP MỘT SỐ HÌNH THỨC LUYỆN TẬP ĐỂ MỞ RỘNG VỐN TỪCHO HS DTTS Với HSDT, việc hướng dẫn cho các em quan sát, tích luỹ những hình ảnh về sự vật hiện tượng là việc làm quan trọng để giúp các em vừa mở rộng vốn từ, vừa chính xác hoá nghĩa của từ. Để củng cố những biểu tượng có được ở các em thật đậm nét, giáo viên cần phải chú ý lặp đi lặp lại các từ ngữ mới để thông qua việc lặp đi lặp lại ấy, khái niệm được lưu giữ một cách bền vững. Cùng với việc lặp lại một cách đơn thuần những từ ngữ đó, giáo viên cũng cần giúp các em biểu đạt thành lời mà trong lời đó có chứa đựng những từ ngữ mới. Từ ngữ không thể tách rời khỏi câu nói, lời nói mà gắn chặt với lời với câu chính là như thế. a) Cho sẵn một số từ và những nét nghĩa phù hợp với từng từ ấy nhưng sắp xếp không theo trình tự. Giáo viên yêu cầu học sinh sắp xếp lại vị trí các từ sao cho phù hợp với những nét nghĩa đó. b) Chọn từ để điền vào chỗ trống trong câu văn, câu thơ cũng là một cách kiểm tra việc nắm nghĩa từ của học sinh. Những từ cần kiểm tra nghĩa này học sinh tự tìm. Điều quan trọng trong loại bài tập không cho trước từ cần điền, giáo viên phải bỏ trống vị trí từ cần điền đó sao cho học sinh buộc phải dùng từ mà mình cần kiểm tra để điền vào thì nội dung của toàn bộ câu văn mới chính xác. c) Cho trước từ cần kiểm tra nghĩa, sau đó cho một số câu có chứa từ ấy nhưng chỉ có một câu dùng đúng nghĩa. Giáo viên yêu cầu học sinh đánh dấu vào câu dùng đúng..

<span class='text_page_counter'>(121)</span> d) Cho một câu có chứa từ cần giải thích, sau đó dựa vào nghĩa đã được dùng đó, học sinh tự đặt một câu khác. e) Cho sẵn từ và yêu cầu các em tập dùng lời để giải thích. Việc giải thích ở đây chủ yếu là để các em tập nêu ra những nét nghĩa biểu niệm mà từ đó có được. PHIẾU BÀI TẬP. Phiếu bài tập 2 -. Hãy soạn một bài dạy thuộc môn học của thầy/cô, xác định những từ ngữ cần giải thích trong bài học.. -. Thầy/cô sẽ làm gì với những từ ngữ đó để giúp HS DTTS vùng khó khăn nhất hiểu nội dung bài học và để mở rộng vốn từ cho các em?. BÀI 4 DẠY HỌC NGỮ PHÁP.

<span class='text_page_counter'>(122)</span> CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT I. MỤC TIÊU Sau bài này, NTG có khả năng : Kiến thức: Hiểu được cách hỗ trợ HSDT khi tiếp cận với các thuật ngữ khoa học, các kiểu câu cơ bản trong từng bài để hiểu nội dung bài học. Kĩ năng: Biết cách thiết kế các hoạt động phù hợp trong từng bài học cụ thể nhằm rèn kĩ năng viết các kiểu câu để trình bày một vấn đề trong môn học cho HS DTTS ở THCS vùng khó khăn nhất. Thái độ: Có ý thức thường xuyên rèn luyện các kiểu câu cho HSDT trong từng giờ học thuộc bộ môn mình phụ trách. II. TÀI LIỆU VÀ THIẾT BỊ DẠY HỌC - Người hướng dẫn: + Kế hoạch bài tập huấn, tài liệu học tập, phiếu bài tập. + Giấy A0, giấy A4, bút dạ, băng dính, giấy bìa mầu, kéo. + Máy chiếu, màn chiếu (nếu điều kiện cho phép). - Người tham gia : SGK, SGV, Giáo án,… III. PHƯƠNG TIỆN ĐÁNH GIÁ - Thông qua các sản phẩm làm việc của nhóm; - Các nội dung trình bày của cá nhân và nhóm trước lớp. IV. KẾT QUẢ MONG ĐỢI - NTG biết cách hỗ trợ HSDT trong mỗi bài học, biết thiết kế các hoạt động phù hợp để giúp học sinh hiểu nội dung bài học; - Biết sử dụng các kiểu câu phù hợp để trình bày một vấn đề trong môn học..

<span class='text_page_counter'>(123)</span> V. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Thời. Tên hoạt động. gian 30’. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Ghi chú. Hoạt động 1:. Nêu yêu cầu: Nói về thực - Chia sẻ những thông - Sử dụng :. Tìm hiểu về thực. trạng sử dụng câu trong tin cá nhân. trạng sử dụng câu. SGK, SGV,. hoạt động giao tiếp của - Làm việc nhóm: giấy A0, bút. trong hoạt động giao HSDT ở trường mình. Thảo luận và trình dạ, bút mầu tiếp của học sinh. Mỗi thành viên trình bày bày kết quả trên giấy để soạn bài. DTTS vùng khó. một ý kiến về một nội A0.. khăn nhất. dung cụ thể. (Lấy cứ liệu - Đề xuất các biện sản phẩm.. và trình bày. từ thực tiễn dạy học của pháp khắc phục thực - Sử dụng bản thân NTG).. trạng sử dụng câu các kĩ thuật. - Cho các nhóm hoạt trong hoạt động giao dạy học tích động.. tiếp của HS DTTS cực. vùng khó khăn nhất.. - Cho các nhóm trưng - Các nhóm 20’. bày sản phẩm.. tham. quan kết quả của nhau; có thể bổ sung cho nhóm bạn hoặc bổ sung cho nhóm của mình. - Các nhóm trình bày sản phẩm trước lớp; Thuyết mính về quan điểm của nhóm. - Lớp nghe, nhận xét, bổ sung, bàn luận.. Kết luận chung: 10’. Nhận -. Lắng nghe, ghi. xét các ý kiến được trình chép. bày trước lớp về thực - Nêu thắc mắc (nếu trạng sử dụng câu trong có); phản hồi..

<span class='text_page_counter'>(124)</span> hoạt động giao tiếp của HS DTTS vùng khó khăn nhất - Dạy học sử dụng câu tiếng Việt cho HSDT trong hoạt động giao tiếp là một việc làm thiết thực, rất có ý nghiã. Học sinh DTTS chỉ có thể học tập tốt trên cơ sở có một vốn về câu tiếng Việt phong phú, đa dạng (cả về đời sống lẫn khoa học). Các thày/cô đều phải chung tay góp sức để làm giàu vốn về câu tiếng Việt cho HS DTTS. - Khẳng định về tính khả thi của các biện pháp do các nhóm đề xuất. TÀI LIỆU HỌC TẬP VÊ DẠY HỌC NGỮ PHÁP Đặc điểm nổi bật nhất của ngữ pháp là tính khái quát. Trong ngôn ngữ, bất kì một từ loại nào, một kiểu kết cấu câu nào cũng đều khái quát từ hàng loạt những từ cụ thể, những câu cụ thể. Ví dụ, từ loại danh từ được khái quát từ hàng loạt các từ như: bàn, ghế, nhà, cửa... hoặc kiểu câu C-V được khái quát từ hàng loạt câu như: gío thổi, mây bay, cá lặn... - Trong ngữ pháp, câu là đối tượng cần dạy kĩ nhất. Cũng vì lí do này, nhiều người cho rằng dạy ngữ pháp chính là dạy cách đặt câu. Nhưng muốn đặt được câu, không thể không biết đến những đặc điểm ngữ pháp của từ. Bởi vậy,.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> muốn đặt câu đúng phải biết đến từ loại (danh từ, tính từ, động từ...), cách tổ chức các loại cụm từ (cụm danh từ, cụm tính từ, cụm động từ...), rồi sau đó mới học cách đặt câu. Hai bộ phận quan trọng nhất của câu, tạo nên nòng cốt câu là chủ ngữ và vị ngữ. - Ngữ pháp mang tính riêng, tính đặc trưng của dân tộc, của quốc gia hết sức rõ ràng nên dạy HSDT đặt câu GV phải tìm hiểu cách nói của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ của các em để tránh việc các em đặt câu sai ngữ pháp. Ví dụ, cùng một hiện thực khách quan, người Việt hỏi: Mẹ đi đâu? thì người Jrai: Pơcă ami naw? (Đâu mẹ đi?); Người Ba - na: Tơyơ ih năm? (Đâu anh đi?); Người Việt hỏi: Em ăn cái gì? thì người Ê – đê: Yă kiơ oh sa? (Cái gì em ăn?); người Việt nói: tôi làm nó ốm thì người Kơ -ho: tôi nó làm ốm.... - Khi dạy học tiếng Việt cho HSDT rất khó cho các em hiểu được hai phương thức ngữ pháp quan trọng của tiếng Việt: phương thức trật tự từ và phương thức hư từ. Đây là những vấn đề lí luận có liên quan chặt chẽ tới việc rèn luyện cho học sinh cách tạo câu đúng ngữ pháp và biết cách tự chữa lỗi câu của mình. - Trật tự các thành phần câu trong tiếng Việt tương đối cố định. Thay đổi trật tự từ trong câu là thay đổi cả nội dung ngữ nghĩa. Ví dụ: - Anh tôi dạy học văn.. - Tôi học anh dạy văn.. - Anh dạy tôi học văn.. - Tôi dạy anh học văn.. - Anh học tôi dạy văn. Bên cạnh trật tự từ, quan hệ từ trong tiếng Việt cũng đóng vai trò quan trọng trong lời nói, trong việc tạo câu. Ví dụ: - Đây là sách học sinh chứ không phải là sách giáo viên. - Đây là sách của học sinh chứ không phải là sách của giáo viên. - Gà mẹ đang nhặt thóc. - Gà của mẹ đang nhặt thóc. Từ những điểm trên, chúng ta hiểu rằng người giáo viên muốn dạy tốt nội dung ngữ pháp cho HSDT, không thể không nắm vững những kiến thức cơ bản về ngữ pháp tiếng Việt. Tất nhiên, muốn dạy có hiệu quả, giáo viên còn cần phải chú.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> ý đến nhiều yếu tố khác nữa ảnh hưởng đến chất lượng dạy học như thời lượng dạy học, mục đích và phương tiện dạy học, đặc biệt là sự ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tiếng mẹ đẻ của các em,... Chỉ khi chú ý đầy đủ những yếu tố như vậy, giáo viên mới có thể lựa chọn được phương pháp dạy học tối ưu, đảm bảo hiệu quả như mong muốn. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng người ta giao tiếp với nhau, nói ra cho nhau nghe cần phải đúng ngữ pháp, nhưng không ai khi nghe chưa rõ lại hỏi lại người nói rằng: “Anh chị nói với tôi theo kiểu câu đơn hay câu ghép?”, mà thường hỏi: “Anh chị nói điều gì, nói cái gì thế?”. Vì vậy, việc chú ý tới đặc tính ngữ pháp của lời nói là cần thiết. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc đúng ngữ pháp là chưa đủ, mà cần phải nói năng sao cho người khác hiểu được nội dung lời nói của mình mới là điều quan trọng. PHIẾU BÀI TẬP Phiếu bài tập 1 Hãy xác định những cách thức có thể sử dụng để luyện cho HSDT ở trường THCS vùng khó khăn nhất cách trình bày một vấn đề trong môn học của thầy/cô (về câu, về trình bày ý, về đoạn…). Thời. Tên hoạt động. gian Hoạt động 2: 20’. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Ghi chú. - Nêu vấn đề: Sau khi học - Lớp nghe, bổ sung ý. - Sử dụng :. xong Tiểu học, số lượng từ và kiến. SGK, SGV,. pháp cho học. câu, kiến thức về ngữ pháp của - Đọc tài liệu. giấy A0, bút. sinh DTTS vùng. HSDT ở bậc THCS đã tăng - Thảo luận nhóm. dạ, bút mầu. khó khăn nhất. lên một cách đáng kể. Tuy - Làm bài tập. để soạn bài. nhiên, số lượng các kiểu câu - Trình bày ý kiến. và trình bày. vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu trước lớp. sản phẩm.. Dạy học ngữ. giao tiếp thường ngày của các em. Nhiều lúc, do nội dung. - Sử dụng.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> giao tiếp mở ra quá rộng hoặc. các kĩ thuật. nội dung giao tiếp lại tinh tế. dạy học tích. thì các em tỏ ra bất lực vì vốn. cực.. từ và câu còn hạn hẹp, hoặc vì sự hiểu biết nghĩa chưa thật đầy đủ. Bởi vậy, việc cung cấp cho các em một vốn từ, kiểu câu, những kiến thức ngữ pháp cần thiết để phục vụ cho việc tiếp cận với các loại văn bản là điều hết sức cần thiết.. Yêu cầu: Tập hợp ý kiến thành - Các thành viên trong 15’. các nhóm giống nhau và khác. lớp thảo luận và nêu ý. nhau để cùng bàn bạc.. kiến. - Có thể tranh luận ở những điểm khác nhau về quan điểm, cách thức dạy học ngữ pháp cho HS DTTS vùng khó khăn nhất.. - Nêu vấn đề : Trong mỗi bài 10’. học, anh chị sẽ chọn những - Làm việc nhóm. kiểu câu nào, những vấn đề Trình bày kết quả trên nào về ngữ pháp để giải thích giấy A0 cho HSDT, giúp HSDT hiểu văn bản tốt nhất?. 10’. Yêu cầu: Các nhóm trưng bày. - Các nhóm tham quan. sản phẩm, đặc biệt nhấn mạnh. kết quả và thảo luận,. vào việc đề xuất các biện pháp. bổ sung ý kiến; có thể. dạy học ngữ pháp.. bàn bạc, tranh luận.. Kết luận chung: Việc dạy học - Làm việc nhóm. Sau 5’. các kiểu câu, dựng đoạn trong khi thảo luận xong,.

<span class='text_page_counter'>(128)</span> một văn bản cho HSDT là rất các nhóm cử đại diện quan trọng.. Sử dụng thành lên trình bày.. thạo các kiểu câu, tạo lập được các văn bản theo yêu cầu của - Các nhóm khác bổ việc học tập, sử dụng được các sung ý kiến, có thể dấu câu đều là cái đích mà đưa ra ý kiến phản thầy và trò ở vùng khó khăn biện, chất vấn. cần hướng tới. TÀI LIỆU HỌC TẬP DẠY HỌC KHÁI NIỆM NGỮ PHÁP - Cung cấp những vấn đề lí thuyết về một bộ môn khoa học trong nhà trường phổ thông chính là làm cho học sinh nắm vững các khái niệm, các thuật ngữ và mối quan hệ giữa các khái niệm, các thuật ngữ ấy. Hệ thống ngữ pháp có một số thuật ngữ riêng, mỗi thuật ngữ chứa đựng một khái niệm riêng, không trùng với các thuật ngữ khác. - Khi hình thành khái niệm ngữ pháp mới, giáo viên cần phải dựa vào những khái niệm ngữ pháp học sinh đã biết để giúp các em nắm vững khái niệm mới. Cái đã biết giúp các em xác định rõ hơn khái niệm đang học nhờ sự đối chiếu, so sánh, liên hệ... Ví dụ, khi cung cấp khái niệm “câu ghép” (học sinh đã biết câu đơn là câu có đủ chủ ngữ, vị ngữ), giáo viên có thế xác định: câu ghép là câu do nhiều câu đơn ghép lại với nhau. “Gió thổi” , “mây bay” là hai câu đơn, nên khi ghép hai câu này lại thành “Gió thổi, mây bay”, ta sẽ có được một câu ghép. Khi các em đã hiểu như vậy thì khái niệm “Câu ghép là câu do nhiều vế câu ghép lại. Mỗi vế của câu ghép thường có cấu tạo giống một câu đơn (có đủ chủ ngữ, vị ngữ) và thể hiện một ý có quan hệ chặt chẽ với ý của những vế câu khác” sẽ được các em nhận thức một cách dễ dàng hơn. - Một trong những vấn đề quan trọng của việc dạy học ngữ pháp là lựa chọn ngữ liệu. Dạy ngữ pháp cho học sinh, đặc biệt là HSDT, không phải là việc cung cấp cho các em một số mô hình ngữ pháp, rồi yêu cầu các em đặt câu theo sơ đồ, theo mô hình đó, mà phải qua ngữ liệu, qua lời nói hiện thực, sinh động gần gũi.

<span class='text_page_counter'>(129)</span> với đời sống của các em. Ngữ liệu có chứa đựng hiện tượng ngữ pháp học sinh cần học phải có nội dung dễ hiểu, phù hợp với tâm lí HSDT. Về mặt dung lượng, ngữ liệu càng ngắn gọn càng tốt vì học sinh dễ bao quát, dễ trực quan hơn trong việc tìm hiểu khái niệm. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, HS sẽ rút ra được những mô hình ngữ pháp và tạo lời nói theo mô hình đó. Ngữ liệu được lựa chọn kĩ cànggần gũi với HSDT giúp cho bài học đỡ khô khan, khô cứng và các em vượt qua được những rào cản, những ảnh hưởng tiêu cực của tiếng mẹ đẻ. - Việc nắm các khái niệm ngữ pháp là cần thiết, nhưng học sinh đọc thuộc lòng quy tắc không có nghĩa là học sinh đó đã nắm được quy tắc. Vấn đề ở chỗ các em biết vận dụng các quy tắc đó để tạo nên những lời nói đúng. Việc kiểm tra đánh giá này không chỉ dừng lại trong môn Văn – tiếng Việt, mà cần phải được mở rộng đến tất cả các môn học khác trong nhà trường. Chính môi trường tự nhiên của việc sử dụng ngôn ngữ cũng như cách xử lí các tình huống giao tiếp ngôn ngữ của các em mới là cái mốc cuối cùng để đánh giá thực chất việc nắm quy tắc ngữ pháp, các khái niệm ngữ pháp. PHIẾU BÀI TẬP. Phiếu bài tập 2 -. Thày /cô thường gặp những khó khăn nào khi “rào cản tiếng Việt” gây trở ngại cho việc học tập của HS DTTS vùng khó khăn nhất ?. Thời. Tên hoạt động. gian Hoạt động 3 : 30’. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. Ghi chú. Nêu yêu cầu: HSDT chưa có - Đọc tài liệu. - Sử dụng :. kĩ năng xác định các kiểu. SGK, SGV,. pháp cho học. câu, các vấn đề về ngữ pháp - Làm bài tập. giấy A0, bút dạ,. sinh DTTS vùng. của tiếng Việt nên việc sử. bút mầu để. khó khăn nhất. dụng và tạo lập các câu chưa - Thảo luận nhóm : đề. soạn bài và. Luyện tập ngữ.

<span class='text_page_counter'>(130)</span> đúng ngữ pháp còn khá phổ xuất các biện pháp. trình bày sản. biến. Việc luyện tập các kiểu luyện tập ngữ pháp.. phẩm.. câu, các vấn đề về ngữ pháp là việc làm rất cần thiết trong - Làm việc nhóm:. - Sử dụng các. quá trình dạy học ngữ pháp Thảo luận và trình bày. kĩ thuật dạy. và luyện tập ngữ pháp.. học tích cực.. kết quả trên giấy A0.. - Thày/cô hãy đề xuất những cách thức luyện tập ngữ pháp có hiệu quả cho HS DTTS vùng khó khăn nhất Yêu cầu: Các nhóm trưng bày - Các nhóm tham quan 15’. sản phẩm, đặc biệt nhấn kết quả của nhau; có mạnh tới các biện pháp có thể bổ sung cho nhóm hiệu quả trong việc dạy học bạn hoặc bổ sung cho ngữ pháp và luyện tập ngữ nhóm của mình. pháp cho HS DTTS.. - Các nhóm trình bày sản phẩm trước lớp; - Lớp nghe, nhận xét, bổ sung, tranh luận.. Kết luận chung: 10’. - Làm việc nhóm :. - Luyện tập ngữ pháp cho Thảo luận sâu hơn về HSDT cần lưu ý những điểm các biện pháp nhằm sau : cách viết câu, viết đoạn; nâng cao hiệu quả của cách sử dụng các biện pháp tu việc luyện tập ngữ từ; cấu trúc câu, cách diễn đạt pháp cho HS DTTS ở và lập luận... khi nói hoặc vùng khó khăn nhất. viết về một vấn đề trong học - Sau khi thảo luận tập và trong đời sống.. xong, các nhóm cử đại. - Khẳng định tính khả thi của diện lên trình bày quan các biện pháp luyện tập ngữ điểm của nhóm mình. pháp cho HS DTTS vùng khó - Các nhóm khác bố khăn nhất.. sung ý kiến, có thể tiếp.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> tục tranh luận. 5’. Yêu cầu: Phản hồi về nội - Hoàn thành việc ghi. Thu phiếu. dung và các hoạt động tập ý kiến phản hồi.. phản hồi.. huấn trong ngày (theo mẫu). TÀI LIỆU HỌC TẬP LUYỆN TẬP NGỮ PHÁP - Số lượng các khái niệm ngữ pháp, quy tắc ngữ pháp so với số lượng các khái niệm từ vựng không nhiều, nhưng việc luyện tập để sử dụng cho thành thạo những quy tắc, những khái niệm ấy không dễ dàng. Chỉ cần một mô hình ngữ pháp, học sinh có thể tạo ra hàng nghìn, hàng vạn câu cụ thể mà câu nào cũng đúng. Càng đặt được nhiều câu, càng sử dụng nhiều lần một mẫu câu, một quy tắc nào đó thì các em càng hình thành được kĩ năng ngữ pháp một cách chắc chắn. Nhưng thời lượng trên lớp không cho phép học sinh tạo được số lượng câu cụ thể nhiều như vậy. Cho nên, việc lựa chọn cách luyện tập cho các em cần phải được tính toán sao cho phù hợp. - Bài luyện tập ngữ pháp không nhằm củng cố những kiến thức lí thuyết mà vận dụng những lí thuyết đó vào thực tiễn sử dụng ngôn ngữ. Lí thuyết ở đây chủ yếu làm nhiệm vụ định hướng luyện tập, hình thành kĩ năng tạo lập lời nói cho học sinh trong những tình huống giao tiếp nhất định. Bởi vậy, các bài tập ngữ pháp luôn hướng tới mục đích giao tiếp, giúp các em làm quen với cách đặt câu, tạo lời trong đời sống thường ngày. - Với HSDT, GV không nên đưa vào bài tập tình huống không có thật hoặc ít gặp trong hoạt động của các em và cũng không nên chấp nhận những câu nói của học sinh không phù hợp với cách nói thường gặp sao cho khi làm xong một bài tập nào đó, học sinh không chỉ cảm thấy mình thực hiện xong một nhiệm vụ học tập mà còn như cảm thấy mình đã giải quyết được được một tình huống giao tiếp bằng ngôn ngữ trong đời sống. - Nhìn chung, các bài tập ngữ pháp cần đa dạng, nhiều hình vẻ, sinh động để không gây căng thẳng và mệt mỏi cho HS. Có thể chia những bài tập này thành ba loại lớn:.

<span class='text_page_counter'>(132)</span> a) Loại bài tập có tính thụ động: Đây là những bài tập mang tính chất nhận biết, giúp học sinh nhận thức sâu thêm những điều đã học. b) Loại bài tập có tính chất chủ động: Đây là loại bài mang tính chất nhận xét, sửa chữa, điều chỉnh những lỗi về ngữ pháp. Loại bài tập này yêu cầu học sinh phải biết đánh giá, phát hiện lỗi rồi sau đó sửa lại cho đúng. Loại bài tập này mang tính tích cực, đòi hỏi học sinh phải biết vận dụng kiến thức được học vào thực tế sử dụng ngôn ngữ. c) Loại bài tập sáng tạo: Đây là loại bài tập dành riêng cho suy nghĩ mang tính chất cá nhân của học sinh. Ở loại bài tập này, giáo viên chỉ nêu vấn vấn đề, còn việc giải quyết như thế nào lại do học sinh tự quyết định. Ba loại bài tập này cần được sử dụng đan xen nhau. Tuỳ vào trình độ học sinh, vào nội dung bài dạy... giáo viên sẽ quyết định chọn loại bài tập nào để giúp ích cho học sinh một cách tích cực và hiệu quả nhất. Khi sửa chữa bài tập trên lớp, giáo viên cần chú ý: - Cố gắng để học sinh tham gia luyện tập càng nhiều càng tốt. Việc luyện tập này càng nhiều người tham gia, càng nhiều lượt luân phiên nhau càng tốt. - Khi chữa, giáo viên chỉ chữa những bài tập điển hình, tiêu biểu. Thông qua những bài tập được chữa, học sinh sẽ tự tìm ra cách giải quyết các bài tập có dạng tương tự trong những trường hợp khác. - Bài tập nào học sinh sai sót nhiều, giáo viên nên xem xét, phân tích kĩ lưỡng để tìm ra nguyên nhân sai sót và từ đó tìm ra cách khắc phục lỗi một cách có hiệu quả nhất.. Phiếu bài tập 3 - Thày/cô thường làm gì với các kiểu câu tiếng Việt để giúp HS DTTS vùng khó khăn nhất hiểu nội dung bài học và sử dụng được các kiểu câu đó khi nói và viết ?.

<span class='text_page_counter'>(133)</span> TÀI LIỆU ĐỌC THÊM ĐOẠN VĂN Tên gọi ĐOẠN VĂN trong tiếng Việt được dùng để chỉ nhiều thứ khúc đoạn khác nhau, chủ yếu là của ngôn ngữ viết, của văn bản trong nghĩa hẹp của từ này. Thông thường nhất trong giờ học văn, đoạn văn được dùng trước hết là để phân đoạn ý của bài văn đang học. Với câu hỏi của thầy giáo : Bài văn này chia làm mấy đoạn ? Học sinh có người cho là bài văn ấy có hai đoạn, có người cho là có ba đoạn, và cũng có người coi là có nhiều đoạn hơn. Sở dĩ như vậy là vì tuy cũng gọi mỗi cái như vậy là một đoạn và hiểu đó là đoạn văn, Thực ra sự phân đoạn như vậy là căn cứ vào ý nghĩa chung, là tìm ra những khúc đoạn ý lớn của bài văn. Trong trường hợp này có thể gọi mỗi khúc đoạn ý đó là một đoạn ý (lớn nhỏ khác nhau) để khỏi lầm lẫn (và cả trong trường hợp không nhất thiết phải căn cứ vào ngôn ngữ viết). Người ta cũng dùng đoạn văn để gọi tên các khúc đoạn bất kì của văn bản đang là đối tượng thảo luận ở thời điểm đó. Trong trường hợp này chẳng những ranh giới về hình thức không rõ ràng mà cả ranh giới về nội dung cũng mơ hồ. Tôn trọng thói quen, có thể gọi một khúc đoạn như vậy là một đoạn, nhưng không hiểu trong ý nghĩa đoạn văn như một thuật ngữ; hoặc cũng có thể gọi một phần, phần nhỏ, hoặc cụ thể hơn có thể gọi là những câu này. Đoạn văn còn được dùng để chỉ một phần trích bất kì, mà xét trong quan hệ với toàn văn bản chứa nó thì nó tỏ ra không hoàn toàn độc lập. Thường đây là những khúc đoạn được trích ra từ một văn bản lớn (một tác phẩm văn chương nhiều trang) để xem xét phân tích, có khi nó còn được đặt cho một đầu đề như một văn bản ít nhiều trọn vẹn. Một đối tượng như vậy có thể gọi như thói quen thông thường là một đoạn trích, cẩn thận hơn có thể gọi là một phần trích (phòng khi gọi tắt thì tránh được tiếng đoạn mơ hồ). Khi phần trích này tự nó là tương đối trọn vẹn và có đầu đề được gán cho hợp lí thì người ta có thể coi nó như một “bài”, “bài văn” tuy nhiên ít nhiều phải chỉ ra tư cách phần trích của nó. Tên gọi đoạn văn còn được dùng khá tùy tiện trong một số trường hợp khác nữa. Tất cả những trường hợp vừa nêu là có thực. Khi xem xét văn bản, buộc.

<span class='text_page_counter'>(134)</span> chúng ta phải chấp nhận tên gọi đoạn văn với một nội dung xác định, dù chỉ là quy ước, để làm việc. Đoạn văn thông thường được hiểu là một phần của văn bản tính từ chỗ viết hoa, thường lùi vào đầu dòng, cho đến chỗ dấu chấm xuống dòng. (Diệp Quang Ban – Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010, Tr.194). YÊU CẦU VỀ ĐOẠN VĂN TRONG VĂN BẢN - Đoạn văn tạo thành một bộ phận của văn bản, có thể chỉ có một câu, nhưng thường bao gồm một số câu. Điều cốt yếu là các câu đó phải luôn luôn tập trung thể hiện cùng một ý, một chủ đề, luôn luôn phục vụ cho cùng một luận điểm (một thành tố nội dung của văn bản). Cần tránh viết những câu xa đề, lạc ý. - Sự triển khai nội dung của đoạn qua các câu cần phải mạch lạc, chặt chẽ, hợp lôgíc. Muốn thế, các câu trong đoạn cần có sự liên kết cả về nội dung và cả về hình thức. Về nội dung, các câu cần phải vừa duy trì, vừa phát triển một cách hợp lí một thành tố nội dung nào đó của văn bản. Các câu cần được sắp xếp theo một trình tự phù hợp với sự triển khai nội dung, với quá trình lập luận. Nhờ đó, đoạn văn có một kết cấu nhất định. Cần tránh tình trạng các câu thiếu sự liên kết hoặc viết lộn xộn, tùy tiện. - Mỗi câu trong đoạn cần được cấu tạo phù hợp với quy tắc ngữ pháp của tiếng Việt, cần biểu đạt được nội dung hợp lí, đồng thời cần có sự liên kết chặt chẽ với các câu khác trong đoạn. - Mỗi đoạn văn cần được tách ra một cách rõ ràng, mạch lạc và đúng chỗ (kết thúc đoạn cần chấm xuống dòng, viết thụt dòng và viết hoa chữ cái đầu tiên của đoạn tiếp theo), đồng thời các đoạn văn cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau và sự chuyển tiếp tự nhiên, hợp lí. (Theo Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng – Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục, 2009, Tr.117).

<span class='text_page_counter'>(135)</span> CÂU PHẢI CÓ QUAN HỆ NGỮ NGHĨA PHÙ HỢP VỚI TƯ DUY NGƯỜI VIỆT Trong quá trình đặt câu, người viết ngoài việc phải chú ý đến yêu cầu viết đúng ngữ pháp tiếng Việt, còn phải chú ý đến quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ ngữ trong câu. Chẳng hạn những câu như : Cái bàn tròn này vuông; Cái bàn gỗ này làm bằng sắt…là những câu có quan hệ ngữ nghĩa nội tại không hợp tư duy lôgíc nói chung. Chú ý đến quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ ngữ trong câu là yêu cầu quan trọng đối với người tạo câu. Thông thường, việc tạo câu sai ngữ pháp ít xảy ra hơn so với việc tạo câu sai về ngữ nghĩa. Trong điều kiện sử dụng ngôn ngữ bình thường, yêu cầu về quan hệ ngữ ngĩa được cụ thể hóa bằng quan hệ tương hợp ngữ nghĩa, tức là phải chú ý, sao cho các nét nghĩa trong câu không được mâu thuẫn nhau. Tính không mâu thuẫn giữa các nét nghĩa của từ ngữ trong câu thể hiện ở ba điểm sau : a). Phản ánh đúng quan hệ trong thế giới khách quan (hiện thực ngoài ngôn ngữ). Những câu phản ánh không đúng hiện thực khách quan là những câu sai. Ví dụ : Truyện Kiều là tác phẩm kiệt tác của Nguyễn Công Hoan; là một câu sai. b). Quan hệ giữa các thành phần câu, các vế câu phải hợp lôgíc. Những câu có quan hệ không hợp lôgíc là những câu sai. Ví dụ : Trong thanh niên nói chung và trong bóng đá nói riêng, chúng ta đều làm được rất nhiều […]; hoặc : Vì trời nắng, nên đường lầy lội …là những câu sai. c). Quan hệ giữa các thành phần đẳng lập phải là quan hệ đồng loại (cùng một phạm trù ngữ nghĩa). Những câu có các thành phần này thuộc các loại khác nhau là những câu sai. Ví dụ : Người chiến sĩ bị hai vết thương một vết ở bên đùi trái và một vết ở Quảng Trị; là một câu sai. (Theo Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng – Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục, 2009, Tr.152) CÂU PHẢI ĐƯỢC ĐÁNH DẤU PHÙ HỢP Hẳn người Việt Nam còn nhớ câu chuyện tiếu lâm về một quan huyện phê đơn li dị : Cho về nhà, lấy chồng mới không được ở với chồng cũ; nội dung.

<span class='text_page_counter'>(136)</span> của câu này rất khác nhau tùy thuộc vào vị trí đặt dấu phẩy trong câu. Chẳng hạn : Cho về nhà, lấy chồng mới, không được ở với chồng cũ, thì nội dung của câu hoàn toàn ngược lại so với : Cho về nhà, lấy chồng mới không được, ở với chồng cũ. Do đó, khi đặt câu, người viết phải đặc biệt chú ý đến việc đặt dấu câu làm cho các quan hệ về ngữ pháp, ngữ nghĩa được tách bạch, rõ ràng; tránh cho người đọc có thể hiểu sai ý nghĩa của câu. Trong tiếng Việt hiện nay sử dụng một số loại dấu câu chủ yếu sau : a). Dấu chấm : Dấu dùng để đánh dấu sự kết thúc của câu trần thuật. b). Dấu chấm hỏi : Dấu dùng để đánh dấu câu nghi vấn. c). Dấu chấm lửng : Dấu dùng để biểu thị lời nói bị ngắt quãng vì bị xúc động; biểu thị chỗ ngắt dài giọng với ý châm biếm, hài hước; biểu thị chỗ kéo dài về âm thanh, biểu thị khoảng cách khách quan về thời gian, không gian, biểu thị người nói chưa nói (liệt kê) hết; v.v…(Dấu chấm lửng khi đặt trong ngoặc đơn (…), ngoặc vuông […] dùng để biểu thị lời dẫn trực tiếp bị lược bớt một số câu). d). Dấu chấm phẩy: Dấu dùng để phân cách các phần tương đối độc lập trong câu. e). Dấu chấm than : Dấu dùng để đánh dấu câu cảm thán hoặc câu cầu khiến . (Dấu chấm than đôi khi đặt cùng dấu chấm hỏi : (!?) để biểu thị thái độ mỉa mai, châm biếm). f). Dấu ngang cách : Dấu dùng để phân biệt thành phần chêm xen, đặt trước những lời đối thoại, các bộ phận liệt kê… g). Dấu hai chấm : Dấu dùng để báo hiệu điều trình bày tiếp theo mang ý giải thích, thuyết minh, báo hiệu lời trích dẫn trực tiếp, lời đối thoại… h). Dấu ngoặc đơn : Dấu dùng để tách các phần có tác dụng giải thích, bổ sung; đóng khung bộ phận chỉ nguồn gốc lời trích dẫn… i). Dấu ngoặc kép : Dấu dùng để trích dẫn lời trích dẫn trực tiếp, đóng khung tên riêng, tên tác phẩm; đánh dấu những từ ngữ được hiểu theo nghĩa khác… j). Dấu phẩy : Dấu dùng để tách các thành phần cùng loại, các vế câu; tách các thành phần biệt lập (phần hô – đáp, phần chuyển tiếp, phần chú thích, trạng ngữ…) tạo nhịp điệu biểu cảm cho câu… (Theo Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng – Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục, 2009, Tr.154)..

<span class='text_page_counter'>(137)</span> DỰNG ĐOẠN Dựng đoạn là một loại bài tập tương đối phức tạp và khó khăn đối với học sinh dân tộc. Đặt câu đã khó nhưng dựng đoạn lại khó khăn hơn nhiều, bởi lẽ: - Bài tập dựng đoạn đòi hỏi học sinh phải có đủ ý để xây dựng thành một đoạn văn. Nếu như đoạn văn có thể chỉ đòi hỏi một nội dung thì đoạn văn đòi hỏi số lượng nội dung cần phải lớn hơn hoặc sâu hơn, cụ thể hơn. - Nếu bài tập đặt câu chỉ yêu cầu học sinh biết liên kết các bộ phận trong câu thì ở đoạn văn, học sinh không chỉ dừng ở đấy, mà phải chú ý cả đến việc liên kết câu với câu trong đoạn. Như vậy, muốn xây dựng đoạn văn, học sinh phải có ý, phải sắp xếp ý theo một trình tự mạch lạc, phải viết đúng ngữ pháp câu, phải biết liên kết các câu thành một đoạn văn, một văn bản... Rõ ràng việc thực hiện những công việc như vậy đòi hỏi các em phải động não hơn. các em phải biết cách dùng từ, biết quy tắc đặt câu và biết cách dựng đoạn. -Việc luyện tập dựng đoạn của học sinh có thể chia thành hai loại: + Cho trước một số từ ngữ theo một chủ điểm nào đó rồi yêu cầu học sinh dựng đoạn có nội dung phù hợp với chủ điểm, trong đó có chứa những từ ngữ cho trước ấy. + Cho trước một số từ ngữ và câu chủ đề, yêu cầu học sinh viết tiếp những câu khác vào sau câu chủ đề đó để tạo thành đoạn văn hoàn chỉnh. - Giáo viên nêu chủ đề và yêu cầu học sinh viết đoạn văn phù hợp với chủ đề PHIẾU BÀI TẬP Phiếu bài tập 3 - Hãy soạn một bài dạy thuộc môn học của thầy/cô, xác định những kiểu câu cần giải thích trong bài học đó. - Thầy/cô sẽ tiến hành luyện tập những kiểu câu đó như thế nào để giúp HSDT hiểu nội dung bài học và sử dụng được các kiểu câu đó khi nói và viết ? Phiếu bài tập 4 Hãy tóm tắt những điểm cơ bản về dạy học ngữ pháp cho HS DTTS ở trường THCS vùng khó khăn nhất..

<span class='text_page_counter'>(138)</span> BÀI 5 CÁC LỖI THƯỜNG GẶP VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LỖI SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT I. MỤC TIÊU Sau bài này, NTG có khả năng : Kiến thức: Hiểu được một số lỗi thường gặp, nguyên nhân mắc lỗi và phương pháp sửa những lỗi đó. Kĩ năng: Biết chỉ ra được nguyên nhân mắc lỗi và cách chữa các lỗi mắc phải một cách phù hợp với việc nói, viết tiếng Việt. Thái độ: Có ý thức khắc phục lỗi sử dụng tiếng Việt ở việc phát âm, dùng từ, đặt câu hay dựng đoạn...trong hoạt động học tập và giao tiếp thường ngày. II. TÀI LIỆU VÀ THIẾT BỊ DẠY HỌC - Người hướng dẫn: + Kế hoạch bài tập huấn, tài liệu học tập, phiếu bài tập. + Giấy A0, giấy A4, bút dạ, băng dính, giấy bìa mầu, kéo. + Máy chiếu, màn chiếu (nếu điều kiện cho phép). - Người tham gia : SGK, SGV, Giáo án,… III. PHƯƠNG TIỆN ĐÁNH GIÁ - Thông qua kết quả cá nhân trong việc phân tích các bài tập. - Thông qua kết quả của việc thảo luận nhóm. IV. KẾT QUẢ MONG ĐỢI - Nhận biết một số lỗi học sinh dân tộc thường mắc khi sử dụng tiếng Việt trong nói, viết..

<span class='text_page_counter'>(139)</span> - Xác định được đúng lỗi sử dụng tiếng Việt trong những câu văn, đoạn văn cụ thể. - Chỉ ra được nguyên nhân và cách khắc phục lỗi ở những trường hợp sử dụng cụ thể. V. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Thời gian. Tên hoạt động Hoạt động 1:. 20’. Tìm hiểu các lỗi chính tả. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. - Nêu yêu cầu: Mỗi nhóm chọn một số. - Làm việc theo nhóm:. Ghi chú - Sử dụng :. Đọc tài liệu; thảo SGK,. SGV,. lỗi chính tả tiêu biểu của luận, đưa ra các biện giấy A0, bút HS DTTS và trình bày pháp cách thức khắc phục.. khắc. phục. lỗi dạ, bút mầu để. chính tả và trình bày sản soạn bài và phẩm trên giấy A0.. trình bày sản. - Làm bài tập.. phẩm. - Sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực.. - Yêu cầu : 20’. - Các nhóm xem kết quả. Các nhóm hoàn thành sản phẩm của nhau. sản phẩm.. - Đại diện từng nhóm trình bày sản phẩm của nhóm trước lớp. - Lớp nghe, nhận xét, bổ sung, tranh luận.. - Tóm tắt kết quả thảo luận 10’. của các nhóm và chốt lại vấn đề về khắc phục lỗi chính tả. - Khẳng định tính khả thi của các biện pháp khắc.

<span class='text_page_counter'>(140)</span> phục lỗi chính tả đã đề xuất. 10’. - Tổng kết bài.. - Lắng nghe, ghi chép;. - Giải đáp thắc mắc.. nêu tiếp thắc mắc (nếu có). TÀI LIỆU HỌC TẬP VỀ CÁC LOẠI LỖI CHÍNH TẢ CỦA HS DTTS Mỗi loại lỗi chính tả có thể do một hay nhiều nguyên nhân tạo nên đối với HS DTTS. Tuy vậy, chúng ta vẫn cần phải khẳng định rằng một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những lỗi chính tả ở HS DTTS THCS là do những chuyển di tiêu cực của TMĐ khi các em học tiếng Việt. Hệ thống ngữ âm tiếng Việt và hệ thống ngữ âm tiếng dân tộc của học sinh có sự khác biệt. Ví dụ: Tiếng Mông chỉ có 8 nguyên âm, 4 âm cuối, 13 vần trong khi tiếng Việt có 14 nguyên âm, 10 âm cuối, 155 vần nên học sinh người Mông thường viết sai phần vần của âm tiết, đặc biệt là các âm tiết khép (có p, t, k đứng cuối). Một số ngôn ngữ DTTS không có đủ các nguyên âm đôi như tiếng Việt. Cho nên các em rất khó khăn khi phát âm các vần có nguyên âm đôi, đồng thời khi viết cũng hay viết thiếu âm vị trong các vần có nguyên âm đôi ấy. Ví dụ: + Phụ âm Một số ngôn ngữ dân tộc không có đủ phụ âm như tiếng Việt. Ví dụ dân tộc Thái không có phụ âm đ. Các âm đ đọc thành l: quả đào => quả lào, đất => lất... Vì vậy nên học sinh dân tộc Thái hay viết chữ đ thành chữ l. Một số dân tộc không phân biệt được phụ âm đầu b/v hoặc p/b nên đọc và viết dễ lẫn bảo vệ thành bảo bệ, đèn pin thành đèn bin… + Âm đệm Một số ngôn ngữ dân tộc không có âm đệm như dân tộc Bru, Vân Kiều.. nên học sinh thường viết thiếu âm đệm: tập huấn => tập hấn, nghệ thuật => nghệ thật…. + Nguyên âm.

<span class='text_page_counter'>(141)</span> Một số ngôn ngữ dân tộc không có nguyên âm đôi nên học sinh gặp nhiều khó khăn khi đọc các vần có nguyên âm đôi, đồng thời khi viết cũng thường viết thiếu âm trong các vần có nguyên âm đôi. Ví dụ tiếng Nùng không có nguyên âm đôi nên HS hay viết sai chính tả: huyền => huền, niềm tin => nìm tin, cuồn cuộn => cồn cộn; lươn => lơn. + Âm cuối - Cấu trúc âm tiết của một số ngôn ngữ dân tộc không có âm cuối hoặc không đủ các âm cuối (dân tộc Hmông). Do đó, khi viết các âm tiết có âm cuối như: p, t, c, ch,...học sinh thường hay nhầm lẫn. Ví dụ chất => chấc, phấp phới => phất phới... + Thanh điệu Ngôn ngữ của một số dân tộc như Êđê, Jrai, Bana…không có thanh điệu nên HS thường viết sai các dấu thanh (không viết dấu thanh hoặc viết lẫn sang dấu thanh khác). Ví dụ: mạnh khoẻ thành manh khoe hoặc mánh khoẻ… Một số ngôn ngữ dân tộc có thanh điệu nhưng số lượng và đặc điểm thanh điệu không tương ứng với số số lượng và đặc điểm thanh điệu trong tiếng Việt như tiếng Mường, Thái , Dao, Mông…Ví dụ: HS một số dân tộc đọc và viết lẫn lộn huy hiệu thành huy hiểu, giới thiệu thành giới thiểu... + Cấu trúc âm tiết Cấu trúc âm tiết của một số tiếng dân tộc không điển hình do số lượng âm cuối bị hạn chế. Do đó, khi đọc và viết các âm tiết có âm cuối p, t, c, ch thường hay nhầm lẫn. Ví dụ: thịt viết là thịch, chất viết chấc, phấp phới viết phất phới…; Tiếng Nùng không có nguyên âm đôi nên HS thường viết thành nguyên âm đơn: niềm tin -> nìm tin; chiều hôm -> chìu hôm; cuồn cuộn -> cồn cộn; hương sắc -> hơng sắc; Tiếng Bru-Vân Kiều không có âm đệm nên HS thường viết thiếu âm đệm: chuẩn bị -> chẩn bị; nghệ thuật -> nghệ thật ….

<span class='text_page_counter'>(142)</span> - Do HS không hiểu nghĩa từ Khả năng hiểu nghĩa từ của học sinh dân tộc thiểu số cấp THCS vẫn còn rất khó khăn. Các em có thể nghe được nhưng không hiểu đúng nghĩa của từ ngữ dẫn đến viết sai chính tả: Tổ quốc thành Tổ cuốc, để dành thành để giành, xinh đẹp thành sinh đẹp... Vốn từ của học sinh dân tộc thiểu số cũng rất hạn chế. Do các em sống trong môi trường giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ lại ở vùng sâu, xa ít phương tiện truyền thông nên việc học để hiểu nghĩa nhiều từ ngữ trong sách giáo khoa và thể hiện đúng các từ ngữ này trong bài viết không đơn giản. Những điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kĩ năng viết đúng chính tả của học sinh dân tộc thiểu số... Lỗi chính tả trong các bài viết của học sinh dân tộc thiểu số xuất hiện ở tất cả các bộ phận của âm tiết tiếng Việt. Tuy vậy, chúng ta có thể nêu lên một số lỗi chính tả thường gặp ở học sinh dân tộc ít người như sau: a) Lẫn lộn các cặp dấu thanh tiếng Việt hỏ i- ngã, ngã - sắc... và lẫn lộn các cặp phụ âm đầu: g / gh ; ng /ngh... ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: - Do không nắm được quy tắc chính tả tiếng Việt Trong chính tả tiếng Việt có một số quy tắc không phải dễ với học sinh dân tộc. Điều đó đã khiến cho các em khó nhớ, khó nhận biết. Học sinh dân tộc thiểu số rất khó nhớ các quy tắc chính tả khi viết các âm (g/gh, ng/ngh, c/k), các quy định về viết hoa tên riêng người nước ngoài, tên các cơ quan đoàn thể... Trong khi học sinh dân tộc Kinh tiếp thu các quy tắc chính tả một cách thuận lợi hơn vì các quy tắc đó thể hiện qua các tiếng, từ cụ thể mà các em đã hiểu nghĩa (ví dụ: các em phân biệt chữ k gắn với các các từ kim, kem, kiến...; chữ c gắn với các từ cá, cô, cười...), trong khi đó thì học sinh dân tộc thiểu số tiếp thu các quy tắc chính tả khó khăn hơn rất nhiều vì các em vừa phải học quy tắc chính tả vừa phải học nghĩa từ. Để sửa lỗi này, học sinh cần phải thuộc một số quy tắc chính tả tiếng Việt. - Do chính tả tiếng Việt chủ yếu là chính tả ngữ âm học Vì là chính tả ngữ âm học nên trong tiếng Việt phát âm như thế nào thì viết như thế nấy. Việc phát âm đúng là cơ sở để viết đúng chính tả tiếng Việt, việc phát âm sai, phát âm không chính xác sẽ dẫn tới chỗ viết sai chính tả. Đây là nguyên.

<span class='text_page_counter'>(143)</span> nhân giải thích cho chúng ta rõ vì sao một số học sinh dân tộc không viết đúng dấu thanh, không viết các phụ âm p, t, k cuối các âm tiết khép... Lí do chính là việc phát âm không chính xác các âm trong tiếng Việt. Muốn sửa lỗi này, cần luyện tập phát âm chuẩn, cần phải luyện nghe như thế nào thì viết như thế nấy. - Do tiếng Việt có một số phụ âm đầu khó nhận ra sự khác biệt khi phát âm Trong tiếng Việt, có một số phụ âm đầu cho tới thời điểm này, không phải lúc nào, không phải bất kì học sinh nào cũng có ý thức và phát âm đúng. Vì thế, các cặp sau là khó đối với học sinh dân tộc: + s/x : sản xuất, sản sinh; sợ sệt, bổ sung + tr/ch : tre nứa, che đậy + l/n : lê la , quả na; nàng tiên , làng quê Muốn khắc phục lỗi loại này, học sinh vừa tập nghe nhiều, phát âm nhiều vừa kết hợp với việc hiểu nghĩa từ và sự ghi nhớ máy móc cách viết của các từ đó. b)Lẫn lộn các viết âm đệm, cách viết các nguyên âm đôi và không viết được một số vần có cấu trúc phức tạp. ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: - Do trong tiếng Việt ở vị trí âm đệm hoặc âm chính có trường hợp phát âm giống nhau nhưng viết lại có sự khác nhau: Ví dụ: loanh quanh; loắng quắng (cùng đọc là oanh / oắng nhưng trong loanh / loắng lại viết oanh, oắng nhưng trong quanh / quắng lại viết uanh / uắng . Để khắc phục lỗi này, học sinh cần phải được rèn luyện chính tả một cách thường xuyên để làm quen và ghi nhớ mặt chữ. - Do một số âm tiết tiếng Việt có các âm các vần khó phát âm. Việc phát âm các âm tiết có vần như uynh, uych, ươu, uơ, uyu, oay, oăm... thì ngay cả học sinh dân tộc Kinh phát âm cũng không phải dễ dàng. Bởi việc các em không phát âm được các vần này nên việc viết sai chính tả cũng không phải là việc gì đáng ngạc nhiên. Ví dụ: khuyếch trương / ngắc ngoải / khúc khuỷu / quằm quặm ....

<span class='text_page_counter'>(144)</span> Để khắc phục lỗi này, học sinh cần phải được rèn luyện chính tả một cách thường xuyên để làm quen và ghi nhớ mặt chữ..

<span class='text_page_counter'>(145)</span> PHIẾU BÀI TẬP. Phiếu bài tập 1 Thảo luận nhóm (hoặc tổ) về các vấn đề sau: - Hãy thống kê những lỗi mà học sinh dân tộc ít người thường mắc về phát âm, dùng từ, đặt câu khi sử dụng tiếng Việt. - Phân tích những nguyên nhân mắc lỗi ấy của học sinh. - Hãy chỉ ra phương pháp rèn luyện cho học sinh dân tộc ít người để khắc phục những lỗi đã nêu .. Phiếu bài tập 2 Đọc phần nội dung bài giảng và các tài liệu học tập liên quan, tổ chức thảo luận nhóm về các vấn đề sau: ● Lỗi chính tả a) Chính tả là gì ? b) Lỗi chính tả là gì ? c) Chính tả quy định cách viết âm tiết tiếng Việt như thế nào ? d) Chính tả quy định về cách viết hoa tên riêng như thế nào ?. Thời. Tên hoạt động. gian Hoạt động 2: 20’. Hoạt động. Hoạt động. của người hướng dẫn. của người tham gia. - Nêu yêu cầu: Mỗi - Làm việc theo nhóm:. Tìm hiểu các lỗi nhóm chọn một một số dùng từ. Ghi chú - Sử dụng :. Đọc tài liệu; thảo luận, SGK, SGV,. lỗi dùng từ của HS đề xuất các biện pháp giấy A0, bút DTTS và đưa ra cách khắc phục lỗi dùng từ và dạ, bút mầu khắc phục cho học sinh. trình bày sản phẩm trên để soạn bài giấy A0.. và trình bày.

<span class='text_page_counter'>(146)</span> - Làm bài tập.. sản phẩm. - Sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực.. Yêu cầu : 20’. - Các nhóm tham quan. Các nhóm hoàn kết quả của nhau. thành. sản. phẩm. và - Đại diện từng nhóm. trưng bày.. trình bày sản phẩm của nhóm trước lớp. - Lớp nghe, nhận xét, bổ sung, tranh luận.. - Tóm tắt kết quả thảo 10’. luận của các nhóm và chốt lại vấn đề khắc phục lỗi dùng từ. - Khẳng định tính khả thi của các biện pháp khắc phục lỗi dùng từ đã đề xuất.. 10’. - Tổng kết bài.. - Lắng nghe, ghi chép;. - Giải đáp thắc mắc.. nêu tiếp thắc mắc (nếu có). TÀI LIỆU HỌC TẬP VỀ CÁC LỖI DÙNG TỪ CỦA HS DTTS 1. Dùng từ không đúng âm thanh Ví dụ:. Phát âm đúng. Phát âm sai nên viết sai. - bản tuyên ngôn. - bảng tuyên ngôn. - tinh tế. - tinh túy. - thủy mặc. - thủy mạc. - cảm khái. - cảm khoái.

<span class='text_page_counter'>(147)</span> - hủ tục. - thủ tục. Từ có hai mặt: âm thanh và ý nghĩa. Âm thanh và ý nghĩa của từ là do sự quy ước của xã hội, do đặc tính của ngôn ngữ quyết định. Khi nói hoặc viết, nếu người sử dụng muốn dùng với nghĩa này mà lại dùng âm thanh kia sẽ dẫn đến người đọc và người nghe không hiểu. ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: Nguyên nhân mắc lỗi loại này có thể do học sinh nhầm lẫn thanh điệu, nhầm lẫn phụ âm đầu hoặc không nắm chính xác cách phát âm... Để sửa lỗi phát âm sai nên viết sai cần phải vừa nắm chắc cách phát âm chính xác vừa cần hiểu rõ nghĩa của từ. 2. Dùng từ không đúng nghĩa Ví dụ: - Thúy Kiều là người có tài, có sắc nhưng lại là người bạt mệnh. (đúng ra là: bạc mệnh) - Trời đã thanh thiên bạch nhiệt mà chú gà sống hoa mơ vẫn chưa chịu thức giấc. (đúng ra là: thanh thiên bạch nhật) - Thiên niên nơi này thật là đẹp đẽ. (đúng ra là: thiên nhiên) - Ông sống cuộc đời phiêu bạc, nay đây mai đó, thật khốn khổ vô cùng. (đúng ra là: phiêu bạt) - Từ ngày cô vĩnh biệt chúng em đi công tác ở trường khác, chúng em vẫn luôn nhớ cô. (đúng ra là: Từ ngày cô / tạm biệt / từ biệt / chia tay / chúng em đi công tác ở trường khác, chúng em vẫn luôn nhớ cô.) ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi này chính là vì học sinh không rõ nghĩa (cùng với việc không rõ âm) mà vẫn dùng. Hệ thống từ ngữ tiếng Việt rất phong phú và đa dạng, mỗi từ thường có nhiều nghĩa và nhiều cách sử dụng khác nhau trong nói và viết. Tuỳ từng ngữ cảnh cụ thể mà dùng nghĩa chính hay nghĩa chuyển của từ so cho phù hợp, cho chính xác. Học sinh dân tộc thiểu số ít có sự lựa chọn từ trong cùng trường nghĩa (những.

<span class='text_page_counter'>(148)</span> từ có nghĩa gần nhau) ít có năng lực phân biệt ngữ cảnh mà lựa chọn từ. Hơn thế nữa, trong tiếng Việt còn có một số từ đồng âm khác nghĩa hoặc từ Hán Việt, do phát âm như nhau nhưng nghĩa lại khác nhau nên các em dễ mắc lỗi khi dùng. Để sửa lỗi này, học sinh cần phải hiểu chính xác âm và nghĩa của từ thì mới sử dụng, đặc biệt là từ Hán - Việt có trong tiếng Việt. Muốn có được điều này, học sinh phải được thường xuyên sử dụng vốn từ của mình. 3. Dùng từ sai sắc thái biểu cảm Ví dụ,: - Trong trận chiến đấu ấy, quân địch đã hy sinh rất nhiều. (đúng ra là: chết, tử trận...) - Quân ta mở nhiều đợt tấn công nhưng quân địch vẫn kiên cường chống trả. (đúng ra là: liều lĩnh, ngoan cố...) - Thầy giáo bước vào lớp và cả lớp đã đứng dạy chào nó. (đúng ra là: thầy, thầy giáo...) ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: - Nghĩa của từ là một tập hợp gồm ba thành phần: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu thái. Nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm trong tiếng Việt thường dễ nhận ra nhưng nghĩa biểu thái không phải lúc nào cũng nhận ra được và nhiều khi nhận ra được nghĩa này nhưng dùng được nét nghĩa ấy cũng không phải là việc dễ dàng. Chính vì thế việc học sinh dân tộc mắc nhiều lỗi về sắc thái biểu cảm là không thể tránh được. - Hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng Việt luôn chứa đựng sắc thái biểu cảm, vì vậy dùng bất kì một đại từ nhân xưng nào cũng kèm theo là thái độ biểu cảm khác nhau. Trong khi đó, hệ thống đại từ nhân xưng và các từ ngữ xưng hô của tiếng nhiều dân tộc thiểu số lại khác với trong tiếng Việt. Không phải cứ đại từ nhân xưng là kèm theo sắc thái biểu cảm. Vì vậy, với sự khác nhau như vậy và do thói quen nói tiếng mẹ đẻ, học sinh dân tộc thiểu số gặp khó khăn trong việc dùng đại từ. Các em thường sử dụng các từ xưng hô không phù hợp nhiều khi dẫn tới chỗ khiếm nhã; sử dụng nhầm lẫn các từ ngữ do không hiểu nghĩa..

<span class='text_page_counter'>(149)</span> Để sửa lỗi này, học sinh phải thường xuyên được trau giồi vốn từ của mình bằng việc sử dụng vốn từ đó thông qua hoạt động giao tiếp bằng tiếng Việt. 4. Dùng từ không đúng đặc điểm ngữ pháp Ví dụ: - Mẹ mới mua cho cái vở đẹp. (đúng ra là: quyển vở) - Chỗ này rất tốt ở . (đúng ra là: Chỗ này ở rất tốt.) - Nước rất xanh thẫm. (đúng ra là: Nước rất xanh. / Nước xanh thẫm.) - Bốn giấy trắng tinh. (đúng ra là: Bốn tờ giấy trắng tinh.) ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: - Do phương thức tạo từ của tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số có nhiều sự khác biệt. Thông thường học sinh dân tộc thiểu số thường sử dụng cách tạo từ của tiếng mẹ đẻ áp dụng cho cách tạo từ tiếng Việt trong nói và viết bằng tiếng Việt. Ví dụ, học sinh dân tộc Mông viết: anh em -> em anh; rộng lượng -> gan rộng; thương xót -> gan đau; … hoặc có các từ ghép có đảo trật tự so với tiếng Việt: mẹ bố (cha mẹ), em anh (anh em), tôi mẹ (mẹ tôi) cái ba tháng (tháng 3); hiện tượng chuyển nghĩa: biết - chú ý (biết rõ), đau - gan (thương xót)...; hiện tượng láy: đi đi (đi mãi), (có) thứ - thứ (có mọi thứ)... - Do không nắm được quy tắc kết hợp của phần phụ trước, phụ sau của các từ loại tiếng Việt. Để sửa lỗi này, học sinh cần phải nắm được khả năng kết hợp từ của các từ loại trong tiếng Việt, đặc biệt khả năng kết hợp của phần phụ đứng trước và phần phụ đứng sau. 5. Dùng từ không phù hợp với phong cách nói – viết Ví dụ: - cãi nhau / thảo luận, tranh luận... - ví như / ví dụ, thí dụ ... - cáu tiết / bực tức, tức giận....

<span class='text_page_counter'>(150)</span> ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: Đây là việc dùng văn nói (phong cách khẩu ngữ) trong văn viết (phong cách gọt giũa). Học sinh thường nói như viết và ngược lại, viết như nói. Điều đó tạo nên sự không phù hợp về mặt phong cách. Để sửa lỗi này, học sinh cần phải được luyện tập sử dụng nhiều lần những từ ngữ cả trong khi nói và khi viết dưới sự phân tích, chỉ dẫn của giáo viên. PHIẾU BÀI TẬP. Phiếu bài tập 3 Đọc phần nội dung bài giảng và các tài liệu học tập liên quan, tổ chức thảo luận nhóm về các vấn đề sau: ● Lỗi dùng từ a) Lỗi dùng từ khác gì với lỗi chính tả và lỗi đặt câu? b) Sửa lỗi dùng từ có điểm nào giống và khác với sửa lỗi đặt câu? c) Nêu một lỗi dùng từ cụ thể ở học sinh dân tộc thiểu số và nêu cách khắc phụ lỗi đó. d) Theo anh (chị) để hạn chế việc mắc lỗi dùng từ của học sinh dan tộc thiểu số, giáo viên nên làm gì?. Phiếu bài tập 4 Phân biệt nghĩa của các nhóm từ dưới đây: a) đề xuất, đề bạt, đề cử, đề nghị b) tiêu hao, tiêu tốn, tiêu phí, tiêu thụ c) thái, lạng, băm, chặt d) rét, lạnh, buốt, giá.

<span class='text_page_counter'>(151)</span> Phiếu bài tập 5 Trong những cặp dùng từ được nêu dưới đây, anh chị cho trường hợp nào là hay hơn? Vì sao? a) - Bóng Bác cao lồng lộng Ấm hơn ngọn lửa hồng. - Bóng Bác cao lồng lộng Ấm như ngọn lửa hồng. b) - Đêm nghe tiếng ếch bên tai Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. - Đêm nghe tiếng ếch bên tai Giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò. c) - Cỏ non xanh rợn chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa - Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Thời. Tên hoạt động. gian. người hướng dẫn Hoạt động 3:. 20’. Hoạt động của. Tìm hiểu các lỗi đặt câu. - Nêu yêu cầu:. Hoạt động của người tham gia. Ghi chú. - Làm việc theo nhóm: - Sử dụng :. Mỗi nhóm chọn Đọc tài liệu; thảo luận, đề SGK,. SGV,. một số lỗi điển hình xuất các biện pháp khắc giấy A0, bút về đặt câu của HS phục lỗi đặt câu và trình dạ, bút mầu để DTTS và đề xuất bày sản phẩm trên giấy soạn cách khắc phục.. bài. và. A0 .. trình bày sản. - Làm bài tập.. phẩm. - Sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực..

<span class='text_page_counter'>(152)</span> Yêu cầu : 20’. Các. nhóm. - Các nhóm xem kết quả hoàn sản phẩm của nhau.. thành sản phẩm và - Đại diện từng nhóm trình trưng bầy.. bày sản phẩm của nhóm trước lớp. - Lớp nghe, nhận xét, bổ sung, tranh luận.. - Tóm tắt kết quả - Lắng nghe. 10’. thảo luận của các - Phản hồi. nhóm và chốt lại vấn đề khắc phục lỗi đặt câu cho HS DTTS. - Khẳng định tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.. 10’. - Tổng kết bài.. -. Lắng nghe, ghi chép;. - Giải đáp thắc mắc.. nêu tiếp thắc mắc (nếu có). TÀI LIỆU HỌC TẬP VỀ CÁC LỖI ĐẶT CÂU CỦA HS DTTS 1. Đặt câu không phù hợp với quy tắc ngữ pháp tiếng Việt Ví dụ: - Học sinh Jrai Đâu mẹ đi ? (đúng ra là: Mẹ đi đâu?) - Học sinh Ba-na Cái gì em ăn? (đúng ra là: Em ăn cái gì?) - Học sinh Ê-đê Gì anh làm? (đúng ra là: Anh làm gì?).

<span class='text_page_counter'>(153)</span> ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: Nguyên nhân mắc lỗi như vừa nêu trên là do những chuyển di tiêu cực khi học tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng mẹ đẻ. Một số cách đặt câu của tiếng dân tộc được chuyển sang dùng cho cách đặt câu tiếng Việt, vì thế dẫn đến chỗ sai quy tắc đặt câu. Nhìn chung, để khắc phục lỗi này, một mặt cần tránh cho học sinh những chuyển di tiêu cực từ tiếng mẹ đẻ sang học một thứ tiếng khác, một mặt khác cần rèn luyện cách đặt những kiểu câu theo mẫu của tiếng Việt. Bên cạnh lỗi trên, HS DTTS còn mắc những lỗi giống học sinh dân tộc Kinh như: câu thiếu chủ ngữ, câu thiếu vị ngữ, câu „què”, câu „cụt”. hoặc thiếu vế trong câu ghép. Ví dụ: - Bó hoa tươi này. (đúng ra là: Bó hoa này tươi.) - Khi cô giáo vào lớp. Cả lớp đứng dạy chào cô. (đúng ra là: Khi cô giáo vào lớp, cả lớp đứng dạy chào cô.) Muốn khắc phục lỗi này, học sinh cần được thực hành luyện tập theo mẫu có sự hướng dẫn của giáo viên. Để các em xác định được trật tự từ trong câu, khi phân tích mẫu, giáo viên cần nhấn vào từ ngữ chức năng có tác dụng cấu tạo dạng hỏi (từ ngữ nghi vấn: ai, cái gì, làm gì, ở đâu...; các khuôn từ ngữ: có phải... không?, có... không?...); dạng câu cầu khiến (phó từ: hãy, chớ, đừng...; trợ từ: đi, nào, thôi...), hay cảm thán ( ôi, chao, chà...). Ngoài ra, để nhanh chóng giúp học sinh có được tiến bộ trong việc khắc phục lỗi trên, giáo viên cần giúp cho các em hiểu được hai thành phần chính của câu tiếng Việt, đó là chủ ngữ và vị ngữ. Trong những trường hợp thông thường, khi đặt câu các em cần phải đặt câu gồm đủ cả hai thành phần đó. 2. Dùng thiếu hoặc sai dấu câu Đây là loại lỗi vì dùng thiếu dấu câu hoặc dùng sai dấu câu mà nội dung của câu bị hiểu sai lạc. Ví dụ: - Bộ đội tiến công vào đồn giặc chết như rạ. (đúng ra là: Bộ đội tiến công vào đồn, giặc chết như rạ. - Dũng nhìn Thanh hậm hực. (đúng ra là: Dũng nhìn, Thanh hậm hưc.).

<span class='text_page_counter'>(154)</span> ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: Dấu câu là một phương tiện ngữ pháp vừa để tách biệt thành phần câu vừa đễ xác nhận mối quan hệ nghĩa giữa các thành phần ấy. Vì vậy, trong những trường hợp bắt buộc phải dùng mà học sinh không dùng hoặc dùng sai sẽ dẫn đến chỗ mối quan hệ nghĩa ấy không trở nên rõ ràng và vì thế mà nội dung có thể bị hiểu sai lạc. Để khắc phục lỗi này, học sinh cần được luyện tập về việc sử dụng các loại dấu câu khác nhau ở những phong cách khác nhau. 3. Không có sự phù hợp nội dung ngữ nghĩa giữa các thành phần câu Ví dụ: - Hình ảnh của Thi là mẫu mực của người sống nhiệt tình với bạn bè. (đúng ra là: Thi là mẫu mực của người sống nhiệt tình với bạn bè.) - Bọn địch đã tra tấn anh bằng những lời lẽ rất dã man. (đúng ra là: Bọn địch đã tra tấn anh bằng những trận đòn rất dã man.) ● Nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa: Các câu trên không có sự phù hợp nghĩa giữa các thành phần câu (giữa chủ ngữ và vị ngữ) vì vậy dẫn đến câu sai. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là do học sinh tư duy còn chậm hoặc do không chú ý đến chủ ngữ khi viết phần vị ngữ, nên sự phù hợp nghĩa bị phá vỡ. Đôi khi những lỗi như vậy còn do học sinh viết câu dài nên không nhận ra mối quan hệ nghĩa, nhận ra được sự phù hợp nghĩa giữa các câu với nhau. Để sửa lỗi này, một mặt học sinh cần nâng cao năng lực tư duy của bản thân mình, mặt khác, GV cũng cần có ý thức hơn nữa, chú ý hơn nữa đến việc giúp đỡ HS hiểu rõ mối quan hệ giữa các thành phần trong câu..

<span class='text_page_counter'>(155)</span> PHIẾU BÀI TẬP. Phiếu bài tập 6 Đọc phần nội dung bài giảng và các tài liệu học tập liên quan, tổ chức thảo luận nhóm về các vấn đề sau: ● Lỗi đặt câu a) Khi nào câu văn của học sinh bị coi là mắc lỗi đặt câu? b) Nêu một vài ví dụ cụ thể về lỗi đặt câu thường mắc ở học sinh dân tộc thiểu số mà anh chị biết. c) Hãy chỉ ra nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa chữa cho những trường hợp mắc lỗi mà anh chị vừa nêu.. Phiếu bài tập 7 1. Đánh dấu vào những câu được coi là đúng ngữ pháp tiếng Việt: - Lan học giỏi nhưng lười học. - Lan học giỏi và lười học. - Lan càng học giỏi càng lười học. - Lan vừa học giỏi vừa lười học. - Lan không những học giỏi mà còn lười học. - Lan tuy học giỏi nhưng lười học. 2. Hãy phân tích những nguyên nhân mắc lỗi và cách sửa cho những câu bị coi là sai trong bài tập trên..

<span class='text_page_counter'>(156)</span> TÀI LIỆU ĐỌC THÊM QUY TẮC CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT. 1 Quy tắc viết các bộ phận của âm tiết (1) Quy tắc viết dấu thanh - Dấu thanh được ghi vào con chữ ghi âm chính của âm tiết. Các dấu huyền, dấu hỏi, dấu sắc, dấu ngã được ghi phía trên con chữ ghi âm chính. Dấu nặng thì ghi phía dưới con chữ ghi âm chính. Âm tiết có thanh điệu là thanh ngang thì không ghi dấu thanh. Ví dụ: ban, bàn, bản, bán, bạn… - Đối với các âm tiết mà âm chính là nguyên âm đôi thì dấu thanh ghi như sau: Nếu sau nguyên âm đôi không có âm cuối vần thì dấu thanh ghi vào con chữ thứ nhất ghi nguyên âm đôi. Ví dụ: mùa, mía, của, cửa… Nếu sau nguyên âm đôi có âm cuối vần thì dấu thanh đặt vào con chữ thứ hai ghi nguyêm âm đôi. Ví dụ: yếu, hiện, đường, cuốc… (2) Quy tắc viết c/k/q Phụ âm /k/ được biểu thị bằng 3 kí hiệu c, k hoặc q. - Viết là c khi đứng trước các con chữ a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư. Ví dụ: ca, căn, cân, co, cô, cơ, cu, cư, cưa, cương… - Viết là k trước các con chữ e, ê, i. Ví dụ: kẻ, kể, kỉ, kiên, kia…(Riêng trường hợp viết ka ki do từ này là phiên âm gốc Pháp nên vẫn được viết k ). - Viết là q trước con chữ u ghi âm đệm. Ví dụ: qua, quang, quăng… (3) Quy tắc viết g/gh: Phụ âm / / (gờ) được biểu thị bằng 2 kí hiệu g hoặc gh. - Viết là g trước các con chữ a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư. Ví dụ: ga, gắng, go, gô, gơ, gu, gừng, gương… - Viết là gh trước các con chữ e, ê, i. Ví dụ: ghé, ghế, ghi… (4) Quy tắc viết ng/ngh: Phụ âm / / (ngờ) được biểu thị bằng 2 kí hiệu ng hoặc ngh. - Viết là ng trước các con chữ a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư. Ví dụ: ngã, ngõ, ngô, ngơ, ngu, ngưng, ngưỡng… - Viết là ngh trước các con chữ e, ê, i. Ví dụ: nghe, nghê, nghi, nghiên… (5)Quy tắc viết i/y.

<span class='text_page_counter'>(157)</span> Nguyên âm /i/ được biểu thị bằng 2 kí hiệu i hoặc y. - Viết là i khi đứng sau phụ âm đầu. Ví dụ: tỉ, mỉ, kĩ, chính, kính… - Viết là y khi đứng sau âm đệm (như: tuy, quy, quỳnh….) - Viết là y khi đứng một mình Ví dụ: y tá, ý nghĩa, yêu cầu…) - Viết là i trong một số âm tiết là từ tượng thanh, tượng hình. Ví dụ: ỉ eo, í ới, ì ọp, ầm ĩ, béo ị… hoặc một số từ phiên âm tiếng nước ngoài như: i-ông, i-ốt, iô-ga… Ghi chú: Trong tiếng Việt hiện nay vẫn song song tồn tại hai cách viết các trường hợp trên như: kĩ thuật/kỹ thuật, thẩm mĩ/ thẩm mỹ, qui định/ quy định… (6) Quy tắc viết iê/yê/ia/ya Nguyên âm đôi /ie/ được biểu thị bằng bốn tổ hợp kí hiệu: iê, yê, ia hoặc ya. - Viết là iê khi âm tiết có cả âm đầu và âm cuối.Ví dụ: việt, tiến, chiến… - Viết là yê khi mở đầu âm tiết hoặc đứng sau âm đệm. Ví dụ: yên, yết, yêu, chuyển, quyển… - Viết là ia khi âm tiết không có cuối. Ví dụ: bia, chia, phía, … - Viết là ya khi đứng sau âm đệm và không có âm cuối. Ví dụ: đêm khuya, phéc-mơ- tuya, giấy pơ-luya… (7) Quy tắc viết ua/uô Nguyên âm đôi /uo/ được biểu thị bằng hai tổ hợp kí hiệu ua hoặc uô. - Viết là ua khi âm tiết không có âm cuối hoặc ua đứng một mình: Ví dụ: mua, cua, chùa, ùa, úa… - Viết là uô khi âm tiết có âm cuối. Ví dụ: suối, chuối, ruột, èo uột,… (8) Quy tắc viết ưa/ươ Nguyên âm đôi / / được biểu thị bằng hai tổ hợp kí hiệu ưa hoặc ươ. - Viết là ưa khi âm tiết không có âm cuối. Ví dụ: mưa, chưa, cửa.. - Viết là ươ khi âm tiết có âm cuối. Ví dụ: ước, nước, thưởng, cường… (9) Quy tắc viết u/o Âm đệm /u/ được biểu thị bằng 2 kí hiệu u hoặc o..

<span class='text_page_counter'>(158)</span> - Viết là u khi phụ âm đầu là con chữ q (Ví dụ: qua, quân, quang, quyết…) hoặc nguyên âm chính là â, ê, y, ya, yê (Ví dụ: tuấn, tuềnh toàng, tuy, khuya, khuyết…), - Viết là o khi phụ âm đầu không phải là q hoặc nguyên âm chính là a, ă, e. Ví dụ: hoà hoãn, băn khoăn, toe toét… 2 Quy tắc viết hoa tên riêng Viết hoa là một quy định về chính tả với các chức năng sau: Viết hoa để đánh dấu sự bắt đầu của một câu (chức năng ngữ pháp), viết hoa để biểu thị sự tôn kính, trân trọng (chức năng tu từ), viết hoa để biểu thị tên riêng: tên người, tên địa danh, tên các cơ quan, đoàn thể và tổ chức xã hội, tên các tác phẩm… (chức năng từ vựng - ngữ pháp). Trong tiếng Việt hiện nay hai chức năng đầu được thực hiện tương đối nhất quán. Riêng chức năng thứ ba xử lí chưa thống nhất. Rất tiếc là đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp quy nào có tác dụng điều chỉnh thống nhất chung cho cả cộng đồng về cách viết hoa nói trên. Để triển khai việc biên soạn chương trình và sách giáo khoa mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành văn bản số 07/2003/QĐ-BGD&ĐT, ngày 13/3/2003 “Quy định tạm thời về viết hoa tên riêng trong sách giáo khoa”. Quy định này đồng thời cũng được coi là những quy tắc về viết hoa được áp dụng thống nhất trong nhà trường hiện nay. Có thể nêu thành các quy tắc viết hoa tên riêng trong tiếng Việt như sau: (1) Quy tắc viết hoa tên dân tộc, tên người Việt Nam: Tên dân tộc, tên người Việt nam được viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết. Ví dụ: Kinh, Tày, Thái, Sán Dìu, Lô Lô… (tên dân tộc), Đinh Tiên Hoàng, Trần Phú, Tố Hữu, Vừ A Dính…(tên người). Ghi chú: - Tên gọi một số danh nhân, nhân vật lịch sử có những âm tiết vốn là danh từ chung nhưng đã trở thành tên gọi riêng nên đã được viết hoa theo quy tắc viết hoa tên riêng. Ví dụ: Thánh Gióng, Đồ Chiểu, Hai Bà Trưng… - Đối với tên dân tộc, tên người thuộc các dân tộc thiểu số Việt Nam mà ngôn ngữ có cấu tạo từ đa tiết tính thì chỉ viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên riêng và gạch nối giữa các âm tiết trong mỗi bộ phận đó. Ví dụ: Ba-na, Xơ-đăng (tên dân tộc), Nơ-trang-lơng, Kơ-pa Kơ-lơng (tên người)….

<span class='text_page_counter'>(159)</span> (2) Quy tắc viết hoa tên người nước ngoài: - Tên người nước ngoài được phiên âm qua âm Hán Việt thì viết hoa giống như quy tắc viết tên người Việt Nam. Ví dụ: Chu Ân Lai, Kim Nhật Thành… - Tên người nước ngoài được phiên âm trực tiếp (không qua âm Hán Việt) thì chỉ viết hoa chữ cái đầu mỗi bộ phận tạo thành tên riêng và giữa các âm tiết trong bộ phận có gạch nối. Ví dụ: Vơ-la-đi-mia I-lích Lê-nin, Mai-cơn Ô-oen… (3) Quy tắc viết hoa tên các địa danh Việt Nam: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết. Ví dụ: Thái Bình, Cần Thơ, Hà Nội… Ghi chú: - Những địa danh gồm hai bộ thì có thêm gạch ngang ở giữa các bộ phận đó. Ví dụ: Thừa Thiên - Huế, Bà Rịa - Vũng Tàu - Tên gọi địa danh Thành phố Hồ Chí Minh được cấu tạo bởi hai bộ phận: Thành phố (viết hoa chữ cái đầu của bộ phận) và Hồ Chí Minh (viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người). - Trong tên gọi một số địa danh có những âm tiết vốn là danh từ chung nhưng đã trở thành tên gọi riêng và được viết hoa như danh từ riêng. Ví dụ: Bắc Bộ, Nam Bộ, Trung Bộ, Vàm Cỏ Đông, Hồ Gươm, Cầu Giấy… (4) Quy tắc viết hoa tên các địa danh nước ngoài: - Địa danh nước ngoài phiên âm qua âm Hán - Việt: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết (như quy tắc viết hoa địa danh Việt Nam). Ví dụ: Nhật Bản, Tây Ban Nha, Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, Vũ Hán, Nữu Ước… - Địa danh nước ngoài phiên âm trực tiếp (không qua âm Hán Việt) thì viết hoa chữ cái đầu bộ phận tạo thành tên riêng, giữa các âm tiết trong bộ phận có gạch nối: Ví dụ: I-ta-li-a, Hung-ga-ri, Mát-xcơ-va, Xơ-un, Niu-oóc (5) Quy tắc viết hoa tên cơ quan, đoàn thể và tổ chức xã hội: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu tiên và chữ cái đầu mỗi bộ phận tạo thành tên riêng. Ví dụ: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, Trường Tiểu học Kim Đồng... (6) Quy tắc viết hoa tên các con vật, đồ vật, sự vật vốn là danh từ chung nhưng được dùng làm tên riêng nhân vật trong tác phẩm.

<span class='text_page_counter'>(160)</span> Viết hoa chữ cái đầu của mối âm tiết tạo thành tên riêng. Ví dụ: - Tôi và Dế Trũi rủ nhau đi ngao du thiên hạ. Chúng tôi ngày đi đêm nghỉ, cùng nhau say ngắm dọc đường… (Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài). - Bác Chữ A đề nghị: Từ nay, mỗi khi em Hoàng định chấm câu, anh Dấu Chấm cần yêu cầu Hoàng đọc lại câu văn một lần nữa đã… (Cuộc họp của chữ viết, TV 3, tập I) ẢNH HƯỞNG CỦA PHƯƠNG NGỮ ĐẾN CHÍNH TẢ. Tiếng Việt có 3 vùng phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, phương ngữ bắc Trung Bộ, phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ) cùng nhiều thổ ngữ khác nhau. Tuy cách phát âm của các phương ngữ, các thổ ngữ có những nét khác biệt nhưng về chính tả thì chỉ tồn tại một cách viết thống nhất từ Bắc chí Nam. Ví dụ: - Người nói phương ngữ Bắc Bộ phát âm không phân biệt r/d/gi nhưng vẫn viết theo đúng chính tả (Ví dụ, vẫn viết đúng: da thịt, ra vào, gia đình…). - Người nói phương ngữ Nam Bộ phát âm không phân biệt v/d song vẫn viết đúng chính tả (Ví dụ, đọc day dốn nhưng vẫn viết đúng vay vốn). Tuy nhiên, thói quen phát âm tiếng địa phương cũng dễ làm cho người viết bị sai lỗi chính tả trong một số trường hợp nhất định: - Người phát âm theo phương ngữ Bắc Bộ thường không viết sai thanh điệu và phần vần, nhưng thường viết sai nhóm phụ âm đầu cong lưỡi như: tr/ch, s/x, r/d/gi, do hiện nay phương ngữ Bắc Bộ đã không còn tồn tại cách phát âm cong lưỡi ở các phụ âm đầu, nên khi viết hay mắc lỗi. (Ví dụ: thuỷ triều viết thành thuỷ chiều, sổ lồng viết thành xổ lồng, hát giặm viết thành hát dặm …). Một số vùng thuộc châu thổ sông Hồng còn phát âm lẫn lộn l/n và dẫn đến viết sai chính tả hai phụ âm này (Ví du: nao núng viết thành lao lúng …) - Người phát âm theo phương ngữ bắc Trung Bộ (từ Thanh Hoá đến Huế) không viết sai phụ âm đầu và vần nhưng thường viết sai dấu thanh do phát âm không phân biệt một số thanh điệu như: hỏi/ ngã, ngã/nặng (Ví dụ: tỉ mỉ viết thành tĩ mĩ, năng nổ viết thành năng nộ…) - Người phát âm theo phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ thường thường ít viết sai phụ âm đầu (trừ trường hợp lẫn lộn v/d), nhưng viết sai nhiều ở.

<span class='text_page_counter'>(161)</span> thanh điệu hỏi/ ngã, ở các vần có nguyên âm đôi, các vần có phụ âm cuối n/ng, t/c …(Ví du: son sắt viết thành son sắc…). LỖI CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ. 1 Lỗi chính tả Lỗi chính tả là một vấn đề thường gặp đối với tất cả các chữ viết ghi âm được dùng hiện nay trên thế giới (như: tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga…). Nguyên nhân dẫn đến viết sai chính tả là do tình trạng không khớp nhau giữa âm và chữ trong cấu tạo chữ viết, do tồn tại nhiều phương ngữ với phát âm khác biệt nhau trong một ngôn ngữ… Lỗi chính tả là loại lỗi do không viết đúng chuẩn chính tả của một ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, các nguyên nhân chính dẫn đến viết sai chính tả là do người viết không nắm vững các quy tắc chính tả đã được quy định của tiếng Việt, do không thuộc cách viết cụ thể của mỗi từ (đã được cộng đồng thừa nhận và ghi trong từ điển chính tả) và do ảnh hưởng thói quen phát âm của tiếng địa phương. Ví dụ: -. quả viết thành qủa (không nắm vững quy tắc ghi dấu thanh). -. nghệ viết thành ngệ (không nắm vững quy tắc viết các phụ âm đầu ng/ngh),. -. Truyện Kiều viết thành chuyện Kiều (do phát âm lẫn lộn tr/ch của phương ngữ Bắc Bộ và không nắm vững quy tắc viết hoa).. -. Son sắt viết thành son sắc, bẩn viết thành bửn, tỉ mỉ viết thành tĩ mĩ (do ảnh hưởng cách phát âm tiếng địa phương).. -. Hà Nội, Nguyễn Văn Trỗi viết thành Hà nội , Nguyễn văn Trỗi ( do không nắm vững quy tắc viết hoa) v, v …. 2. Các giải pháp nhằm viết đúng chính tả Đối với một giáo viên, viết đúng chính tả không những là một tiêu chuẩn nghiêm ngặt về nghề nghiệp mà còn là một kĩ năng cần thiết để dạy chính tả cho học sinh Để giải quyết vấn đề chính tả, cần thực hiện các giải pháp sau:.

<span class='text_page_counter'>(162)</span> a) Giải pháp luyện tập phát âm đúng với cách viết chính tả Mặc dù trong tiếng Việt chính âm chưa được xác định cụ thể, giọng nói giữa các vùng phương ngữ có những khác nhau về âm sắc, nhưng về chính tả thì vẫn hướng tới một cách viết chung, thể hiện tính thống nhất của ngôn ngữ dân tộc. Phát âm đúng ở đây được hiểu là cách phát âm theo cách phân biệt đã được ghi nhận trong chính tả. Ví dụ: người thuộc phương ngữ Bắc Bộ cố gắng phát âm phân biệt tr với ch, phân biệt r với d và gi. Người thuộc phương ngữ Nam Bộ cố gắng phát âm phân biệt v với d, phân biệt thanh hỏi với thanh ngã… Một người phát âm đúng với cách viết chính tả thì người đó sẽ viết đúng chính tả. Mặc dù phát âm đúng với chính tả là một công việc rất khó khăn, do bị cản trở bởi thói quen phát âm của cả một vùng, do phải nắm được cách viết đúng chính tả của từng từ ngữ đó. Tuy nhiên, trong nhà trường THCS, giáo viên và học sinh phải luôn luôn hướng tới một cách phát âm đúng với chính tả, nhất là ở các tiết dạy đọc hiểu, phân tích từ ngữ, và đặc biệt là chính tả. Đây là một giải pháp quan trọng nhằm khắc phục lỗi chính tả của học sinh. b) Giải pháp ghi nhớ cách viết của từng từ ngữ cụ thể Ở trường THCS, thông qua môn Ngữ văn các em đã được trang bị một vốn từ vựng khoảng hơn 2000 từ và những quy tắc chính tả cần thiết để có thể viết đúng tiếng Việt. Nhưng từ vựng tiếng Việt hiện nay có tới gần 40.000 từ (Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản KHXH) thì muốn viết đúng chính tả một khối lượng lớn từ ngữ như vậy đối với mỗi người không phải là một công việc dễ dàng. Vì thế, viết đúng chính tả là một quá trình rèn luyện khổ công và lâu dài, thông qua hoạt động đọc và viết hằng ngày. c) Giải pháp dùng mẹo chính tả Có thể coi mẹo chính tả là những công thức giản tiện, dễ nhớ về cách viết của một số trường hợp chính tả cụ thể, do các nhà ngôn ngữ hoặc bản thân mỗi người tự đặt ra. Mẹo chính tả giúp cho người viết dễ dàng tìm ra cách viết đúng một cách nhanh nhất mà không cần phải tra cứu từ điển. Ví dụ 1: Mẹo láy âm để tìm ra cách viết dấu hỏi hay dấu ngã ? Mẹo này dùng cho những người thuộc phương ngữ Trung Bộ và Nam Bộ, hay viết sai chính tả dấu hỏi với dấu ngã. Mẹo được rút ra từ quy luật sau: trong các từ láy 2 âm tiết thì thanh điệu của các âm tiết luôn luôn nằm cùng một nhóm,.

<span class='text_page_counter'>(163)</span> hoặc cùng nhóm thanh điệu trầm (huyền, ngã, nặng) hoặc cùng nhóm thanh điệu bổng (ngang, hỏi, sắc). Cách sử dụng mẹo như sau: - Khi người viết phân vân không biết viết từ đỏ mang thanh ngã hay thanh hỏi thì dùng mẹo láy âm: đỏ -> đo đỏ, đỏ đắn. Từ đó khẳng định: đỏ thuộc nhóm thanh điệu bổng và được viết dấu hỏi. - Khi người viết phân vân không biết viết từ lẫy mang thanh hỏi hay thanh ngã thì cũng dùng mẹo láy âm: lẫy -> lẫy lừng, lộng lẫy. Từ đó khẳng định lẫy thuộc nhóm thanh điệu trầm và viết dấu ngã. Ví dụ 2: Mẹo phân biệt viết -iêu hay -ươu ? Mẹo này dùng cho những người thuộc phương ngữ Bắc Bộ, hay viết lẫn lộn hai vần -iêu với -ươu (Ví dụ: uống rượu viết thành uống riệu). Bản thân chúng ta cũng có thể rút ra được mẹo này, chỉ cần xem trong Từ điển chính tả tiếng Việt và thấy rằng: vần -ươu chỉ xuất hiện trong các từ : chai rượu, cái bướu, con hươu, con khướu, con tườu. Còn lại tất cả các từ khác đều được viết -iêu, không viết -ươu (tiêu biểu, kì diệu, đà điểu, hiểu biết, kiểu cách, cây liễu…). Cách sử dụng mẹo: chỉ cần nhớ trong tiếng Việt chỉ có 5 từ nói trên được viết -ươu, tất cả các từ còn lại ta đều viết -iêu. Lỗi chính tả gặp phải ở mỗi người thường rất khác nhau (do khác nhau về trình độ kiến thức, về vốn từ ngữ, về ảnh hưởng của các phương ngữ…). Để khắc phục những lỗi chính tả nói trên, mỗi người phải dựa trên những nỗ lực riêng của mình, tìm ra và áp dụng những mẹo chính tả phù hợp. (Tiếng Việt thực hành – Nguyễn Quang Ninh (Chủ biên) – Đào Ngọc)..

<span class='text_page_counter'>(164)</span> BÀI 6 TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SÔ VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT QUA CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP I. MỤC TIÊU Sau bài này, NTG có khả năng : Kiến thức : Có những hiểu biết về bốn chủ đề hoạt động ngoài giờ lên lớp Em yêu tiếng Việt, Tiếng Việt với quê hương, Tiếng Việt với văn hóa dân gian và Tham quan di tích, danh thắng ở địa phương, nhằm tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số vùng khó khăn nhất. Kĩ năng : Biết cách tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho HS DTTS vùng khó khăn nhất một cách có hiệu quả. Thái độ : Có ý thức trân trọng những ý kiến, những hoạt động mang tính sáng tạo của HS DTTS vùng khó khăn nhất trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp. II. KẾT QUẢ MONG ĐỢI Giáo viên biết dựa vào các chủ đề mang tính gợi ý ở bài học này để tìm kiếm nội dung và sáng tạo cách thức phù hợp cho các hoạt động giáo dục với học sinh dân tộc thiểu số cấp THCS ở địa phương, nhằm nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt cho các em trong quá trình học tập.. Chủ đề 1: Em yêu tiếng Việt A. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN I. MỤC TIÊU Kiến thức: - Củng cố, bổ sung, mở rộng, nâng cao các kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp. - Biết cách vận dụng những kiến thức tiếng Việt đã học ở THCS vào học tập và vào đời sống..

<span class='text_page_counter'>(165)</span> Kĩ năng: - Rèn luyện các kĩ năng cơ bản của bộ môn như: nghe - nói - đọc - viết, kĩ năng tư duy, kĩ năng hoạt động nhóm, kĩ năng phát biểu trước đám đông. Thái độ: - Có hứng thú và yêu thích đối với bộ môn tiếng Việt, qua đó hình thành thái độ tích cực trong học tập và rèn luyện. II. ĐỊA ĐIỂM Sân trường hoặc hội trường (nếu có). III. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC 1. Nội dung: Theo chuẩn kiến thức Ngữ văn trong chương trình THCS. 2. Hình thức: Hội thi dưới dạng một Game Show với 4 đội thi Tên Hội thi: “Em Yêu tiếng Việt” Lưu ý: Mỗi đội thi có 4 thành viên được chọn từ các lớp trên cơ sở bình chọn của lớp. IV. THÀNH PHẦN THAM GIA VÀ ĐỐI TƯỢNG DỰ THI 1. Thành phần tham gia: Tập thể giáo viên trong tổ bộ môn và các giáo viên khác, các khách mời nếu có (Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội cha mẹhọc sinh...), học sinh của trường. 2. Đối tượng dự thi: Học sinh THCS. V. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ 1. Về phía giáo viên (Ban tổ chức). - Thành lập Ban tổ chức hội thi. - Tổ chức thông tin, vận động, tuyên truyền đến từng lớp..

<span class='text_page_counter'>(166)</span> - Ban tổ chức xác định nội dung thi, xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập, đáp án và phiếu đánh giá kết quả, thống nhất hình thức thi, xác định danh sách học sinh tham gia dự thi. - Thành lập Ban giám khảo (Ban giám khảo là những người có chuyên môn liên quan đến nội dung thi). - Phương tiện và điều kiện tổ chức hội thi: + Hệ thống âm thanh, băng đĩa hình-nhạc-phim, máy tính, máy chiếu, bàn ghế, sân khấu... + Kinh phí thực hiện. - Phân công nhiệm vụ cho các tổ các nhóm và đưa ra thời gian hoàn thành nhiệm vụ. 2. Về phía học sinh. - Ôn tập kiến thức đã học. - Tuyển chọn thành viên tham gia đội thi. - Chuẩn bị băng rôn, khẩu hiệu, và các tiết mục văn nghệ phục vụ hội thi. - Riêng 16 thành viên của 4 đội thi sẽ cùng tập một vài tiết mục văn nghệ để khai mạc hội thi. B. TỔ CHỨC THỰC HIỆN I. TỔ CHỨC THI - gồm 4 vòng : Vòng 1: Trả lời nhanh Vòng 2: Giải ô chữ Vòng 3: Ngôn ngữ tiếng Việt Vòng 4: Hùng biện. Lưu ý: Dưới đây chỉ là những ví dụ để tham khảo. Trong quá trình dạy học, cần căn cứ vào đối tượng học sinh cụ thể, giáo viên có thể chọn những ví dụ khác (từ các môn học) cho phù hợp đối tượng là học sinh dân tộc thiểu số ở địa phương mình. Điều này có thể áp dụng cho tất cả các vòng thi. 1/ Vòng 1: Trả lời nhanh Trả lời nhanh là trò chơi giúp các học sinh vừa chơi vừa học, vừa rèn luyện và củng cố kiến thức, vừa rèn luyện tư duy phản ứng nhanh trước các vấn đề đặt ra;.

<span class='text_page_counter'>(167)</span> giúp tiết kiệm thời gian và đạt hiệu quả cao trong học tập, đặc biệt trong cách thu thập thông tin. * Thể lệ: - Có tất cả 10 câu hỏi trắc nghiệm, mỗi đội lần lượt chọn câu hỏi, đội nào có tín hiệu trả lời (chuông hoặc cờ) sau hiệu lệnh của người dẫn chương trình, sẽ được ưu tiên trả lời trước. - Đội nào vi phạm thể lệ thi (xin trả lời trước hiệu lệnh của người dẫn chương trình) sẽ không được trả lời câu hỏi đó. - Trả lời đúng được 10 điểm cho mỗi câu. - Trả lời sai không có điểm, chuyển qua lựa chọn cho đội khác. - Nếu đội được quyền trả lời mà trả lời sai, người dẫn chương trình sẽ đọc đáp án hoặc mời khán giả trả lời; khán giả nào trả lời đúng được một phần quà của Ban tổ chức. * Câu hỏi : 1. Quốc gia Âu Lạc vang danh Hỏi ai dựng nước xây thành Cổ Loa. A. An Dương Vương. B. Vua Hùng Vương thứ 18. C. Triệu Việt Vương. C. Trưng nữ vương. 2. “Lên thác xuống ghềnh” thuộc loại gì? A. Tục ngữ. B. Thành ngữ. C. Quán ngữ. C. Ca dao.. 3. Đoạn văn sau đây trong tác phẩm “Làng” của Kim Lân được viết theo phương thức biểu đạt nào? “Trời xanh lồng lộng, có những tẳng mây sáng chói, lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại. Họ dạt cả vào các khoảnh bóng cây tránh nắng. Một vài tiếng động nhẹ khẽ gợn lên, oi ả”. A. Tự sự. B. Miêu tả. C. Biểu cảm. D. Nghị luận.. 4. Đội thiếu niên Tiền phong được thành lập vào ngày tháng năm nào? A. 15/ 5/ 1940. B. 15/ 5/ 1941. C. 15/ 5/ 1942. C. 15/ 5/ 1943.

<span class='text_page_counter'>(168)</span> 5. Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong hai câu thơ sau: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa” (Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận) A. Nhân hóa. B. So sánh. D. Ẩn dụ. D. Nhân hóa, so sánh.. 6. Hai câu thơ sau của ai? “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” A. Nguyễn Du. B. Cao Bá Quát. C. Nguyễn Đình Chiểu. D. Nguyễn Bỉnh Khiêm.. 7. Quả me thuộc loại quả gì? A. Quả mọng. B. Quả hạch. C. Quả khô nẻ. D. Quả khô không nẻ. 8. “Gần mực thì đen gần đèn thì rạng” thuộc loại nào? A. Tục ngữ. B. Thành ngữ. C. Điển tích. D. Điển cố.. 9. Các từ “nọ”, “kia” trong hai câu thơ sau thuộc từ loại nào? “Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” (Kiều ở lầu Ngưng Bích, Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du) A. Danh từ. B. Lượng từ. C. Đại từ. D. Chỉ từ.. 10. Cây thông sinh sản bằng gi? A. Tiếp hợp. B. Hạt. C. Bào tử. C. Hình thức sinh dưỡng. 11. Cho đoạn thơ sau: “Em cu tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng” (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Nguyễn Khoa Điềm).

<span class='text_page_counter'>(169)</span> Từ nào trong các từ sau đây là động từ: A. giã. B. em. C. lưng. D. bộ đội. 12. Trong bài thơ “Nói với con” Y Phương viết: Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng. Câu “Vách nhà ken câu hát” dùng lối nói gì? A. Nhân hóa. B. So sánh. C. Ẩn dụ. D. Hoán dụ.. 13. Gió đã thổi căng một cánh buồm, vậy gió đã tác động lên cánh buồm lực gì? A. Lực đẩy C. Lực hút. B. Lực kéo D. Lực căng. 14. Trên vỏ túi bột giặt Ômô có ghi 500g, số đó chỉ gì? A. Sức nặng túi bột giặt B. Thể tích túi bột giặt C. Sức nặng và lượng chất túi bột giặt D. Lượng chất túi bột giặt 15. Than, dầu mỏ, khí đốt thuộc nhóm khoáng sản nào? A. Kim loại B. Phi kim loại C. Năng lượng C. Tất cả các phương án trên * Đáp án: Câu 1: A. An Dương Vương Câu 2: B. Thành ngữ Câu 3: B. Miêu tả Câu 4: B. 15/ 5/ 1941 Câu 5: D. Nhân hóa, so sánh Câu 6: C. Nguyễn Đình Chiểu Câu 7: D. Quả khô không nẻ Câu 8: A. Tục ngữ.

<span class='text_page_counter'>(170)</span> Câu 9: D. Chỉ từ Câu 10: B. Hạt Câu 11: A. Giã Câu 12: C. Ẩn dụ Câu 13: A. Lực đẩy Câu 14: D. Lượng chất túi bột giặt Câu 15. C. Năng lượng 2/ Vòng 2: Giải ô chữ Giải ô chữ là một trò chơi trí tuệ, phổ biến trên thế giới và được nhiều người ưa thích. Tại Việt Nam, hình thức chơi phổ biến nhất vẫn là giải ô chữ trên tạp chí hoặc báo in. Trong đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh, chúng ta có thể vận dụng trò chơi này vào quá trình học tập để củng cố và nâng cao kiến thức, rèn luyện tư duy và phát triến trí tuệ cho học sinh ở mọi lứa tuổi. * Thể lệ: - Ô chữ gồm có tất cả 10 câu hỏi hàng ngang và 1 câu hỏi hàng dọc. - Nhiệm vụ của các đội thi là lần lượt chọn ô hàng ngang để trả lời, thời gian suy nghĩ để trả lời cho mỗi câu hỏi hàng ngang là 10 giây. - Trả lời đúng ô hàng ngang được 10 điểm. - Sai (hoặc không trả lời được) không có điểm và phải nhường quyền trả lời cho đội khác. - Mỗi ô hàng ngang sẽ có một từ khóa cho câu hỏi hàng dọc, từ khóa này được phân biệt với các từ khác bằng màu sắc khác nhau. - Sau khi mỗi đội đã có một lượt lựa chọn ô hàng ngang, nếu đội nào có tín hiệu trả lời ô hàng dọc sẽ được chấp nhận. - Trả lời đúng được 40 điểm. - Sai không có điểm, nhường quyền trả lời cho đội khác và không được trả lời các câu hỏi hàng ngang tiếp theo..

<span class='text_page_counter'>(171)</span> - Sau 10 lượt lựa chọn ô hàng ngang, nếu không đội nào có tín hiệu trả lời từ khóa ô hàng dọc, người dẫn chương trình sẽ đọc gợi ý ô hàng dọc để các đội giành quyền trả lời. Trả lời đúng được 30 điểm, sai không có điểm. Kết thúc vòng thi. - Các ô hàng ngang hoặc hàng dọc chưa được trả lời sẽ hỏi khán giả. Ai trả lời đúng sẽ được nhận quà của Ban tổ chức. * Câu hỏi hàng ngang: 1. Hàng ngang số 1: Gồm có 6 chữ cái - Hãy chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn sau: - “Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non măng mọc thẳng”.(Thép Mới) - “Tiếng Việt của chúng ta phản ánh sự hình thành và trưởng thành của xã hội Việt Nam và của dân tộc Việt Nam, của tập thể nhỏ là gia đình, họ hàng, làng xóm và của tập thể lớn là dân tộc, quốc gia”. (Phạm Văn Đồng) 2. Hàng ngang số 2: Gồm 6 chữ cái - Câu ca dao sau sử dụng biện pháp tu từ nào? Lỗ mũi mười tám gánh lông Chồng yêu chồng bảo: “Râu rồng trời cho” Đêm nằm thì ngáy o o Chồng yêu chồng bảo: “Ngáy cho vui nhà”. 3. Hàng ngang số 3: Gồm 7 chữ cái – Trong các câu thơ sau sự vật nào đã được nhân hóa? Vì sao trái đất nặng ân tình Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh. (Tố Hữu) 4. Hàng ngang số 4: Gồm 8 chữ cái - Từ “như” trong câu văn sau là từ loại gì? “Rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận”(Võ Quảng)..

<span class='text_page_counter'>(172)</span> 5. Hàng ngang số 5: Gồm có 5 chữ cái - Những từ gạch chân dưới đây thuộc loại từ gì? - Nước non lận đận một mình Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay Ai làm cho bể kia đầy Cho ao kia cạn, cho gầy cò con? (Ca dao) - “Chợt con gà trống ở phía sau bếp nổi gáy. Tôi biết đó là con gà của anh Bốn Linh. Tiếng nó dõng dạc nhất xóm”. (Võ Quảng) 6. Hàng ngang số 6: có 5 chữ cái: Từ gạch chân trong câu văn sau thuộc loại từ gì? “Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm” (Dế mèn phiêu lưu kí - Tô Hoài) 7. Hàng ngang số 7: Gồm 5 chữ cái: Đây là thành phần nào của câu? (Gợi ý: là một trong hai thành phần chính của câu, nó cho biết các đặc điểm, tính chất, trạng thái, … của sự vật, hiện tượng). 8. Hàng ngang số 8: Gồm 4 chữ cái: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu làm theo thể thơ gì? 9. Hàng ngang số 9: Gồm 4 chữ cái: Hai câu thơ sau đã sử dụng biện pháp tu từ nào? Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. (Viễn Phương) 10. Hàng ngang số 10: Gồm 7 chữ cái: Chỉ ra biện pháp tu từ trong hai câu sau: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công. (Hồ Chí Minh).

<span class='text_page_counter'>(173)</span> * Đáp án: Câu 1: Liệt kê Câu 2: Nói quá Câu 3: Trái đất Câu 4: Từ so sánh Câu 5: Đại từ (chỉ người và đại từ chỉ vật) Câu 6: Phó từ Câu 7: Vị ngữ Câu 8: Tự do Câu 9: Ẩn dụ Câu 10: Điệp từ * Câu hỏi hàng dọc: Gồm 10 chữ cái: Đây là biện pháp tu từ nào? * Trả lời: Tu từ từ vựng 1 2. N. L. I. Ệ. T. K. Ó. I. Q. U. Á. T. R. Á. I. Đ. Ấ. T. T. Ừ. S. O. S. Á. N. H. Ừ. G. Ữ. 3 4 5 6. P. Đ. Ạ. I. T. H. Ó. T. Ừ. 7. Ê. V. Ị. N. 8. T. Ự. D. O. 9. Ẩ. N. D. Ụ. N. G. Ữ. 10. Đ. I. Ệ. P.

<span class='text_page_counter'>(174)</span> 3/ Vòng 3: Trò chơi ngôn ngữ *Thể lệ: - Người dẫn chương trình đưa ra ngữ liệu. - Mỗi đội có 3 phút để làm bài thi và 1 phút để trình bày. - Trong thời gian các đội làm bài thi sẽ xen kẽ một tiết mục văn nghệ. - Sau tín hiệu hết giờ của người dẫn chương trình, các đội ngừng làm bài và lần lượt cử người trình bày phần chuẩn bị của đội mình. - Thang điểm cho mỗi bài thi: + Nhất: 40 điểm . + Nhì: 30 điểm. + Ba: 20 điểm. + Bốn: 10 điểm. a.Tìm tên các loại quả trong bài thơ “Sầu riêng”: Mấy chàng ương ổi lớp tôi Trong lớp không học chỉ ngồi lơ mơ Về nhà là nhót đi chơi Mẹ nhắc cau có nghe lời gì đâu Văn thì tếu táo vài câu Toán thì chẳng chịu đào sâu kĩ càng Nào đã giỏi gì cho cam Mà học qua quýt lang thang chơi bời Đến khi cô hỏi bí lời Bạn chê, cô trách chịu lời thị phi Học như thế thì đỗ gì Sầu riêng mình chịu trách gì được ai. * Trả lời Các loại quả trong bài thơ “Sầu riêng” là: ổi, mơ, nhót, cau, táo, đào, cam, quýt, bí, thị, đỗ, sầu riêng. b. Lập sổ tay song ngữ Tìm những từ ngữ trong tiếng dân tộc tương đương với các từ ngữ trong tiếng Việt dưới đây:.

<span class='text_page_counter'>(175)</span> Tiếng Việt. Tiếng dân tộc …. Cố gắng Chăm chỉ Siêng năng Cần cù Dũng cảm Can đảm Tài giỏi …… Ghi chú: Học sinh là người dân tộc nào thì tìm những từ ngữ của dân tộc ấy tương đương với các từ ngữ tiếng Việt. Cần lập sổ tay Tiếng Việt - Tiếng dân tộc và Tiếng dân tộc - Tiếng Việt. 4/ Vòng 4: Hùng biện Hùng biện là nghệ thuật diễn thuyết trước công chúng sao cho trôi chảy, sinh động, trang nhã và đầy sức thuyết phục, thể hiện sức mạnh biểu cảm được bộc lộ qua vẻ đẹp ngôn ngữ, nhờ đó mà thu hút và thuyết phục người nghe. * Thể lệ: - Các đội cùng tập trung vào chủ đề: “Em yêu tiếng Việt” - Mỗi đội sẽ có 5 phút để làm bài thi, và 3 phút để trình bày. - Trong thời gian các đội làm bài thi sẽ có một vài tiết mục văn nghệ của các lớp. - Sau tiết mục văn nghệ, các đội ngừng làm bài và lần lượt cử người trình bày bài thi. - Thang điểm cao nhất cho mỗi bài thi là 40. II. CÔNG BỐ KẾT QUẢ VÀ TRAO PHẦN THƯỞNG - Ban giám khảo sẽ tổng kết điểm của 4 đội sau tất cả các vòng thi. - Trong khi chờ đợi Ban tổ chức tổng kết điểm, các lớp lần lượt trình bày các tiết mục văn nghệ đã chuẩn bị..

<span class='text_page_counter'>(176)</span> - 4 phần quà có giá trị từ cao tới thấp sẽ trao cho 4 đội có số điểm lần lượt từ thấp đến cao. III. TỔNG KẾT HỘI THI - Trưởng ban tổ chức nhận xét chung về hội thi, động viên khen ngợi các đội thi. - Cảm ơn các đại biểu , Hội cha mẹ học sinh, các thầy cô giáo, các đơn vị tài trợ (nếu có) và tất cả các học sinh của các khối lớp đã nhiệt tình tham gia hội thi.. Phiếu bài tập 1 Hãy thiết kế các hoạt động giáo dục về chủ đề “Em yêu tiếng Việt”. Chủ đề 2: Tiếng Việt với quê hương A. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN I. MỤC TIÊU Kiến thức: - Củng cố, bổ sung, mở rộng, nâng cao và vận dụng các kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp vào cuộc sống. - Biết vận dụng một cách linh hoạt các trò chơi dân gian trong cuộc sống vào học tập. Kĩ năng: - Biết cách chơi mà học, học mà chơi - Rèn luyện các kĩ năng cơ bản của bộ môn như: nghe - nói - đọc - viết, kĩ năng tư duy, kĩ năng hoạt động nhóm. Thái độ: - Có hứng thú và yêu thích bộ môn tiếng Việt, qua đó hình thành thái độ tích cực trong học tập và rèn luyện..

<span class='text_page_counter'>(177)</span> - Nâng cao tình yêu tiếng Việt gắn với tình yêu quê hương, đất nước. II. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC 1. Nội dung: Theo chuẩn kiến thức Ngữ văn trong chương trình THCS. 2. Hình thức: Hội thi được tổ chức dưới dạng một game show với 4 đội thi Tên Hội thi: “Tiếng Việt với quê hương” Lưu ý: Mỗi đội thi có 4 thành viên được chọn từ các lớp trên cơ sở bình chọn của lớp. III. THÀNH PHẦN THAM GIA VÀ ĐỐI TƯỢNG DỰ THI 1. Thành phần tham gia: Tập thể giáo viên trong tổ bộ môn và các giáo viên khác, các khách mời nếu có (đoàn, hội, hội phụ huynh học sinh...), học sinh của trường. 2. Đối tượng dự thi: Học sinh các lớp THCS IV. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ 1. Về phía giáo viên (Ban tổ chức). - Thành lập Ban tổ chức hội thi. - Tổ chức thông tin, vận động, tuyên truyền đến từng lớp. - Ban tổ chức xác định nội dung thi, xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập, đáp án và phiếu đánh giá kết quả, thống nhất hình thức thi, xác định danh sách học sinh tham gia dự thi. - Thành lập Ban giám khảo (Ban giám khảo là những người có chuyên môn liên quan đến nội dung thi). - Phương tiện và điều kiện tổ chức hội thi:.

<span class='text_page_counter'>(178)</span> + Hệ thống âm thanh, băng đĩa hình-nhạc-phim, máy tính, máy chiếu, bàn ghế, sân khấu... + Kinh phí thực hiện. - Phân công nhiệm vụ cho các tổ các nhóm và đưa ra thời gian hoàn thành nhiệm vụ. 2. Về phía học sinh. - Ôn tập kiến thức đã học. - Tuyển chọn thành viên tham gia đội thi. - Chuẩn bị băng rôn, khẩu hiệu, và các tiết mục văn nghệ phục vụ hội thi. - Riêng 16 thành viên của 4 đội thi sẽ cùng tập một vài tiết mục văn nghệ để khai mạc hội thi. B. TỔ CHỨC THỰC HIỆN I. TỔ CHỨC THI - gồm 4 vòng : Vòng 1: Đố vui dân gian Vòng 2: Thử tài quan sát Vòng 3: Chơi chữ Vòng 4: Hát theo thơ đã được phổ nhạc 1/ Vòng 1: Đố vui dân gian * Thể lệ: - Có tất cả 10 câu đố, mỗi đội lần lượt chọn câu đố, đội nào có tín hiệu trả lời (chuông hoặc cờ) sau hiệu lệnh của người dẫn chương trình, sẽ được ưu tiên trả lời trước. - Đội nào vi phạm thể lệ thi (xin trả lời trước hiệu lệnh của người dẫn chương trình) sẽ không được trả lời câu đố đó. - Trả lời đúng được 10 điểm cho mỗi câu. - Trả lời sai không có điểm, chuyển qua lựa chọn cho đội khác. - Nếu đội được quyền trả lời mà trả lời sai, người dẫn chương trình sẽ đọc đáp án hoặc mời khán giả trả lời; khán giả nào trả lời đúng được một phần quà của Ban tổ chức..

<span class='text_page_counter'>(179)</span> * Câu đố: 1. Lá xanh cành đỏ hoa vàng Là là mặt đất đố chàng giống chi Đố chàng giống ấy giống gì Chàng mà đoán được thiếp thì theo không? 2. Lưng đàng trước, bụng đàng sau Con mắt ở dưới, cái đầu ở trên. (Là cái gì?) 3. Sừng sững mà đứng giữa đàng Quan đi không tránh lại đòi đánh quan. (Là cây gì?) 4. Hai anh cùng ở một làng Thế mà mặt đỏ, mặt vàng khác nhau Lững lờ đi trước về sau Hàng năm họa có gặp nhau đôi lần (Là gì?) 5. Có con mà chẳng có cha Có lưỡi không miệng đó là vật chi? 6. Một cây mà có năm cành Ngâm nước thì héo, để dành thì tươi? (Là gì?) 7. Thuở bé em có hai sừng Đếm tuổi nửa chừng mặt đẹp như hoa Ngoài hai mươi tuổi đã già Rồi thì em lại mọc ra hai sừng. (Là gì?).

<span class='text_page_counter'>(180)</span> 8. Sừng sững mà đứng giữa trời Trời xô không đổ, trời mời không đi. (Là gì?) 9. Một đàn cò trắng phau phau Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm. (Là cái gì?) 10. Tên em không thiểu chẳng thừa, Tầm lòng vàng ngọt, ngon vừa lòng anh. (Là quả gì?) * Đáp án: Câu 1: Cây rau sam Câu 2: Cẳng chân Câu 3: Cây cỏ may Câu 4: Mặt trời, mặt trăng Câu 5: Con dao Câu 6: Bàn tay Câu 7: Trăng đầu tháng, trăng giữa tháng, trăng cuối tháng Câu 8: Quả núi Câu 9: Những cái bát ăn cơm Câu 10: Quả đu đủ. 2/ Vòng 2: Thử tài quan sát * Thể lệ: - Có tất cả 8 câu hỏi bằng hình ảnh về các danh nhân văn hóa, di tích lịch sử văn hóa ở địa phương. - Nhiệm vụ của các đội là lần lượt chọn câu hỏi sau đó nghe gợi ý của người dẫn chương trình để trả lời. - Đội nào có tín hiệu trả lời trước sẽ được trả lời. Trả lời đúng được 10 điểm, sai không có điểm, và nhường quyền trả lời cho đội có tín hiệu trả lời nhanh nhất..

<span class='text_page_counter'>(181)</span> * Câu hỏi và hình ảnh minh họa: 1. Đây là quần thể di tích nằm trên quả đồi thuộc xã Tân Thành huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn. Di tích này đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Lạng Sơn quyết định xếp hạng năm 1992. Hãy cho biết đây là di tích nào?. 2. Đây là địa danh nào? (Gợi ý: đây là di tích tại Thành phố Lạng Sơn, nằm trong di tích khảo cổ cụm văn hóa Bắc Sơn).. 3. Đây là một hang đá tự nhiên (còn đươc gọi là động); từ cửa trước ra cửa sau dài hơn 500m với nhiều cảnh đẹp kì vĩ do danh nhân Ngô Thì Sỹ phát hiện ra? Động này mang tên gì?.

<span class='text_page_counter'>(182)</span> 4. Đây là danh thắng đã đi vào những câu ca dao quen thuộc về vùng đất Lạng Sơn. Danh thắng này có tên là gì?. 5. Núi cao nhất ở Lạng Sơn là núi nào?. 6. Đây là cuộc khởi nghĩa chống Pháp vào năm 1940 ở Lạng Sơn, đó là cuộc khởi nghĩa nào?.

<span class='text_page_counter'>(183)</span> 7. Nằm trong khu vưc phường Tam Thanh, TP Lạng Sơn, dấu tích hiện nay còn lại gồm hai đoạn tường xây bằng đá giữa hẻm núi, là di tích kiến trúc quân sự của một triều đại phong kiến Việt Nam. Đây là địa danh nào?. 8. Ông là người con của vùng đất Lạng Sơn nổi tiếng với câu nói “Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành”. Ông là ai?. * Đáp án: Câu 1: Đền Bắc Lệ Câu 2: Núi Phai Vệ Câu 3: Động Nhị Thanh Câu 4: Nàng Tô Thị Câu 5: Núi Mẫu Sơn Câu 6: khởi nghĩa Bắc Sơn Câu 7: Thành Nhà Mạc.

<span class='text_page_counter'>(184)</span> Câu 8: Hoàng Văn Thụ 3/ Vòng 3: Chơi chữ - Người dẫn chương trình lần lượt đưa ra các ngữ liệu. - Khi nào có tín hiệu “ bắt đầu” thì 4 đội chơi lần lượt nhấn chuông (hoặc phất cờ) trả lời - Đội có tín hiệu trả lời sớm nhất giành được quyền trả lời. - Trả lời đúng được 10 điểm. - Trả lời sai (hoặc không trả lời được) nhường quyền trả lời cho các đội còn lại. Trong ba đội còn lại, Đội nào đưa ra tín hiệu trả lời nhanh nhất đội đó giành được quyền trả lời. - Nếu bốn đội đều trả lời sai (hoặc không có câu trả lời) thì quyền trả lời thuộc về khán giả. Mỗi khán giả trả lời đúng nhận một phần quà từ Ban tổ chức chương trình. *Hãy chỉ ra cách chơi chữ trong những câu sau? 1. Kiến đậu cành cam bò quấn quýt. Ngựa về làng bưởi chạy lanh chanh. 2. Lên phố mía, gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường. 3. Ngồi cống ao, chàng bắc chân chữ ngóe uống rượu thịt ếch, cóc có tiền lại nói ương. 4. Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc nó cạch đến già Con công đi chợ chùa kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại. * Trả lời: Các câu trên đã sử dụng cách chơi chữ bằng liên tưởng cùng trường nghĩa. 1. Cam, quýt, bưởi, chanh. 2. Mía, mật, kẹo đường. 3. Ngóe, ếch, cóc, (ễnh) ương. 4. Cóc, cách, cọc, cạch / Công, kênh, cồng, kềnh. 4/ Vòng 4: Hát theo thơ đã được phổ nhạc * Thể lệ: - Bốn đội sẽ lần lượt bốc thăm để chọn ra các đoạn thơ trình bày. Mỗi đội có ba phút để chuẩn bị và trình bày. - Dựa vào các câu thơ, các đoạn thơ vừa bốc thăm, để hát … - Đội nào có tín hiệu trước sẽ giành được quyền trả lời và được thưởng 5 điểm..

<span class='text_page_counter'>(185)</span> - Đội hát đúng, hay ghi được 20 điểm. - Đội hát chưa hay được 10 điểm. - Không hát, không có điểm. * Ngữ liệu: 1. Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày Quê hương là đường đi học Con về rợp bướm vàng bay. Quê hương là con diều biếc Tuổi thơ con thả trên đồng Quê hương là con đò nhỏ Êm đềm khua nước ven sông (Quê hương – Đỗ Trung Quân) 2. Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. (Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải) 3. Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần Mai sau con lớn vung chày lún sân. (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm) 4. Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.

<span class='text_page_counter'>(186)</span> Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng (Viếng lăng Bác - Viễn Phương) II. CÔNG BỐ KẾT QUẢ VÀ TRAO PHẦN THƯỞNG - Ban giám khảo sẽ tổng kết điểm của 4 đội sau tất cả các vòng thi. - Trong khi chờ đợi Ban tổ chức tổng kết điểm, các lớp lần lượt trình bày các tiết mục văn nghệ đã chuẩn bị. - 4 phần quà có giá trị từ cao tới thấp sẽ trao cho 4 đội có số điểm lần lượt từ cao trở xuống. III. TỔNG KẾT HỘI THI - Trưởng ban tổ chức nhận xét chung về hội thi, động viên khen ngợi các đội thi. - Cảm ơn các đại biểu , Hội cha mẹ học sinh, các thầy cô giáo, các đơn vị tài trợ (nếu có) và tất cả các học sinh của các khối lớp đã nhiệt tình tham gia hội thi.. Phiếu bài tập 2 Hãy thiết kế các hoạt động giáo dục về chủ đề “Tiếng Việt với quê hương”.

<span class='text_page_counter'>(187)</span> Chủ đề 3: Tiếng Việt với văn hóa dân gian A. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN I. MỤC TIÊU Kiến thức: - Củng cố, bổ sung, mở rộng, kiến thức tiếng Việt đã học ở THCS thông qua các hoạt động văn hóa. - Biết cách vận dụng sáng tạo các trò chơi dân gian vào dạy và học tiếng Việt một cách hiệu quả. Kĩ năng: - Rèn luyện các kĩ năng cơ bản của bộ môn như: nghe - nói - đọc - viết, kĩ năng tư duy, kĩ năng hoạt động nhóm, kĩ năng phát biểu trước đám đông. Thái độ: - Có ý thức “học mà chơi, chơi mà học” tạo sự hứng thú, yêu thích đối với bộ môn tiếng Việt, qua đó hình thành thái độ tích cực trong học tập và rèn luyện. II NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC. 1. Nội dung: Theo chuẩn kiến thức Ngữ văn trong chương trình THCS. 2. Hình thức: Hội thi được tổ chức dưới dạng một game show với 4 đội thi Tên Hội thi: “Tiếng Việt với văn hóa dân gian” Lưu ý: Mỗi đội thi có 4 thành viên được chọn từ các lớp trên cơ sở bình chọn của lớp. III. THÀNH PHẦN THAM GIA VÀ ĐỐI TƯỢNG DỰ THI 1. Thành phần tham gia: Tập thể giáo viên trong tổ bộ môn và các giáo viên khác, các khách mời nếu có (Đoàn, Hội Cha mẹ học sinh...), học sinh của trường..

<span class='text_page_counter'>(188)</span> 2. Đối tượng dự thi: Học sinh các lớp THCS V. Công tác chuẩn bị 1. Về phía giáo viên (Ban tổ chức). - Thành lập Ban tổ chức hội thi. - Tổ chức thông tin, vận động, tuyên truyền đến từng lớp. - Ban tổ chức xác định nội dung thi, xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập, đáp án và phiếu đánh giá kết quả, thống nhất hình thức thi, xác định danh sách học sinh tham gia dự thi. - Thành lập Ban giám khảo (Ban giám khảo là những người có chuyên môn liên quan đến nội dung thi). - Phương tiện và điều kiện tổ chức hội thi: + Hệ thống âm thanh, băng đĩa hình-nhạc-phim, máy tính, máy chiếu, bàn ghế, sân khấu... + Kinh phí thực hiện. - Phân công nhiệm vụ cho các tổ các nhóm và đưa ra thời gian hoàn thành nhiệm vụ. 2. Về phía học sinh. - Ôn tập kiến thức đã học. - Tuyển chọn thành viên tham gia đội thi. - Chuẩn bị băng rôn, khẩu hiệu, và các tiết mục văn nghệ phục vụ hội thi. - Riêng 16 thành viên của 4 đội thi sẽ cùng tập một vài tiết mục văn nghệ để khai mạc hội thi..

<span class='text_page_counter'>(189)</span> B. TỔ CHỨC THỰC HIỆN I. TỔ CHỨC THI - gồm 4 vòng : Vòng 1: Đố vui dân gian Vòng 2: Giải ô chữ Vòng 3: Hát theo làn điệu Vòng 4: Thử tài ngôn ngữ . 1/ Vòng 1: Đố vui dân gian *Thể lệ: * Thể lệ: - Có tất cả 10 câu đố, mỗi đội lần lượt chọn câu đố, đội nào có tín hiệu trả lời (chuông hoặc cờ) sau hiệu lệnh của người dẫn chương trình, sẽ được ưu tiên trả lời trước. - Đội nào vi phạm thể lệ thi (xin trả lời trước hiệu lệnh của người dẫn chương trình) sẽ không được trả lời câu đố đó. - Trả lời đúng được 10 điểm cho mỗi câu. - Trả lời sai không có điểm, chuyển qua lựa chọn cho đội khác. - Nếu đội được quyền trả lời mà trả lời sai, người dẫn chương trình sẽ đọc đáp án hoặc mời khán giả trả lời; khán giả nào trả lời đúng được một phần quà của Ban tổ chức. * Câu đố: 1. Chợ đông, không ai bán. (Là gì?) 2. Trên trời rơi xuống mau co. (Là cái gì?) 3. Cả nhà có một bà hay la liếm. (Là cái gì?) 4. Vừa bằng cái bát, lát xát giữa đồng. (Là cái gì?) 5. Anh lớn mặc áo đỏ, em nhỏ mặc áo xanh. (Là quả gì?) 6. Ngày búp đêm nở. (Là gì?) 7. Tròn như đĩa, xỉa xuống ao Một trăm cái thuổng mà đào chẳng lên. (Là gì?).

<span class='text_page_counter'>(190)</span> 8. Chân đen, mình trắng, đứng nắng giữa đồng. (Là con gì?) 9. Đứng thì thấp, ngồi thì cao. (Là con gì?) 10. Vừa bằng thằng bé lên ba Thắt lưng con cón chạy ra ngoài đồng. (Là cái gì?) * Đáp án: Câu 1: Trường học Câu 2: Mo cau. Câu 3: Cái chổi Câu 4: Nốt chân trâu bò Câu 5: Quả ớt Câu 6: Ngọn đèn Câu 7: Mặt trăng Câu 8: Con cò. Câu 9: Con chó Câu 10: Bó mạ 2/ Vòng 2: Giải ô chữ - Ô chữ gồm có tất cả 13 câu hỏi hàng ngang và 1 câu hỏi hàng dọc. - Nhiệm vụ của các đội thi là lần lượt chọn ô hàng ngang để trả lời, thời gian suy nghĩ để trả lời cho mỗi câu hỏi hàng ngang là 10 giây. - Trả lời đúng ô hàng ngang được 10 điểm. - Sai (hoặc không trả lời được) không có điểm và phải nhường quyền trả lời cho đội khác. - Mỗi ô hàng ngang sẽ có một từ khóa cho câu hỏi hàng dọc, từ khóa này được phân biệt với các từ khác bằng màu sắc khác nhau. - Sau khi mỗi đội đã có một lượt lựa chọn ô hàng ngang, nếu đội nào có tín hiệu trả lời ô hàng dọc sẽ được chấp nhận. - Trả lời đúng được 40 điểm..

<span class='text_page_counter'>(191)</span> - Sai không có điểm, nhường quyền trả lời cho đội khác và không được trả lời các câu hỏi hàng ngang tiếp theo. - Sau 13 lượt lựa chọn ô hàng ngang, nếu không đội nào có tín hiệu trả lời từ khóa ô hàng dọc, người dẫn chương trình sẽ đọc gợi ý ô hàng dọc để các đội giành quyền trả lời. Trả lời đúng được 30 điểm, sai không có điểm. Kết thúc vòng thi. - Các ô hàng ngang hoặc hàng dọc chưa được trả lời sẽ hỏi khán giả. Ai trả lời đúng sẽ được nhận quà của Ban tổ chức. * Câu hỏi hàng ngang: Điền từ còn thiếu vào chỗ trống để hoàn chỉnh các câu ca dao sau: 1. Thân em như … Người thanh tham mỏng, kẻ thô tham dày. 2. Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống giếng hạt vào… 3. Thân em như … Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 4. Thân em như … Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen Ai ơi nếm thử mà xem Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi. 5. Thân em như … Mọt thì anh đổi cớ sao anh phiền. 6. Thân em như … Hết phương vùng vẫy biết nhờ nơi đâu.

<span class='text_page_counter'>(192)</span> 7. Thân em … cánh bèo Ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôi. 8. Thân em vất vả trăm bề Sớm đi ruộng lúa tối về ruộng dâu Có lược chẳng kịp chải đầu Có … chẳng kịp têm trầu mà ăn. 9. Thân em vừa đẹp vừa … Thân đi làm mọn cúi khòn khổ thay Thân gái bến nước mười hai Gặp nơi trong đục may ai nấy nhờ. 10. Thân em mười sáu … Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người 11. Thân em như … rơi Phải chăng chàng thật là người yêu hoa. 12. Thân em như … Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng. 13. Thân em như … Anh như mảnh chiếu giữa đàng bỏ quên Lạy trời cho cả gió lên Cho manh chiếu rách trải trên sập vàng. * Đáp án: Câu 1: Miếng cau khô Câu 2: Vườn hoa.

<span class='text_page_counter'>(193)</span> Câu 3: Dải lụa đào Câu 4: Củ ấu gai Câu 5: Cái cọc rào Câu 6: Cá trong lờ Câu 7: như thể Câu 8: Cau Câu 9: Giòn Câu 10: Tuổi đầu Câu 11: Đóa hoa Câu 12: Ớt chín cây Câu 13: Cái sập vàng * Ô chữ hàng dọc: Gồm 13 chữ cái - Đây là chủ đề về ca dao: Ca dao than thân.. V. C. Á. I. M. I. Ế. N. G. C. Ư. Ờ. N. H. O. A. U. K. H. Ô. D. Ả. I. L. Ụ. A. Đ. I. L. Ờ. Ầ. U. C. Ủ. Ấ. U. G. A. C. Ọ. C. R. À. O. C. Á. T. R. O. N. G. N. H. Ư. T. H. Ể. C. A. U. Ò. N I. Đ. G. C. A. I. T. U. Ổ A. Đ. Ó. A. H. O. Ớ. T. C. H. Í. N. C. Â. Y. Á. I. S. Ậ. P. V. À. N. G. À. O.

<span class='text_page_counter'>(194)</span> 3/ Vòng 3: Hát theo làn điệu * Thể lệ: - Người dẫn chương trình đưa ra 4 câu ca dao quen thuộc. - Các đội lần lượt bốc thăm và làm theo yêu cầu của người dẫn chương trình. - Yêu cầu các đội: Dựa vào phần lời của những câu ca dao vừa bốc thăm để hát thành những làn điệu dân ca. - Nếu hát hay và đúng: 20 điểm; Nếu hát không hay 10 điểm. - Nếu không hát không có điểm. - Kết thúc phần chơi có thể mời 4 khán giả tham gia thể hiện lại các bài hát trên cho không khí thêm sôi động. 1. Ngựa ô anh khớp kiệu vàng Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen Dây cương đỏ thắm, cán roi anh bịt đồng vàng Anh đưa nàng về dinh.. 2. Nắng lên rồi căng buồm cho khoái Gác chèo lên ta nướng ngô khoai.. 3. Trống cơm khéo vỗ nên vông Một bầy con xít lội sông đi tìm Thương ai con mắt lim dim Một bầy con nhện đi tìm giăng tơ. 4. Trúc xinh trúc mọc đầu đình Em xinh em đứng một mình cũng xinh..

<span class='text_page_counter'>(195)</span> 4/ Vòng 4: Thử tài ngôn ngữ. * Thể lệ: - Người dẫn chương trình đưa ra ngữ liệu. - Các đội theo dõi ngữ liệu trên máy chiếu (Nếu không có máy chiếu người dẫn chương trình có thể photo copy bài thơ thành 4 bản phát cho 4 đội) để làm bài. - Thời gian cho các đội làm bài là 2 phút. Khi người dẫn chương trình đưa ra tín hiệu hết giờ, các đội dừng bút và lần lượt đưa ra phần trả lời của đội mình. - Đội cao nhất: 40 điểm. - Nhì: 30điểm. - Ba: 20 điểm. - Bốn: 10 điểm. * Tìm những cặp từ trái nghĩa trong mỗi câu thơ sau? Sống đục sao bằng thác trong Trẻ cậy cha, già cậy con của mình Giày thừa guốc thiếu mới xinh Thói đời giàu trọng khó khinh mới buồn Quen tay mềm nắn rắn buông Nó lú có chú nó khôn hơn người Yêu cho vọt, ghét cho chơi Gian thương đong đầy bán vơi thêm lời Được lòng đất mất lòng người Lên xe xuống ngựa cả đời thảnh thơi Kính trên nhường dưới bạn ơi Vụng chèo khéo chống tạm thời cũng xong Méo mó có còn hơn không Nhiều no dạ ít no lòng chớ quên Gặp nhau trước lạ sau quen Giữ cho trong ấm ngoài êm thuận hòa. * Trả lời: Sống/ thác, trẻ/ già, thừa/ thiếu, trọng/ khinh, mềm/ rắn, lú/ khôn, yêu/ ghét, đầy/ vơi, được/ mất, lên/ xuống, trên/ dưới, vụng/ khéo, có/ không, nhiều/ ít, lạ/ quen, trong/ ngoài..

<span class='text_page_counter'>(196)</span> II. CÔNG BỐ KẾT QUẢ VÀ TRAO PHẦN THƯỞNG - Ban giám khảo sẽ tổng kết điểm của 4 đội sau tất cả các vòng thi. - Trong khi chờ đợi Ban tổ chức tổng kết điểm, các lớp lần lượt trình bày các tiết mục văn nghệ đã chuẩn bị. - 4 phần quà có giá trị từ cao tới thấp sẽ trao cho 4 đội có số điểm lần lượt từ cao trở xuống. III. TỔNG KẾT HỘI THI - Trưởng ban tổ chức nhận xét chung về hội thi, động viên khen ngợi các đội thi. - Cảm ơn các đại biểu , Hội cha mẹ học sinh, các thầy cô giáo, các đơn vị tài trợ (nếu có) và tất cả các học sinh của các khối lớp đã nhiệt tình tham gia hội thi.. Phiếu bài tập số 3 Hãy thiết kế các hoạt động giáo dục với chủ đề “Tiếng Việt với văn hóa dân gian”. Chủ đề 4: Tham quan di tích, danh thắng ở địa phương A. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN I. MỤC TIÊU Kiến thức: Củng cố, bổ sung, mở rộng, nâng cao và vận dụng các kiến thức về tiếng Việt, Lịch sử, Địa lí đã học vào thực tế cuộc sống. Kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng sống thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tế dưới hình thức tham quan du lịch..

<span class='text_page_counter'>(197)</span> Thái độ: Có hứng thú và yêu thích bộ môn tiếng Việt, Địa lí, Lịch sử … qua đó hình thành thái độ tích cực trong học tập và rèn luyện. II.ĐỊA ĐIỂM DỰ KIẾN THAM QUAN Các di tích, danh thắng ở địa phương. Dựa vào vị trí địa lí, lịch sử, văn hóa địa phương Ban tổ chức có thể lựa chọn các di tích, danh thắng tiêu biểu của địa phương mình để tổ chức các hoạt động tham quan cho phù hợp. Bài viết ở đây chỉ có tính chất gợi ý để giáo viên tham khảo. Trong quá trình hướng dẫn học sinh tham quan các di tích danh thắng, giáo viên có thể lựa chọn các nội dung cho phù hợp với địa phương, với học sinh là người dân tộc thiểu số. 1.Di tích tôn giáo tín ngưỡng, danh lam thắng cảnh: - Quần thể di tích Nhị Tam Thanh - Di tích thắng cảnh Chùa Tiên Giếng Tiên - Huyền thoại núi Mẫu Sơn 2. Di tích kiến trúc lịch sử văn hóa: - Di tích chiến thắng đường số 4 - Thành nhà Mạc - Khu di tích lịch sử Chi Lăng - Hang Thẩm Hai - Thẩm Khuyên - Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn III. THÀNH PHẦN THAM GIA - Tập thể giáo viên trong tổ bộ môn và các giáo viên khác, các khách mời nếu có (Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội cha mẹ học sinh...). - Học sinh của trường: + Có đủ sức khỏe, có khả năng tự phục vụ bản thân. + Xếp loại học lực khá trở lên, có hạnh kiểm tốt..

<span class='text_page_counter'>(198)</span> IV. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ 1. Về phía Ban tổ chức - Thành lập Ban tổ chức - Tổ chức thông tin, vận động, tuyên truyền đến từng lớp. - Lập danh sách học sinh tham gia ngoại khóa dã ngoại theo lớp. - Phương tiện và điều kiện tổ chức . + Kinh phí thực hiện. + Phương tiện. - Phân công nhiệm vụ cho các tổ các nhóm và đưa ra thời gian hoàn thành nhiệm vụ. 2. Về phía học sinh - Chuẩn bị các đồ dùng cần thiết cho một chuyến dã ngoại (quần áo, giầy, mũ, …). V. THỜI GIAN: - Dự kiến 1 ngày: …. VI. LỊCH TRÌNH DỰ KIẾN. THỜI GIAN. NỘI DUNG BUỔI SÁNG. 6.00. Xuất phát. GHI CHÚ.

<span class='text_page_counter'>(199)</span> BUỔI CHIỀU 13.40. VII. TỔNG KẾT VÀ VIẾT BÀI THU HOẠCH - Trưởng ban tổ chức nhận xét chung về chuyến tham quan. - Yêu cầu học sinh về nhà viết bài thu hoạch với chủ đề: “Giới thiệu về di tích, danh thắng ở địa phương em”.. Phiếu bài tập số 4 Hãy thiết kế các hoạt động giáo dục cho một buổi tham quan về chủ đề “Tham quan di tích, danh thắng địa phương”. * Lưu ý: Với bốn chủ đề của bài “Tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số vùng khó khăn nhất qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”, các địa phương có thể căn cứ vào điều kiện cụ thể của đơn vị mình để thiết kế cho phù hợp theo tình thần sau: - Về thời lượng: Dù nội dung có phong phú đến mấy cũng không nên kéo dài quá 2 giờ (tức 120 phút) cho những cuộc tổ chức ngoài trời. Nếu tổ chức trong lớp học thì nên gói gọn trong phạm vi 1 tiết (45 phút)..

<span class='text_page_counter'>(200)</span> - Đối với các môn học khác (ngoài tiếng Việt): Các thầy cô giáo nên tham khảo cách thức tiến hành của bộ môn Ngữ văn để tập trung được nhiều vào môn học của mình. *****************. THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê A, 1990, Mấy vấn đề cơ bản của việc dạy học tiếng Việt, Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 13 /1990. 2. Lê A (Chủ biên), Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, 2001, Phương pháp dạy học tiếng Việt, NXB Giáo dục. 3. Nguyễn Thị Bích An, 2007, Tổ chức dạy học theo hình thức Seminar ở môn Lí luận văn học, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. 4. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung, 2010, Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam. 5. Diệp Quang Ban, 2010, Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam. 6. Diệp Quang Ban, 2010, Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, NXB Giáo dục Việt Nam. 7. Phan Xuân Đạm, Phạm Trọng Tân, 2004, Sử dụng Graph trong dạy học từ loại tiếng Việt cho sinh viên dân tộc thiểu số theo chương trình Cao đẳng sư phạm, NXB Đại học sư phạm. 8. Nguyễn Thiện Giáp, 2000, Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục. 9. Nguyễn Thị Bắc Hải, 2007, Trắc nghiệm khách quan cho một số học phần của môn tiếng Việt, NXB Đại học Sư phạm. 10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), 2009, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục. 11. Vũ Ngọc Khánh, Trò chơi dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục. 12. Đinh Trọng Lạc (Chủ biên), Nguyễn Thái Hòa, 1998, Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục..

<span class='text_page_counter'>(201)</span> 13. PGS.Hồ Lê, TS. Lê Trung Hoa, 2002, Sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt (thú chơi chữ), NXB Khoa học Xã hội. 14. Đỗ Quang Lưu, 1997, Văn học và nhà trường - Ngôn ngữ và đời sống, NXB Giáo dục. 15. Vũ Ngọc Phan, Ca dao tục ngữ, thành ngữ Việt Nam, NXB Giáo dục. 16. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), 2010, Ngữ văn 6, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam. 17. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), 2010, Ngữ văn 6, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam. 18. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), 2010, Ngữ văn 7, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam. 19. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), 2010, Ngữ văn 7, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam. 20. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), 2010, Ngữ văn 8, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam. 21. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), 2010, Ngữ văn 8, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam. 22. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), 2010, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam. 23. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), 2010, Ngữ văn 9, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam. 24. Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm, 1999, Từ điển tiếng Việt, NXB Thanh Hóa. 25. Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu, 2002, Tiếng Việt trên đường phát triển, NXB Khoa học Xã hội. 26. Nguyễn Văn Thánh, 2003, Tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học Xã hội. 27. Trần Thị Thành, Nguyễn Thanh Vân, 2007, Đề luyện thi và kiểm tra Ngữ văn 9, NXB Hà Nội. 28. Nguyễn Thị Thìn, 2001, Câu tiếng Việt và nội dung dạy học câu ở trường phổ thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 29. Đỗ Ngọc Thống, 2006, Luyện tập và kiểm tra Ngữ văn THCS, NXB Giáo dục..

<span class='text_page_counter'>(202)</span> 30. Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên), Phạm Minh Diệu, Nguyễn Thành Thi, 2008, Làm văn, NXB Đại học Sư phạm. 31. Nguyễn Thị Thúy, Lê Minh Thu, 2006, Vui học tiếng Việt, NXB Đại học sư phạm. 32. Bùi Minh Toán (Chủ biên), Nguyễn Thị Lương, 2010, Giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Đại học Sư phạm. 33. Bùi Minh Toán, Đặng Thị Lanh, 2004, Tiếng Việt đại cương - Ngữ âm, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. 34.Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng, 2009, Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục. 35. Nguyễn Đức Tồn, 2002, Tìm hiểu đặc trưng văn hóa – Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 36. Nguyễn Văn Tứ, 2004, Ngữ liệu văn học dân gian trong dạy học tiếng Việt, NXB Đại học Sư phạm. 37. Hoàng Tiến Tựu, 1999, Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục. 38. Nguyễn Thế Truyền, 2007, Vui học tiếng Việt, tập 1, NXB Giáo dục. 39. Mông Ký Slay (Chủ biên)…Phương pháp dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc cấp Tiểu học, Dự án phát triển giáo viên Tiểu học, NXB Giáo dục, 2006, 40. Trần Kim Thuận, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Thị Huệ Yên, Hỗ trợ việc dạy tiếng Việt và tiếng dân tộc cho học sinh dân tộc thiểu số, Tài liệu tập huấn Module VI - Bộ Giáo dục & Đào tạo, Dự án giáo dục Trung học cơ sở vùng khó khăn nhất, Hà Nội, 2010. ------------------------------------.

<span class='text_page_counter'>(203)</span>

×