Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Tìm hiểu tín ngưỡng thờ mẫu và việc trưng bày chuyên đề này tại bảo tàng phụ nữ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.41 MB, 140 trang )

TRờng đại học văn hóa h nội
khoa di sản văn hãa
------------

lý thÞ ngäc dung

TÌM HIỂU TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU VÀ
VIỆC TRƯNG BÀY CHUYÊN ĐỀ NÀY TẠI
BẢO TÀNG PHỤ NỮ VIỆT NAM

khãa ln tèt nghiƯp
ngμnh b¶o tμng häc
M· sè: 52320205

Ng−êi h−íng dẫn: PGS.TS. Đặng Văn bi

h nội 2012

1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài. .............................................................................................. 6
2. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................ 7
3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 8
4. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 8
6. Bố cục của khoá luận ........................................................................................ 8
CHƯƠNG 1: BẢO TÀNG TRONG VIỆC BẢO TỒN DI SẢN VĂN HOÁ
PHI VẬT THỂ ..................................................................................................... 9


1.1. Một số khái niệm ........................................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm bảo tàng, hiện vật bảo tàng và sưu tập hiện vật bảo tàng.. 9
1.1.2. Di sản văn hóa phi vật thể ................................................................. 16
1.2. Bảo tồn Di sản văn hoá phi Vật thể ......................................................... 18
1.2.1. Nhận thức và quan điểm tiếp cận ...................................................... 18
1.2.2. Vai trò của Bảo tàng trong việc bảo tồn Di sản Văn hoá phi vật
thể. ............................................................................................................. 24
1.3. Khái quát về Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam ................................................. 27
1.3.1. Sự hình thành và phát triển của Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. ......................27
1.3.2. Đặc trưng và chức năng của Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. ................ 29
CHƯƠNG 2: TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM ................................................................................ 32
2.1. Đạo Mẫu trong hệ thống tơn giáo- tín ngưỡng của người Việt ............... 32
2.1.1. Khởi nguồn của Tín ngưỡng thờ Mẫu .............................................. 32
2.1.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu lưu truyền trong dân gian. .............................. 34
2.1.3. Vai trò Đạo Mẫu trong hệ thống tơn giáo- tín ngưỡng người Việt......... 38
2.2. Thiết chế của Đạo Mẫu. ........................................................................... 41
2.2.1. Hệ thống điện thần ............................................................................ 41

3


2.2.2. Không gian tâm linh với đạo thờ Mẫu. ............................................. 46
2.3. Nghi lễ Lên đồng- điều kiện để tín ngưỡng duy trì trong đời sống. ........ 48
2.3.1. Khái niệm Lên đồng. ......................................................................... 48
2.3.2. Mục đích lên đồng............................................................................. 49
2.3.3. Lên đồng (Hầu bóng)- Kho tàng sống của di sản văn hố Việt Nam. .... 50
2.4. Những giá trị cơ bản của Đạo Mẫu .......................................................... 53
2.4.1. Giá trị nhận thức Thế giới tự nhiên ................................................... 53
2.4.2. Giá trị Lịch sử ................................................................................... 54

2.4.3. Giá trị thẩm mỹ ................................................................................. 54
2.4.4. Nghệ thuật Hát văn ........................................................................... 55
2.4.5. Đạo Mẫu hướng niềm tin vào đời sống trần thế của con người. ...... 58
CHƯƠNG 3: BẢO TÀNG PHỤ NỮ VIỆT NAM GĨP PHẦN VÀO
VIỆC PHÁT HUY TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở VIỆT NAM. .................. 61
3.1. Một số đổi mới trong Trưng bày ở Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. ............. 61
3.1.1. Từ nhận thức đến thực tế. ................................................................. 61
3.1.2. Thay đổi từ những bài học cụ thể. .................................................... 65
3.2. Trưng bày chuyên đề tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam.......... 70
3.2.1. Quá trình hình thành trưng bày chuyên đề........................................ 70
3.2.2. Nội dung trưng bày chuyên đề .......................................................... 73
3.2.3. Số lượng và phân loại hiện vật có trong trưng bày chuyên đề. ........ 89
3.3. Những đánh giá bước đầu về giá trị Trưng bày chuyên đề “Tín ngưỡng
thờ Mẫu: Tâm- Đẹp- Vui” tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. ............................ 91
3.4. Nhận xét về trưng bày chuyên đề............................................................. 92
3.5. So sánh trưng bày tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam
với trưng bày tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. ......... 95
3.6. Một số giải pháp về vấn đề sưu tầm và giới thiệu Di sản Văn hoá phi
vật thể trong Bảo tàng. .................................................................................... 98
3.6.1. Những hạn chế. ................................................................................. 98

4


3.6.2. Một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế. ......................... 100
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Di sản văn hoá được coi là tài sản quý giá của mỗi quốc gia, dân tộc, là
chất liệu để gắn kết cộng đồng các dân tộc, là cơ sở để sáng tạo ra những giá
trị tinh thần mới và là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại.
Bảo tàng là cơ quan nghiên cứu và giáo dục khoa học có nhiệm vụ quan
trọng là sưu tầm, bảo quản, trưng bày và phát huy giá trị của di sản văn hoá
vật thể và di sản văn hoá phi vật thể, đây là những chức năng quan trọng nhất
không thể thiếu mà xã hội đã giao cho bảo tàng.
Trước đây, bảo tàng thiên về chức năng là nơi lưu giữ những hiện vật
phản ánh về một sự kiện, hiện tượng liên quan đến sự tồn tại và phát triển của
con người. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nhận thức chính
xác về di sản văn hố phi vật thể (thể hiện ở Luật di sản văn hoá 2001 và
được sửa đổi bổ sung năm 2009) thì việc trưng bày giới thiệu các di sản văn
hoá phi vật thể trong bảo tàng ngày càng được chú ý hơn, hoàn thiện hơn.
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng
người nào đó, mang những đặc trưng và tính chất của cộng đồng. Trong xã
hội hiện đại, những giá trị văn hoá hiện đại tác động đến những giá trị văn hoá
truyền thống, có thể nó sẽ hồ nhập với nhau cùng phát triển nhưng cũng có
thể những giá trị văn hố truyền thống sẽ bị phai mờ và bị thay thế bằng
những giá trị văn hoá hiện đại. Bảo tàng lúc này đóng vai trị là một thiết chế
văn hố có vai trị quan trọng trong việc gìn giữ những giá trị văn hoá tinh
thần truyền thống để chuyển giao cho thế hệ mai sau dưới dạng hoàn thiện
gần với nguyên gốc nhất.
Kho tàng Di sản Văn hoá của dân tộc Việt nam nói chung hay kho tàng
Di sản Văn hố phi vật thể nói riêng thực sự rất đa dạng và phong phú. Đảng
và nhà nước ta luôn luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất để cho những giá trị tinh


6


thần ấy, những giá trị được coi là “quốc hồn, quốc tuý” ấy tồn tại lâu dài cùng
với dân tộc.
Đạo Mẫu là tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa đích thực, mặc dù trong
q trình phát triển, nó đã thu nhận những ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo
và thậm chí cả Nho giáo nữa. Đạo Mẫu lấy tơn thờ Mẫu (Mẹ) làm đấng sáng
tạo và bảo trì cho vũ trụ và con người, là nơi con người ký thác những mong
ước khát vọng về đời sống trần thế của mình và đạt tới sức khoẻ và tài lộc
(Phúc- Lộc- Thọ). Tuy có một thời gian dài Lên đồng- một nghi lễ đặc trưng
nhất của tục thờ Mẫu bị cấm đốn và coi đó là một thứ mê tín dị đoan thì bất
chấp những sự cấm đốn ấy người ta vẫn âm thầm tiến hành Lên đồng, niềm
tin vào Mẫu (Mẹ) thôi thúc họ phải thực hành các nghi lễ nằm ngồi vịng luật
pháp đó. Để rồi Lên đồng vẫn tiếp tục tồn tại đến ngày nay trong sự thành
kiến và đồn thổi của xã hội, với sức sống mạnh mẽ nhờ vậy tín ngưỡng thờ
Mẫu càng khẳng định được vị thế trong đời sống tâm linh của dân tộc Việt.
Bản thân tôi cũng cảm thấy rất hứng thú về vấn đề tín ngưỡng thờ Mẫu,
cùng với kiến thức chuyên ngành đã tích luỹ được từ thực tiễn, tập dượt khả
năng nghiên cứu, viết bài, tôi quyết định chọn đề tài “Bước đầu tìm hiểu về
Trưng bày chun đề Tín ngưỡng Thờ Mẫu: Tâm- Đẹp- Vui tại Bảo tàng Phụ
Nữ Việt Nam” làm Khoá luận tốt nghiệp Đại học ngành Bảo tồn- Bảo tàng.
Đề tài còn nhằm khẳng định vai trò của bảo tàng trong việc bảo tồn Di sản
Văn hố dân tộc và đồng thời đi sâu tìm hiểu giá trị Di sản Văn hoá phi vật
thể mà bảo tàng phản ánh đó là tín ngưỡng thờ Mẫu tại Bảo tàng Phụ Nữ
Việt Nam.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam và nội dung Trưng bày chuyên đề Tín
ngưỡng thờ Mẫu ở bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam.


7


3. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Nghiên cứu khái qt tín ngưỡng thờ Mẫu trong q trình
hình thành phát triển, đặc biệt thực trạng hiện nay.
Về không gian: Nghiên cứu tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ ở một số
địa phương Miền Bắc Việt Nam và sự thể hiện chủ đề trưng bày về tín
ngưỡng thờ mẫu Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam.
4. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về những giá trị văn hố hàm chứa trong tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ ở một số địa phương Miền Bắc.
Khẳng định vai trò của bảo tàng trong việc gìn giữ và phát huy những giá
trị Di sản Văn hoá phi vật thể.
Mạnh dạn đề xuất một số ý kiến để bảo tàng hoàn thiện và giới thiệu sâu
hơn nội dung trưng bày về chuyên đề tín ngưỡng thờ Mẫu.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lê Nin
- Phương pháp khoa học để tiến hành phân tích nghiên cứu về tín
ngưỡng thờ mẫu: Bảo tàng học, Xã hội học, Văn hoá học...
6. Bố cục của khố luận
Bài khố luận ngồi phần mở đầu và kết luận, có 3 Chương:
Chương 1: Bảo tàng trong việc bảo tồn Di sản văn hoá phi vật thể
Chương 2: Đạo Mẫu trong đời sống xã hội đương đại Việt Nam
Chương 3: Bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam góp phần vào việc gìn giữ và phát
huy giá trị văn hố trong tín ngưỡng thờ mẫu ở Việt Nam.

8



CHƯƠNG 1: BẢO TÀNG TRONG VIỆC BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HOÁ PHI VẬT THỂ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm bảo tàng, hiện vật bảo tàng và sưu tập hiện
vật bảo tàng
 Bảo tàng
“Bảo tàng có lịch sử lâu đời, các bảo tàng là những ngôi nhà cất giữ
những báu vật của loài người, là nơi lưu giữ ký ức của các dân tộc, các nền
văn hoá, những ước mơ và hy vọng của con người trên Thế Giới.”1
Định nghĩa về Bảo tàng của ICOM (Hội đồng Quốc tế các Bảo tàng)
được thông qua ở kỳ họp thứ 20 tại Seoul (Hàn Quốc) tháng 10/2004 như sau:
“Bảo tàng là một thiết chế phi lợi nhuận, hoạt động thường xuyên mở
cửa đón cơng chúng đến xem, phục vụ cho xã hội và sự phát triển của xã hội.
Bảo tàng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, thông tin và trưng bày các bằng
chứng vật thể và phi vật thể về con người và mơi trường xung quanh con
người vì mục đích nghiên cứu, giáo dục và thưởng thức”.
Theo Luật Di sản Văn hố năm 2001 được sửa đổi bổ sung năm 2009
thì Bảo tàng được định nghĩa như sau: “Bảo tàng là thiết chế văn hố có chức
năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày và giới thiệu di sản văn hoá,
bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người và môi trường xung quanh con
người, nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ
văn hoá của cơng chúng.”
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về Bảo tàng nhưng các định nghĩa
đều khẳng định:
 Bảo tàng là một thiết chế văn hoá đặc thù, một cơ quan văn hoá,
khoa học và giáo dục.

1


Timothy Ambrose và Crispin Daine. Cơ sở Bảo tàng. Bảo tàng CMVN dịch và xuất bản, 2000, tr24

9


 Đối tượng nghiên cứu, giới thiệu của bảo tàng là những di sản
văn hoá vật thể và phi vật thể cùng môi trường tồn tại xung
quanh con người.
 Các hoạt động của bảo tàng hướng tới việc nghiên cứu, sưu tầm,
thu thập, bảo quản, gìn giữ và trưng bày giới thiệu các sưu tập
hiện vật về lịch sử xã hội, tự nhiên và thông tin về các sưu tập
cho công chúng
 Ngày nay trong xu thế hội nhập và phát triển đã và đang diễn ra
sự phát triển mạnh mẽ của tri thức khoa học, bảo tàng ngày càng
khẳng định được vị thế của mình trong sự phát triển của xã hội.
Bảo tàng phải là một thiết chế phi lợi nhuận, bao giờ cũng lấy
mục tiêu phục vụ lợi ích công chúng là chính dù rằng bảo tàng
vẫn cung cấp các loại dịch vụ mà người tiêu dùng có nhu cầu và
sẽ mua bằng tiền.
 Khái niệm về bảo tàng hiện nay có phần được mở rộng và đa
dạng hơn
Thông thường bảo tàng được hiểu theo nghĩa truyền thống là một cơ
quan, một thiết chế văn hoá đặc thù, bao gồm 5 khơng gian, đó là:
o Khơng gian trưng bày trong và ngồi bảo tàng
o Khơng gian bảo quản và xử lý hiện vật
o Không gian dành cho các thiết bị kỹ thuật
o Không gian dành cho cán bộ chun mơn và cán bộ hành
chính làm việc.
o Khơng gian dành cho các hoạt động dịch vụ. 2
Bảo tàng có những chức năng xã hội sau:

- Chức năng nghiên cứu khoa học: Bảo tàng là cơ quan nghiên cứu, giáo
dục khoa học- một trong những chức năng cơ bản quan trọng nhất, nó
2

PGS.TS Nguyễn Thị Huệ, Cơ sở Bảo tàng học, Nxb Đại học Quốc Gia HN, 2008, Tr11

10


có vai trị, ý nghĩa to lớn đối với bảo tàng đồng thời là tiền đề, là cơ sở
cho mọi hoạt động của bảo tàng. Bảo tàng và các cơ quan khoa học đều
tiến hành nghiên cứu nhằm phát hiện ra những thông tin khoa học để
truyền bá, phổ biến những kiến thức mới, những kết quả nghiên cứu
vào sản xuất, phục vụ đời sống của con người.
- Chức năng giáo dục tuyên truyền: Đây là một trong những chức năng
cơ bản quan trọng, thơng qua các hình thức hoạt động của mình nhằm
chuyển giao có mục đích rõ ràng các thông tin, những tri thức về khoa
học, lịch sử, văn hố giúp cho việc hình thành thế giới quan, giáo dục
tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ cho con người phát triển toàn diện.
- Chức năng bảo tồn di sản văn hố: mục đích của cơng tác bảo tồn di
sản văn hố là gìn giữ hiện vật, sưu tập hiện vật trong tình trạng ổn
định lâu dài nhằm kéo dài tuổi thọ cho hiện vật và sưu tập, tránh sự huỷ
hoại của các yếu tố môi trường, sinh học và thảm hoạ thiên nhiên hoặc
con người gây ra.
- Chức năng thơng tin, giải trí và thưởng thức: bảo tàng được khẳng định
là một trung tâm thơng tin, một phịng thí nghiệm, là nơi giải trí tích
cực,… Bảo tàng có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm lưu giư và truyền đi
những thơng điệp quan trọng về tồn bộ các nền văn minh của nhân
loại thơng qua các di sản văn hố mà loài người đã sáng tạo ra.
Thực hiện chức năng giải trí, bằng các hoạt động nghiệp vụ, các

hình thức thể hiện với các dịch vụ văn hoá phong phú hấp dẫn nêu trên,
bảo tàng làm cho công chúng tham quan dễ hiểu, dễ nhớ, thoải mái,
khơng gị bó, áp đặt, tự họ lựa chọn, chủ động tham gia vào các hoạt
động của bảo tàng, thoả mãn nhu cầu thưởng thức giá trị di sản văn hố
có thực trong bảo tàng.

11


- Chức năng tài liệu hoá khoa học: chức năng này gọi một cách đầy đủ là
chức năng tài liệu hố khoa học những sự kiện, hiện tượng của q
trình phát triển lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội bằng hiện vật gốc.
Thực hiện chức năng này, bảo tàng phải tiền hành nghiên cứu
những sự kiện lịch sử và sự nghiệp của một danh nhân… được bảo tàng
phản ánh trong nội dung chủ đạo của mình, từ đó tổ chức sưu tầm, thu
thập và lựa chọn những tài liệu hiện vật gốc, sưu tập hiện vật gốc tiêu
biểu có giá trị bảo tàng và tiến hành ghi chép lập hồ sơ khoa học- pháp
lý cho chúng, đồng thời phải làm đầy đủ các thủ tục, nguyên tắc bảo
tàng học cho hiện vật gốc, sưu tập hiện vật gốc như đăng ký, vào sổ
kiểm kê, xây dựng sưu tập và bảo quản chúng theo chất liệu… nhằm
gìn giữ di sản văn hố này để phục vụ cơng tác nghiên cứu khoa học,
giáo dục và phổ biến tri thức khoa học- cho mọi tầng lớp cơng chúng vì
sự phát triển của xã hội.3
Các bảo tàng có một nhiệm vụ quan trọng là tăng cường vai trị giáo
dục của mình và thu hút rộng rãi khách tham quan từ các cộng đồng địa
phương hoặc các nhóm người mà bảo tàng phục vụ. Sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa các yếu tố cộng đồng và phát huy di sản của họ là một phần không
thể tác rời với chức năng giáo dục.4
 Hiện vật bảo tàng
Trong cuốn nghiên cứu nguồn sử liệu hiện vật bảo tàng của Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia-HN (2002) của tác giả PGS.TS Nguyễn Thị Huệ đã
đưa ra khái niệm: “Hiện vật bảo tàng là những hiện vật gốc mang giá trị và
thuộc tính của hiện vật bảo tàng, có hồ sơ khoa học- pháp lý kèm theo phù
hợp với nội dung và loại hình của bảo tàng, chúng được gìn giữ và bảo quản
lâu dài để phục vụ cho những hoạt động và chức năng xã hội của bảo tàng”5
PGS.TS Nguyễn Thị Huệ, Cơ sở Bảo tàng học, Nxb Đại học Quốc Gia HN, 2008, Tr130
Cục Di sản Văn hoá. Hội đồng quốc tế các bảo tàng- Lịch sử và quy tắc đạo đức bảo tàng- 2005, tr83,84
5
PGS.TS Nguyễn Thị Huệ, Nghiên cứu nguồn sử liệu Hiện vật Bảo tàng, Nxb Chính trị Quốc Gia HN, 2002
3
4

12


Để làm rõ và định nghĩa về hiện vật bảo tàng, tập thể giảng viên Khoa
Bảo tàng, bộ môn Bảo tàng học Trường Đại học Văn hoá Hà Nội đã nghiên
cứu và căn cứ vào chức năng xã hội, những nhiệm vụ mà bảo tàng được giap
và trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin về nhận thức, đã nêu “Hiện
vật bảo tàng là nguồn nhận thức trực tiếp cảm tính cho nhận thức của con
người, tiêu biểu về văn hoá vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
trong quá trình lịch sử cùng với những hiện vật về thế giới tự nhiên xung
quanh ta, bản thân nó chứng minh cho một sự kiện, hiện tượng nhất định
nào đó trong q trình phát triển của xã hội và tự nhiên phù hợp với loại
hình bảo tàng được sưu tầm, bảo quản nhằm phục vụ cho nghiên cứu và
giáo dục khoa học”6
Trong cuốn Sự nghiệp Bảo tàng của nước Nga do Kaulen.M.E chủ biên
được Cục di dản văn hố xuất bản năm 2006 thì có viết “Hiện vật bảo tàng là
đối tượng tự nhiên hay văn hoá lịch sử được nhập vào sưu tập bảo tàng, là tư
liệu ban đầu của tri thức và tác động cảm xúc mang giá trị bảo tàng”

Như vậy, hiện vật bảo tàng trước hết là những hiện vật gốc của lịch sử
tự nhiên và lịch sử xã hội được lấy ra trực tiếp từ hiện thực xung quanh ta, vì
vậy nó có tính khách quan và tính chân thực lịch sử… Hiện vật gốc bao giờ
cũng có hai mặt: một mặt được bộc lộ ra bên ngoài được gọi là hình thức của
hiện vật, như hình dáng, màu sắc, kích thước, trọng lượng,… Cịn mặt kia
là những gì ẩn kín bên trong hình thức, nó bao gồm nội dung lịch sử, thông
tin khoa học tạo ra bản chất của hiện vật. Hình thức và nội dung lịch sử của
hiện vật đều có giá trị nhưng giá trị lớn nhất và quan trọng nhất thuộc về
bản chất của hiện vật. Chính phần bản chất, nội dung lịch sử mới là linh
hồn của hiện vật, khi nghiên cứu khai thác cả hình thức và nội dung hiện
vật tức là chúng ta đã làm cho hiện vật sống lại cả thời kỳ hoặc giai đoạn
lịch sử mà nó là vật chứng.
6

Cơ sở Bảo tàng học (3 tập), trường Đại học Văn hoá Hà Nội, 1990, tr 81, Tập 1.

13


Từ những nghiên cứu phân tích trên đây, chúng ta có thể khẳng định
“Hiện vật bảo tàng chính là nguồn sử liệu gốc quan trọng hàm chứa những
thong tin gốc về lịch sử xã hội, tự nhiên và con người, nó trải quan một quy
trình xử lý khoa học của bảo tàng”7
 Hiện vật trưng bày của Bảo tàng
Trưng bày là bộ mặt của bảo tàng, là hình thức thơng tin cơ bản của bảo
tàng đến với công chúng. Trưng bày chính là việc trình bày các hiện vật bảo
tàng một cách có tổ chức, có cơ sở khoa học, có mục đích, định hướng, có
giải thích với sự phân bố chung phù hợp với ý đồ tư tưởng và nội dung trưng
bày được soạn thảo, phù hợp với nguyên tắc, giải pháp của kiến trúc và kỹ
thuật, mỹ thuật được lựa chọn. Trong cuốn Giáo trình Cơ sở Bảo tàng học do

PGS.TS Nguyễn Thị Huệ (chủ biên) xuất bản năm 2008 đã trình bày khái
niệm hiện vật trưng bày như sau:
“Hiện vật trưng bày của bảo tàng là sự tổng hợp toàn bộ các loại hiện
vật được sử dụng trong phần trưng bày của bảo tàng để chứng minh và giải
thích cho đề tài trưng bày”
Tất cả các trưng bày của bảo tàng dù ở loại hình nào cũng đều phải
thực hiện nguyên tắc chung của bảo tàng quy định đó là trưng bày dựa trên
cơ sở hiện vật gốc và sưu tập hiện vật gốc có giá trị bảo tàng. 8


Sưu tập hiện vật bảo tàng

Trong cuốn “Sự nghiệp bảo tàng của nước Nga” do Cục Di sản văn
hóa xuất bản năm 2006 đã viết: “Sưu tập hiện vật bảo tàng là toàn bộ những
hiện vật khác nhau cùng chủng loại hoặc giống nhau về những dấu hiệu nhất
định khơng kể mỗi hiện vật trong đó có giá trị văn hố riêng được tập hợp lại
đều có ý nghĩa lịch sử, nghệ thuật, khoa học hay văn hoá”9

PGS.TS Nguyễn Thị Huệ. Cơ sở Bảo tàng học. Nxb Đại học Quốc Gia. 2008- Tr.154-158.
PGS.TS Nguyễn Thị Huệ. Cơ sở Bảo tàng học. Nxb Đại học Quốc Gia. 2008, Tr.181- 182
9
Sự nghiệp Bảo tàng nước Nga, Cục di sản văn hoá (2006), tr 235 (bản dịch)
7
8

14


Trong cuốn Luật Di sản văn hoá Mục 9 điều 4 đã viết: “Sưu tập là một
tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, hoặc di sản văn hố phi vật thể,

được thu thập, gìn giữ sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về
hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử tự nhiên
và xã hội”
Như vậy, theo nội dung của khái niệm này, chúng ta có thấy rằng đối
tượng được lựa chọn để xây dựng sưu tập khơng chỉ là những di sản văn hố
vật thể như di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia mà cịn cả di sản văn hố phi vật
thể, chúng cần phải được nghiên cứu, phân loại sắp xếp vào các sưu tập của
bảo tàng để phục vụ cho các chức năng xã hội của bảo tàng.
 Mục đích xây dựng sưu tập của bảo tàng nhằm
- Phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, hiện vật là nguồn sử liệu
chủ yếu, cơ bản nhất phục vụ cho nghiên cứu khoa học ở nhiều lĩnh vực
khác nhau phù hợp với nội dung chủ đạo của bảo tang. Do đó sưu tập
hiện vật của mỗi bảo tàng được xây dựng sẽ là một trong những nguồn
tri thức quan trọng của từng lĩnh vực khoa học để phục vụ mục đích
nghiên cứu khoa học trong và ngoài bảo tàng, đặc biệt trong tương lai
các nguồn tư liệu về các thời kỳ lịch sử đã qua sẽ ngày càng trở nên
khó sưu tầm thu thập thì các sưu tập hiện vật trong bảo tàng ngày
càng trở thành nguồn sử liệu quý giá phục vụ cho nghiên cứu khoa
học của một lĩnh vực nào đó của các ngành khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội.
- Phục vụ cho công tác trưng bày- giáo dục- tuyên truyền. Trong bảo
tàng công tác trưng bày được tiến hành trên cơ sở hiện vật gốc và sưu
tập hiện vật gốc có giá trị bảo tàng. Do đó nếu sưu tập hiện vật được
xây dựng và lựa chọn đưa ra trưng bày thì đó là những sưu tập hiện vật
có giá trị lớn vì nó có khả năng cung cấp thơng tin tập trung- nhanhchính xác, phong phú của hiện vật bảo tàng với công chúng, bảo tàng sẽ

15


hấp dẫn và thu hút được đông đảo mọi thành phần khách tham quan

đến chiêm ngưỡng, thưởng thức và suy ngẫm. Từ đó họ nâng cao được
ý thức về tri thức được làm giàu và thoả mãn có nhu cầu về nghiên cứu
học tập và giải trí của chính mình. Do đó có thể nói trưng bày sưu tập
hiện vật bảo tàng góp phần thực hiện tốt chức năng nghiên cứu và giáo
dục truyền thống của bảo.10
1.1.2. Di sản văn hóa phi vật thể
Di sản văn hố là biểu hiện cụ thể nhất, dễ nhận biết nhất về bản sắc
văn hố dân tộc, là tài sản vơ giá của đất nước là bộ phận cấu thành kho tàng
di sản văn hố của nhân loại, có ý nghĩa trong việc giáo dục lòng yêu nước, tự
hào dân tộc.
Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO sử dụng trong
Cơng ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể: “Di sản văn hóa phi
vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ
năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các khơng gian
văn hóa có liên quan mà các cộng đồng và các nhóm và trong một số trường
hợp là cá nhân cơng nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển
giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được cộng
đồng, các nhóm khơng ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối
quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình
thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tơn
trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người.”
Theo quy định của Luật Di sản Văn hoá ta thấy:
Điều 1: Di sản văn hoá quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hoá
phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị
lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở
nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
10

PGS.TS Nguyễn Thị Huệ. Cơ sở Bảo tàng học. Nxb Đại học Quốc Gia. 2008- Tr.199-200.


16


... Điều 4: của luật Di sản Văn hoá được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã
đưa ra khái niệm: “Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với
cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và khơng gian văn hố liên quan; có giá trị
lịch sử, văn hoá, khoa học, thể hiện bản sắc cộng đồng; không ngừng được tái
tại và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.” 11
Từ đó có thể xác định được một số đặc điểm của di sản văn hoá Phi vật
thể như sau:
- Di sản văn hoá phi vật thể gắn với cộng đồng và cá nhân, vật thể và
khơng gian văn hố có liên quan và được lưu truyền và biểu hiện qua
hình thức truyền miệng, truyền nghề/ cầm tay chỉ việc và các dạng bí
quyết nghề nghiệp.
- Phần lớn di sản văn hố phi vật thể chỉ biểu hiện các mặt giá trị thơng
qua cử chỉ, nét mặt và hoạt động trình diễn của các nghệ nhân dân gianchủ thể sáng tạo văn hoá và cũng là chủ sở hữu các di sản, do đó Di sản
Văn hố phi vật thể bị phụ thuộc khá nhiều vào nhận thức và hành vi
ứng xử của các chủ thể văn hoá.
- Di sản văn hoá khơng chỉ gắn bó máu thịt với các chủ thể văn hố mà
cịn hồ quyện vào khơng gian sinh thái- nhân văn, nơi chúng được
sáng tạo ra và đang hiện diện trong đời sống cộng đồng.
- Di sản Văn hoá phi vật thể khơng chỉ mang đậm tính chất dân gian mà
cịn thường gắn bó mật thiết, phản ánh các hoạt động tơn giáo, tín
ngưỡng mang tính chất tâm linh, thiêng liêng trong các thiết chế tơn
giáo, tín ngưỡng (Đình, Chùa, Miếu, Phủ,…). Trong đó tín ngưỡng thờ
Mẫu với các nghi lễ Hầu đồng, loại hình âm nhạc Chầu Văn ở các Phủ
Mẫu là ví dụ điển hình nhất.

11


Luật di sản văn hoá 2001, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

17


1.2. Bảo tồn Di sản văn hoá phi Vật thể
1.2.1. Nhận thức và quan điểm tiếp cận
Việc bảo tồn di sản văn hoá là vấn đề được cả nhân loại quan tâm,
những giải pháp bảo tồn di sản văn hoá phù hợp là rất cần thiết, nghĩa vụ của
người cán bộ văn hoá là chuyển giao những giá trị văn hoá này với sự đầy đủ
và nguyên gốc của chúng cho thế hệ nối tiếp. Để làm được điều này chúng ta
cần phải có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về di sản văn hoá, hướng tiếp cận
và tiến hành với tinh thần trách nhiệm cao nhất.
Trước đây, do nhận thức chưa đầy đủ về di sản văn hoá phi vật thể, coi
đó là một bộ phận mang tính chức năng của di sản văn hoá vật thể mà khơng
phải là một dạng di sản có tính độc lập tương đối. Vì thế, việc bảo vệ và phát
huy giá trị chưa được quan tâm thoả đáng, dẫn đến tình trạng nhiều giá trị văn
hoá phi vật thể bị mai một, thất truyền.12
Chỉ sau cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 32, UNESCO đã thông qua
Công ước Bảo vệ và phát huy di sản văn hoá phi vật thể, chúng ta mới có
cách tiếp cận tương đối tồn diện về loại hình di sản văn hố này. Tuy nhiên,
trong thực tế từng quốc gia vẫn có cách định nghĩa và phân loại riêng, phù
hợp với điều kiện lịch sử và văn hố của mình. Ở Việt Nam, di sản văn hoá
vật thể và phi vật thể được coi là hai bộ phận hữu cơ cấu thành di sản văn hoá
dân tộc. Chúng ln gắn bó mật thiết, có tác động tương hỗ và tơn vinh lẫn
nhau, nhưng vẫn có tính độc lập tương đối.
Di sản văn hoá phi vật thể, tồn tại phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và
hành vi của các chủ thể sáng tạo văn hoá và chủ sở hữu di sản. Trong những
trường hợp cá biệt, chủ sở hữu di sản là một cộng đồng cư dân, thì ý chí, khát

vọng, nhu cầu, thậm chí lợi ích của họ cũng tác động không nhỏ đến sự tồn

12

PGS.TS Đặng Văn Bài, Bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể- từ góc nhìn tồn cầu hố, Tạp chí Di sản

văn hố số 4(21)-2007,

18


vong của di sản văn hoá phi vật thể. Và chính họ là nhân tố quyết định những
di sản văn hoá phi vật thể nào cần được bảo tồn, phương cách bảo tồn, sử
dụng và khai thác chúng nhằm thoả mãn nhu cầu hưởng thụ văn hoá của cá
nhân và cộng đồng.
Di sản văn hố mang “tính dân gian” rõ rệt và “tính dân gian” trong di
sản văn hố phi vật thể lại càng đậm đặc hơn. Văn hoá dân gian cho ta khả
năng khai thác kho tàng tri thức bản địa hay “túi khôn dân gian” (tri thức về
môi trường thiên nhiên; về lao động sản xuất; về dưỡng sinh trị bệnh và về
ứng xử xã hội, quản lý cộng đồng... Có thể hiểu tri thức bản địa là hiểu biết
mà một cộng đồng người đã tích luỹ và “trưng cất” thành những kinh nghiệm
ứng xử với tự nhiên và xã hội, được truyền lại cho đời sau bằng trí nhớ,
truyền miệng và cầm tay chỉ việc trong lao động sản xuất và quản lý xã hội.
Tri thức bản địa có những đặc trưng cơ bản là: Mang dấu ấn tác động của môi
trường tự nhiên rất rõ nét, dấu ấn của cộng đồng- chủ thể sáng tạo có tính địa
phương, vùng miền, đặc trưng này chính là yếu tố làm nên sự đa sắc trong di
sản văn hoá của quốc gia, dân tộc. Do đó, cũng làm cho mức độ tinh tế và
nhạy cảm trong di sản văn hố phi vật thể tăng lên đáng kể. Nó là cái gì đó,
rất “mong manh”, dễ “lay động”, dễ bị biến dạng trước những tác động, dù là
nhỏ nhất, từ con người và xã hội. Song, trong chừng mực nào nó, chính độ

nhạy cảm như vậy đã lại tạo ra khoảng không gian rộng lớn cho sự sáng tạo
của các chủ thể văn hố, đó chính là yếu tố làm cho di sản văn hố Việt Nam
mang tính đa dạng hơn, xét cả cấp độ quốc gia (54 cộng đồng tộc người) và
cấp độ địa phương (các vùng miền).
Di sản văn hố phi vật thể khơng chỉ gắn bó với các chủ thể văn hố mà
cịn hồ quyện vào khơng gian sinh thái- nhân văn, nơi chúng được sáng tạo
ra và đang hiện diện, tiến diễn trong đời sống đương đại của cộng đồng. Điều
đó có nghĩa là, di sản văn hố phi vật thể khơng “nhất thành nhất biến”, chúng
nhất định phải hàm chứa những nhân tố mang hơi thở của thời đại mà chủ thể

19


văn hóa cũng như chủ sở hữu di sản văn hoá phi vật thể được sáng tạo ra,
được bảo lưu và chuyển giao qua nhiều thế hệ là cả một q trình sàng lọc và
sáng tạo khơng ngừng nghỉ. Các thế hệ kế tiếp nhau có quyền bình đẳng trong
việc thừa hưởng các giá trị di sản văn hoá do ông cha để lại, đồng thời phải có
trách nhiệm chọn lựa những gì là tinh hoa nhất để bảo lưu, chuyển giao trên
cơ sở kế thừa có chọn lọc. Khơng những thế mà cịn phải ln sáng tạo những
giá trị văn hoá mới, bổ sung làm cho kho tàng di sản văn hoá của quốc gia
cũng như của nhân loại càng phong phú và đa dạng hơn- Đó là con đường phù
hợp với quy luật sáng tạo và phát triển của các giá trị di sản văn hoá phi vật
thể. Các loại hình di sản văn hố phi vật thể tiêu biểu mà chúng ta có hiện nay
như: Nhã nhạc cung đình Huế, Nghệ thuật ca trù Việt Nam, khơng gian văn
hoá quan họ Bắc Ninh, Nghệ thuật Chèo, Tuồng,.... chắc chắn cũng hàm chứa
những dấu ấn sáng tạo qua nhiều giai đoạn lịch sử chứ khơng thể cịn ngun
như lúc chúng mới được sáng tạo.
Kho tàng di sản văn hoá quốc gia hoặc cộng đồng dân tộc bao giờ cũng
chứa đựng hai yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong q trình giao lưu và tiếp
biến văn hố. Ở cấp độ quốc gia, yếu tố ngoại sinh là những tinh hoa văn hoá

mà các cộng đồng người Việt Nam tiếp thu có chọn lọc và tiếp biến một cách
tích cực từ các quốc gia, dân tộc khác. Ở cấp độ cộng đồng tộc người hoặc
vùng, miền văn hố thì yếu tố ngoại sinh sẽ là những gì chúng ta học hỏi được
từ các cộng đồng người khác trong từng quốc gia dân tộc hoặc từ các vùng,
miền văn hoá khác nhau trên cùng lãnh thổ quốc gia. Ngược lại, yếu tố nội
sinh- cội nguồn sáng tạo văn hoá là những giá trị văn hoá do cộng đồng các
tộc người ở Việt Nam hoặc cộng đồng cư dân trong các vùng, miền văn hoá
khác nhau của Việt Nam đã sáng tạo ra và chuyển giao cho thế hệ hôm nay.
Quan điểm nhận thức này đặt ra yêu cầu phải đối xử bình đẳng và tơn trọng cả
hai yếu tố nội sinh- ngoại sinh, đó cũng là một phương thức đúng đắn để sáng
tạo, bảo lưu bản sắc văn hoá dân tộc và giao lưu văn hoá với quốc tế.

20


Ở Việt Nam trong xu thế hội nhập toàn cầu, tình hình đơ thị hố ngày
càng diễn ra nhanh chóng, có phần ồ ạt, cuộc sống con người có phần thay
đổi, con người thực dụng hơn, sống gấp hơn. Chính điều đó đã đặt các di sản
văn hố (vật thể và phi vật thể) trước nguy cơ bị huỷ hoại, mai một nghiêm
trọng với mn vàn hình thức khác nhau do chính ý thức con người (trong đó
cũng có phần do thiên nhiên)
 Mục tiêu cơ bản của hoạt động bảo tồn di sản văn hoá.
Bảo vệ di sản văn hố, khuyến khích mọi hoạt động sáng tạo của tồn
xã hội, bảo đảm sự bình đẳng và dân chủ cho tất cả công dân được tiếp cận
với di sản văn hố và tạo cơ hội cho mọi cơng nhân tham gia hoạt động bảo
vệ, phổ biến và hưởng thụ giá trị văn hố.
Đích hướng tới là bảo tồn- phát huy- chuyển giao di sản văn hoá dưới
dạng nguyên gốc (hoặc càng gần với nguyên gốc càng tốt cho thế hệ tương
lai), bảo tồn di sản văn hoá là nhằm phục vụ con người và phục vụ phát triển.
Bảo tồn trước hết cần có cách tiếp cận thích hợp để nhận diện chân

giá trị di sản văn hoá, tức là giá trị cốt lõi của nó để đưa ra giải pháp sao
cho phù hợp.
Quan điểm tổng thể đặt ra yêu cầu phải nhìn nhận con người với tư
cách là chủ thể sáng tạo (sáng tạo, hưởng thụ và bảo vệ di sản văn hoá) đồng
thời cũng là loại sản phẩm văn hoá cao cấp, các hoạt động sản xuất văn hoá
của con người, môi trường sinh thái- nhân văn và di sản văn hoá phải được
xem như là một chỉnh thể hồn chỉnh, trong đó mối quan hệ ràng buộc, khơng
tách rời giữa thiên nhiên và con người là quan trọng nhất.
Theo giáo sư Ngô Đức Thịnh, quan điểm tổng thể u cầu tiếp cận văn
hố nói chung và di sản văn hố nói riêng trong cả q trình lịch sử phát triển
(có các giai đoạn phát triển và giai đoạn chuyển tiếp), trong đó 3 giai đoạn
phát triển cơ bản của văn hố Việt Nam là:
- Đơng Sơn (Hùng Vương)

21


- Đại Việt
- Thời cận hiện đại.
(Hai giai đoạn chuyển tiếp văn hoá là: một ngàn năm Bắc thuộc và giai
đoạn thuộc Pháp)
 Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Vấn đề bảo tồn di sản văn hoá trong bối cảnh hội nhập quốc tế này đặt ra
câu hỏi về khả năng và phương thức mà di sản văn hố có thể tác động tích
cực tới q trình phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam.
Bảo vệ di sản văn hoá cũng tức là bảo vệ phần “cốt lõi” nhất trong bản
sắc văn hoá dân tộc- cái làm nên bản lĩnh Việt Nam và là cái “phễu lọc”, loại
“phanh tinh thần” để chúng ta có thể hội nhập, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa
văn hố nhân loại, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.

Di sản văn hố góp phần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, đồng
thời thực hiện chức năng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hố; hiện đại hố đất nước bằng phương thức cung cấp cho xã
hội những thông tin chân thực, tri thức, hiểu biết, những bài học lịch sử giúp
cho thế hệ hôm nay hiểu đúng về quá khứ, nhận thức rõ về hiện tại và định
hướng cho tương lai.
Di sản văn hoá nếu được bảo tồn, tu bổ, tôn tạo theo đúng chuẩn mực
khoa học sẽ trở thành loại tài nguyên du lịch đặc biệt, sản phẩm du lịch có khả
năng cung cấp các loại dịch vụ có hàm lượng văn hố cao, có sức hấp dẫn với
du khách trong nước và quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch- ngành
kinh tế mũi nhọn của đất nước. Chúng ta thừa nhận di sản văn hoá là “nhịp
cầu” gắn kết quá khứ- hiện tại- tương lai, do đó rất cần nhận thức rõ yếu tố
thời gian trong di sản văn hố.
Điều này hồn tồn phù hợp với quan điểm tiếp cận tổng thể và hệ
thống, có ý nghĩa là di sản văn hoá phải được xem xét trong quá trình phát

22


triển, trong bối cảnh lịch sử- xã hội và trong mối tương quan giữa các thành tố
trong cùng một hệ thống. Thời gian là một đại lượng vật lý đặc trưng cho sự
biến đổi và chuyển động của các vật thể trong không gian, không gian tồn tại
của vật chất có nhiều chiều nhưng thời gian tồn tại chắn chắn là chỉ có một
chiều hướng theo nguyên lý: quá khứ- hiện tại- tương lai.
Hiện tại tuy là đại lượng quá ngắn so với quá khứ và cả tương lai nhưng
là cái hiện hữu, cái hiện thực nhất, cần nhất và có ý nghĩa quan trọng với con
người, hiện tại khơng tự nhiên sinh ra mà được chuẩn bị từ quá khứ. Do đó
hiện tại bao giờ cũng là một đại lượng tương đối, nó bị phụ thuộc vào quá
khứ, bị áp đặt, được quy định bởi quá khứ. Chúng ta khơng thể thay đổi được
q khứ mà chỉ có thể ứng xử tuỳ theo hoàn cảnh và tuỳ theo khả năng thích

nghi của mình. Hiện tại là hiện thân của tương lai, là điểm xuất phát của
tương lai.
Trong hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hoá, chúng ta phải tuân
thủ một nguyên tắc cơ bản mang tính định hướng “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
là: Lựa chọn những giá trị từ q khứ có ích cho hiện tại, đồng thời lại có khả
năng đóng góp cho tương lai. Điều đó có nghĩa là hoạt động bảo tồn di sản
văn hoá cần phải coi việc phục vụ lợi ích của con người, thoả mãn nhu cầu
của con người là mục tiêu tối thượng.
Quá khứ là cái đã qua, những gì có trước hiện tại, là một phần khơng
tách rời của con người, của quốc gia và của cả nhân loại, quá khứ còn là cơ sở
cho việc hoạch định tương lai.
Nhận thức đúng mối quan hệ giữa hiện tại và quá khứ giúp ta hiểu được
bản chất tín ngưỡng thờ tổ tiên của người Việt. Nó giải thích rõ vì sao hàng
ngàn năm qua cha ơng chúng ta lại ln tìm cách cắt nghĩa và xử lý một cách
có hiệu quả mối tương quan giữa trần gian và hạ giới, giữa thế giới những
người đã khuất và thế giới những người đang sống.

23


Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá trong bối cảnh hội nhập quốc tế
cũng có nghĩa là tất cả các hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hoá phải phục
vụ đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, hội nhập quốc tế gắn liền với yêu
cầu giao lưu tiếp biến văn hố. Việt Nam chỉ có thể thực hành giao lưu văn
hoá quốc tế căn bản dựa trên 2 điều kiện tiên quyết là: Bảo vệ bản sắc văn hố
dân tộc “hội nhập mà khơng hồ tan” và giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực có
chất lượng.
Nhiệm vụ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong bối cảnh
hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu phải vận dụng linh hoạt phương pháp tiếp cận
tổng thể và hệ thống để nhận diện chính xác hệ giá trị tiêu biểu trong bản sắc

văn hoá Việt và phát huy di sản văn hoá phục vụ mục tiêu đào tạo nguồn nhân
lực có chất lượng để phát triển đất nước mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân
tộc. Lấy việc phục vụ con người và phục vụ nhu cầu phát triển của đất nước
làm mục tiêu hoạt động, đưa di sản đến với đông đảo công chúng trong xã hội
cũng đồng nghĩa với việc cung cấp cái họ cần chứ khơng phải những gì chúng
ta muốn.
Với những nhận định nêu trên, chúng ta có thể thấy Bảo tàng với vai
trị là thiết chế văn hố, là cơ quan hội đủ điều kiện để gìn giữ và giới thiệu
những giá trị di sản văn hoá của dân tộc, chuyển giao cho thế hệ mai sau và
giới thiệu cho bạn bè quốc tế một cách hoàn thiện nhất.
1.2.2 Vai trò của Bảo tàng trong việc bảo tồn Di sản Văn hoá phi
vật thể.
Hiện nay, chúng ta chưa đánh giá hết chức năng và khả năng của Bảo
tàng với tư cách là một loại thiết chế văn hoá đặc thù trong việc bảo vệ và
phát huy, mà cụ thể là khả năng tổ chức khơng gian văn hố để trình diễn các
loại hình nghệ thuật dân gian. Trước đây, chúng ta mới chỉ khai thác bảo tàng
ở chức năng bảo vệ phát huy di sản văn hoá vật thể mà chưa nhận thức đúng
đắn rằng, cái cốt lõi, cái tinh tuý nhất trong di sản văn hoá vật thể lại chính là

24


các giá trị văn hố phi vật thể mà nó chở theo. Khả năng của bảo tàng tạo lập
không gian cho việc tiếp cận, giao tiếp, đối thoại giữa công chúng với sưu tập
hiện vật và giữa công chúng với nhau, khiến bảo tàng có thể chủ động tham
gia vào việc bảo vệ di sản văn hoá, giáo dục nâng cao nhận thức của toàn xã
hội về giá trị di sản văn hố. Trong khn khổ các “chương trình giáo dục”
của các bảo tàng, các chủ thể có điều kiện trình diễn và giới thiệu những giá
trị văn hố phi vật thể tiêu biểu mà mình nắm giữ cho đơng đảo công chúng
bảo tàng. Bằng phương thức này, cùng một lúc, chúng ta có thể tơn vinh giá

trị văn hố và nghệ nhân dân gian.13
“Bảo tàng chịu trách nhiệm bảo tồn, giới thiệu phát huy đối với các di
sản văn hoá vật thể và phi vật thể, di sản văn hoá và di sản thiên nhiên của
nhân loại. Các cơ quan quản lý và các cơ quan có liên quan tới định hướng
chiến lược và giám sát các hoạt động của bảo tàng đều có trách nhiệm quan
trọng đối với việc bảo vệ và phát huy những di sản này, cũng như các nguồn
lực, vật lực và tài lực sẵn có để phục vụ cho mục đích này.”14
Bảo tàng thực hiện chức năng gìn giữ và chuyển giao các giá trị di sản
văn hố của nhân loại thơng qua 6 khâu công tác là: nghiên cứu, sưu tầm,
kiểm kê, bảo quản, trưng bày, giáo dục, đây là những khâu nghiệp vụ quan
trọng để bảo tàng thực hiện chức năng của mình. Đối với di sản văn hố phi
vật thể thì vấn đề thực hiện biện pháp bảo tồn gặp phải nhiều khó khăn hơn
địi hỏi cần phải có sự nỗ lực của cán bộ bảo tàng.
Trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể,
vấn đề đặt ra là tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng, nhất là thế hệ trẻ,
những hiểu biết về di sản văn hoá phi vật thể là rất cần thiết và quan trọng.
Chương trình giáo dục cộng đồng những tri thức về di sản văn hoá phi vật thể
là cơng việc khơng thể khơng làm. Chính đây là cây cầu để đưa Di sản văn
PGS.TS Đặng Văn Bài, Bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể- từ góc nhìn tồn cầu hố, Tạp chí di sản số
4(21)-2007, Tr3
14
Hội đồng quốc tế các Bảo tàng- Lich sử và quy tắc đạo đức nghề nghiệp- Tư liệu Cục Di sản văn hoá xuất
bản. Năm 2005, tr 83,84
13

25


hoá phi vật thể về với cộng đồng. Lâu nay chúng ra thường có ý băn khoăn tại
sao giới trẻ khơng mặn mà với những Di sản Văn hố của các thế hệ tiền

nhân, như thanh niên người Kinh (Việt) khơng thích lễ hội cổ truyền, thanh
niên các dân tộc thiểu số khơng thích trang phục dân tộc, khơng thích hát dân
ca...nhưng chúng ta lại khơng có một kế hoạch, một chương trình giáo dục về
Di sản Văn hố phi vật thể của dân tộc cho thế hệ trẻ trong và ngoài nhà
trường. Như thế, tránh sao khỏi những hiện tượng đứt gãy di sản văn hoá dân
tộc ở một số hiện tượng cụ thể, hiện tượng giới trẻ không u thích Di sản
Văn hố dân tộc! Vấn đề đặt ra là, cần có một hệ thống sản phẩm đa dạng, cả
văn tự lẫn CD- ROM, VCD, DVD, cả băng hình lẫn băng tiếng,...giới thiệu về
Di sản Văn hố phi vật thể cả dạng phổ cập lẫn chuyên sâu, cho cả cơng
chúng trong nước lẫn du khách nước ngồi, theo các độ tuổi và giới tính.
Trong cơng việc này, Bảo tàng có vai trị vơ cùng quan trọng...Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam đã tiến hành trong mấy năm gần đây. Những hoạt động
nhằm giới thiệu các di sản văn hoá phi vật thể mà bảo tàng Dân tộc học đã
làm thực sự có tác dụng tích cực trong việc nâng cao sự hiểu biết, bồi dưỡng
lòng tự hào cho người xem về di sản văn hoá phi vật thể của các dân tộc Việt
Nam, cần phải được giới thiệu nhiều hơn, cần được nhân rộng hơn. Nói cách
khác, phải xem trọng chức năng nâng cao nhận thức của cộng đồng về di sản
văn hoá phi vật thể của Bảo tàng. Trong các thiết chế văn hoá hiện nay, Bảo
tàng là thiết chế có ưu thế nhất trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng
về di sản văn hoá phi vật thể.
- Để làm được những điều ấy, phải có cơ sở để phát triển các phịng về
Di sản Văn hoá phi vật thể của các bảo tàng địa phương thì cần phải: Tổ chức
tổng điều tra hiện trạng Di sản Văn hoá phi vật thể từng tỉnh. Đây là cơng việc
có ý nghĩa căn bản để xác lập nội dung trưng bày, thuyết minh về Di sản Văn
hoá phi vật thể của tỉnh mình, địa phương mình. Xây dựng một kế hoạch tổng
thể để phát triển phòng Di sản Văn hoá phi vật thể tại các bảo tàng địa

26



×