Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Dòng họ hà công ở mường khô và lễ hội chùa mèo tại làng muỗng do xã điền trung huyện bá thước tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.81 KB, 88 trang )

1
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
.......ooo......

Vũ thị hằng
Dòng họ hà công ở mờng khô và lễ hội chùa
mèo
Tại làng muỗng do xà điền trung huyện bá
thớc tỉnh thanh hóa
Chuyên ngành lịch sử việt nam
MÃ số : 60-22-54

Luận văn thạc sĩ lịch sử

Ngời hớng dẫn khoa học
Tiến sĩ : Trần văn thức

Vinh 2010


2

Lời cảm ơn
Tôi xin cảm ơn khoa sau Đại học, khoa Lịch sử, Th viện Trờng Đại học
Vinh, Trờng Đại học Hồng Đức, Trờng Trung học phổ thông Tô Hiến Thành, đÃ
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và làm luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Phòng nghiệp vụ Văn hóa Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Ban nghiên cứu và Biên soạn Lịch sư Thanh Hãa, Th viƯn khoa häc Tỉng
hỵp tØnh Thanh Hóa, Uỷ ban nhân dân xà Điền Trung, huyện Bá Thớc đà giúp
đỡ tôi trong quá trình su tầm và chỉnh lý t liệu.


Đặc biệt, tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Trần Văn Thức đà nhiệt tình hớng dẫn tôi
trong quá trình làm luận văn này.
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 10 năm 2010
Tác giả

Vũ Thị Hằng


3

Mục lục
Tran
g
Mở đầu.................................................................................................................
Chơng 1. khái quát vị trí địa lý, dân c và truyền thống lịch sử

1

huyện bá thớc trớc cách mang tháng tám năm 1945.

5
5
9
12
15
15
21

1.1. Vị trí địa lí - điều kiện tự nhiên huyện Bá Thớc.
1.2. Đặc điểm dân c, xà hội...

1.3. Truyền thống yêu nớc chống ngoại xâm.
Chơng 2. Dòng họ hà công ở mờng khô với di tích chùa mèo

2.1. Vài nét về vùng Mờng Khô huyện Bá Thớc
2.2. Nguồn gốc dòng họ Hà Công ở Mờng Khô
2.3. Di tích Chùa Mèo ở làng Muỗng Do xà Điền Trung, huyện Bá
Thớc, tỉnh Thanh Hoá...
Chơng 3: lễ hội Chùa Mèo..

3.1. Phần Lễ tại Chùa Mèo...
3.2. Phần Hội tại Chùa Mèo.
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục..

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

34
52
52
74
83
87
89


4
Thanh Hoá là tỉnh có ba phần t diện tích đồi núi và trung du, trên địa bàn
tỉnh có nhiều dân tộc chung sống lâu đời bao gồm: Kinh, Mờng, Dao, Mông

Khơ Mú, tổng số ngời dân tộc trong tỉnh là 615.091 ngời (12/2005).
Mỗi dân tộc có đặc trng riêng về bản sắc văn hoá, có phong tục tập quán
khác nhau, nhng đều có chung là tình yêu quê hơng đất nớc và lòng trung thành
với Cách mạng, các dân téc ë Thanh Hãa ®· cã nhiỊu ®ãng gãp cho sự nghiệp
xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay (2010) Thanh Hóa có gần 40 vạn ngời Mờng sống đan xen với
ngời Kinh, ngời Thái và các dân tộc khác. Vùng và đồi xứ Thanh là địa bàn c
trú chính của ngời Mờng. Cho tới năm 1945 ở Thanh Hóa còn tới 51 Mờng lớn
của ngời Mờng.
Trong quá trình lập Mờng và xây dựng bảo vệ Tổ quốc, dân tộc Mờng đÃ
có nhiều đóng góp tích cực làm nên truyền thống lịch sử vẻ vang cho dòng họ
và bản Mờng, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc. Trong đó phải kể đến dòng họ
Hà Công ở Mờng Khô huyện Bá Thớc tỉnh Thanh Hoá.
Do vậy tôi chọn đề tài : Dòng họ Hà Công và Lễ hội Chùa Mèo ở M ờng
Khô huyện Bá Thớc tỉnh Thanh Hoá làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học Lịch
sử của mình.
Nghiên cứu lịch sử lễ hội thờ các danh nhân là điều hết sức bổ ích và lý
thú. Thông qua đó chúng ta không những góp phần tôn vinh những ngời có
công với nớc, với làng, tìm hiểu những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của
các lễ hội, mà còn góp phần vào việc bảo tồn văn hoá phi vật thể dân tộc theo
tinh thần Luật di sản văn hoá của Quốc hội nớc Cộng hoà xà hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Cũng qua việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ góp
phần vào việc làm sáng tỏ thêm những đóng góp của dòng họ Hà Công ở Mờng
Khô trong quá trình lập mờng và bảo vệ đất nớc. Bên cạnh đó góp phần phục
dựng lại lễ hội Chùa Mèo để phát huy những giá trị văn hoá phi vật thể, tích cực
vào việc xây dựng đời sống văn hoá cơ sở hiện nay. Những kết qđa ®ã sÏ ®ãng


5

góp cho việc nghiên cứu biên soạn lịch sử địa phơng, nghiên cứu danh nhân, tộc
ngời và giáo dục truyền thống lịch sử văn hoá cho các thể hệ mai sau.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến thời điểm này (tháng 10 năm 2010 ) đà có nhiều công trình
nghiên cứu về ngời Mờng nói chung và văn hóa truyền thống Mờng nói riêng,
nhng cha có một công trình chuyên khảo về lễ hội cổ truyền của ngời Mờng.
Các ý kiến về lễ hội còn nhiều khác biệt.
Nghiên cứu về ngời Mờng và dòng họ Hà Công cũng nh di tích, lễ hội
Chùa Mèo đà đợc một số cơ quan chuyên môn, các nhà nghiên cứu trong tỉnh
Thanh Hóa đề cập đến nh:
Sách Kỷ yếu hội thảo khoa học Hà Văn Mao do UBND huyện Bá Thớc
xuất bản đà đề cập đến dòng họ Hà Công ở Mờng Khô, những đóng góp của
dòng họ Hà Công trong quá trình lập Mờng và chống ngoại xâm qua các triều
đại cho đến trớc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Báo cáo kết quả thực hiện đề tài Su tầm, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
bảo tồn, khôi phục và phát huy văn hoá phi vật thể ngời Mờng Thanh Hoá của Sở
Văn hóa thông tin Thanh Hóa thực hiện năm 2007 (lu hành nội bộ) đà đề cập tới
nguồn gốc, truyền thống lịch sử, văn hoá của ngời Mờng huyện Bá Thớc, đề cập
đến di tích Chùa Mèo thờ danh nhân dòng họ Hà Công.
Sách Lịch sử văn hoá tập 4 (1802 1930) của Ban nghiên cứu và Biên
soạn Lịch sử Thanh Hoá. ĐÃ đề cập đến vai trò của Hà Văn Mao trong phong
trào Cần Vơng ở miền núi Thanh Hóa.
Sách Danh nhân Thanh Hoá, tập 5 của Ban nghiên cứu và biên soạn lịch
sử Thanh Hóa, xuất bản năm 2008 đà đề cập đến danh nhân Hà Văn Mao.
Báo cáo kết quả khảo sát, nghiên cứu phục dựng lễ hội Mờng Khô dân
tộc Mờng, xà Điền Trung, huyện Bá Thớc, tỉnh Thanh Hoá của Sở Văn hoá thể
thao và du lịch Thanh Hóa, tháng 12/2009 đà đề cập đến sự hình thành làng
Muỗng Do, lịch sử di tích và lễ hội Chùa Mèo.
Một số các nhà nghiên cứu trong Tỉnh, nh: Hoàng Anh Nhân, Vơng Anh,
Cao Sơn Hải, Bùi Chí Hăng, Hà Nam Ning, Lê Xuân Kỳ, Phạm Thị Thi đà có



6
nhiều công trình và bài nghiên cứu về dòng họ Hà Công, về nhân vật Hà Công
Thái, Hà Văn Mao, Hà Triều Nguyệt.
Những công trình và những bài nghiên cứu trên đà đề cập một số vấn đề liên
quan đến đề tài mà tôi lựa chọn. Song cha có một công trình khảo tả thật đầy đủ và
chi tiết về nguồn gốc và những đóng góp của dòng họ Hà C«ng ë vïng Mêng Kh«
xa, cịng nh lƠ héi Chïa Mèo (từ phần lễ đến phần hội) trong tín ngỡng nhân nhân
Mờng Khô. Tuy nhiên với những nguồn t liệu đà có sẽ là cơ sở khoa học quan
trọng để giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
3. Nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Nhiệm vụ:
Luận văn nhằm giải quyết một số nội dung cơ bản sau:
- Làm sáng tỏ về quá trình hình thành vùng đất Mờng Khô và làng Muỗng
Do, xà Điền Trung, huyện Bá Thớc.
- Làm rõ nguồn gốc dòng họ Hà Công, cũng nh đóng góp của dòng họ
trong quá trình lập Mờng và chống giặc ngoại xâm.
- Ghi lại công trạng một số nhân vật tiêu biểu trong dòng học Hà Công,
có nhiều đóng góp trong các triều đại phong kiến đến trớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
- Tìm hiểu thêm về lịch sử chùa Mèo: Quá trình tu bổ tôn tạo qua các thời
kỳ và tình trạng hiện nay để góp phần vào việc tu bổ tôn tạo di tích.
- Khảo sát văn hóa truyền thống trong lễ hội, đề xuất bảo lu một số loại
hình văn hóa nghệ thuật tiêu biểu.
3.2. Đối tợng phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu dòng họ Hà Công, di tích và lễ hội chùa Mèo ở làng
Muỗng Do, huyện Bá Thớc. Đồng thời khảo sát nghiên cứu một số xà lân cận
có liên quan đến dòng họ Hà Công và tham gia lễ hội chùa Mèo.
4. Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu.

4.1. Nguồn t liệu
- Các tài liệu của các cơ quan nghiên cứu khoa học Trung ơng, các nhà
nghiên cứu trong tỉnh viết về ngời Mờng và văn hóa trun thèng cđa ngêi M-


7
ờng ở Thanh Hóa đợc lu trữ tại Th viện khoa học tổng hợp tỉnh Thanh Hóa,
phòng t liệu Ban nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa, phòng nghiệp vụ Sở văn hóa
Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, Ban dân téc tØnh Thanh Hãa …
- Tµi liƯu ghi theo lêi kể và kết quả điều tra khảo sát, su tập ghi chép lại ở
địa phơng trong thời gian thực hiện đề tài.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
ở đề tài này tôi sử dụng các phơng pháp nghiên cứu truyền thống, đặc biệt
quan trọng hơn cả là phơng pháp lịch sử và phơng pháp lôgíc. Kết hợp phơng
pháp đối chứng, so sánh, phơng pháp thống kê, tổng hợp các t liệu khác nhau để
xem xét quy mô của lễ hội và đóng góp của dòng họ Hà Công với các dòng họ
khác trong huyện Bá Thớc.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ về quá trình hình thành vùng đất, về nguồn gốc của
dòng họ Hà Công. Đóng góp của dòng họ Hà Công đối với quê hơng đất nớc.
- Dựng lại bức tranh lễ hội lịch sử chùa Mèo, góp phần tôn vinh danh nhân, bảo
tồn phát huy giá trị và một số loại hình văn hoá nghệ thuật phi vật thể đặc sắc.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chơng
Chơng 1: Khái quát vị trí địa lý, dân c và truyền thống lịch sử huyện Bá
Thớc.
Chơng 2:Dòng họ Hà Công ở Mờng Khô và di tích chùa Mèo
Chơng 3: Lễ hội chùa Mèo


Chơng 1
Khái quát vị trí địa lý, dân c và truyền thống lịch sử
huyện Bá Thớc trớc cách mạnh tháng tám năm 1945


8
1.1. Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên huyện Bá Thớc
Bá Thớc là huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa, cách tỉnh lỵ 108 km về phía Tây.
Phía Bắc giáp tỉnh Hòa Bình và huyện Thạch Thành
Phía Đông giáp huyện Cẩm Thuỷ
Phía Nam giáp huyện Lang Chánh và Ngọc Lặc
Phía Tây giáp huyện Quan Hóa và Quan Sơn
Diện tích tự nhiên: 763,77 ha. [11,9]
Dân số: 103.338 ngời [32,194] trong đó ngời Kinh là 5.525, ngời Thái là
22.785 [11,9], ngời Mờng là 46.436. [32, 194]
Huyện Bá Thớc đợc thành lập năm 1925 (Khải Định năm thứ 10). Xa đây
là vùng rừng núi đại ngàn, có dấu vết của ngời nguyên thuỷ.
Thời thuộc Hán là vùng đất thuộc huyện Vô Biên, rồi Cát Lung (thời thuộc
Tề), Trờng Lâm thời thuộc Đờng. Thời Lý là vùng đất thuộc huyện Đô Lung.
Thời Trần Hồ là vùng đất thuộc huyện Lỗi Giang. Thời thuộc Minh là phần
đất thuộc Lạc Thuỷ. Thời Lê Nguyễn, Bá Thớc là phần đất thuộc huyện Cẩm
Thuỷ, phủ Thiệu Thiên.
Đến đời Thành Thái, cắt 4 tổng: Cổ Lũng, Thiết ống, Sa Lung, Điền L
thuộc huyện Cẩm Thuỷ để ghép vào châu Lang Chánh và châu Quan Hoá.
Năm Khải Định thứ 10 (1925), lại cắt 4 tổng trên để lập ra châu Tân Hoá.
Châu Tân Hoá gồm 30 xà và 221 chòm. Năm 1943 chính quyền phong kiến
chia châu Tân Hoá thành 2 phần: phần phía Đông là Điền L và Sa Lung nhập
vào Cẩm Thuỷ; phần phía Tây là Cổ Lũng và Thiết ống thành một bang thuộc
châu Quan Hãa.
Sau th¸ng t¸m – 1945, bèn tỉng cị cđa châu Tân Hoá nhập lại vẫn lấy

tên là Châu Tân Hóa. Lỵ sở đóng ở La Hán (xà Ban Công). Tháng 10/1945 do
lấy tên Tân Hóa không phù hợp với mảnh đất với bề dày truyền thống này, nhân
dân châu Tân Hóa đề nghị tỉnh đổi là Bá Thớc để tởng nhớ thủ lĩnh Cầm Bá Thớc trong phong trào Cần Vơng chống Pháp cuối thế kỷ XIX.[10,9]


9
Tháng 11 năm 1945 UBHC tỉnh quyết định đổi tên là Châu Bá Thớc.
Tháng 3 năm 1948 thực hiện sắc lƯnh sè 148- SL cđa Chđ tÞch ChÝnh phđ níc
ViƯt Nam Dân chủ cộng hòa, đơn vị hành chính châu Bá Thớc đợc đổi sang cấp
hành chính huyện. Huyện Bá Thớc lúc đầu có 7 xÃ: Quốc Thành, Văn Nho,
Thiết ống, Hồ Điền, Quý Lơng, Long Vân, Ban Công.
Năm 1956 đà có quyết định chuyển xà Lũng Vân về Tân Lục tỉnh Hoà
Bình Đến ngày 2/4/1964, theo quyết định số 107/NV cđa Bé trëng Bé Néi vơ,
chia 5 x· cđa Huyện là Quý Lơng, Hồ Điền, Long Vân, Văn Nho và Quốc
Thành chia thành 18 xÃ, cũng trong năm 1964 chuyển Chòm Beo (xà Lơng
Trung), Chòm Dùng, Chòm Vốc (xà Điền L) về xà Cẩm Liên (huyện Cẩm
Thuỷ).
Ngày 2 tháng 9 năm 1965, Bộ trởng Bộ nội vụ ra quyết định thành lập xÃ
Tân Lập. Tháng 12 năm 1984 Hội đồng Bộ trởng ra quyết định chia xà Điền L
thành 2 xà là Điền L và Điền Trung. [10,10]
Bá Thớc là một huyện vùng giữa của các huyện miền núi trong tỉnh. Toàn
huyện có 23 xÃ, thị trấn trong đó: 10 xà vùng định canh định c, 13 xà vùng giữa
và vùng thấp. Qúa trình phân vùng định hớng sản xuất, đến nay toàn huyện đÃ
hình thành 5 tiểu vùng: vùng Quý Lơng, Hồ Điền, Long Vân, Quốc Thành và
vùng Mờng ống.
Huyện Bá Thớc có dân tộc Kinh, dân tộc Mờng, dân tộc Thái sống xen kẽ
với nhau.
Bá Thớc là một hợp điểm giao thông của khu vực Miền núi phía Tây Bắc
Xứ Thanh, có sông MÃ chảy qua xuyên suốt huyện với chiều dài 40 km chia
tách huyện Bá Thớc thành 2 lu vực với những đặc điểm hoàn toàn khác biệt.

Phía tả ngạn (bờ Bắc sông MÃ) là hệ thống núi đá vôi và rừng nguyên sinh tạo
nên khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông độc đáo và khu du lịch sinh thái vùng
Son - Bá - Mời cđa x· Lịng Cao, cơm Qc Thµnh vïng cao cđa hun B¸ Thíc.


10
Đối lập với bờ tả ngạn - Phía hữu ngạn (bờ Nam Sông MÃ) là vùng đồi
thoai thoải và vùng thung lũng ven sông MÃ mở ra nh lòng chảo, lại uốn lợn
theo thế sông, dáng núi thu hút hầu hết các dòng suối trong địa phận huyện Bá
Thớc. Những quả núi bạt ngàn nắng, gió là Đồi Lai Li Lai Láng, nơi gắn với
truyền thuyết về cây chu đá, lá chu đồng bông thau, quả thiếc, núi Mủng Mờng, Núi Bộc, Núi Mộng, Đồi Muốn là những dÃy núi trẻ bồi đắp cho các
thung lũng thêm phần xanh tơi, trù phú. Do đó, vùng thung lũng này tạo thành
các bồn địa Mờng Ký, Mờng ống, Mờng Dổi, Mờng Khô (thung lũng Kỳ Tân,
Văn Nho, Thiết ống, Điền Thợng, Điền Hạ, Điền Quang, Điền L) rất thích hợp
cho việc trồng cây lúa nớc và các loại cây màu.
Đất canh tác của Bá Thớc có 6.798 ha, trong đó đất trồng lúa là 3.786 ha
và đất trồng màu là 3.010ha [10,13]. Có các loại đất chính là: Đất nâu đỏ vàng
trên đá vôi trồng đợc ngô, lạc, đậu, luồng; loại đỏ vàng trên đất sét thích hợp với
cây công nghiệp dài ngày và cây lâm nghiệp; loại đỏ vàng biến đổi đà làm
thành các ruộng bậc thang trồng lúa từ lâu; loại đất đen (hiện nay cha đợc sử
dụng). Vì vậy nền kinh tế của Bá Thớc chủ yếu là kinh tế lâm nghiệp kết hợp
với nông nghiệp, chăn nuôi và các nghề phụ khác.
Trong sản xuất nông nghiệp, lúa vẫn là cây lơng thực chính. Với khí hậu
ôn đới mát lành, đồng bào tập trung trồng lúa nớc. Các cánh đồng màu mỡ ở
Lũng Cao, Lũng Niêm, Ban Công. đà tạo nên những sản phẩm nổi tiếng nh
Nếp đồng Cao, gạo thơm đồng Cốc. Ngoài việc trồng lúa, trên các thửa ruộng
bÃi, nơng rẫy, bà con còn trồng ngô, nhất là sắn, đó cũng là những cây lơng thực
quan trọng ở Bá Thớc.
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, việc khai thác tài nguyên rừng và trồng
rừng cũng sớm đợc phát triển. Với diện tích rừng rộng gấp nhiều lần diện tích

đất nông nghiệp, tài nguyên rừng phong phú, đồng bào ngoài việc khai thác gỗ,
củi, luồng, nứa đà chú ý đến trồng rừng. Trớc đây với những hình thức sản
xuất đơn giản, đồng bào đà trồng đợc luồng tập trung của tỉnh. Gỗ, luồng đà trở
thành hàng hóa, ngn thu nhËp chđ u cđa nh©n d©n.


11
Chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi theo gia đình, nhng là một nghề không
thể thiếu đợc trong nền kinh tế của huyện. Trớc đây chủ yếu là chăn nuôi:
Bò, Trâu, Ngựa, Lợn. Sau ngày có Đảng, đợc sự hớng dẫn cụ thể của các
cấp, chăn nuôi của huyện phát triển mạnh không những đại gia súc mà chăn
nuôi gia cầm cũng phát triển.
Đối với kinh tế thơng nghiệp ở Bá Thớc phát triển chậm hơn so với lâm
nghiệp và nông nghiệp. Trớc đây buôn bán chủ yếu là hình thức đổi hàng. Sau
này có sự giao lu kinh tế miền xuôi và miền núi đà hình thành các chợ và dần
dần thơng nghiệp mới phát triển.
Tóm lại, với vị trí địa lý của huyện đà hình thành những đặc thù kinh tế
riêng của mỗi vùng. Đồng bào đà đúc kết lại rằng:
Muốn ăn cơm ngon vào Mô, Má
Muốn ăn cá ra bến Khô, Ai
Muốn thịt hoÃng nai lên mờng Kỷ, ống [10,14]
Sau ngày Đảng bộ huyện đợc thành lập, dới dự lÃnh đạo của Đảng, nền
kinh tế của huyện đợc phục hồi từng bớc, cây lơng thực, trong đó cây lúa là
chính đà đợc huyện chú ý nhiều hơn. Song lúc này do trình độ canh tác của
nhân dân còn thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn lại thờng xuyên bị thiên tai đe dọa,
cho nên tình trạng sản xuất tự cấp tự túc trong các tầng lớp nhân dân vẫn chiếm
vị trí chủ đạo.
Tuyến đờng 217 nối các huyện đồng bằng đi Cẩm Thủy rồi qua địa phận
huyện Bá Thớc để ngợc cửa khẩu Quốc Tế Na Mèo và quốc lộ 15A nối liền từ
Ngọc Lặc, Lang Chánh lên hợp nhau tại Km số 0. Sông MÃ trở thành mạch máu

giao thông quang trọng về đờng thuỷ của huyện vùng cao Bá Thớc.
1.2. Đặc điểm dân c xà héi
Tõ nhiỊu thÕ kû tríc, ë B¸ Thíc chđ u có hai dân tộc là Thái và Mờng.
Trớc năm 1945 có 15 mờng, trong đó có 8 mờng lớn là : Khoòng, Khô, Lau,
Ký, Ôống, Ai, Điền, Khôông và 7 mờng nhỏ là Pa Khán, Dổi, Đào, Đèn, Rầm,
ấm, Chậm [10,15].


12
Ngời Mờng ở Bá Thớc có các dòng họ: Hà, Trơng, Phạm, Cao, Bùi,
Quách, Đinh. Ngời Thái có các dòng họ là: Lơng, Hà, Lò, Lục, Ngân, Lữ.
Ngời Kinh đến Bá Thớc trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lợc
Pháp (1945 - 1954), chủ yếu đồng bào các tỉnh khu Ba tản c, rồi những năm sau
hoà bình lập lại, dân c nhiều nơi về xây dựng lâm trờng Bá Thớc, đặc biệt những
năm 1963 1967 thực hiện cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên tham gia
xây dựng và phát triển kinh tế văn hoá miền núi, đến nay ba dân tộc Thái, Mờng, Kinh đà sống chung trong cộng đồng nh danh em ruột thịt.
Hiện tại ngêi Mêng sèng ë vïng thÊp däc theo thung lòng sông MÃ và địa
phận phía Đông, chỉ có một nhóm ngời Mờng Bi tự danh là Âu tá sống ở vùng
cao Thành Sơn, Lũng Cao. Ngời Mờng Bá Thớc thuộc nhóm Mờng trong (tức
mờng Thanh Hóa), có đặc điểm riêng về tiếng nói, ăn mặc, phong tục tập quán.
Mờng Ai, Mờng Ôống là những địa danh xuất hiện từ rất sớm, có tên trong
truyền thuyết Mờng và Thái. Mờng Ôống (tức mờng quê ngoại) và Mờng Ai
(tức mờng quê nội) đợc coi là quê gốc của Mờng Trong. Ngời Mờng đà định c
với nghề làm lúa nớc lâu đời.
Nơi trũng làm ruộng
Nơi bằng làm nơng
Nơi sờn dốc làm nhà mà ở
Trong các nghề thủ công nổi lên nhất là nghề trồng dâu dệt thổ cẩm trong
các bản mờng. Đầu váy của ngời Mờng Bá Thớc đợc dệt hoa văn tinh vi theo
hoạ tiết của mình. Việc ăn mặc, trang điểm đà làm cho phụ nữ Mờng Bá Thớc

thon thả, dịu dàng. Nét nổi bật của tính cách cộng đồng ngời Mờng Bá Thớc là
cởi mở, khoáng đạt, trong sáng, thuỷ chung, khiêm tốn. Nổi bật của văn hóa dân
gian Mờng Bá Thớc là hát xờng và truyện thơ Nàng ờm có xuất xứ ở địa phơng và lễ hội chùa Mèo.
Ngời Thái nh anh em sinh đôi cùng với ngời Mờng. Ngời Thái Bá Thớc
nằm trong cộng đồng Thái sông MÃ Thanh Hóa mà các học giả phơng Tây gọi
là Thái Đỏ. Ngời Thái dựng bản, khai ruộng làm rẫy ở đây từ rất lâu đời. Họ từ


13
Mờng Khoòng, Lau, Ký, phát tán đi nhiều nơi nh Mờng ét, Xiềng Khọ, Mờng
Xôi (ở Lào), các huyện lân cận nh Lang Chánh, Thờng Xuân đến tận Phủ Quỳ,
Tơng D¬ng (tØnh NghƯ An)… Mèi quan hƯ giao l u rộng rÃi là một nét tiêu biểu
của ngời Thái Bá Thớc. Đồng bào Thái ngoài những kinh nghiệm làm lúa nớc
còn có kỹ thuật làm ruộng bậc thang, bắc máng, làm guồng đạt đến trình độ kỹ
thuật hoàn hảo.
Ngời Kinh ®Õn sinh sèng ë B¸ Thíc, hä ®· ®ãng vai trò tích cực trong việc
cung cấp nông cụ và hàng hoá và phục vụ đời sống của tất cả mọi ngời. Ngay từ
khi mới đến Bá Thớc, ngời Kinh đà có mối quan hệ gần gũi, gắn bó, chan hòa
với các dân tộc.
Ngoài ra còn có một số ít ngời Hoa và một số dân tộc khác sống xen c.
Là nơi sinh tụ của nhiều dân tộc, nhng dù từ đâu tới, những ngời dân sống
ở đất Bá Thớc vẫn một lòng thuỷ chung đoàn kết. Qua hàng mấy thế kỷ bền bỉ
gắn bó, đồng bào các dân tộc đà giao lu kinh tế văn hoá, bổ sung, tiếp nhận
của nhau một cách tự giác, hài hoà. Đó là con đờng duy nhất để đa các dân tộc
trong huyện tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Về mặt quan hệ xà hội, trong thời kỳ Pháp thuộc thực dân Pháp duy trì ở đây
hai hình thức bóc lột là: Thực dân phong kiến và thổ ty lang đạo. Nhân dân trong
huyện không những chịu sự thống trị của thực dân và chính quyền phong kiến mà
đối với đồng bào dân tộc nơi đây, sự thống trị của nhà lang, của thổ ty trong các
chòm, bản còn tàn ác hơn nhiều.

Vì thế trớc Cách mạng tháng Tám, tình hình chính trị trong mỗi tầng lớp
trong xà hội Bá Thớc có biểu hiƯn sù ph©n hãa cơ thĨ.
Mét sè thỉ ty, lang đạo đợc thực dân Pháp nâng đỡ đà trở thành những
chúa sơn lâm. Họ tuyên bố: Khi còn nhỏ là con mẹ, con cha, Đến lúc lớn cả là
con lang, con đạo. Tất cả ruộng đất, núi rừng, sông, suối, tài sản trên nhà, dới
sân, trâu to, bò, lợn béo, gơm gài, súng tốt, xanh, nồi to đều thuộc quyền quản
lý của nhà lang. Nhà ai có con gái lớn gả chồng bắt phải nộp cho nhà lang 1 con
bò, 1 xanh 6, 1 khênh gạo ngon khoảng 30kg [10,18]. Tầng lớp địa chủ, phú nông


14
đại bộ phận đều nằm trong bọn thổ ty lang đạo đang nắm giữ chức vụ chánh
tổng, lý trởng, hơng kiểm Hàng năm chúng bắt mỗi làng phải làm cho các
quan khoảng 3 ha rẫy. Nông dân muốn làm rẫy phải có những khoản cống nạp
hết sức nặng nề. Đi ®«i víi viƯc tËp trung rng ®Êt, bän thỉ ty, lang đạo độc
quyền khai thác lâm thổ sản và săn bắt thú. Những ngời dân ở các chòm bản
không may động đến bất cứ cái gì đều phải nộp vạ cho làng, cho lang rất nặng.
Do vậy, mâu thuẫn giữa ông dan và thổ ty, lang đạo, địa chủ, phú nông ngày
một gay gắt. Mặt khác nhiều địa chủ nhỏ do bị địa chủ lớn kìm hÃm nên cũng
rất căm ghét thực dân phong kiến, sẵn sàng đi theo Cách mạng.
Các tầng lớp nhân dân lao động, nền kinh tế ở Bá Thớc trớc Cách mạng
tháng Tám, thậm chí đến sau hòa bình lập lại (1945) vẫn nằm trong tình
trạng lệ thuộc thiên nhiên, nghèo nàn và lạc hậu. Cũng nh nhiều miền quê
khác trên đất nớc Việt Nam, ngời nông dân Bá Thớc vốn có truyền thống cần
cù trong lao động, đoàn kết trong đấu tranh. Trong những thập kỷ sống dới
ách cai trị của thực dân, phong kiến họ vô cùng cực khổ. Họ vừa phải đọ sức
quyết liệt với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa phải làm việc cực nhọc, lại bị
đánh đập tàn nhẫn, đói rét và bị đối xử khinh bỉ. Do đó, mâu thuẫn giữa các
tầng lớp nhân dân lao động chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến và
bọn lang đạo càng trở nên sâu sắc. Chính vì thế khi đợc Đảng Cộng sản giác

ngộ Cách mạng, giai cấp nông dân bá Thớc là lực lợng hùng hậu nhất trong
các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm cũng nh chống thiên tai khắc
nghiệt.
1.3. Truyền thống yêu nớc chống ngoại xâm
Lịch sử dân téc ViƯt Nam tõ thêi dùng níc tíi nay lµ lịch sử của một dân
tộc anh hùng, không ngừng chiến đấu kiên cờng, chinh phục thiên nhiên, chiến
thắng mọi kẻ thù để tồn tại và phát triển. Cùng với cả dân tộc, huyện Bá Thớc
vừa xây dựng cuộc sống vừa liên tục đấu tranh chống lại kẻ thù để gìn giữ mảnh
đất thân yêu do mình tạo dựng nên.


15
Tõ thÕ kû thø X, qua sù tÝch chiÕc ngai vàng bằng đá của vua Xăm, chúa
Xèo (xà Điền Hạ) và các đồ dùng tìm thấy đợc trong các gia đình còn in rõ các
hoa văn trang trí thời Lý - Trần - Hồ đà khẳng định sự gắn bó của cộng đồng
các dân tộc với Tổ quốc Việt Nam từ rất lâu đời.
Đến thế kỷ XV, sau khi hội tụ những ngời tài giỏi trong cả nớc tại Khả
lam (Lam Sơn ngày nay), năm 1420, Nguyễn TrÃi dâng Bình Ngô sách ở trại
ba Lẫm (vùng Chiềng Lẫm, xà Điền L), Bình Định Vơng Lê Lợi chiến đấu ở
Thanh Hóa 6 năm, các trận đánh lớn, trong đó có trận Ba Lẫm, Kình Động
(Vùng Cổ Lũng) và Đèo úng (Thiết ống), đồng bào các dân tộc tham gia khởi
nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn rất đông, trận Kình Động, quân địch có tới 10
vạn nhng vẫn bị quân ta đánh cho hồn bay phách lạc. Tên của các vị khai
quốc công thần nhà Lê nh Lê Sát, Lê Ba, Lê Sa Lôi, Lê Sa Lung đợc nhân dân
tôn trọng đặt tên cho các bản để ghi nhớ công ơn các vị. Một số hào trởng ở Mờng Khô, Mờng Lau, Mờng Khoòng đà đợc triều đình phong thởng công trạng
nh Hà Thọ Lộc, Hà Lân đợc phong chức thái úy đời Lê và Hà Công Thái đợc
phong đến quận công đời Nguyễn.
Khi thực dân Pháp đàn áp đợc cuộc khởi nghĩa Ba Đình ( Nga Sơn ),
chúng bắt đầu tấn công lên miền Tây Thanh Hóa (1887). Hởng ứng chiếu Cần
Vơng, cai tổng Điền L là Hà Văn Mao có chí yêu nớc đợc hội đồng tớng lĩnh dới sự chủ toạ của Trần Xuân Soạn giao cho chøc vơ tỉng chØ huy nghÜa qu©n

miỊn nói thc lu vực sông mÃ. Hà Văn Mao ra sức liên kết, xây dựng lực lợng
từ Mờng Khoòng đến MÃ Cao - Eo Lê, phối hợp với Đinh Công Tráng, Cầm Bá
Thớc để phân tán lực lợng địch, gây cho chúng những tổn thất nặng nề. Khi Mờng Khoòng bị rơi vào tay giặc, Hà Văn Mao uất khí tự vẫn, để lại tấm gơng
yêu nớc Thà chết không chịu khuất phục quân thù. Tiếp tục cuộc chiến đấu,
cai Nho (tức Hà Văn Nho ở tổng Thiết ống) lại dấy binh, phối hợp với nghĩa
quân Cầm Bá Thớc, năm 1891 cai Nho cử ngời đi đón Tống Duy Tân về đóng
tại thôn Nhân Kỷ, đà đánh tan 1 trung đoàn địch do Penơcanh chỉ huy tại đầm
Ma Háng (xà văn Nho ngày nay). Cuối cùng do cha có một đờng lối cách mạng


16
đúng nên các cuộc khởi nghĩa ở giai đoạn này đều bị thực dân Pháp dìm trong
biển máu. Hà Văn Nho chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ Tống Duy
Tân, lÃnh tụ phong trào Cần Vơng của Thanh Hóa tại Hang Dong (xà Thiết
ống) [10,21].
Ngày 3 tháng 2 năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập. Ngay từ
khi mới ra đời, Đảng ta đà chỉ rõ: Lực l ợng tranh đấu của các dân tộc thiểu
số là một lực lợng rất lớn Phải nỗ lực tổ chức quần chúng lao động các dân
tộc ấy vào Đảng, Công hội, Nông hội, Phản đế liên minh Cần tổ chức và chỉ
đạo công nông và các tầng lớp lao động khác trong các dân tộc thiểu số bênh
vực quyền lợi hàng ngày của họ. Kịch liệt chống các sách lợc áp bức và bóc lột
của đế quốc, vua quan, các bọn lÃnh tụ và bọn tù trởng, các quan lang, lý hào
trong các dân tộc thiểu số với những nhiệm vụ Cách mạng phản đế và điền địa
Đông Dơng [10,22]
Những t tởng Cách mạng của Đảng đợc truyền bá đến các tầng lớp nhân
dân lao động ở trong huyện, thức tỉnh tinh thần dân tộc, ý thức giai cấp của đại
đa số quần chúng đang rên xiết dới ách thống trị của đế quốc phong kiến. Nhân
dân các dân tộc Thái, Mờng đà đấu tranh bằng các hình thức:
- Làm đơn kiện nhà Lang, buộc nhà Lang phải chia ruộng đất cho dân, tố
cáo tham nhũng, bắt tri châu phải từ chức.

- Không đợc bắt ngời đi phiên hầu, phục dịch nhà Lang.
- Đợc tổ chức các hội nh Hội Nhà phe , Hội bạn
- Đợc rớc thầy về dạy học
Đến trớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, nơi đây tuy không có phong
trào Cách mạng mang tính nhân dân rộng lớn, song lẻ tẻ vẫn có những cuộc đấu
tranh tự phát của những ngời yêu nớc nh cuộc chống thuế ở Mờng Ký do bà Giọ
(cháu Cầm Bá Thớc) khởi xớng. Cuộc ®Êu tranh chèng ®i phu do «ng Cai tỉng
ThiÕt èng Hà Văn Quay chỉ huy. Tổ chức Hội kín do Hµ TriỊu Ngut (con trai


17
Hà Văn Mao) cầm đầu đà làm cho kẻ thù hoang mang, lo sợ góp phần thuận
lợi cho cuộc giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám ở huyện nhà.
Từ một vùng đất có điều kiện thiên nhiên phong phú đa dạng, giàu tiềm
năng về kinh tế, có vị thế chiến lợc quan trọng của huyện miền Tây Thanh Hóa
và có một cộng đồng dân c đa dân tộc xuất hiện, ổn định và đoàn kết gắn bó
trong cộng đồng dân tộc của Tổ quốc Việt Nam yêu quý. Trải qua hàng ngàn
năm lịch sử, nhân dân các dân tộc Bá Thớc bằng bàn tay lao động và óc sáng
tạo của mình trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên cùng xà hội để sinh tồn
và phát triển, cũng nh trong cuộc chiến đấu chống ngoại bang xâm lợc để bảo
vệ quê hơng. Qua cuộc chiến đấu trờng kỳ gian khổ và dũng cảm ấy, lớp lớp
cha anh trong huyện đà hun đúc nên những truyền thống lịch sử tốt đẹp. Đó là:
Cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, đoàn kết trong cộng đồng dân c và
truyền thống yêu nớc chống ngoại xâm Những nét đặc trng và những yếu tố
hòa đồng ấy đà tạo nên một diện mạo Bá Thớc trong trang sử vàng của dân tộc
Việt Nam anh hïng.


18
Chơng 2

Dòng họ Hà công ở mờng khô với di tích chùa mèo
2.1. Vài nét về vùng Mờng Khô huyện Bá Thớc.
Nền văn hoá Mờng có thể không bắt nguồn từ văn minh Đông Sơn, nhng
hẳn có một Lịch sử lâu dài, minh chứng là chế độ tù trởng đà ra đời và tồn tại
trong các thung lũng núi Mờng... Chế độ tù trởng của xà hội Mờng không phân
thành giai cÊp, dï ranh giíi giai cÊp cã phÇn mê nhạt không rõ ràng nh ở nông
thôn Việt Nam mà thành hai tầng lớp khép kín, không chuyển hoá lẫn nhau về
mặt con ngời. Trong xà hội Mờng nhà Lang tập hợp thành những tông tộc phụ
hệ chiếm lĩnh một Mờng. Mỗi tông tộc nhà Lang tự phân biệt với các tông tộc
khác không chỉ bằng Mờng họ chiếm lĩnh mà còn bằng một tộc danh riêng.
Xa kia Lang Cun đứng đầu một dòng tộc Mờng có của cải và qun lùc rÊt
lín. Lang Cun gièng nh Trëng téc, Trëng họ ngời Việt, Lang Đạo là con thứ đợc Lang Cun chia đất, chia Mờng, chia dân.
Một số dòng họ Lang đạo nổi tiếng ở vùng Mờng là dòng họ Hà, Phạm,
Trơng, Công, Cao, Quách, Nguyễn Đình.
Lang đạo là ngời đầu Mờng đảm bảo trật tự trong vùng quản lý việc khai
phá các vùng đất hoang, lập nên làng xóm và tạo nên hệ thống mơng bai, dẫn
thuỷ nhập điền. Họ là những thủ lĩnh quân sự điều khiển binh Mờng chống
xâm lăng, có ý thức quốc gia Việt Nam rõ ràng. Rất nhiều lang đạo tham gia
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi. Ngay cả Lê Lợi cũng đợc dân trong vùng
gọi là Đạo Tram. Lê Lai và nhiều tớng lĩnh của khởi nghĩa Lam Sơn xuất thân
từ Lang Đạo. Phong trào Cần Vơng cuối thế kỷ XIX đợc các Lang đạo hởng
ứng tích cực. Hà Văn Mao một lang đạo ở Mờng Khô (Bá Thớc) trở thành một
trong những lÃnh tụ của nghĩa quân. Nhiều lang đạo ở vùng Mờng đà tích cực
tham gia các cuộc khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở địa phơng
và đi theo cách mạng đến trọn đời và có nhiều công lao trong việc dìu dắt đồng
bào thợng du.


19
Tuy nhiên, ở một số vùng Mờng chế độ lang đạo rất hà khắc, nhân dân có

nhiều hình thức đấu tranh để chống lại nh ở các Mờng Đẹ (Thạch Thành) Mờng
Phấm (Cẩm Thuỷ), Mờng Chẹ (Ngọc Lặc), Mờng Khô (Bá Thớc) cho đến năm
1946 thì chế độ Lang đạo bị xoá bỏ.
Tổ chức xà hội tộc ngời Mờng vận hành dựa trên thiết chế đặc biệt đối với
các Mờng.
Mờng là một tổ chức xà hội tập hợp nhiều làng trên một lÃnh thổ nhất định
và có thành phần dân c thuần nhất hoặc không thuần nhất. Các Mờng của ngời Mờng trớc đây có thể phân chia thành hai loại: Mờng lỡ (tơng đơng với châu
huyện), Mờng nhỏ (tơng đơng với tổng xÃ).
Mờng là một cơ cấu tổ chức có chức năng chính quyền. Mờng có vùng đất
riêng với ranh giới rõ ràng và vùng đất có tên là đất Mờng. Mờng của ngời Mờng có các đơn vị cơ sở là các chòm (ngời phụ trách gọi là quan lang xà chòm) là
cơ sở trung gian thay lang đôn đốc công việc trong Mờng. Ngoài ra trong hệ
thống Mờng còn có một chòm chèo (hay làng chèo). Thờng thì một Mờng có từ 4
- 5 chòm chèo trở lên. Chòm chèo có nhiệm vụ trông coi công phục vụ việc vặt
cho nhà Lang. Trong Mờng còn có hệ thống ông Mo, ông ậu, bà máy làm nhiệm
vụ cúng ma, chữa bệnh, ông mối (ngời mai mối cho con trai, con gái thành vợ
chồng) họ đều đợc nhà Lang chia ruộng.
Bộ máy quản lý Mờng là tầng lớp thổ ty lang đạo. Trong Mờng đất đai, đồ
núi, sản vật, khe suối... đều là của nhà lang, sau khi đà chia phần đất đai tài sản
cho các quan lang, anh em thân cận nhà Lang, số đất còn lại ít ỏi đó mới đem
chia cho dân Mờng. Hầu hết ngời trong Mờng phải làm ruộng cho nhà Lang thu
hoạch. Khi săn đợc thú lớn (từ nai trở lên) phải biếu cố Mờng (bố ông Mờng)
một đùi sau và một mâm đầy đủ các bộ phận của con vật. Khi gả con gái đi lấy
chồng phải có quà biếu quan lang xà chòm.
Hệ thống tự quản Mờng tồn tại lâu dài trong Lịch sử. MÃi đến đời nhà
Nguyễn triều đình phong kiến Trung ơng mới can thiệp sâu về mặt hành chính
vào các vùng đồng bào thiểu số miền núi, đặt các chức lu quan cho từng châu,


20
bắt đầu sự quản lý của triều đình thông qua những quan lại ở ngời Kinh ở hầu

khắp các vùng, ở các cấp dới Mờng hình thành nên các đơn vị nh sắc hay ngũ,
các chức vụ hành chính trong bộ máy Mờng đổi thành tên gọi kỳ mục hình
thành nên đơn vị hành chính cấp xà do lý trởng đứng đầu với ngời giúp việc là
phó lý.
Hai huyện Thạch Thành và Cẩm Thuỷ có chế độ lu quan thời Minh Mạng
còn các huyện khác thì muộn hơn.
Khi thực dân Pháp thống trị nớc ta về cơ bản ngời Pháp vẫn duy trì thiết
chế hành chính mang tính tộc ngời của, ngời Mờng là các châu Mờng các chức
dịch các cấp ở Châu Mờng dần dần trở thành công chức Nhà nớc.
Từ năm 1945 trở lại đây hệ thống quản lý Mờng đà bị giải thể thay bằng
hệ thống quản lý xÃ, huyện thống nhất trên phạm vị toàn quốc. Từ đó dù không
tồn tại một cách chính thức nhng các đặc trng, các lề thói quản lý, các giá trị
văn hoá của thiết chế Mờng vẫn tồn tại trong hƯ thèng míi x·, hun.
Mêng Kh« xa kia nay thc các xà Điền Quang, Điền L, Điền Trung
huyện Bá Thớc, tỉnh Thanh Hóa.
Vùng đất Mờng Khô xa cũng chính là nơi sinh cơ lập nghiệp của gia tộc
họ Hà Công là một dòng họ lớn, có uy tín và thế mạnh tại Mờng Khô. Một
trong những ngời nổi tiếng của Gia tộc Họ Hà (những công thần thời Lê, thời
Nguyễn) nh: Hà Công Ngôn, Hà Công Ngoan, Hà Công Kinh, Hà Công Thái,
Hà Công Cơ, Hà Công Ten, Hà Công Chấn, Hà Văn Mao, Hà Triều Nguyệt.
Đặc biệt, trong đó có Hà Công Thái Quận công thời Nguyễn và hậu dụê
của ông là Hà Văn Mao và Hà Triều Nguyệt, Một trong những thủ lĩnh trong
phong trào Cần Vơng chống Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Tộc ngời Mờng chiếm đa số, chỉ có Mờng Khòng, Mờng Lau và Mờng Kỷ
là thuộc tộc ngời Thái. Các tộc ngời Mờng sống tập trung ở vùng có các con
sông suối chảy qua, địa hình tơng đối bằng phẳng. Tộc ngời Thái sống chủ yếu
ở vùng núi cao, phía tây của huyện nh khu vực Pù Luông và Kỳ Tân ngµy nay.


21

Mờng Khô hiện nay bao gồm các xÃ: Điền Quang, Điền L và Điền Trung,
gồm có 39 làng, nhìn chung các làng đều có điều kiện tự nhiên thuận lợi, kinh
tế xà hội phát triển, giao thông đi lại dễ dàng.
Từ khi đất nớc ta giành độc lập, đi lên xây dựng chủ nghĩa xà hội, nhân
dân các dân tộc ở Mờng Khô cũng là nơi đi đầu các phong trào: Hợp tác xà hợp
nhất Hồ Quang nêu gơng điển hình tiên tiến và phát triển. Hợp tác xà nông lâm
Điền L đà một thời nổi tiếng, sánh ngang với phong trào định công lúc bấy giờ.
Mờng Khô có truyền thống anh dũng bất khuất, trong đấu tranh chống ngoại
xâm cần cù sáng tạo trong lao động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1972 cán bộ
và nhân dân Mờng Khô đà đợc Đảng và Nhà nớc ta chọn làm địa điểm tổ chức Hội
nghị văn hóa toàn quốc họp tại làng Cò Trúc, xà Điền Trung ngày nay. Trong phong
trào: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Mờng Khô đà khai trơng xây
dựng đợc 26 làng văn hoá, 8 cơ quan trờng học, đà đợc các cấp công nhận danh hiệu
làng văn hoá: cấp tỉnh 3 đơn vị, cấp huyện 13 đơn vị , 2 xà Điền Trung và Điền Quang
đà khai trơng xây dựng xà văn hóa [26,261]. Đây là sự nỗ lực và quyết tâm lớn của
cán bộ và nhân dân các xà Mờng Khô hôm nay.
Quê hơng Mờng Khô đà có bề dày lịch sử. Văn hóa truyền thống Mờng
Khô cũng đà đợc phát triển đa dạng, phong phú cùng với các Mờng khác trong
huyện Bá Thớc. Song văn hóa truyền thống Mờng Khô có những nét riêng, độc
đáo mà các Mờng khác không có, đó là: múa hát chèo ma (trong đám tang
của ngời Mờng Khô, các trò diễn thể hiện và tái hiện lại cuốc sống lao động
sản xuất, sự thợng võ của các dân tộc, mang đậm nét văn hóa tâm linh của ngời Mờng xa. Các trò diễn và hát nh: Đáng trống vông, múa kiếm, múa gậy
chèo, hát chèo, đáng then, diễn tả sự tích một ông hai bà).
Văn hoá truyền thống Mờng Khô là nơi khơi nguồn, là gốc của văn hoá
Việt Mờng, các thầy cúng giỏi nhất, có uy tín nhất, có trình độ nhất, tập trung ở
Mờng Khô và Mờng Ai, sử thi đẻ đất đẻ nớc các câu chuyện cổ tích, truyền
thuyết nh trun: “Nµng êm”, trun “ Nµng Nga Hai Mèi”, trun “Nµng ót


22

lót, truyện Ông Thu Tha Thu Thiên đợc truyền tụng qua nhiều thế hệ ở Mờng
Khô, Mờng Ai và các mờng lân cận.
Đặc biệt Sử thi, các câu chuyện cổ tích, các sự tích đều đợc truyền miệng
và bằng vần thơ, ca mang đậm bản sắc ngời Mờng. Chỉ có thầy cúng, thầy mo
mới nhớ và đợc thể hiện qua các đám làm vía, mo kéo khi có ngời già cả, các
đám ma của ngời Mờng. Các thầy cúng trớc kia cũng nh hiện nay họ chính là
ngời bảo lu, giữ gìn những nét văn hóa truyền thống lại qua các thế hệ mai sau.
Với truyền thống đấu tranh, xây dựng vẻ vang của ngời Mờng Khô cũng
nh những giá trị văn hóa giàu bản sắc đó. Hôm nay chúng ta có dịp nhìn lại thực
trạng văn hoá Mờng Khô trong việc xây dựng đời sống văn hoá cơ sở.
Mờng Khô hiện nay bao gồm các xà Điền L, Điền Quang, Điền Trung.
XÃ Điền L xa thuộc tông Điền L, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
có tên là Xà Hồ Điền. Năm 1964 chia xà Hồ Điền thành 4 xà theo quyết định số
107- NV của Bộ trởng Bộ nội vụ ngày 2 tháng 4 năm 1964, gồm Điền L, Điền
Quang, Điền Thợng, Điền Hạ (theo quyết định số 107-NV cđa Bé trëng bé néi
vơ). Sau khi chia x· Điền L thành 16 chòm: Don Đặc, Rè Bát, Giát, Rầm Tám,
Cồ Vàn, Kéo, Mờng Do, Chiềng LÃm, Giềng Vơ, Trúc, Xong Chót, Triu, Ngán
Xịa, Cộc và Điền L.
Đến năm 1984 chia xà Điền L thành 2 xà Điền L và Điền Trung (theo
quyết định số 163 HĐBT của Hội đồng bộ trởng ngày 14 tháng 12 năm
1984). Sau khi chia xà Điền L gồm có 9 chòm: Chót, Xi, Vỏ, Chiềng, Triu, Đắc,
Điền Lý (Zon), Điền Giảng (bát) và Chòm Song.
XÃ Điền L hiện nay gồm có các chòm sau: Chiềng LÃm. Trên Cao, Zon
(Điền Lý), Bát (Điền Giảng), Chòm Riềng, chòm Vỏ, Cong Song, Điền Tiến.
XÃ Điền L có các di tích lịch sử, văn hóa: đền, Bia, thờ Hà Văn Mao, Đền
Lũng, Chiềng Lẫm nơi xảy ra trận quyết chiến và là căn cứ của nghĩa quân Lam
Sơn (1421 1423) [8,13].
XÃ Điền Quang Xa thuộc Tổng Điền L. Sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 có tên là xà Hồ Điền. Năm 1964 xà Hồ Điền đợc chia thành 4 xÃ



23
là: Điền L, Điền Thợng, Điền Hạ và Điền Quang theo Quyết định số107NVcủa Bộ truởng Bộ nội vụ .
Sau khi chia xà Điền Quang gồm có 13 chòm: Đào Khớc, Mớn, Cộ, Mời,
Lũng, Un Trớm, Đồn Mớn, Mù Khò, ấm, Khà, Mý, Xê, Mít Muổng.
XÃ Điền Quang hiện nay gồm có các làng: Đào, ấm, Mợn, Cộ, Luyện, Mời, Un, Thứng, Khớc, Vàng Ví, Khò Mít, Quóc, Sê và làng Rống [8,15].
XÃ Điền Trung xa thuộc tổng Điền L. Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 có tên là Xà Hồ Điền. Năm 1964 chia xà Hồ Điền thành 4 xà theo quyết
định số 107- NV của Bộ trởng Bộ nội vụ ngày 2/4/1964, gồm Điền L, Điền
Quang, Điền Thợng, Điền Hạ.
Đến năm 1984 chia xà Điền L thành 2 xà là Điền L và Điền Trung (theo
quyết định số 163 HĐBT của Hội đồng bộ trởng ngày 12/12/1984).
Sau khi chia, xà Điền Trung gồm có 13 chòm sau: Cộc, Ngán, Muổng, Cò,
Vàn, Âm, Xịa, Điền Thái, Trúc, Kéo, Giát và Chòm Dầm [8,15].
Hiện nay xà Điền Trung gồm có các chòm: Cộc, Ngán, Do, Muổng, Cun
Láo, Kéo, Trúc, Zát, Đặc, Rầm, Tám và Chòm Xịa.
Điền Trung là mảnh đất có cấu trúc địa hình thuận lợi cho các loại lâm sản
nh cây luồng phát triển, nhờ đó rừng Điền Trung phát triển nhanh, mạnh. Đặc
biệt, cây mía đỏ là một loại cây thơng phẩm đà góp phần lớn cho việc xóa đói
giảm nghèo của xà Điền Trung ngày nay.
Là quê hơng sĩ phu yêu nớc Hà Văn Mao nên trên địa bàn xà có trờng
Trung học Phổ thông đợc vinh dự mang tên Trờng Trung Học phổ thông Hà
Văn Mao. Ngoài ra tại phờng Ba Đình, một phờng trung tâm của Thành phố
Thanh Hóa cũng có một phố mang tên phố Hà Văn Mao và Đờng Hà Văn Mao.
2.2. Nguồn gốc dòng họ Hà Công ở Mờng Khô
Mờng Khô xa thuộc tổng Điền L châu Quan Hoá (gồm các xà khu vực Hồ
Điền thuộc huyện Bá Thớc ngày nay) là một vùng đông dân, trù phú, chủ yếu là
dân tộc Mờng có nhiều dòng họ cùng chung sống nh Trơng, Phạm, Bùi, Cao,
Hà trong đó đông nhất là họ Hà. Họ Hà ở đây có 2 dòng. Một dòng là Hà



24
Văn thuộc tầng lớp dân thờng. Dòng thứ hai thuộc tầng lớp lang đạo là Hà
Công, các đời của dòng họ Hà Công đợc thế tập làm trởng mờng. Đơng thời ngời ta gọi họ này là Lang Khôn còn ngời đang cầm quyền gọi là Ông Khô.
Trong bài tế Chùa Mèo hàng năm vào 20 tháng 9 âm lịch, thời Hà Công
Nguyệt (1876 - 1941), thầy mo mời các bậc linh thần đà từng làm Ông Khô, cha
truyền con nối gồm các vị là: Hà Công Ngôn, Hà Công Ngoan, Hà Công Thái, Hà
Công Cơ, Hà Công Ten, Hà Công Chấn, Hà Công Kinh, Hà Văn Mao.
Vậy Hà Văn Mao thuộc dòng họ Hà Công, chứ không phải Hà Văn. Vì ngay
cha đẻ là Hà Công Chấn và con đẻ là Công Nguyệt cũng đều lấy họ hà Công.
Hà Văn Mao có tên ghi chép lại bây giờ có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân. Trớc hết, theo tập quán địa phơng khi đang còn sống thì ngời đà thành
niên và nhất là những ngời có địa vị xà hội không chấp nhận gọi tên tục của
mình, ngời ta chỉ gọi tên ớc lệ. Hà Văn Mao chỉ có thể gọi là Ông Khô, ông
Lớn, Ông Cai (cai tổng Điền L) hoặc cùng lắm là Cai Mao để phân biệt với các
cai khác. Ông là một võ tớng không để lại một bút tích văn chơng nào. Bởi vậy
cái tên Hà Văn Mao có thể do ngời viết tự liệu đặt cho ông, ta thấy trong phong
trào Cần Vơng cũng có một số thủ lĩnh mang tên họ Hà Văn nh Hà Văn Nho,
Hà Văn HụêTuy nhiên, cái tên này cũng có thể do ông chủ ý đổi sang Hà
Văn nhằm hoà đồng với quần chúng nhân dân, xoá đi mặc cảm giai cấp để tập
hợp quần chúng theo ngọn cờ yêu nớc chống Pháp. Nh vây, Hà Văn Mao thuộc
dòng họ Hà Công, dòng họ đứng đầu cai quản Mờng Khô. Dòng họ này có các
nhân vật nổi tiếng một thời nh cai tổng Hà Công Kinh, Phó tổng Hà Công Cơ,
đặc biệt là Hà Công Thái có công đánh dẹp giặc Xá Khoang và giắc cỏ ở biên
giới Việt - Lào, đợc triều đình phong tớc quận công, ăn lộc 36 trang trại từ Eo
Lê, Cầu Xuông lên tận châu Quan Hóa. Khi chết ông đợc lập đền thờ, khắc bia
lu truyền công đức. Hiện nay hai tấm bia đá lớn (cao 1.6m, rộng 0.8m, dày
0.15m) đang còn ở gần cầu Đại Lạn.
Dòng họ Hà Công ở Điền L tuy có phát tích về đờng công danh nhng
không phát triển về số lợng. Hiện nay cũng chỉ quanh quÈn ë mét sè hä trong



25
làng Cọc Ngán, Chiềng Lẫm, Quang ấm điều đó chứng tỏ dòng họ này xuất
hiện muộn hơn các dòng họ khác trong cộng đồng dân c, phù hợp với các câu
chuyện truyền miệng kể về sự đổi tên mờng Khả thành Mờng Khô.
Qua điều tra, khảo sát và tham khảo tài liệu địa phơng chúng tôi thấy dòng
họ Hà Công ở Mờng Khô bắt nguồn từ dòng họ Hà Công ở Mờng Khoòng.
Mờng Khoòng là một Mờng lớn, nằm ở phía Tây Bắc huyện Bá Thớc, giáp
giới tỉnh Hòa Bình, hiƯn nay thc 5 x·: Cỉ Lịng, Lịng Cao, Thanh Lâm, Thanh
Sơn, Lũng Niêm. Trớc năm 1945, Mờng Khoòng thuộc tổng Cổ Lũng châu Quan
Hoá. Đây là quê hơng lâu đời của đồng bào Thái, có một truyền thống đậm đà
bản sắc dân tộc, đặc biệt còn lu giữ đợc nhiều sách chữ Thái cổ, viết về đề tài địa
phơng nh truyện thơ Khăm Panh, kể chuyện lịch sử bản Mờng Đây cũng là
vùng đất ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử từ thời Hậu Lê Trở về sau. Cổ Lũng là địa
danh chiến thắng Kềnh Lộng đêm hai mơi tháng mời một năm Tân Sửu (1421)
của nghĩa quân Lam Sơn đáng úp quân Minh. Khi Mạc Đăng Dung cớp ngôi nhà
Lê (1527), Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm đà dựa vào Mờng Khoòng để xây dựng
căn cứ phản công nhà Mạc. Một ngời dân ở bản Dộc (xà Lũng Cao ngày nay) đÃ
che dấu hai mẹ con Lê Duy Ninh (sau này xa giá về kinh là vua Lê Trang Tông
(1533 - 1548), mở đầu thời vua Lê Trung Hng). Ngời dân địa phơng gọi là Chu
Chổm (có nghĩa là vua Trộm, tức là nuôi trộm nuôi dấu). Chu Chổm trở thành
câu chuyện dân gian có nhiều dị bản còn tồn tại đến ngày nay. ở Mờng Khoòng
hai cha con ông Hà Nhân Chính và Hà Thọ Hộc đà có công giúp chúa Trịnh
Nguyễn liên kết với các tù trởng Mờng Hạ, Mờng Sang, Mờng La xây dựng lực
lợng, phản công nhà Mạc thắng lợi. Mờng Khoòng đợc phong công đầu, đợc thởng công đại cán. Ông Mờng Khoòng, đợc phong công tặng là Thái Uý, Lân
quận Công (sách chữ thái gọi là Tạo uý Lân).
Đến cuối thế kỷ XVIII, khi quân Tây Sơn tiến ra Bắc Phù Lê, diệt Trịnh
vào thời hợp tác xà nông nghiệp tập trung, tại bản Dộc còn tìm thấy dấu vết
quân Trịnh, trong đó có vài khẩu súng thần công.



×