Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Lễ hội mường ham

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT

LỄ HỘI MƯỜNG HAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN VĂN HÓA

Giảng viên hướng dẫn : Th.S Nguyễn Khánh Ngọc
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Trinh

Lớp

: Quản lý văn hố 7C

Niên khóa

: 2006- 2010

HÀ NỘI – 2010

1


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu. ............................................................................................................. 1
Chương 1: KHƠNG GIAN VĂN HĨA XÃ CHÂU CƯỜNG - HUYỆN
QUỲ HỢP - TỈNH NGHỆ AN. ........................................................................ 6


1.1.

Đặc điểm địa lý - kinh tế. ...................................................................... 6

1.2. Đặc điểm văn hóa. .................................................................................. 9
Chương 2: DIỄN TRÌNH LỄ HỘI MƯỜNG HAM ..................................... 23
2.1.

Nguồn gốc Lễ hội Mường Ham. ......................................................... 23

2.2.

Cơng tác chuẩn bị. ............................................................................... 25

2.3. Diễn trình Lễ hội Mường Ham. .............................................................. 31
Chương 3: Ý KIẾN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI
MƯỜNG HAM TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY. ....................... 56
3.1.

Đánh giá thực trạng lễ hội Mường Ham. ............................................. 56

3.2.

Ý kiến nhằm bảo tồn phát huy lễ hội truyền thống Mường Ham trong

đời sống hiện nay. ......................................................................................... 63
KẾT LUẬN. ................................................................................................ 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 74
PHỤ LỤC........................................................................................................ 76


2


Mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài.
Cũng như các dân tộc khác trên thế giới, lễ hội dân gian cổ truyền của
các dân tộc ở Việt Nam đã có từ lâu đời. Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa
cộng đồng, là một nhu cầu khơng thể thiếu trong đời sống tinh thần, tình cảm
của nhân dân. Mỗi lễ hội thường có một lịch sử nhất định gắn với tên tuổi của
một nhân vật cụ thế nào đó được nhân địa phương tơn vinh và thờ tự. Đó có thể
là một vị tiên thánh bất tử trong tâm thức của cư dân hoặc nhân thần có cơng
đánh giặc, những người có cơng dựng bản lập mường.
Chính vì thế, cứ vào mỗi độ tết đến xuân về - người dân đất Việt lại tưng
bừng tổ chức lễ hội, những lễ hội mang đậm tính chất dân gian vừa hào hùng
hồnh tráng nhưng cũng đầy màu sắc của nền văn minh nông nghiệp. Mỗi lễ hội
diễn ra đều mang ý nghĩa văn hóa của địa phương mình - Nó có cả phần đời
thường thể hiện ước mơ và nguyện vọng chính đáng của người dân; thể hiện tinh
thần dân chủ chất phác, hồ hởi của con người được hịa mình cùng thiên nhiên
và hịa nhập trong cộng đồng. Thơng qua lễ hội, người dân ước mơ vươn tới sự
phồn thịnh, tình u và mong có được cuộc sống trong hịa bình, hạnh phúc.
Trong khơng gian của lễ hội có những giây phút hịa nhập, có sự cộng cảm một
cách hồn tồn tự nguyện của người dân nơi diễn ra lễ hội, đón chào khách thập
phương về dự lễ hội. Người ta đến với lễ hội là để tìm cho mình một sự che chở
từ những thế lực siêu nhiên hay các vị tổ tiên để cầu cho mưa thuận gió hịa, dân
an vật thịnh.
“Lễ hội Mường Ham” diễn ra tại xã Châu Cường - huyện Quỳ Hợp - tỉnh
Nghệ An cũng như nhiều lễ hội khác ở trên khắp đất nước ta - đã có được khơng
gian, thời gian, cách thức và diễn trình riêng cùng với nguồn gốc lịch sử, tín
ngưỡng và dấu ấn văn hóa riêng của đồng bào dân tộc Thái đang sinh sống trên
địa bàn huyện Quỳ Hợp. Cùng với những thăng trầm của lịch sử “Lễ hội Mường


3


Ham” đã có thời kỳ dài bị lãng quên nhưng những năm gần đây lễ hội đã được
khôi phục và tổ chức lại, các cơng trình kiến trúc liên quan đã được tu bổ và sửa
sang lại nhằn lưu giữ những nét truyền thống văn hóa tốt đẹp của đồng bào dân
tộc Thái nơi đây.
Với mong muốn được giới thiệu đơi nét về văn hóa Quỳ Hợp - đặc biệt là
văn hóa Thái đến với tất cả mọi người, để mọi người hiểu hơn về văn hóa của
đồng bào dân tộc nơi đây cũng như hiểu hơn con người Quỳ Hợp. Hơn nữa “Lễ
hội Mường Ham” là lễ hội được tổ chức ở một xã và cũng mới được khôi phục
lại trong mấy năm gần đây nên chưa có một cơng trình nào nghiên cứu cụ thể về
lễ hội này để mọi người biết và có thể tìm hiểu về nó. Tuy khơng phải là người
dân tộc Thái nhưng tơi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Quỳ Hợp, được sống
trong khơng gian văn hóa của đồng bào dân tộc Thái nơi đây, tơi muốn góp phần
nhỏ bé những hiểu biết của mình về văn hóa Thái để giới thiệu đến với tất cả
mọi người và cũng là để tơi học tập và nghiên cứu thêm. Chính vì vậy tơi đã
chọn “Lễ hội Mường Ham” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cho mình.
Trong khn khổ của khóa luận, tơi mong muốn khảo tả, trình bày lễ hội
trong tính cổ truyền nhằm mục đích lưu giữ và phát huy giá trị của nó trong điều
kiện xã hội hiện nay để đáp ứng được yêu cầu của địa phương và du khách về
việc tìm hiểu tín ngưỡng dân gian của đồng bào dân tộc Thái ở Quỳ Hợp.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Lễ hội Mường Ham - xã Châu Cường - huyện Quỳ Hợp - tỉnh Nghệ An.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
- Tìm hiểu khơng gian văn hóa Mường Ham - xã Châu Cường - huyện
Quỳ Hợp - tỉnh Nghệ An.
- Tìm hiểu diễn trình lễ hội Mường Ham
- Khẳng định các giá trị của lễ hội Mường Ham, đề xuất ý kiến nhằm bảo

tồn và phát huy giá trị của lễ hội Mường Ham trong đời sống xã hội hiện nay.

4


4. Phương pháp nghiên cứu.
Để hồn thành khóa luận này tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tư liệu.
- Phương pháp điền dã, khảo sát thực tế kết hợp với phỏng vấn.
- Phương pháp giải mã biểu tượng.
5. Đóng góp của đề tài.
- Góp thêm tư liệu nghiên cứu về lễ hội Mường Ham nói riêng và lễ hội
dân gian của đồng bào dân tộc Thái nói chung.
- Giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Mường Ham có
thể ứng dụng vào thực tiễn ở cở sở, góp phần giữ gìn các giá trị văn hóa trong
cơng cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
6. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài có cấu
trúc gồm ba chương:
Chương 1. Khơng gian văn hóa xã Châu Cường - huyện Quỳ Hợp - tỉnh
Nghệ An.
Chương 2. Diễn trình lễ hội Mường Ham.
Chương 3. Ý kiến nhằm bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Mường Ham
trong đời sống xã hội hiện nay.

5


Chương 1.


KHƠNG GIAN VĂN HĨA XÃ CHÂU CƯỜNG - HUYỆN
QUỲ HỢP - TỈNH NGHỆ AN.
1.1.

Đặc điểm địa lý - kinh tế.

 Đặc điểm địa lý.
Xã Châu Cường nằm trong Mường Ham lớn gồm bảy xã: Châu Quang,
Châu Cường, Châu Thái, Châu Lý, Châu Đình, Bắc Sơn, Nam Sơn (Sở dĩ nói
vậy là do trước năm 1963 cả vùng đất Quỳ Hợp được chia thành năm Mường trong đó Mường Ham được coi là gốc Mường. Sau năm 1963 mới được chia
thành các xã như bây giờ). Bây giờ Mường Ham nhỏ thuộc xã Châu Cường.
Xã Châu Cường, phía Tây giáp với xã Châu Thành, Châu Hồng, Châu
Tiến; phía Đơng giáp xã Châu Thái; phía Nam giáp dãy núi Pù Huống; phía Bắc
giáp xã Châu Quang, Châu Lộc.
Dân số xã tính đến ngày 31/12/2006 là 4870 người, trong đó có 4500
người dân tộc Thái. Hiện tại xã có 11 xóm bản.
Diện tích đất tự nhiên của xã là 8393,02 hecta, trong đó đất nơng nghiệp:
553,53 hecta; đất lâm nghiệp có rừng: 3572,5 hecta; đất chuyên dùng: 111,05
hecta; đất ở là 29,2 hecta; đất chưa sử dụng là 4126,22 hecta.
Khí hậu, thời tiết nơi đây có sự phân hóa hai mùa rõ rệt là mùa nóng và
mùa lạnh, khí hậu ở có những thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi phát triển nhưng
cũng kéo theo sự phát triển của nhiều loại sâu bệnh, thiên tai… trong mùa nóng
thì gây hạn hán, mùa lạnh thì gây sương muối…
Tài ngun thiên nhiên gồm có:
Tài nguyên rừng với diện tích lớn với nhiều chủng loại động thực vật
phong phú, trữ lượng gỗ cao mang lại nhiều lợi ích về kinh tế cũng như mơi
trường cho đồng bào nơi đây…

6



Tài ngun khống sản: có nhiều loại q hiếm như đá ruby, saphia, đá
trắng, đá hoa cương, đá vơi có giá trị kinh tế lớn. Song qua một thời gian dài
khai thác khơng hợp lý và chưa có tổ chức quy hoạch đã làm cho những tài
nguyên giảm đi đáng kể, làm tổn hại không chỉ những nguồn tài nguyên ấy mà
còn làm tổn hại đến cả nguồn đất, nguồn nước và môi trường sinh thái lẫn môi
trường xã hội.
Về nguồn lao động: Cơ cấu dân số ở đây khá trẻ, độ tuổi dưới 14 chiếm
khoảng 30%, tuổi già là 12,5%. Nhưng lao động có tay nghề, chun mơn, trình
độ cao đẳng, đại học còn thấp, đa số họ làm nơng nghiệp là chính. Chính vì vậy,
nhiệm vụ đặt ra vô cùng to lớn cho các cấp phải khẩn trương cho công tác
hướng nghiệp, đào tạo, dạy nghề cho thanh thiếu niên, nhất là con em đồng bào
các dân tộc thiểu số.
 Đặc điểm kinh tế.
Người dân ở đây chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nên nền kinh tế chủ
yếu là những nghề như:
- Nghề trồng trọt: Đồng bào nơi đây chủ yếu là làm ruộng lúa nước và
làm nương rẫy.
Đối với ruộng nước thì người Thái ở đy làm theo quy trình:Tháo nước cho
ráo đất,cày lật đất, phơi ải, ngâm nước, bừa cho đất phẳng, trang lại cho kỹ rồi
mới cấy; hoặc làm nương mạ thì vun vồng thoai thoải. Họ thường trồng lúa nếp
và lúa tẻ. Người dân ở đây lấy nước tưới cho ruộng bằng cách đắp đập, làm
guồng nước, đào mương, bơm nước…
Đối với loại nương rẫy thì vào khoảng thangs2 -3 (âm lịch), người ta vào
rừng chọn đất, phát rẫy, đợi cho cành lá khô, châm lửa đốt để lại một lớp tro dày
làm phân bón cho rẫy. Đến tháng 3-4 trỉa hạt, một tháng sau, mầm cây lên
khoảng hai gang tay người ta làm cỏ, xới xáo đất, vun gốc cho cây, không cần
phải bón phân, năng suất lúa, hoa màu trơng cậy vào thiên nhiên. Vì vậy thường

7



ngày trước nơi đây thường định canh nhưng du cư. Họ thường trồng lúa tẻ, ngô,
khoai, sắn, kê, bông, bầu, bí…
- Nghề đi rừng: Người dân thường:
Khai thác lân sản: họ khai thác gỗ, mét núa, mây, giang, lá cọ…để làm
nhà cửa hoặn bán tại chỗ cho người kinh hoặc đóng bè đem về xi bán. Họ cịn
lấy từ rừng các loại rau, măng, nấm, mộc nhĩ…để nấu ăn. Chính vì vậy rừng có
vai trị như “vườn thiên nhiên” vì cư dân người Thái trước đây khơng có tập tục
làm vườn rau phục vụ cho bữa ăn. Và họ khai thác các loại lâm sản theo luật tục
bản mường như: chặt cây to không chặt cây con, giết con to khơng giết con nhỏ,
bắt chim khơng phá tổ chim…
Ngồi ra họ còn săn bắn, bẫy chim thú: họ thường đi săn theo phường
hoặc một vài người. Dụng cụ để săn bắn là các loại bẫy, súng, nỏ, chó săn…
- Chăn nuôi:
Chăn nuôi gia súc gia cầm: Phuong thức chăn nuôi của họ trước đây là
nửa chăm sóc nủa tự nhiên như: gà vịt được thả rông chỉ về chuồng ngủ buổi tối,
cịn ban ngày tự đi tìm thức ăn. Lợn thì chỉ được cho ăn sáng và tối cịn ban
ngày được thả rơng để đi tìm cái ăn. Trâu bị thì được thả từng đàn trong các
thung lũng, trong núi hằng tháng trời người dân mới vào thăm một lần.
- Nghề thủ công: Đàn ông biết làm nhà, đan lát, làm các dụng cụ dùng
trong gia đình; một số người còn biết nghề rèn, chạm bạc, làm đồ trang
sức…Đàn bà ai cũng biết dệt vải, may vá quần áo, thêu váy, thêu khăn.
Nhìn chung, đời sống của người dân nơi đây cịn gặp rất nhiều khó khăn,
nền kinh tế cịn nặng tính tự cung tự cấp. Họ chưa được áp dụng nhiều những
khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, hơn nữa địa hình hiểm trở, khí hậu thời
tiết rất khắc nghiệt nên kéo theo việc sản xuất của người dân nơi đây gặp rất
nhiều khó khăn, dẫn đến tỷ lệ đói nghèo ở đây vẫn cịn khá cao.

8



1.2. Đặc điểm văn hóa.
1.2.1. Q trình hình thành và tên gọi Mường Ham.
Những năm vua Tự Đức trị vì, ở miền núi Nghệ An xảy ra “loạn giặc Xá”.
Người Xá là tên gọi của người Khơ Mú ngày trước vốn ở Xiềng Đông, Xiềng
Tông bên Lào. Thời kỳ này, do người Thái lấn sang Lào, đã đẩy người Xá phải
lánh nạn sang phía Đơng tìm đất định cư. Sang đây họ lại bị những tàn quân của
của những cuộc nổi dậy ở Trung Quốc chạy lánh nạn sang lợi dụng, lại bị một số
địa chủ Thái xúi bẩy đã gây thành cuộc chiến tranh dai dẳng. Ban đầu chỉ là
cuộc chiến tranh sắc tộc đơn thuần giữa quý tộc Thái và người Khơ Mú. Sau đó
người Khơ Mú được sự hưởng ứng của những người dân Thái nghèo khổ, bị bóc
lột nên cuộc chiến tranh này đã chuyển thành cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu
tranh diễn ra ngày càng mạnh mẽ khiến triều đình Huế phải cử binh dẹp loạn.
Đến chín năm sau cuộc loạn mới được dẹp yên vào năm Quý Mùi 1883). Ngay
từ những năm đầu nổ ra cuộc “loạn giặc Xá”, ở vùng Mường Tôn (thuộc huyện
Quế Phong ngày nay) có một Tạo Mường vì lo sợ “giặc Xá” tàn sát nên đã cho
người nhà mang theo đứa con trai độc nhất của mình chạy xuống vùng thung
lũng Túng Nhau thuộc xã Châu Cường ngày nay, thấy đây là vùng có địa hình
khá thuận lợi, kín đáo và gần với các bản người Thái ở phía ngồi nên đồn
người đã ở lại nơi đây, một thời gian sau đoàn người lại chuyển ra vùng Túng
Nọi bây giờ để sinh sống do địa hình nơi đây tốt hơn cho việc sản xuất. Sau khi
dẹp yên loạn giặc Xá con đường quay trở lại Mường Tôn không cịn giặc Xá nữa
nhưng Tạo Mường Tơn đã chết và thời cuộc đã có nhiều thay đổi đã khiến Tạo
Nọi có quyết định “an cư lạc nghiệp” ở nơi đây. Truyền thuyết đã kể nhiều về
việc người dân bàn nhau chặt cây làm kiệu mở đường vào Mường Nọi đón Tạo
Nọi ra mường lớn. Ra đến trung tâm Mường Ham ngày nay Tạo Nọi cho đặt
kiệu xuống, sau khi xuống kiệu Tạo Nọi cho cắm đất dựng bản mới. Trong tiếng
Thái “Hám” có nghĩa là khiêng, rước, nên được đặt tên là Mường Hám nhưng


9


sau do trong quá trình giao tiếp đã bị gọi chệch thành Mường Ham. Và tên gọi
Mường Ham được gọi cho tới ngày nay.
1.2.2. Văn hóa vật thể.
 Nhà ở.
Kiến trúc nhà ở được thiết kế theo một kiểu chung đó là nhà sàn. Nhà có
hai tầng, tầng trên cao hơn thầng dưới 2 mét, có hai cầu thang đóng liền vào sàn
để lên nhà - một cái ở lối đi chính lên tầng trên giành cho người con trai trong
nhà và khách, một cái dựng ở phía sau nhà làm lối đi vào bếp và là nơi lên
xuống của phụ nữ trong gia đình. Nhà thường có ba hoặc năm gian, dài 60 mét,
rộng 20 mét. Gian gần với cầu thang chính có vách ngăn với các gian khác giành
riêng cho thờ ma nhà (tổ tiên), nơi tiếp khách quý. Các gian giữa dùng cho sinh
hoạt gia đình, gian cuối cùng giành cho phụ nữ, liền đó có sàn làm sân phơi. Mái
nhà hình chữ nhật, góc nhọn, khơng phải mái nhà trịn, hình rùa như ở Tây Bắc;
nhà thường có bốn mái - hai mái chính hai bên, hai mái phụ ở hai đầu hồi, tất cả
đều được lợp lá cọ rất khít nhau.
 Các đồ dùng trong gia đình.
Gồm có “mo nưng” và “hảy” là những thứ dùng để hong xôi - đây là hai
vật dụng mà người Thái ở đây nhà nào cũng phải có. Nồi nấu ăn thường là nồi
đồng, nồi gang hoặc nồi đất - nồi nhơm thì sau này mới có. Bát đĩa nhà nào cũng
đủ dùng. Nhà nào cũng có cái mâm nan dùng khi ăn cơm, có ghế trơng như hình
chóp cụt được kết từ mây và các thành mét, không có tựa. Chăn, nệm, váy, áo…
do chị em phụ nữ trong gia đình dệt dùng trong gia đình. Những thúng, mủng,
rổ, rá, ép đựng xơi…đủ các kích cỡ cùng với nhiều ống bương lớn nhỏ để lấy
nước. Nhà có bao nhiêu phụ nữ thì có bấy nhiêu khung cửi để dệt vải, thổ cẩm.
Những nhà giàu cịn có thêm tủ, giường, bàn ghế, tràng kỷ, vạc đồng, chiêng
đồng…


10


Con dao - là một vật tùy thân của người Thái, con dao luôn ở bên hông
mọi người trong bất kỳ hoàn cảnh nào (đi đường, đi rừng, đi nương…). Ngồi ra
cịn có rìu để chặt cây, cày bừa để làm ruộng, thuổng để đào củ, nỏ bắn tên và
một số đồ dùng trong săn bắn.
Bây giờ đồ dùng trong gia đình của người Thái nơi đây đã rất phong phú.
Nhiều gia đình đã có giường kiểu mới, bàn ghế, tủ, sập…với nhiều phương tiện
nghe nhìn hiện đại như ti vi, rađiơ, cátset, máy vi tính và các phương tiện đi lại
như xe đạp, xe máy, thậm chí có gia đình cịn có cả ơ tơ.
 Chịi lán.
Chịi lán là kiểu nhà canh nương, canh ruộng của đồng bào dân tộc Thái
nơi đây. Chòi lán được làm bằng nhiều vật liệu khác nhau: gỗ, tre, nứa, lá…Và
những chòi lán này thường khơng kiên cố. Tùy từng mục đích sử dụng mà người
dân làm chòi lán to hay bé. Nếu chòi là hình ảnh thu nhỏ của ngơi nhà sàn thì lán
là hình ảnh thu nhỏ của một cái nhà đất.
Chịi lán là một đặc trưng về văn hóa của người dân tộc Thái ở Mường
Ham - nó như một tục lệ: Ban đầu là tạm bợ, sau quen dần rồi dần dần làm kiên
cố và chắc chắn. Có nhiều hộ làm chòi lán gần nhau, theo thời gian đã phát triển
thành bản mới.
 Các đền - miếu - nhà thờ.
Người dân Thái ở Mường Ham cũ chưa có tín ngưỡng tơn giáo mà chỉ
dừng lại ở tín ngưỡng dân gian là chủ yếu. Do vậy các đền miếu, nhà thờ rất
hiếm gặp. Đi vào các bản, ta thường thấy những cái chịi được dựng lên - nếu
chịi có cột gỗ to và chắc là nhà thờ của bản hoặc của dòng họ, nếu chòi nhỏ cột
bằng tre và lợp lá sơ sài thì đó là chịi của gia đình thờ các “phi” (ma) trong gia
đình, dịng họ nhưng khơng được thờ trong gia đình do cái chết của họ khơng
được bình thường (chết do sét đánh, hổ vồ, tai nạn…).


11


Nhìn chung, người Thái nơi đây thờ cúng cha mẹ, tổ tiên ở trong nhà là
chính nên trong vùng khơng có chùa lại càng xa lạ với nhà thờ cơng giáo.
 Trang phục.
Trang phục của bà con người Thái nơi đây cũng tương tự bà con người
Thái ở Tây Bắc.
Đàn ông Thái thường mặc áo cộc xẻ thân trước với hàng khuy cài bằng
xương động vật hay bằng vải tết trịn lại. Quần của họ có cạp, khi mặc thường
túm lại rồi thắt bắt chéo trước bụng, ống rộng ngắn trên mắt cá chân. Cả quần và
áo đều màu nâu chàm hay màu cháo lòng, thường may bằng thứ vải bơng do
người phụ nữ trong gia đình dệt thành.
Trang phục của người phụ nữ cầu kỳ hơn. Thường họ mặc áo ngắn có tay,
mổ ngực, áo được may sát vào thân, có hàng khuy cài bằng vải tết trịn màu đen,
dọc hai hàng khuy có đường hoa văn rất nổi. Trang phục của người phụ nữ Thái
đáng chú ý nhất là chiếc váy. Váy có hai loại:
Loại thứ nhất, váy là một mảnh thổ cẩm hình chữ nhật dài, khi mặc xếp
đơi lại và cuộn theo thân người. Váy có cạp trắng hay đỏ, chân váy có hình thêu
rực rỡ, thường là hình rồng, hươu, nai, hoa, lá, hoa văn, hình kỷ hà… Các họa
tiết trang trí ở chân váy thường theo mơ típ: cây, con, hoa, trăng - sao - mặt trời,
đường diềm. Khi mặc váy này, các chị em thường gấp sang một bên rồi cài mép
vào phía trong và thắt lưng bằng một dải vải màu xanh hoặc đỏ có hình hoa văn.
Loại thứ hai, là một loại áo chui rộng màu đen hay xanh sẫm, chân váy
cũng có thêu những loại hình rực rỡ như loại váy vừa kể trên, nhưng phía trên có
một đoạn vải đính vào gọi là cạp váy, khi mặc túm hai bên cạp váy thắt lại với
nhau ở giữa ngực hoặc phía trên một chút.
Chiếu khăn Piêu của phụ nữ Thái cũng rất nổi tiếng, khăn chỉ xếp trên đầu
không phải chít.


12


Người Thái rất chuộng đồ trang sức, hầu hết làm bằng bạc, đồng mạ vàng
hay ngà voi. Nam giới chỉ đeo một vài vòng tay cỡ nhỏ, còn chị em phụ nữ đeo
nhiều loại trang sức với nhiều kiểu dáng, vòng cổ, vòng tay, nhẫn, hoa tai.
Những người phụ nữ con nhà giàu cịn đeo bộ sà tích, xn thu trong những
ngày tết, hay khi có lễ hội..
Nhưng hiện nay cả nam giới và nữ giới người Thái đều có xu hướng mặc
theo người Kinh. Họ chỉ mặc những bộ quần áo truyền thống của mình khi có lễ
hội hay trong những ngày tết và trong ma chay, cưới hỏi. Còn những học sinh
đến trường cũng chỉ mặc những trang phục truyền thống của dân tộc mình vào
những ngày lễ của trường và thứ hai đầu tuần mà thôi.
 Văn hóa ẩm thực.
Đồ ăn: Đồ ăn thường ngày của người Thái trước đây thường là gạo nếp,
ngô, khoai, gần đây mới có sắn và gạo tẻ. Gạo nếp khi ăn thường hong lên thành
xơi, xơi chín xới vào những cái ép đan bằng tre và ăn cả ngày. Bữa ăn hằng ngày
của người dân khá đạm bạc, thường chỉ có cơm (xôi) cùng với một chén muối và
một đĩa ớt cay muỗi, đơi bữa có thêm vài thứ rau rừng hoặc thịt thú rừng săn được.
Cách nấu của họ cũng thật đơn giản, đun một nồi nước, cho thêm ít muối,
sơi thì cho bất kỳ thứ gì săn bắt hái lượm được ở rừng đã được làm sạch vào,
nấu chín là ăn được.
Món mắm thính ngơ là món ăn khá nổi tiếng, họ thường ủ chua thịt cá
trong những ống mét bằng thính ngơ rồi gác lên giàn bếp đợi chua rồi ăn.
Măng là món ăn thường ngày, có thể ăn sống hoặc nấu chín. Măng nấu có
món canh măng nấu nhái (hay còn gọi là măng om nhái) và măng nấu với thịt
gà, thịt vịt. Dù là canh gì đi nữa thì trong mỗi bữa ăn, mỗi thành viên trong mâm
cơm đều có một bát canh riêng kể cả khách không chan húp lẫn lộn. Cũng trong
bữa ăn, chỉ có một đĩa muối với mấy quả ớt cay muỗi cùng với mấy ép xôi đặt
giữa mâm để mọi người cùng ăn (điều này cho ta thấy nó mang tính cộng đồng),


13


khi ăn mỗi người véo một ít xơi chấm muối ớt, ăn xong húp một bát canh măng
thế là xong bữa.
Ngồi ăn canh, họ cũng thích ăn đồ nướng như: ngơ, khoai, sắn, thịt, cá…
Trong mâm cỗ cúng thì xơi và cá là hai thứ không thể thiếu và được chế
biến một cách cầu kỳ và cẩn thận hơn nhằm dâng lên tổ tiên, thần linh những thứ
ngon lành, cái hương vị của ruộng nương, của sông suối và trong thâm tâm họ
cịn có ý niệm cầu mong cho mùa màng tốt tươi, con người luôn khỏe mạnh,
sông suối cho nhiều tơm cá…Món xơi thường được hong bằng nếp cẩm; cịn cá
để cúng có thể rán hoặc kho, nhưng truyền thống vẫn chế biến thành: “Pá mọc” làm từ những khúc cá tươi giã ra trộn lẫn với tấm gạo gói trong lá dong rồi hong
chín. “Pá phẻ” - là cá khơ dược gỡ hết xương đem hong chín, ăn vừa dai vừa
bùi. “Pá pình” - là món cá nướng. “Pá xổm” - là món cá chua, cá được chặt
thành từng khúc rồi trộn với muối và thính ủ chua.
Trên đây là đôi nét về đồ ăn truyền thống của người Thái nơi đây - đó là một
nét văn hóa - một nét văn hóa có pha chút tâm linh trong tâm thức của đồng bào.
Đồ uống: Trước đây người Thái thường uống nước mát dưới suối trong,
vào rừng hái lá về nấu nước uống: như chè rùng, nụ vối…
Rượu của đồng bào Thái có hai loại: Rượu trắng - được chế từ ngũ cốc,
sắn, các thứ củ trong rừng với men lá. Rượu cần hay còn gọi là rượu trấu cũng
được chế từ gạo, sắn trộn với trấu hong lên rồi ủ vào trong chum hoặc vị rồi bịt
kín để mấy tháng sau mới đem ra uống.
1.2.3. Văn hóa phi vật thể.
 Tiếng nói và chữ viết.
Về tiếng nói: Tiếng Thái là ngôn ngữ thống nhất trong cộng đồng người
Thái ở vùng Mường Ham lớn. Tiếng Thái vùng Mường Ham nằm trong nhóm
ngơn ngữ Tày Thái - nó là tiếng nói đơn âm tiết và khá tách bạch.


14


Về chữ viết: là kiểu chữ quá độ từ chữ dấu nét ký hiệu Trung Quốc (chữ
Trung Hoa cổ) thành chữ viết theo chữ Ấn Độ (chữ Phạn) của dân tộc Lao Tay nên chữ Thái nơi đây có tên gọi là chữ Thái Lai - Tay. Chữ Thái xuất hiện
khoảng 1000 năm về trước, đa số người dân Mường Ham đều sử dụng loại chữ
này. Mọi văn bản của các chức dịch trong mường đều sử dụng chữ Lai - Tay. Và
đã có nhiều bản làng cịn lưu giữ được những cuốn viết bằng chữ Lai - Tay có
giá trị về nhiều mặt.
Nhưng rất đáng tiếc, trải qua một thời gian rất dài, do nhiều yếu tố tác
động, và do sự xuất hiện của chữ Nôm, chữ Nho, chữ Quốc ngữ nên nhiều người
dân Thái đã lãng quên đi chữ Thái Lai - Tay của dân tộc mình nhất là những thế
hệ trẻ sau này. Những cuốn sách viết bằng chữ Lai - Tay cũng bị hư hỏng và mất
mát nhiều, thế nên bây giờ số lượng người biết đọc, biết viết chữ Thái ở Mường
Ham rất ít.
 Văn học.
Nhắc đến văn học của người Thái, ta không thể không nhắc đến truyện kể
- truyện kể là gia tài vơ giá của nó như nước suối đầu nguồn, vừa là truyện kể,
vừa là thi ca, vừa là sử học, triết học, dân tộc học, xã hội học… Truyện kể vừa
thể hiện sự khát vọng, ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, vừa thể hiện sự
khao khát tự do, công bằng trong cuộc sống. Truyện kể của đồng bào dân tộc
Thái nơi đây có nhiều loại:
Truyện kể về việc xuống mường, truyện kể về việc xây dựng khai phá bản
mường: Ý nghĩa của những truyện kể này nếu bóc tách cái màn thần linh chủ
nghĩa sẽ lộ ra ý chí đấu tranh bất khuất với niềm tin và ước mơ của người dân.
Hình tượng đẹp nhất trong những truyện kể này là hình tượng người anh hùng
xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ, mồ côi cha mẹ nhưng sống vô tư hồn nhiên,
chiến đấu dũng cảm, bao giờ cũng thắng tự nhiên. Đó là hình tượng nghệ thuật

15



vừa hiện thực, vừa siêu nhiên, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, có sức hấp dẫn mạnh
mẽ để những thế hệ con cháu họ noi theo.
Truyện kể về đời sống và sinh hoạt bản mường, những truyện kể về quan
hệ xã hội bản mường, những truyện cắt nghĩa một cách thô sơ nhưng hoang
đường tươi mát về núi đồi đồng ruộng, bản làng và một số tục lệ: Nội dung của
những truyện này như tạc vào thiên nhiên làm cho thiên nhiên lung linh sinh
động, luôn luôn nhắc nhở bà con sống có đạo lý hơn.
 Dân ca - dân vũ - dân nhạc.
Dân ca: Rất phong phú, giàu chất trữ tình, chứa đựng nội dung đa dạng
như: tình yêu, lối sống, các mối quan hệ, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc.
Dân ca Thái có những làn điệu thông dụng như: Nhuôn, Xuối, Lăm.
- Nhuôn: Thường dùng cho trai gái hát đối đáp nhau trong các cuộc vui,
cuộc rượu cần, các lễ hội lớn. Khi hát nhuôn thường có sáo pì nhuốn đệm theo.
Các thầy mo khi cúng để gọi vía, đuổi con ma cũng có khi dùng loại này.
- Xuối: Là một loại ngâm vịnh, có thể có sáo pì đệm, mang tính tự sự là
chủ yếu. Người ta thường xuối trong các dịp vui, hội hè, mừng nhà mới. Xuối
cịn được cất lên một mình trên nương rẫy, làm đồng, lấy củi… nhiều người nhờ
xuối đối đáp nhu mà nên vợ nên chồng.
- Lăm: Là một điệu hát gần na ná như xuối, nhưng âm vực hẹp hơn, trầm
và sâu lắng hơn. Khi lăm phải có khèn bè đệm. Lăm thường sử dụng khi có cuộc
vui trong bản hoặc trong nhà
Dân vũ: Là các vũ điệu dân gian, khác với người Thái ở Tây Bắc goi
nhảy là múa “xòe”, người Thái nơi đây gọi các vũ điệu của mình là “xải”. Múa
theo cồng chiêng gọi là “xải cỏng”, múa quanh chum rượu cần gọi là “xải lau”,
múa dưới sân rộng gọi là “xải đang”…
Với điệu xải đang do khơng gian rộng nên có thể nhảy trong các cuộc
ném còn


16


Dân nhạc: Âm nhạc của người Thái ở Mường Ham là thứ âm nhạc dân
gian cổ truyền ngày nay vẫn cịn thơng dụng như: nhạc trong đám cưới, đám ma,
trong các trò vui hội hè, trong những ngày lễ tết… Nhạc cụ thường dùng là cồng
chiêng, trống và kèn.
Nhạc trong đám cưới chủ yếu là cồng, chiêng, trống và kèn - họ thường đánh
cồng là chủ yếu, dàn cồng có bốn chiếc (cồng mẹ, cồng chị, cồng em gái thứ và cồng
em gái ut được đánh số theo thứ tự 1 - 2 - 3 - 4), có hai cơ gái đánh cồng - mỗi cô
đánh hai cái theo thứ tự 1 - 3 - 2 - 4, một chàng trai đánh trống giữ nhịp.
Nhạc trong ngày tết, ngày lễ có cồng, chiêng, trống, kèn, đàn mơi, kèn
lá…Mỗi thứ được dùng tùy trường hợp cụ thể. Ban đầu người ta đánh cồng theo
nhịp 1 - 3 - 2 - 4, sau cuộc vui náo nhiệt hơn, tiếng trống nhanh dần thì tiếng
cồng chuyển sang nhịp 3 - 2 - 3 - 4; 4 - 2 - 3 - 1; 3- 4 - 2 - 4.
Nhạc trong đám ma thì nhạc cụ chủ yếu là cồng, gồm hai chiếc số 2 và số
3 và trống. Cồng số 1 treo phía đầu quan tài chỉ thỉnh thoảng đánh để báo cho
hồn người chết biết khi đọc bài cúng hoặc viếng tang.
 Văn hóa ứng xử.
Người Thái nơi đây ln có một lối ứng xử mang đậm tính nhân văn,
khơng chỉ riêng trong cộng đồng người Thái mà đối với cả những người khác
tộc cùng chung sống.
Đối với người đồng tộc: Họ đối đãi với nhau như anh em được sinh ra
cùng một mẹ. Dù ở bản nào, mường nào, dù là Tày Mường hay Tày Thanh mỗi
khi đến với nhau đều quý trọng nhau. Dù không hề quen biết nhưng lỡ đường xa
lỡ bước phải nghỉ lại ở bản nào đó thì đồng bào tiếp đón rất nhiệt tình, niềm nở;
nếu có thứ gì ngon thì đem ra đãi khách rồi soạn sửa nệm mới, chăn lành cho họ
nghỉ ngơi. Trong cộng đồng thường không xảy ra chuyện trộm cắp, đánh nhau…
nếu ai vi phạm sẽ bị xử theo luật tục bản mường. Vì thế mà xã hội nơi đây khá
bình yên, ít bị xáo trộn. Luật tục không thành văn nhưng tất cả mọi người đều tự


17


giác chấp hành nghiêm chỉnh, không ai dám làm trái. Sống trong một bản
mường, lúc bình thường ai cũng phải lo cái ăn, cái mặc, lo cho cuộc sống gia
đình nhưng khi gia đình nào xảy ra chuyện gì thì mọi người đều cùng nhau giúp
đỡ khơng hề tính tốn thiệt hơn, khi xong việc khơng ai địi nợ với gia đình
nhưng người ta vẫn nhận thức được đấy là “món nợ tình nghĩa” chỉ có thể trả
được bằng tình cảm chung sống trong cộng đồng.
Đối với người khác tộc: Đối với những người miền xuôi lên định cư hay
công tác, hay người dân tộc khác đến cùng sinh sống thì họ khơng phản đối hay
xa lánh mà ngược lại họ còn cưu mang, đùm bọc, nên rất nhiều người đã hịa
đồng cùng với bản người Thái
Cho đến hơm nay, những gia đình người Thái, Kinh, Thổ…có quan hệ thơng
gia, bạn bè hoặc kết nghĩa anh em đang cùng chung tay xây dựng bản mường ngày
càng tốt đẹp hơn. Những mối lương duyên này đã được khởi nguồn từ trong văn hóa
ứng xử của các dân tộc đang cùng chung sống trên mảnh đất Quỳ Hợp.
 Những phong tục tập quán.
Trong đời sống của người dân tộc Thái có rất nhiều những phong tục tập
quán, mỗi phong tục lại có những nét rất riêng mang đậm bản sắc văn hóa như:
sinh đẻ, cưới hỏi, ma chay, tục buộc vía buộc chỉ cổ tay, tục uống rượu cần, tục
tôn trọng người già.
Sinh đẻ: Người phụ nữ Thái khi mang thai họ được mọi người trong gia
đình rất quan tâm. Ngày xưa khi đến kỳ sinh nở, họ nhờ một bà đỡ có kinh
nghiệm đến đỡ đẻ giúp, trường hợp đẻ khó thì nhờ thầy mo cúng, làm vía. Sau
khi đẻ xong khoảng 5 đến 7 ngày, gia đình sẽ làm một mâm cơm cúng để làm lệ
ra cữ cho người sản phụ. Đứa bé đầy tháng thì được đặt tên và làm lễ “nhập họ”.
Người Thái ít khi đặt tên đẹp cho con cái vì theo quan niệm xưa nếu đặt tên đẹp
sẽ bị ma bắt và đứa trẻ sẽ bị chết yểu, cũng theo quan niệm đó nên họ khơng cho

trẻ mặc những quần áo có màu sặc sỡ và phải nhờ thầy mo cúng xin bùa phép

18


buộc chỉ cổ tay để trừ ma quỷ. Khi trẻ ốm đau cũng mời thầy mo về cúng ít chạy
chữa bằng thuốc thang.
Nhưng ngày nay, khi sinh đẻ họ đã biết ra trạm xá, bệnh viện hay như khi
ốm đau thì đã được khám bệnh uống thuốc. Tuy nhiên cũng có một số người vẫn
tin vào việc cúng bái chữa bệnh của thầy mo.
Cưới hỏi: Đồng bào người Thái nơi đây từ lâu đã tuân theo nguyên tắc
một vợ một chồng. Trước đây, việc nên vợ nên chồng là do đơi lứa đã tìm hiểu
nhau, đính ước nhưng do bố mẹ quyết định với sự đồng ý của hai họ. Tiêu chuẩn
chọn vợ chồng thường phải xứng với đẳng cấp của dịng họ, với địa vị của gia
đình, vì vậy trong hơn nhân có sự ngăn cách giữa người giàu với người nghèo.
Tục lệ cưới hỏi thông thường trải qua các bước sau: Khi trai gái yêu nhau
và được bố mẹ và hai họ đồng ý, nhà trai sẽ tiến hành lễ đi hỏi (lễ dạm vợ), tiếp
đến là lễ đi thăm, rồi lễ ăn hỏi, rồi đến lễ cưới (đám cưới được tổ chức tại hai nơi
nhà trai và nhà gái, tại nhà gái sẽ có tục rước rể, tục lễ tơ hồng và tục chuẩn bị
đưa dâu. Còn đám cưới tại nhà trai sẽ bao gồm có lễ mở cửa bản, tục cúng ma ở
nhà trai, tục chào họ hàng nhà trai và liên hoan); sau khi cưới phải làm lễ trả ơn
ông bà mối, tục trở dấu chân (giống như tục lại mặt của người kinh).
Ngoài ra cịn có tục cưới thay, cưới mua, cưới chạy, cướp vợ…
Tang ma: Việc tang ma về nhiều mặt, đó là một hiện tượng văn hóa
mang sắc thái riêng của một cộng đồng dân tộc. Dù phức tạp hay đơn giản, lạc
hậu hay văn minh thì đám ma nào cũng phản ánh những quan niệm về tơn giáo,
tín ngưỡng, phong tục…trong mối quan hệ giữa con người với con người, con
người với tâm linh của từng dân tộc.
Do coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, nên người Thái nơi đây khi trong gia
đình có tang ma thường tổ chức rất chu đáo - các lễ tục trong đám ma dựa trên

lòng tin về sự tồn tại của linh hồn sau khi chết, về sự tiếp tục đầu thai mãi mãi,

19


về sự cuối cùng linh hồn được hưởng sự thư thái, niềm hạnh phúc. Cuối cùng
với lòng tin này là sự quý trọng di hài của người mà hồn vừa lìa khỏi xác.
Tục tơn trọng người già: Như tồn cõi Việt Nam, các cộng đồng dân tộc
đều tôn trọng người già. Ở những bản người Thái nơi đây cũng vậy, họ coi già
làng là biểu tượng về sự trường thọ của bản mường, người già không chỉ được
tôn trọng trong gia đình mà ở khắp mọi nơi, có việc gì hệ trọng đề mang ra hỏi
người già, uống rượu thì người già được mời uống trước, săn được con thú thì
già làng cũng được phần chia… Và họ được con cháu làm “lễ cầu thọ”.
Tục buộc vía buộc chỉ cổ tay: mỗi khi họ có chuyện vui, chuyện buồn
như sinh con, cưới xin, ốm đau, phạt vạ hay có điều gì lo lắng…đều được làm lễ
buộc vía buộc chỉ cổ tay. Tục buộc vía buộc chỉ cổ tay là tín ngưỡng cầu sự bình
an, cầu an khang thịnh vượng, cầu sức khỏe, cầu sống lâu cho con người.
Tục uống rượu cần: Rượu cần không chỉ là phương tiện dùng để giao
tiếp một cách kính trọng, tế nhị, thắm đượm tình cảm mà cũng bình đẳng hồ hởi
giữa người với người trong họ hàng, trong xã hội mà còn thể hiện ý niệm, tấm
lòng đối với thế giới tâm linh. Trong xã hội người Thái, rượu cần không chỉ để
uống cho say, cho vui mà còn để tiếp cận với tổ tiên với các thần ở đất Then, với
các phi ở mường ngồi giao hịa với các vị khách, với người già, với chức sắc,
với những người thân trong bản, trong mường. Đặc biệt là giữa trai gái với nhau,
giữa cặp nọ với cặp kia, giữa lượt trước với lượt, hiệp này hiệp khác có tiếng
trống tiếng chiêng pha kèn, có sáo pi đua đẩy du dương thì cuộc rượu cần càng
vui nhộn càng kéo dài thời gian. Trong hoàn cảnh sống nơi núi rừng, đây là một
hình thức đãi nhau hợp với sinh hoạt để nghĩa tình trong bản mường được gắn
bó keo sơn, có xích mích gì thì cũng sẽ được hóa giải.
 Tín ngưỡng - ăn tết và lễ hội.

Tín ngưỡng: Về vũ trụ người Thái cho rằng có trời có đất. Mường trời là
nơi sau khi chết con người được lên mường trời và đứng đầu mường trời là vua

20


Then - là người có quyền quyết định cho hồn nào được lên mường trời và hồn
nào ở mường trời được trở lại trần gian để duy trì nịi giống của mình. Vì vậy,
tục cúng trâu trong đám ma của người Thái với ý nghĩa là nộp thuế cho Then Ná
- Then Ná là người được vua Then chỉ đạo cho hồn được đầu thai, hồn nào
khơng. Cịn ở mường Đất thì mỗi mường có đền thờ (thờ những người khai khẩn
đất đai, dựng bản dựng mường, những người đấu tranh bảo vệ bản mường…),
dưới đền “mường” mỗi bản có một cái miếu trong đó thờ ơng “thần áo” - vì theo
quan niệm mỗi bản có nhiều hồn: hồn rừng núi, hồn sơng suối, hồn đồng ruộng,
hồn dân bản…nhưng có một hồn chủ là người lập ra bản và ngời này được dân
bản gọi là “ông thần áo”.Trong mỗi gia đình có một bàn thờ tổ tiên (thờ ma
nhà), ma được thờ ở nửa gian nhà chính giữa.
Người Thái quan niệm rằng con người có tới 80 hồn, mỗi bộ phận trong
con người có một hồn vía mà hồn nằm ngay cái xoáy ở đỉnh đầu là hồn chủ, hồn
chủ là hồn có khả năng điều khiển các hồn khác.
Một tín ngưỡng dân gian nữa của người Thái là sự tơn sùng những người
có cơng với nước với dân nên họ đã lập những đền thờ để tưởng nhớ công ơn
của những người có cơng như: đền bản Chọong ở xã Châu Lý, Đền Ham ở xã
Châu Cường, Đền Bản Hốc ở xã Châu Đình, Đền Bản Lè và Đền Bản Phảy ở xã
Châu Quang…
Ăn tết: Với người dân tộc Thái, tết Nguyên Đán cũng là ngày tết cổ
truyền và cũng là lễ ăn cơm gạo mới của họ. Tết là ngày sum họp, thờ cúng,
nghỉ ngơi, vui chơi…Ai đi xa thì ngày áp tết cũng về với bản để chung vui cùng
gia đình, bản mường.
Lễ vật dâng lên tổ tiên thì có hai thứ khơng thể thiếu đó là xơi nếp và cá,

ngồi ra cịn có thêm các loại bánh: bánh chày, bánh sừng trâu, bánh rán…
Ngày 29 tháng Chạp, các họ đến cúng đền bản, mời tổ tiên về ăn tết. Đêm
30, sáng mồng một, mọi người khắc luống theo điệu truyền thống rộn rã khắp

21


mọi nhà, hịa với nó là tiếng chiêng, tiếng trống ầm vang. Các gia đình làm các
món ăn giành cho mâm cỗ cúng, cúng xong, mâm cỗ được đưa xuống để mọi
người cùng nhau ăn uống. rồi mở rượu cần, rượu vò cùng nhau uống và chúc
tụng vui vẻ. Tại các bãi đất rộng mọi người tập trung chơi đùa, tham gia những
trò chơi dân gian truyền thống, hát múa như: ném còn, tung cầu, nhảy sạp, hát
đối đáp theo các điệu lăm, xuối, nhn…một cách tình tứ và hứng khởi.
Ngồi ăn tết Ngun Đán đồng bào cịn ăn tết Đoan Ngọ mồng năm tháng
năm Âm lịch và ngày lễ Quốc Khánh mồng 2 tháng 9.
Hội lễ: Người Thái ở huyện Quỳ Hợp thường tổ chức những hội lễ như:
Hội “sấm ra”: Đầu xuân khi nghe tiếng sấm đầu tiên, mọi người tổ chức
lễ hội “sấm ra”. Trong lễ hội này đồng bào biện lễ đến cúng ở các đền miếu, rồi
tất cả mọi người cùng ra suối tắm - họ tắm cái nước coi như tinh khôi, trong mát
của đất trời để da dẻ hồng hào, con người được an khang. Lễ hội này được tổ
chức một ngày.
Hội “hoa nở”: Khi hoa Pắc Mạ nở đầy cành - người Thái mở hội vui
mừng cầu mong, hy vọng mùa màng sắp tới bội thu. Hội lễ thường tổ chức từ
ngày 15 đến 25 Âm lịch hằng năm
Lễ hội “Xăng khan”: thường tổ chức vào tháng 11 Âm lịch lúc lúa ruộng
và lúa nương đã gặt xong. Đây là lễ hội “khao binh đãi tướng” mà các thầy mo
có tài thường điều động, sai khiến khi làm bùa phép để trấn áp tà ma quỷ dữ,
đồng thời cũng là lễ tưởng nhớ công ơn tổ tiên đã bày nghề cho họ, các con ma
đã giúp việc trong quá trình hành nghề của mình.
Lễ hội Mường Ham: Là lễ hội dân gian truyền thống của đồng bào dân tộc

Thái - Đây là một lễ hội vô cùng quan trọng đối với tâm thức của đồng bào nơi
đây, nó được tổ chức thường niên vào đầu xn năm mới. Vì vậy tơi sẽ đi sâu
vào tìm hiểu và giới thiệu lễ hội này trong chương hai để chúng ta cùng hiểu
thêm về nó.

22


Chương 2.

DIỄN TRÌNH LỄ HỘI MƯỜNG HAM
2.1. Nguồn gốc Lễ hội Mường Ham.
Như đã giới thiệu ở phần “sự hình thành và tên gọi Mường Ham” trong
chương một chúng ta đã biết về địa danh Mường Ham. Ban đầu Mường Ham có
tên gọi là Mường Hám - theo phên âm tiếng Thái Mường Hám nghĩa là mường
khiêng, mường rước. Sau này khi tiếp xúc với các dân tộc khác cái tên Mường
Hám đã bị gọi chệch thành Mường Ham cho tới bây giờ. Ban đầu Mường Ham
chỉ có vài bản nhưng sau đó thấy thuận lợi lại có Tạo Nọi cai quản và có luật
bản, luật mường thì người Thái khắp nơi đã kéo đến dựng thành nhiều bản rồi
phát triển thành mường với nhiều vùng đất rộng lớn. Tạo Nọi lúc này không chỉ
là người dựng bản lập mường mà cịn là người đứng đầu về mặt hành chính,
đồng thời là một thủ lĩnh chỉ huy người Thái chống lại các thế lực xâm nhập từ
bên ngoài vào phá hoại (chủ yếu là đề phịng nhóm tàn qn của “giặc Xá”) . Từ
đó Tạo Nọi ra sức chăm lo cho dân bản mường ngày càng phát triển và tươi đẹp
và cũng khơng cịn ý định quay về mường lớn nữa.
Mường Ham được gọi là Mường Lớn - vì Mường Ham được thành lập
sớm nhất ở vùng này lúc bấy giờ. Từ đó đến nay, bà con người Thái ở Quỳ Hợp
mỗi khi nhắc đến Mường Ham đều gọi là Mường Tôn - tức là mường gốc,
mường đầu tiên của họ.
Sau khi Tạo Nọi qua đời, dân bản ở Mường Ham đã lập đền thờ ơng. Gìa

bản Lơ Văn Dần, 78 tuổi ở bản Mường Ham - xã Châu Cường - huyện Quỳ Hợp
cho biết “Hằng năm vào ngày mồng 3, mồng 4 tết, dân Mường Ham đều có một
mâm cơm đến cúng ông. Bà con người Thái ở các xã Châu Quang, Châu Lý,
Châu Thái khi đi lễ hội đều đến nhà thờ để cúng ông”. Song rất tiếc đền Ham
bây giờ chỉ cịn trong tâm tưởng vì trải qua những năm tháng chiến tranh đã bị

23


giặc tàn phá. Cho dù đền Ham khơng cịn nữa nhưng hình ảnh Tạo Nọi vẫn ln
được trân trọng, lưu giữ trong lòng bà con người Thái từ xưa cho đến bây giờ.
Trong câu chuyện với con cháu già bản Lương Văn Tần kể rằng: Cùng với
việc thờ cúng Tạo Nọi vào dịp tết Nguyên Đán hằng năm bà con người Thái cịn
có lễ thờ cúng Tạo Nọi vào ngày mồng 2 tháng 8 (Âm lịch). Buổi lễ được bắt đầu
từ khoảng tám giờ sáng, dân bản làm một chiếc lọng rất đẹp, rất trang trọng và uy
nghiêm cùng với mâm cỗ để đến đền thờ Tạo Nọi - mâm cỗ để cúng Tạo Nọi gồm
có một đĩa xơi, hai con gà luộc cùng với cá nướng và những gói mọc được làm
bằng thịt gà hoặc cá. Sau khi cúng xong, mọi người nâng bức tượng Tạo Nọi
được làm bằng một loại gỗ quý đặt vào lọng vàng, rồi cùng nhau rước linh hồn và
tượng Tạo Nọi về nhà một già bản có uy nhất đã được mọi người lựa chọn. Tượng
Tạo Nọi được đặt lên một chiếc chiếu trải rộng ở vị trí trang trọng nhất của ngơi
nhà sàn. Lọng vàng được đặt phía trước, cách tượng độ vài mét. Hai bên lọng
vàng là hai chum rượu vẫn còn bịt kín. Các mâm cơm của các gia đình đưa đến
cúng tạo Nọi được đặt hai bên và phía trước bức tượng (nhưng phải để bên ngoài
chiếc chiếu), mâm cơm này chỉ có hai thứ đó là xơi và các gói mọc, gia đình mình
có bao nhiêu người thì làm bấy nhiêu gói mọc. Bà con nói với nhau rằng: Đó là
những món ăn mà lúc cịn sống Tạo Nọi rất ưa thích.
Khi đã sắp đầy đủ lễ vật vào mâm cỗ thì thầy mo làm lễ cúng Tạo Nọi,
cúng xong, mọi người phân chia theo từng mâm (không phân biệt là mâm của
nhà nào), rồi cả bản cùng ăn và cùng nhớ về Tạo Nọi. Sau bữa cơm, mọi người

vẫn ở lại nhà già bản cùng nhau uống rượu cần, múa hát cho đến khoảng 5 giờ
chiều để chờ thầy mo mời Tạo Nọi dùng bữa tối. Sau đó mọi người lại cùng
nhau rước lọng vàng đưa tượng và linh hồn Tạo Nọi trở về đền thờ. Khi mọi
việc xong xi mọi người mới trở về nhà mình. Ai cũng thấy linh thiêng, xúc
động và rất tự hào. Họ cảm thấy Tạo Nọi luôn ở bên cạnh để phù hộ, che chở
cho mọi người được bình an, mạnh khỏe, giúp đỡ mọi người làm được nhiều

24


lúa, ngơ; ni được nhiều con trâu, con bị, con lợn, con gà… cho cuộc sống
ngày càng sung túc hơn.
Nhưng trải qua bao thăng trầm của thời gian, do chiến tranh tàn phá, giặc
giã đền Ham không những đã bị phá hủy mà nghi lễ linh thiêng này cũng khơng
cịn được như trước nữa.
Trong xã hội hiện nay, đời sống của người dân được nâng cao, họ không
chỉ quan tâm đến vật chất mà còn rất quan tâm đến vấn đề tinh thần - đặc biệt là
văn hóa tâm linh.
Từ những căn cứ lịch sử, thể theo nguyện vọng của bà con người Thái và
người dân huyện Quỳ Hợp nói chung cùng với đề nghị của UBND xã Châu
Cường, huyện Quỳ Hợp và Sở Văn hóa - Thơng tin (nay là Sở Văn hóa - Thể
thao và Du lịch) tỉnh Nghệ An đã quyết định khôi phục lại lễ hội Mường Ham
từ đầu xuân Bính Tuất 2006. Mới đầu lễ hội có tên gọi là “Lễ hội hang Pựn Pang
- Nang Ny” đến năn 2007 mới đổi tên thành “Lễ hội Mường Ham”. Từ đó đến
nay, hàng năm lễ hội Mường Ham đã được tổ chức vào ba ngày từ mồng 5 đến
mồng 7 tháng Giêng (Âm lịch).

2.2.

Công tác chuẩn bị.


Sau khi đồn khảo sát do bà Phan Thi Trí (phó chủ tịch huyện) làm trưởng
đồn kết luận: Đây là hang động lớn, có nhiều cảnh quan đẹp, gắn với một
huyền thoại nổi tiếng của đồng bào dân tộc Thái nơi đây cũng như gắn với một
thời kỳ lịch sử dựng bản lập mường, nó có cơ sở, có tiềm năng để quy hoạch, tổ
chức lễ hội và đầu tư, xây dựng thành điểm vui chơi, tham quan du lịch cho
nhân dân. Trên cơ sở tờ trình của UBND xã Châu Cường, Phịng Văn hóa Thơng tin đã có báo cáo đưa lên chủ tịch UBND huyện đề nghị cho phép xã
Châu Cường tổ chức “Lễ hội truyền thống hang Pựn Pang - Nang Ny” (sau này
đổi tên thành “lễ hội Mường Ham”). Vì vậy, ngày 26/12/2005 chủ tịch UBND
huyện đã có quyết định số 1260/QĐ - UBND cho phép xã Châu Cường tổ chức

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×