Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Tìm hiểu về đình lam điền, xã lam điền, huyện chương mỹ, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

KHOA DI SẢN VĂN HĨA

NGUYỄN THỊ SONG

TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH LÀNG LAM ĐIỀN
(XÃ LAM ĐIỀN, HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC

Mã số: 52320305

Người hướng dẫn:

PGS.TS. NGUYỄN VĂN TIẾN

HÀ NỘI – 2016


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian tìm hiểu viết bài, bài khóa luận đã được hồn thành với
sự cố gắng của bản thân cùng với sự hướng dẫn trực tiếp, tận tình của
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, người đã hướng dẫn em trong suốt thời gian
làm bài. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa
Di sản Văn hóa, UBND xã Lam Điền, Ban quản lý di tích đình Lam Điền
và các bạn trong lớp đã giúp em hồn thành bài khóa luận này.
Là một sinh viên năm thứ tư, chưa được tiếp xúc thực tế nhiều, mặc dù
có nhiều nỗ lực và cố gắng nhưng do trình độ nhận thức và kiến thức chun
mơn cịn hạn chế. Bởi vậy, em rất mong nhận được những lời đóng góp của


thầy cơ và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Song


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ XÃ LAM ĐIỀN VÀ ĐÌNH LAM ĐIỀN ... 6
1.1. Vài nét về xã Lam Điền .................................................................... 6
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ................................................. 6
1.1.2. Dân cư ........................................................................................... 9
1.1.3. Đời sống kinh tế .......................................................................... 10
1.1.4. Truyền thống cách mạng và đời sống văn hóa – xã hội ............. 12
1.2. Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của di tích đình Lam Điền19
1.3. Sự tích nhân vật được thờ .............................................................. 20
1.3.1. Vài nét về tín ngưỡng thờ thành hồng làng............................... 20
1.3.2. Sự tích về nhân vật được thờ tại đình Lam Điền ........................ 22
Chương 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC, DI VẬT VÀ LỄ HỘI ĐÌNH LAM
ĐIỀN ................................................................................................................... 27
2.1. Giá trị kiến trúc ............................................................................... 27
2.1.1. Không gian cảnh quan ................................................................ 27
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể ........................................................... 29
2.1.3. Các đơn nguyên kiến trúc của di tích ......................................... 31
2.2. Nghệ thuật chạm khắc đình làng Lam Điền ................................. 39
2.3. Hệ hống di vật ở đình Lam Điền.................................................... 42
2.3.1. Đồ gỗ ........................................................................................... 42
2.3.2. Đồ đồng ....................................................................................... 44
2.3.3. Đồ sứ ........................................................................................... 44
2.3.4. Đồ đá ........................................................................................... 44

2.3.5. Đồ giấy ........................................................................................ 45
2.4. Lễ hội đình làng Lam Điền ............................................................. 46
2.4.1. Thời gian và không gian lễ hội ................................................... 48
2.4.2. Công việc chuẩn bị cho lễ hội. .................................................... 48
2.4.3. Diễn trình lễ hội .......................................................................... 50
Chương 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐÌNH LÀNG LAM
ĐIỀN ................................................................................................................... 57
3.1. Giá trị tiểu biểu của di tích............................................................. 57
3.2. Hiện trạng di tích, di vật đình làng Lam Điền ............................. 58
1


3.2.1. Hiện trạng vềdi tích ..................................................................... 58
3.2.2. Hiện trạng về di vật ..................................................................... 60
3.3. Các giải pháp bảo tồn cho di tích .................................................. 60
3.3.1. Cơ sở pháp lý .............................................................................. 60
3.3.2. Giải pháp bảo quản ..................................................................... 63
3.3.3. Giải pháp bảo vệ ......................................................................... 66
3.3.4. Đối với cơng tác quản lí di tích ................................................... 67
3.4. Thực trạng lễ hội đình làng Lam Điền và biện pháp bảo tồn lễ
hội. ........................................................................................................... 69
3.4.1. Thực trạng lễ hội ......................................................................... 69
3.4.2. Biện pháp bảo tồn lễ hội ............................................................. 69
3.5. Phát huy giá trị đình làng Lam Điền............................................. 72
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 77
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 79

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước oai hùng, với bao
hi sinh xương máu của thế hệ đi trước, tuy khó khăn gian khổ nhưng những
người con Việt Nam ln chiến đấu với tinh thần anh dũng và ý chí kiên
cường.Trong q trình lịch sử lâu dài đó, ơng cha ta đã để lại cho thế hệ sau
nhiều thành quả to lớn trong đó có kho tàng di sản văn hóa đồ sộ và vơ
cùng phong phú.
Di sản văn hóa gồm di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, là những
sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị lịch sử văn hóa, khoa được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là một nguồn tài ngun vơ giá
và có giá tri to lớn đối với đất nước. Trong đó, những di tích lịch sử văn
hóa là một bộ phận của hệ thống di sản văn hóa. Di tích lịch sử văn hóa là
tài sản quý giá của đất nước, là những bằng chứng vật chất có ý nghĩa quan
trọng, minh chứng về lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
giúp cho con người biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu về truyền
thống lịch sử, đặc trưng văn hố của đất nước.
Trải qua tiến trình lịch sử lâu dài cùng với những tác động khác, các
di tích cũng chịu ảnh hưởng rất lớn nên có phần hư hại và mất đi tính
ngun gốc của nó, các lễ hơi truyền thống cũng dần bị mai một. Vì vậy,
việc tìm hiểu nghiên cứu để từ đó đưa ra những biện pháp nhằm giữ gìn,
bảo tồn và phát huy giá tri di tích là việc làm cấp thiết cần đặt ra.Từ đó sẽ
góp phần phục vụ cho việc khai thác và phát huy những giá trị đó một cách
hiệu quả nhất.
Hà Nội có một bề dày lịch sử, là nơi hội tụ nhiều văn hóa truyến
thống của dân tộc lại nằm trong vùng đồng bằng có đất dai màu mỡ, trù
phú nên nơi đây đã sớm là một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ buổi
đầu của lịch sử Việt Nam. Trong thời đại ngày nay, Hà Nội là nơi chứa
3



đựng nhiều dấu ấn về con người qua truyền thuyết,những danh lam thắng
cảnh và các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng, các hệ thống di tích đình, đền,
chùa có giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật, văn hóa tâm linh. Những di
tích lịch sử văn hóa được phân bố ở nhiều nơi trong đó có huyện Chương
Mỹ - là một trong những vùng có số lượng di tích tập trung lớn.
Là một người con sinh ra tại vùng đất có nhiều di tích lại được học
về những giá trị to lớn của di sản văn hóa trong đó có hệ thống di tích. Là
một sinh viên năm 4 khoa Di Sản văn hóa nên tơi đã có những nhận thức rõ
hơn về vai trị giá trị cuả các di tích đối với đất nước. Vì vậy, em quyết
định chọn đề tài “Tìm hiểu về đình Lam Điền, xã Lam Điền, huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”làm đề tài khóa luận của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu là di tích đình làng Lam Điền ,thôn Lam Điền
, xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
3. Phạm vi nghiên cứu
-Thời gian: từ khi Đình được xây dựng đến nay
-Khơng gian: nơi di tích tồn tại thuộc thôn Lam Điền, xã Lam Điền,
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
4. Mục đích nghiên cứu
-Tìm hiểu về vùng đất, con người nơi di tích đình Lam Điền tồn tại
làm cơ sở cho việc nghiên cứu di tích.
-Tìm hiểu q trình tồn tại của đình Lam Điền từ khi xây dựng đến
nay và xác định những giá trị của di tích, gồm giá trị văn hóa vât thể và giá
trị văn hóa phi vật thể.
-Nghiên cứu, khảo sát thực trạng của di tích,từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm bảo về và phát huy giá trị di tích đình làng Lam Điền.

4



5. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận sử dụng phương pháp liên ngành: bảo tồn di tích, bảo
tàng học, sử học, mỹ thuật học, văn hóa học, khảo cổ học
- Phương pháp khảo sát điền dã tại di tích và sử dụng kỹ năng quan
sát chụp ảnh, miêu tả, phỏng vấn, trao đổi...
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, và Phụ lục, Khóa
luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về xã Lam Điền và Đình Lam Điền
Chương 2: Giá trị kiến trúc, di vật và lễ hội đình Lam Điền
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị đình làng Lam Điền.

5


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ XÃ LAM ĐIỀN VÀ ĐÌNH LAM ĐIỀN
1.1. Vài nét về xã Lam Điền
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Xã Lam Điền có diện tích tự nhiên khoảng 800 ha. Theo sách Đại
Nam nhất thống chí thì Lam Điền ngày nay là đất của 5 xã: Lam Điền, Ứng
Hòa, Đại Từ, Duyên Ứng, Lương Xá, chia làm 28 xóm, có một xóm ở bên
kia sông Đáy giáp thôn Cao Bộ (xã Cao Viên, Thanh Oai) gọi là xóm Chùa
Cát, 3 xóm giáp xã Đại Yên là xóm Phe Năm (có thời gian gọi là Đường
Thôn) đều thuộc tổng Lương Xá, huyện Chương Đức, Phủ Ứng Thiên ( đến
năm Tự Đức thứ 5 huyện Chương Đức có 9 tổng, 69 xã thơn, trại sở). Xã
Đại Từ cịn có tên gọi là Bảo Từ. Xã Ứng Hòa còn gọi là Ứng Thiên. Thưc
dân Pháp đặt ách cai trị nước ta đã xóa bỏ địa giới hành chính cấp trấn, phủ

lập tỉnh, huyện giữ nguyên cấp tổng xã. Đến năm 1904, thực dân Pháp chia
huyện Chương Mỹ làm 12 tổng, 81 xã.
Năm 1965, Hà Đông – Sơn Tây hợp nhất thành Hà Tây, lúc đó xã
Lam Điền thuộc tỉnh Hà Tây.
Năm 1976, Hà Tây – Hịa Bình hợp nhất thành Hà Sơn Bình, lúc đó
xã Lam Điền thuộc thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Năm 1991, tại kỳ họp thứ 9, quốc hội khóa 8 đã quyết định tách tỉnh
Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hà Tây và Hịa Bình, huyện Chương Mỹ trở lại
thuộc tỉnh Hà Tây và xã Lam Điền thuộc địa phận tỉnh Hà Tây.
Năm 2008, Quốc hội đã tán thành Nghị quyết của Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội về việc sát nhập toàn bộ địa giới hành chính Hà Tây với
Hà Nội, từ đó Chương Mỹ trở thành một huyện ngoại thành của Thủ đô.

6


“Lam Điền” – theo các cụ già ở thôn cho biết: “Lam” là lam làm,
“Điền” là ruộng, như vậy Lam Điền là một nắng hai sương cần cù làm
lụng, cái nghĩa triết tự mà các cụ giảng giải đã cho thấy phần nào phẩm
chất của người Lam Điền. Nhưng “Lam Điền” nếu theo nghĩa Hán Việt là
“đất xanh lam”, là sự biểu hiện trù phú của làng quê.
Nằm bên dòng sông Đáy, xã Lam Điền thuộc vùng đất bãi về phía
đơng của huyện Chương Mỹ, cách thị trấn Chúc Sơn 3km về phía nam.
Phía đơng xã giáp sơng Đáy, bên kia sông là các xã Cao Viên,Thanh Cao,
huyện Thanh Oai. Phía tây giáp hai xã Đại Yên và Hợp Đồng. Phía bắc
giáp xã Thụy Hương. Phía Nam giáp xã Hồng Diệu.
Nằm dọc đê sông Đáy từ Ninh Sơn đi Ba Thá dài 16km, xã Lam
Điền có vị trí khá thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế - văn hóa với các
vùng và đô thị lớn. Việc trao đổi hàng hóa – nơng phẩm cũng như sự đi lại
của nhân dân trở nên dễ dàng.

Các tuyến đường giao thông trọng yếu trên đại bàn huyện, đường đê
Đáy, đường 21B Chúc Sơn – Ba Thá, quốc lộ 6A như một vòng cung bao
bọc Lam Điền và một số xã khác.
Vị trí địa lý thuận lợi đã tạo cho Lam Điền thế mạnh phát triển kinh
tế,văn hóa, xã hội. Thứ nhất, địa thế đất tương đối bằng phằng, nằm trên
đồng bằng màu mỡ, khí hậu ấm áp, Lam Điền là cùng sinh thái tốt cho con
người định cư, phát triển. Thứ hai, nằm ở vành đai của thủ đô Hà Nội, lại là
nơi giao nhau giữa đường 21B và quốc lộ 6A giúp cho việc giao lưu với
các địa phương khác dễ dàng, thuận tiện. Trong suốt hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, xã Lam Điền là một địa bàn quan trọng, nằm
tong âm mưu chiếm đóng, đánh phá của địch, mọi diễn biến về chính trị,
quân sự, kinh tế - xã hội từ Hà Nội, Hà Đông đều tác động trực tiếp tới
Lam Điền.

7


Lam Điền nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa
nhiều, thuộc tiểu khí hậu vùng đồng bằng Bắc Bộ, chịu ảnh hưởng sâu sắc
của gió mùa Đơng Bắc và gió mùa Đơng Nam. Một năm có hai mùa đặc
trưng: mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, mùa đơng lạnh khơ và mưa ít. Do nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới, Lam Điền tiếp nhận được lượng bức xạ mặt
trời dồi dào và có nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình hàng năm 23C, độ
ẩmtrung bình hàng năm là 82 – 90%, số giờ nắng trung bình cả năm là
1.700 – 1.800 giờ và lượng mưa trung bình là 1.600 – 1.800 mm/năm, tập
trung chủ yếu vào các tháng 7, 8, 9 với cường độ lớn. Nhìn chung, lượng
nhiệt và độ ẩm dồi dào thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của động
– thực vật nhiệt đới, tạo điều kiện thuận lợi cho các nghành sản xuất nông
nghiệp. Tuy nhiên, do lượng mưa lớn và phân bố không đồng đều trong
năm nên thường gây ra úng lụt cục bộ, làm thiệt hại nhiều đến đời sống của

nhân dân.
Đất đai Lam Điền thuộc đòng bằng châu thổ sông Hồng, nằm trong
vùng đất cuối kế tiếp giữa đồng bằng và miền núi Hịa Bình. Sự kế tiếp đó
thể hiện trong một vùng đất rộng gồm những dải đồi gị nhấp nhơ xen lẫn
các cánh đồng trũng dọc quốc lộ 6A từ Xuân Mai tới Tiên Phương, Phụng
Châu. Đứng trên đỉnh núi Trầm, núi Ninh… có thể nhìn thấy dịng sơng Đáy
uốn lượn như dải lụa bao bọc suốt phía đơng xã Lam Điền, bên cạnh những
cánh đồng rộng như bàn cờ khổng lồ tạo cho phong cảnh trong vùng một vẻ
đẹp tự nhiên.
Nguồn nước mặt có thể lấy từ sông Đáy và các con sông nhỏ qua
trạm bơm. Nguồn nước ngầm của xã khá phong phú. Tuy chưa có kết quả
khảo sát chi tiết, nhưng chỉ cần đào giếng sâu trung bình khoảng 5-7m là có
nước, khoan sâu 20-30m là đã có đủ nước dùng sinh hoạt.
Tuy nhiên bên cạnh những tiềm năng, thuận lợi về điều kiện tự
nhiên, Lam Điền cũng gặp khơng ít khó khăn. Do kiến tạo của tự nhiên,
8


ruộng đất ở Lam Điền chia làm 2 vùng rõ rệt trải qua hàng ngàn năm phù
sa sông Đáy bồi đắp tạo thành những bãi bồi khổng lồ phía ngồi đê gồm
xóm chùa Cát, thơn Đại Từ, bãi bồi giữa sông gần 400 mẫu. Đây là vùng
đất bồi chuyên trồng rau màu như ngô, khoai, cây công nghiệp như dâu
tằm, vải, mía…Nếu được cải tạo, quy hoạch và áp dụng khoa học kỹ thuật
thì đây là vùng đất ẩn chứa nhiều tiềm năng cho năng suất chuyên canh
tương đối khá. Vùng đất trong đồng là đất trũng hình long chảo có diện tích
gần 900 mẫu sản xuất nơng nghiệp chủ yếu là cây lúa rất khó khăn, sản
xuất phụ thuộc vào thiên nhiên. Các cánh đồng xã Lam Điền như “cái
thùng” đón nước từ cánh đồng Thập Cửu về Đầm Tran, đầm Bung Chảy
theo hướng Tây Bắc – Đông Nam qua Ngọc Hòa, Ngọc Sơn, Thụy Hương
trước khi dồn ra sông Đáy. Do vậy, mùa mưa cùng với nước lũ, nước sông

Đáy nhiều lúc tràn vào đồng đất Lam Điền mênh mơng trắng nước. Có năm
lúa chiêm đang chín rộ chỉ vài trận mưa rào là ngập, nhân dân phải đi mò
vớt từng gié lúa đã mộng nươc thành mạ vụ mùa có khi cấy xong mưa ngập
úng hết.
1.1.2. Dân cư
Các thôn của xã Lam Điền đều là những thôn làng Việt cổ có tên gọi,
vị trí địa lý từ xưa hầu như không thay đổi mấy qua thời gian. Cũng như
tồn xã, thơn Lam Điền cũng có một bộ mặt văn hóa cổ phong phú với đình
chùa, qn biểu tượng cho truyền thống văn vật của thôn. Thôn Lam Điền
có 2000 dân, trong đó có 100 giáo dân cơng giáo, dù giáo hay lương thì
nhân dân trong làng vẫn đoàn kết chung sống từ xa xưa mà biểu hiện thân
mật nhất là nhà thờ Lam Điền đối diện ngay trước đình của thơn.
Nhân dân trong xã 100% là người kinh, tồn xã có 11000 nhân khẩu
(số liệu năm 2010, do Đảng bộ xã Lam Điền cung cấp). Dân cư của xã
phân bố ở 5 đơn vị hành chính (thơn): Đại Từ, Duyên Ứng, Lương Xá, Ứng
Hòa và Lam Điền . Lam Điền là xã thuần nông, nằm ở vùng đồng bằng
9


của huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Trong lịch sử dựng nước và giữ
nước, đây là vùng đất có bề dày truyền thống cách mạng. Con người nơi
đây anh dũng trong đấu tranh; cần cù , chịu khó trong lao động sản xuất và
hiền hòa trong cuộc sống hàng ngày.
Sống ở một vùng đồng ruộng thường xuyên bị ngập úng về mùa
mưa, hạn hán về mùa đông, đất đai khơng màu mỡ, khó canh tác, lại phải
thường xun chống chọi với thiên tai. Trải qua một quá trình lịch sử lâu
dài, con người nơi đây ngày đêm lao động cần cù, một nắng hai sương để
khai khẩn đất hoang thành đồng ruộng, lập nên xóm làng. Cũng chính điều
kiện tự nhiên khắc nghiệt này đã hình thành nên đức tính đồn kết của
người dân trong xã, tạo nên sự gắn bó cộng đồng bền chặt.

1.1.3. Đời sống kinh tế
Cũng như bao làng quê thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Nguời Lam
Điền đã bao đời gắn bó với đồng ruộng. Do điều kiện tự nhiên là vùng
chiêm trũng nên việc sản xuất nông nghiệp ở vùng này chủ yếu làm vào vụ
chiêm. Ngày nay, do làm tốt công tác thủy lợi, dân địa phương đã làm được
hai vụ (chiêm và mùa) ngồi ra cịn thâm canh tăng vụ, trồng các loại rau
củ: Xu hào, khoai tây, bắt cải, đỗ tương…Vụ chiêm thường cấy vào cuối
tháng Chạp và đầu tháng Giêng, vụ mùa thường cấy vào tháng Sáu âm lịch.
Với diện tích ruộng đất trên đầu người khơng cao, buộc người dân
Lam Điền phải tìm hiểu nhiều biện pháp thâm canh, tăng vụ, trồng hoa
màu, phát triển chăn nuôi. Họ không chỉ là những người cần cù, chịu khó
mà cịn là những lao động thông minh luôn sáng tạo. Thực tế chứng minh
Lam Điền đã có một nền nơng nghiệp khá phát triển và cơ cấu kinh tế đa
dạng. Sản xuất nông nghiệp và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ
bn bán nhỏ phát triển đã thúc đây q trình trao đổi hàng hóa và sớm
hình thành chợ.Các chợ Hồng Văn Thụ trở thành trung tâm buôn bán của
xã với những mặt hàng phong phú, chủ yếu của nên sản xuất nông nghiệp.
10


Về sản xuất nơng nghiệp đã dần cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hợp
tác xã chủ động đổi mới phương thức hoạt động, từng bước chuyển sang
hướng dẫn, chỉ đạo thời vụ, bảo hiểm vật nuôi cây trồng, đảm nhiệm các
khâu dịch vụ, tích cực hoạt động khuyến nơng. Hộ gia đình xã viên là đơn
vị kinh tế tự chủ đã tạo động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, ruộng đất
được giao ổn định lâu dài để hộ xã viên chủ động thâm canh chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, mùa vụ. Cùng với chú trọng thâm canh là chính, HTX và hộ
nông dân chú trọng mở rộng vụ đông, xen canh, gối vụ, tích cực ứng dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Chăn nuôi khá phát triển, số lượng đàn trâu, đàn bò đều tăng, đàn gia

cầm trong hộ nơng dân tăng mạnh, diện tích ao hồ giao khốn được quản
lý, khai thác có hiệu quả mỗi năm cho thu ngân sách hàng chục triệu đồng.
Riêng đàn bò, xã khuyến khích hộ gia đình thực hiện chương trình khuyến
nơng tăng giá trị khi bán hoặc nuôi sinh sản.
Với chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong sản xuất
nơng nghiệp, mơ hình ni trồng thủy sản tận dụng mặt nước hồ, đầm và
diện tích một lúa một cá kết hợp với chăn nuôi đã cho hiệu quả kinh tế cao,
tạo việc làm cho một bộ phận lao động nông nghiệp
Hoạt động tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ đang ngày càng phát triển,
thu hút và tạo việc làm cho các lao động khi lúc nông nhàn, hàng năm cho
thu nhập ở các hộ gia đình tồn xã hàng chục triệu đồng, một số quầy dịch
vụ ở Lam Điền, Duyên Ứng, máy xay xát, làm bánh…xuất hiện nhiều hơn.
Các ngành nghề chính vẫn được duy trì và phát triển nhất là dệt len gia
công, sản xuất vật liệu xây dựng, xay xát và các sản phẩm các đều gia tăng,
hoạt động của công ty đã tạo việc làm cho nhiều lao động nhàn rỗi. Đặc
biệt, một bộ phận lớn lao động ở một số thôn làm việc tại các doanh nghiệp
của huyện và một số ngành nghề như thợ mộc, thợ may theo thời vụ đã chủ
động tìm kiếm việc làm, tạo nguồn thu nhập đáng kể, làm tăng tỷ trọng của
11


ngành tiểu thủ cơng nghiệp. Biện pháp giao khốn cây lâu năm, sản xuất
gạch cũng phù hợp làm cho thu ngân sách địa phương tăng, đảm bảo chi
các hoạt động, phụ cấp cán bộ, đầu tư xây dựng cơ bản.
Nhìn chung, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã và đang tạo cho
Lam Điền những thuận lợi cơ bản trong việc phát triển kinh tế - xã hội,
giao lưu hàng hóa với các vùng miền trên cả nước. Những ưu đãi này đang
được chính quyền và nhân dân Lam Điền khai thác, sử dụng có hiệu quả
trong cơng cuộc đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn, lam giàu cho q hương, đất nước.

1.1.4. Truyền thống cách mạng và đời sống văn hóa – xã hội
1.1.4.1. Truyền thống cách mạng
Lịch sử hình thành và phát triển của xã Lam Điền gắn với bao thăng
trầm của thiên tai, địch họa…đã hun đúc nên những truyền thống tốt đẹp
của người dân trong xã qua các thế hệ, tạo thành bản sắc rất riêng của
người dân nơi đây. Những truyền thống đó khơng tách rời mà vẫn mang
đậm nét đặc trưng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Về phong trào đấu tranh Cách mạng, người dân Lam Điền là một
trong số những vùng quê của đất nước tham gia đấu tranh cách mạng ngay
từ sớm. Khi cách mạng tháng Tám nổ ra toàn dân xã Lam Điền nói chung
và thơn Lam Điền nói riêng đã nổi lên giành chính quyền từ tay thực dân
phong kiến. Tiếp đó, trong giai đoạn 1945 – 1954, nhân dân xã Lam Điền
đã thực hiện chỉ thị kháng chiến kiến quốc, phong trào diệt giặc đói, diệt
giặc dốt, chính sách chiến đấu trong lòng địch do Ban chấp hành trung
ương Đảng đề ra.
Trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975), dưới sự lãnh đạo
của chính quyền địa phương, nhân dân đã từng bước ổn định, đời sống kinh
tế, văn hóa, xã hội, tiến hành cải cách ruộng đất. Tiến hành lập chi bộ xã

12


Đảng Lam Điền, từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Người dân nơi đây
không những cùng nhân dân cả nước tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc mà cịn đóng góp cả sức người vào cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Con em người Lam Điền có mặt trên khắp
các chiến trường Nam – Bắc. Nhiều đồng chí lập cơng xuất sắc được tặng
thưởng huân, huy chương, danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Dũng sĩ diệt xe
tăng”, 94 đồng chí đã ngã xuống hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình
cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước.

Những tháng đầu năm 1975, tin chiến thắng từ các chiến trường liên
tiếp mang về làm cho nhân dân vô cùng phấn khởi. Ngày 30 - 4 – 1975,
chiến dịch Hồ Chí Minh tồn thắng, Tổ quốc thống nhất, giang sơn thu về
một mối, trong chiến thắng chung đó có một phần góp sức người, sức của
từ quê hương Lam Điền.
Đánh giá và ghi nhận công lao to lớn của Đảng bộ, nhân dân xã Lam
Điền, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân
Lam Điền Huân chương kháng chiến về cơng tác phịng khơng nhân dân,
443 Hn, Huy chương kháng chiến cho các cá nhân lập công xuất sắc
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong công cuộc vừa xây dựng và bảo vệ quê hương, vừa chi viện cho
chiến trường đánh giặc là thời gian mà tổ chức Đảng, nhân dân Lam Điền
vượt qua bao thử thách, khó khăn gian khổ để sản xuất và chiến đấu thắng
lợi, góp phần đấu tranh giải phóng hồn tồn miền Nam,thống nhất nước
nhà, đưa quê hương vào thời kỳ mới.
Nhân dân Lam Điền rất tự hào về truyền thống yêu nước, tinh thần
dũng cảm trong chiến đấu, vì độc lập, tự do của dân tộc. Đó là di sản quý
báu in đậm trong tiềm thức của người dân trong xã. Truyền thống đó càng
được phát huy đến ngày nay khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh

13


đạo tạo nên sức mạnh lật đổ chế độ thực dân, phong kiến tay sai, giành lại
độc lập, tự do cho Tổ quốc, ra sức xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh.
1.1.4.2. Đời sống văn hóa – xã hội
Ở Lam Điền thời phong kiến, nhiều công việc làng xã do dân làng tự
quyết định, huyện ít can thiệp hoặc nếu có can thiệp thì cũng rất ít. Trong
làng cao nhất là tiên chỉ và một người thứ chỉ. Tuy có quyền quyết định
mọi việc trong làng, song trên thực tế họ chỉ trơng nom những việc chủ

yếu, cịn lại do Hội đồng kỳ mục bàn định. Dưới Hội đồng kỳ mục là
đương thứ lý dịch. Những người này do dân bầu, rồi trình lên huyện quan
xin cấp bằng để thay mặt dân làm việc với các quan.
Để giữ gìn khn phép, các làng – thơn – xóm, các phe giáp đều đặt
ra quy ước riêng để điều hòa những tranh chấp, xung đột, đồng thời khống
chế, rang buộc quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên. Quy ước có nhiều
tên gọi khác nhau, nhưng phổ biến ở Lam Điền vẫn được gọi là lệ làng.
Cũng như các địa phương khác trong huyện, phong tục tập quán ở Lam
Điền khá phong phú và đa dạng, dưới đây là một vài tục lệ tiêu biểu như:
tục hôn nhân, tục tang ma, tục khao vọng,…
Cùng với sự hình thành cộng đồng làng xã, dần dần các hình thức
sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, tơn giáo cũng ra đời và phát triển. Về tôn
giáo, đại bộ phận người dân Lam Điền theo Phật giáo. Các ngôi chùa theo
kiến trúc và hệ tư tưởng đạo Phật hình thành từ lâu đời, là nơi diễn ra các lễ
nghi sinh hoạt tôn giáo, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng làng xã.
Về Phong tục tập quán
+ Tục sinh con: Cũng giống như các làng xã xưa kia ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ, tục sinh đẻ được dân làng rất quan tâm. Trước đây, sau khi
cưới trong thời gian một năm, các đôi vợ chồng trẻ mới sinh con. Trong
thời gian mang thai người phụ nữ phải có chế độ nghỉ ngơi và kiêng khem

14


khá chặt chẽ như: Tránh làm việc quá nhiều, quá sức, đi lại và ăn uống sao
cho đủ chất dinh dưỡng, ngồi ra cịn có chế độ “thai giáo” sao cho hợp lí
để hướng cho đứa trẻ thích nghi với hồn cảnh ra đình và xã hội trước khi
nó chào đời.
Nơi đây vốn là vùng chiêm trũng, người dân chủ yếu sống bằng nghề
lúa nước. Mà việc cấy lúa thì chủ yếu là người phụ nữ nên người dân nơi

đây có quan niệm rằng: “Ruộng sâu, trâu nái khơng bằng con gái đầu
lòng”. Để sau này lớn lên đỡ đần cha mẹ, nhưng trong tâm lý thì muốn có
con trai để nối dõi tơng đường.
Theo quan niệm xưa, nhà có sản phụ phải thực hiện một số điều
kiêng kỵ như: Ở cửa ra vào có treo một số cành lá, ở dưới gậm giường sản
phụ có đặt một chậu than củi đỏ hồng hoặc một củ dáy để cản gió và cản
vía cho đứa trẻ và người mẹ. Trong thời gian một tháng sau khi sinh, người
mẹ không được phép đi ra ngoài. Đứa bé sau khi chào đời từ 7 đến 9 ngày
(bé trai thì 7 ngày, bé gái thì 9 ngày) gọi là đầy cữ, gia đình làm lễ cúng gia
tiên, tạ ơn bà mụ mong sao cho đứa bé được mạnh khỏe, hay ăn chóng lớn.
Đến nay, những tập tục này của người dân trong làng cũng đã bị mai một,
duy nhất tục cúng đầy cữ vẫn được người dân duy trì.
+ Tục hơn nhân: Người Lam Điền xưa kia quan niệm rằng việc cưới
xin là rất hệ trọng của đời người, nên phải qua đầy đủ các bước sau:
Làm mối: Sau một thời gian tìm hiểu đối tượng, gia đình bên nhà trai
thống nhất nhờ bà mốiđến nói với bên gia đình nhà gái, khi bên nhà gái ưng
thuận thì bà mối chính thức đặt vấn đề kết hôn cho đôi lứa.
Lễ dặm ngõ: Sau khi hai bên bàn bạc, chọn ngày lành tháng tốt, nhà
trai cử một đoàn khoảng 4 đến 5 người, trong họ tộc đến nhà gái chính thức
đặt vấn đề, lễ vật gồm 10 quả cau, 1 gói chè, 10 bao thuốc lá, 01 chai rượu.

15


Lễ vấn danh: Cuối lễ dặm ngõ hai nhà thường hẹn với nhau làm lễ
vấn danh, đây là lễ hỏi tên tuổi của bố mẹ sinh ra cô gái để xem đức hạnh
của cô gái, tránh lấy người cùng họ. Sau đó, sẽ thống nhất chọn ngày giờ để
nhà trai sửa lễ.
Lễ ăn hỏi: Có trầu, cau, chè, thuốc…số lượng lớn rất nhiều lần so với
dặm ngõ. Ngày dạm ngõ nhà trai cử một đoàn người từ 7 đến 13 người,

gồm các cụ ông, cụ bà đến nhà gái làm lễ, thanh niên bê lễ, đỡ lễ thì nam
phải chưa vợ, gái chưa chồng. Lễ vật thách cưới gồm: 300-400 quả cau,
tiền cọc. Trước năm 1945, đối với gia đình giàu có tiền thách cưới là: 60
đồng Đơng Dương, nhà khó khăn thì 20 đồng. Lễ gia tiên nhà gái thách lấy
từ 3 đến 6 lễ. Ngoài ra, chú rể còn phải đến sêu nhà gái những thứ mới, thứ
ngon theo mùa vào những ngày lễ trọng, trước là thắp hương cúng gia tiên,
sau là để cả nhà hưởng lộc cụ thể như sau:
- Tết Nguyên Đán: Nhà trai phải mang trầu cau, rượu, bánh chưng.
- Tết Đoan Ngọ: Trầu cau, rượu, một con ngỗng to, 5kg gạo nếp.
Sau lễ cưới là lễ lại mặt: Sau khi thành thân một ngày, đôi vợ chồng
trẻ cùng bố mẹ chồng sắm một lễ xôi gà hay xôi thủ lợn đem sang nhà gái
để làm lễ gia tiên. Sau đó làm cỗ cả 2 bên gia đình thơng gia ăn uống vui
vẻ. Đây là một nghi lễ để hai gia đình có dịp ngồi nói chuyện và trao đổi
với nhau những vấn đề về cuộc sống, lễ giáo của hai gia đình, đồng thời
cũng là lúc để gửi gắm con cái hai bên cùng nhau dạy dỗ, vun đắp tình thân
giữa hai gia đình.
+ Tang ma
Nhà có tang phải đến báo cáo với địa phương. Khi làm lễ nhập quan,
gia đình gia chủ phải chọn giờ nhờ thầy đến phạt mộc chẩn bị nhập
quan.Sau đó chọn giờ phát phục, trưởng họ phát quần áo tang và khăn tang
cho họ hàng thân thích phải chở vong. Tiếp theo là lễ phúng viếng tại nhà

16


trước khi chơn cất đại diện khu dân cư có bài phát biểu. Đến giờ đưa tang
dân làng đưa tiễn ra đồng và làm lễ hạ huyệt (tức là lễ chơn cất người q
cố).
Về tín ngưỡng, người dân Lam Điền thờ cúng tổ tiên theo huyết
thống, gia đình nào cũng có bàn thờ gia tiên đặt ở nơi trang nghiêm trong

nhà. Các dịng họ thường có nhà thờ tổ, gia đình lập gia phả dịng họ và
ngày giỗ tổ họ để con cháu trong dòng tộc sum họp, củng cố mối quan hệ,
thể hiện đạo đức “uống nước nhớ nguồn”, lịng thành kính, biết ơn của con
cháu đối với cơng lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, ông bà tổ tiên,
những người đã khuất. ngồi tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở gia đình, các
làng trong xã cịn có tục thờ Thành Hoàng – thần hộ mệnh của cộng đồng
làng xã. Tục thờ Thành Hoàng ở Lam Điền đã có từ lâu đời, các vị thần
được thờ chủ yếu là nhân thần, là những người có cơng đánh giặc cứu dân,
giúp nước.
Xã Lam Điền có các ngơi đình, đền, chùa, miếu… cổ kính, xây dựng
từ lâu đời, là minh chứng của một vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa, như:
đình Lương Xá, nhà thờ Lam Điền, nhà tượng niệm danh nhân Đặng Tiến
Đơng… và đặc biệt có đình Lam Điền được cơng nhận là di tích quốc gia
năm 1999.
Sinh hoạt lễ hội ở Lam Điền được đúc kết qua q trình lịch sử lâu
dài, gắn bó và gần gũi với sinh hoạt của người dân qua nhiều đời, là niềm
tự hào của cả cộng đồng. Ngày nay khi đất nước chuyển sang cơ chế mở
cửa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới thế giới, một số
tập tục và nét sinh hoạt văn hóa ở Lam Điền đã có sự thay đổi cho phù hợp
nhưng vẫn giữ được nét tinh túy trong văn hóa cổ truyền của q hương.
Lịch sử hình thành và phát triển của xã Lam Điền gắn với bao thăng
trầm của thiên ai, địch họa…đã hun đúcnên những truyền thống văn hóa tốt
đẹp của người dân trong xã qua các thế hệ, tạo thành bản sắc rất riêng của
17


người dân nơi đây. Những truyền thống đó khơng tách rời mà vẫn mang
đậm nét của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Là vùng đất có bề dày
truyền thống lịch sử, văn hóa, từ xa xưa nhân dân Lam Điền đã rất quan
tâm đến đời sống văn hóa tinh thần, trong đó nổi bật là việc duy trì các

truyền thống q báu của cha ơng để lại. Đó là truyền thống đoàn kết, giúp
đỡ nhau. Truyền thống đoàn kết của bà con nơi đây được hình thành một
cách tự nhiên của một cộng đồng định cư khởi nghiệp trên một địa bàn
thường xuyên hứng chịu lũ lụt, hạn hán. Để canh tác trong điều kiện địa lý,
khí hậu bất lợi, việc phịng chống úng lụt là cơng việc thường trực trong
năm của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Rộng hơn nữa, trong đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, càng địi hỏi nhân dân phải đồn kết, hiệp
đồng chặt chẽ. Tất cả những nhu cầu ấy đã cố kết, gắn bó cộng đồng cư dân
Lam Điền thành một khối bền chặt cả trong chiến đấu và sản xuất, kết hợp
cả quan hệ huyết tộc (dòng họ) lẫn quan hệ láng giềng.
Từ khi có cư dân đầu tiên định cư, dựng nghiệp đến nay, mảnh đất
Lam Điền đã có hàng nghìn năm phát triển. Trải qua một quá trình lịch sử,
bằng trí tuệ, mồ hơi và xương máu, các thế hệ nhân dân Lam Điền đã tạo
dựng nên một vóc dáng quê hương trù phú, một bản sắc văn hóa mang đậm
giá trị nhân văn, một cơ cấu làng xã đoàn kết, đồng thuận và phát triển.
Hiện nay, xã đã có nhiều thạc sỹ và hàng trăm cử nhân đỗ đạt từ bậc cao
đẳng đến đại học. Đây chính là nguồn lực tri thức và văn hóa vơ cùng q
giá để Lam Điền phát triển trong thời đại mới.
Phong trào “Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” với mục
tiêu xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, theo tinh thần nghị quyết
Trung ương V (khóa VIII) được nhân dân Lam Điền sôi nổi tham gia. Hoạt
động văn hóa - văn nghệ, thơng tin chuyển biến tích cực, kịp thời chuyển
tải chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tin tức đến nhân dân
thông qua hệ thống truyền thanh góp phần đấu tranh bài trừ các tệ nạ xã
hội, hủ tục lạc hậu. Cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
18


văn hóa được nhân dân hưởng ứng tích cực. Các chính sách xã hội được
quan tâm giải quyết những tồn đọng sau chiến tranh, thực hiện chương

trình đền ơn đáp nghĩa: tặng sổ tiết kiệm cho thân nhân liệt sĩ khó khăn,
neo đơn, chế độ chính sách đãi ngộ của Nhà nước với người có cơng; cán
bộ hưu trí chi trả kịp thời, đầy đủ, xây dựng và sử dụng có hiệu quả của hội
người cao tuổi.
1.2. Lịch sử xây dựng và q trình tồn tại của di tích đình Lam Điền
Đối với di tích đình làng Lam Điền nói riêng và các di tích lịch sử
văn hóa nói chung, việc tiếp cận nghiên cứu quá trình ra đời và tồn tại của
di tích là một q trình trở về với quá khứ. Bản thân mỗi di tích đều phản
ánh tư tưởng, đời sống xã hội cũng như đời sống tâm linh của cộng đồng
dân cư nơi di tích tồn tại. Nhưng mỗi một di tích từ khi ra đời trải qua
nhiều lần trùng tu, hơn nữa trải qua thời gian, thì những cứ liệu cịn lại để
minh chứng một cách chính xác niên đại khởi dựng chính xác của di tích
cịn rất ít, thậm chí là khơng có.
Đình Lam Điền thuộc thôn Lam Điền, xã Lam Điền, huyện Chương
Mỹ, Hà Nội ( tình Hà Tây cũ). Thời kỳ cách mạng tháng 8 năm 1945 đình
Lam Điền thuộc về thơn Lam Điền, tổng Lương Xá, huyện Chương Mỹ,
tỉnh Hà Đông.
Về niên đại xây dựng đình, theo lời các cụ cho biết thì đình Lam
Điền đã được khởi dựng từ đời vua Lê Thần Tông năm1629 ( thế kỷ XVII)
nhưng qua nhiều lần di chuyển, sau đó đã được làm lại vào đời vua
Nguyễn. Như vậy, một cách tổng quát, với lối kiến trúc nghệ thuật, trang trí
của ngơi đình hiện có là thời Nguyễn. Vì vậy, có thể nói đình được khởi
dựng từ thời Hậu Lê và được làm lại vào thời Nguyễn thế kỷ XIX.
Mặc dù đã trải qua nhiều lần trùng tu nhưng ngơi đình vẫn giữ được
những nét cổ xưa đáng có. Chính điều đó đã giúp cho di tích bảo lưu được
những yếu tố nguyên gốc của mình. Dù qua thời gian, qua bao thiên tai
19


địch họa, ngơi đình vẫn đứng uy nghi, trầm mặc trên nền đất cũ làng xưa,

vẫn mang trong mình những giá trị kiến trúc – nghệ thuật đặc sắc, và đã
chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của địa phương, của dân tộc.
Trong thời kỳ chiến tranh xảy ra liên tiếp, xong đình vẫn tồn tại. Đó là nhờ
cơng lao gìn giữ, bảo vệ của biết bao thế hệ người dân làng Lam Điền.
Năm 1945, đình làng là nơi nhân dân tập trung nghe tuyên bố giành
chính quyền trong cách mạng tháng Tám.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đình Lam Điền là
nơi tập trung, chứng kiến nhiều cuộc giao quân đầy khí thế hào hùng, nhiều
con em địa phương xung phong nhập ngũ, tham gia chiến đấu giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Họ đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh oanh
liệt, là tấm gương sáng cho nhiều thế hệ sau noi theo.
Tháng 6 năm 1977, đình Lam Điền là nơi diễn ra Đại hội lần thứ 9
của Đảng bộ xã Lam Điền. Đại hội bầu ban Đảng ủy mới gồm 9 ủy viên,
đồng chí Đặng Đình Đễ được bầu làm bí thư.
Ngày 26 tháng 1 năm 1999, sau quá trình nghiên cứu, đánh giá các
giá trị lịch sử, kiến trúc – nghệ thuật, Bộ Văn hóa Thơng tin đã cấp bằng
xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia cho đình Lam Điền. Từ
đây, đình được thường xuyên quan tâm, trùng tu, tu bổ với nguồn lực của
Nhà nước.
Năm 1942: xây dựng tịa phương đình
Năm 1989: sửa lại các cột trụ của phương đình
Năm 2008: thực hiện chống xuống cấp xà, hồnh, dui
1.3. Sự tích nhân vật được thờ
1.3.1. Vài nét về tín ngưỡng thờ thành hồng làng

20


Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt thì đình làng thường gắn
với tín ngưỡng thờ Thành hồng làng . Ở bất kỳ ngôi làng nào của người

Việt đều tôn thờ một vị thần. Họ là người cai quân, che chở, bảo vệ cho
nhân dân trong làng. Người dân trong làng ln dành cho Thành hồng của
mình sự tơn kính thiêng liêng.
Tuy nhiên khởi ngun của Thành hồng khơng phải là ở Việt Nam mà
từ Trung Quốc.Ở Trung Quốc thời nhà Chu, thế kỷ VI-V trước Công Nguyên,
để bảo vệ thành, hào, các bá Vương chư Hầu đã đặt ra thần Thành hào (hào có
nước gọi là trì, khơng nước gọi là hoàng). Như vậy, Thành hoàng xuất hiện ở
Trung Quốc cổ đại với tính chất là thần coi giữ, bảo vệ cho cái thành.
Ở Việt Nam, Thành hoàng là vị thần được tơn thờ chính trong các
đình làng, là vị thần linh cai quản tồn bộ thơn xã, là thần hộ mệnh, phù hộ
và che chở cũng như ban phúc cho dân làng.
Sử sách cho biết Thành hoàng đầu tiên ở nước ta là thần Tơ LịchThần Thành hồng của thành Đại La, trụ sở của phủ đô hộ Đường tại nước
ta (thế kỷ thứ IX). Thần Tô Lịch là do Lý Nguyên Gia và Cao Biền tôn
vinh là "Đơ phủ Thành hồng thần qn", chữ Thành hồng bắt đầu có từ
đó.
Đời Lý Thái Tổ lúc dời đơ (năm 1010), thường mộng thấy một cụ
đầu bạc, phảng phất trước bệ rồng…(Sau khi hỏi rõ lai lịch) nhà vua liền
sai quan Thái Chúc đưa rượu chè đến tế, phong làm Quốc Đơ Thăng Long
Thành Hồng Đại Vương. Dân cư đến cầu đảo hay thề nguyền điều chi, thì
lập tức họa phúc linh ứng ngay.
Sau đó, các triều đại độc lập tiếp tục duy trì và phát triển bằng nhiều
đợt sắc phong. Thời nhà Trần, Tô Lịch lại được phong thêm các mỹ tự:
“Bảo Quốc vào năm Trùng Hưng thứ nhất, Hiển linh vào năm Trùng Hưng
thứ tư, Định bang vào năm Hưng Long thứ 21. Đời Lê (1442) cho lập các
đàn thờ các thần thiên nhiên để cúng tế. Vào thời Nguyễn, quan niệm chính
21


thống về Thành Hồng được duy trì và mở rộng ra các trấn, tỉnh. Dân ta tin
rằng: Đất có Thổ cơng, sơng có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng

ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ
thần một thịnh.
Ở nước ta, đình làng là nơi thờ phụng thành hồng và trở thành một
biểu tượng văn hoá tâm linh của mỗi người dân q Việt. Làng nào cũng có
đình, đình để thờ thành hoàng nhưng đồng thời cũng trở thành nơi hội họp
của chức sắc trong làng, hay là nơi sinh hoạt của cộng đồng làng xã. Mọi
hoạt động này đều xảy ra ở đình với sự chứng kiến của thành hoàng.
Như vậy, cùng với việc thờ cúng tổ tiên thì tín ngưỡng thờ Thành
hồng làng đem lại cho người dân ý thức hướng về cội nguồn, về quê cha
đất tổ bằng những biểu hiện sinh hoạt văn hoá truyền thống. Bảo tồn và
phát huy những di sản văn hoá là trách nhiệm của mỗi người và cũng là để
góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn
hố dân tộc.
1.3.2. Sự tích về nhân vật được thờ tại đình Lam Điền
Cũng giống như bao làng quê khác, dân làng Lam Điền cũng thể
hiện tín ngưỡng thờ Thành hồng một cách thành kính. Căn cứ vào truyền
thuyết ở địa phương cũng như thần tích của làng có thể tóm tắt cốt lõi tiểu
sử của vị thần được thờ tại đình làng như sau:
Đình Lam Điền thờ Đơng Hải làm thành hồng làng. Tương truyền
Ngài sống vào thời Hùng Vương thứ 18, Ngài cùng với sơn thần đã có cơng
đánh giặc cứu nước nên nhân dân đã phụng thờ.
Vào thời Hùng Vương thứ 18, truyền đến Duệ Vương khi làm vua
đóng đơ tại Việt Trì –Phong Châu và đặt quốc hiệu là Văn Lang. Hùng Duệ
Vương là người hùng tài, phẩm chất sáng suốt, thừa hưởng cơ đồ phồn vinh
của tổ tiên gây dựng. Trong thì sửa sang văn đức, ngồi thì phịng bị việc
biên cương dốc trí vào sự nghiệp hịa bình thịnh trị để giữu yên đất nước.
22


Bấy giờ có viên quan tên là Lý Phục quê ở xã Kim Bài, tổng Phương

Trung, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hịa là con nhà danh tướng – ơng được
Hùng Vương phong làm quan chủ bộ, lúc này thiên hạ thái bình, vua tơi
nhàn nhã. Quan chủ bộ bèn rong thuyền dạo chơi khắp giang sơn. Một hôm
ông đến địa phận làng Ó Vực huyện Chương Đức, thấy thế đất khởi từ núi
Tản Viên, dòng nước quanh co, non dài uốn khúc…quan chủ hộ thấy đây
là một vùng đất quý bèn dựng hành cung ở đó lại xây dựng ả cung ở làng
Phù Vận, hữu cung ở xã Diên Ứng.
Quan chủ bộ lấy con gái Hùng Cao, cháu 4 đời của Hùng Vương, tên
là nàng Quế Hoa, lập làm đệ nhất cung phi. Lấy con gái của Chiêu Tấn
Trâu, tức là nàng Tú Hoa, lập làm đệ nhị cung phi. Nhờ phúc ấm, sớm sinh
được hai con trai, sau thành hùng trưởng, mỗi người trấn giữ một phương.
Khi quan chủ bộ tuổi đã cao, thì ở làng Diên Ứng con nhà họ Trần tên Tuấn
lấy vợ người làng Phù Vận tên Phạm Thị Cung sinh hạ được người con gái
tên gọi Ngọc Dung, nàng nổi tiếng về công dung ngôn hạnh, nết na đẹp đẽ,
khi nghe tiếng về nàng, quan chủ bộ mời ông Trần Tuấn tới đặt tiệc thiết
đãi và xin được cùng Ngọc Dung nên nghĩa vợ chồng. Ông lập nàng làm đệ
tam cung phi, đón nàng về ở cùng tại cung Ĩ Vực. Một hơm trời hè nóng
nực, cung phi Ngọc Dung bèn cùng vài thị nữ ra vực trước cung ( tức cung
Ó Vực) để tắm. Bỗng thấy một ánh lửa lâp lòe, một con rắn xanh nổi lên
mặt nước trong khoảnh khắc rồi biến mất, lại thấy trong vực sấm chớp ầm
ầm song to cuồn cuộn, rồi một con giao long mình dài hơn mười trượng
đầu có mao hoa, mình có vẩy ngũ sắc hiện ra cuốn quanh người Ngọc
Dung 3 vịng. Tì nữ sợ hãi về tâu với quan chủ bộ, ông nghe hết sức kinh
ngạc vội vàng chạy ra thấy toàn thân nàng đầy rớt dãi, liền sai người dìu
nàng về cung. Ơng cho đây là một việc lạ bèn lạp đàn ngay bên vực tế lễ,
đang làm lễ Giao Long leo lên đàn tế quan chủ bộ trông thấy vội vàng lạy
tạ. Trong phút chốc rắn xanh biến mất.

23



×