Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nét đẹp văn hóa trong lễ hội rước lợn làng la phù hoài đức hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 86 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT

NÉT ĐẸP VĂN HÓA TRONG LỄ HỘI RƢỚC LỢN
LÀNG LA PHÙ – HỒI ĐỨC – HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Hương Giang

Lớp

: QLVH 10A

Hà Nội – 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục tiêu và mục đích nghiên cứu ............................................................... 2
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu .............................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3
5. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .......................................................................... 3
6. Bố cục đề tài ............................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: VAI TRÒ CỦA LỄ HỘI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƢỜI VIỆT .............................................................. 5


1.1. Khái niệm ................................................................................................ 5
1.2. Quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước về công tác quản lý lễ
hội……………………………………………………………………………12
1.3. Khái quát về vị trí địa lý và văn hóa vùng đất Hà Tây (cũ) ................... 18
1.3.1. Vị trí địa lý tỉnh Hà Tây ...................................................................... 18
1.3.2. Những sinh hoạt văn hóa đặc sắc của vùng đất Hà Tây (cũ) ............... 19
CHƢƠNG 2 : NÉT ĐẸP VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI RƢỚC LỢN LÀNG
LA PHÙ - HOÀI ĐỨC - HÀ NỘI .............................................................. 22
2.1 Khái quát về xã La Phù - Hoài Đức - Hà Nội.......................................... 22
2.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành làng La Phù - Hoài Đức - Hà Nội .. 22
2.1.2. Tình hình kinh tế - văn hóa làng La Phù, Hoài Đức, Hà Nội ............... 24
2.2. Lễ hội Rước lợn làng La Phù – Hoài Đức – Hà Nội............................... 26
2.2.1. Nguồn gốc của lễ hội Rước lợn làng La Phù - Hoài Đức - Hà Nội ...... 26
2.2.2. Diễn trình lễ hội Rước lợn làng La Phù – Hồi Đức – Hà Nội ............ 29
2.2.2.1. Cơng tác chuẩn bị ............................................................................ 29
2.2.2.2. Phần lễ ............................................................................................. 33


2.2.2.3. Phần Hội .......................................................................................... 35
2.3. Nét đẹp văn hóa của lễ hội Rước lợn làng La Phù trong đời sống cộng
đồng ............................................................................................................. 43
2.3.1. Những giá trị cơ bản của lễ hội Rước lợn làng La Phù ........................ 43
2.3.2. Những nét đẹp văn hóa tín ngưỡng trong lễ hội Rước lợn làng La Phù –
Hoài Đức – Hà Nội....................................................................................... 47
2.3.3. Sự biến đổi của lễ hội Rước lợn tại làng La Phù hiện nay ................... 50
2.3.4. Công tác quản lý lễ hội Rước lợn của làng La Phù – Hoài Đức – Hà Nội . 54
CHƢƠNG 3 : GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NÉT ĐẸP VĂN
HÓA CỦA LỄ HỘI RƢỚC LỢN LA PHÙ - HOÀI ĐỨC - HÀ NỘI ..... 59
3.1. Tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước đối với Lễ hội rước lợn La Phù –
Hoài Đức – Hà Nội....................................................................................... 59

3.1.1. Thực hiện tốt các quy định về quản lý của Nhà nước đối với Lễ hội ... 59
3.1.2. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành liên quan .. 61
3.2. Tăng cường cơng tác đào tạo cán bộ quản lý văn hố các cấp, nhất là ở cơ
sở ................................................................................................................. 61
3.3. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu rõ
những giá trị văn hoá, lịch sử của lễ hội ....................................................... 63
3.4. Xây dựng chương trình bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hoá
của lễ hội Rước lợn La Phù, Hoài Đức, Hà Nội ............................................ 64
3.5. Đầu tư hỗ trợ kinh phí để tổ chức lễ hội có nhiều giá trị văn hố ........... 66
3.6. Phát triển mơ hình du lịch văn hố lễ hội Rước lợn làng La Phù – Hoài
Đức – Hà Nội ............................................................................................... 67
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hóa cổ truyền tiêu
biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như trên thế giới. Nó là “tấm gương”
phản chiếu khá trung thực đời sống văn hóa của mỗi dân tộc.Ở bất kỳ thời đại
nào, bất kỳ đất nước nào, dân tộc nào, bất kỳ mùa nào cũng có lễ hội.
Lễ hội là hoạt động phán ánh rõ nét nhất những sinh hoạt văn hố của
một cơng đồng cư dân trong một không gian cụ thể và là môi trường tốt nhất
để lưu giữ những giá trị truyền thống qua các thời đại. Mỗi vùng quê Việt
Nam đều nằm trong dòng chảy văn hố thống nhất nhưng nó vẫn mang nét
riêng biệt, đặc trưng của con người nơi đó tạo nên một bức tranh văn hoá lễ
hội Việt Nam phong phú và đa dạng.
Lễ hội là một thuộc tính của văn hóa người Việt, là nhu cầu không thể
thiếu được trong tư duy và sinh hoạt của nhân dân, nhất là ở nông thôn. Người

nông dân quanh năm lao động vất vả, một nắng hai sương, vì vậy lễ hội được
coi như yếu tố tạo ra sự thư giãn tinh thần, là sự biểu hiện cách ứng xử văn
hóa của thiên nhiên, thần thánh và xã hội, cộng đồng. Con người có thể tìm
thấy chính mình sự hồn nhiên, hưng phấn nghệ thuật, những cảm xúc chất
phác, ngây thơ khi tự nguyện tham gia vào lễ hội. Lễ hội cũng được coi là một
trong những nguồn sữa mẹ của các hoại hình nghệ thuật. Lễ hội hỗn dung các
tầng văn hóa tong tiến trình lịch sử. Chính lễ hội đã bảo lưu,ni dưỡng và
phát triển nhiều truyền thống văn hóa ở cộng đồng các làng xã
Khi xã hội ngày một phát triển, cuộc sống con người ngày một đáp ứng
tương đối đầy đủ thì những nhu cầu tinh thần như: vui chơi giải trí, nghỉ ngơi,
tìm hiểu lịch sử văn hố nghệ thuật, phong tục tập quán, lễ hội của con người
được nâng cao và trở thành vấn đề cần thiết. Con người luôn muốn khám phá
1


thiên nhiên về với cội nguồn dân tộc …và đặc biệt các lễ hội truyền thống là
loại hình sinh hoạt văn hoá sản phẩm tinh thần của con người. Là dịp con
người được trở về với tự nhiên, về với văn hóa xưa và về với ký ức cũ. Trở
về với văn hóa dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được
tắm mình trong dịng nước mát đầu nguồn của văn hóa dân tộc. Vì vậy lễ hội
luôn luôn là một đề tài phong phú mà rất nhiều các nhà nghiên cứu đã - đang
và sẽ ln muốn tìm tịi khám phá.
Tuy nhiên trong q trình phát triển của hệ thống lễ hội, không tránh
khỏi các hiện tượng tiêu cực trong tổ chức, đặc biệt là sự tác động của xu
hướng “thương mại hóa” trong lễ hội hiện nay đã làm mờ dần đi những giá trị
văn hóa truyền thống, bản sắc của lễ hội xưa. Chính vì vậy, nhận thức đúng
đắn về lễ hội cổ truyền để tìm ra những giá trị tích cực cần giữ gìn và phát
huy, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực không phù hợp đang là vấn đề mang ý nghĩa
lý luận và thực tiễn nhằm góp phần lành mạnh hố các hoạt động của lễ hội,
hướng vào các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, xây dựng đất nước ta

phát triển ngày càng bền vững. Xuất phát từ những lý do đó, tơi chọn đề tài:
“Nét đẹp văn hóa trong lễ hội Rước lợn làng La Phù – Hồi Đức – Hà Nội”
làm khóa luận tốt nghiệp với mong muốn góp phần bảo tồn và phát huy
những nét đẹp văn hóa của lễ hội Rước lợn trong đời sống đương đại của
nhân dân La Phù nói riêng và Hà Tây nói chung.
2. Mục tiêu và mục đích nghiên cứu
- Mục tiêu :
+ Làm rõ được vai trò của lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần của người
Việt
+ Tìm hiểu nét đẹp văn hóa của lễ hội rước lợn làng La Phù – Hoài Đức – Hà
Nội

2


+ Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm góp phần bảo tồn, phát huy giá trị,
nét đẹp văn hóa của lễ hội làng La Phù trong giai đoạn hiện nay
- Mục đích :
Tìm hiểu những nét đẹp văn hóa cùng những biến đổi của lễ hội này so
với truyền thống, đề ra cơng tác quản lý và giữ gìn nét văn hóa dân tộc trong
Lễ hội Rước lợn trong cuộc sống đương đại của nhân dân làng La Phù nói
riêng và Hà Tây (cũ) nói chung, để lễ hội này khơng chỉ là nét đẹp văn hóa
của riêng làng La Phù mà còn mang tầm quốc gia
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Lễ hội Rước lợn làng La Phù – Hoài Đức – Hà Tây (cũ)
- Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu việc giữ gìn nét văn hóa dân tộc trong Lễ hội Rước
lợn làng La Phù trong giai đoạn hội nhập của đất nước hiện nay đồng thời đưa
ra những giải pháp mở rộng tầm ảnh hưởng, quảng bá hình ảnh văn hóa độc

đáo của Lễ hội này,để nó khơng chỉ là nét đẹp văn hóa của riêng làng La Phù
mà cịn của khu vực và quốc gia
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu,
- Phương pháp quan sát,
- Phương pháp phỏng vấn,
- Phương pháp chuyên gia.
5. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
- Năm 1993,tác giả Bùi Thiết trong Từ điển Lễ Hội có giới thiệu lễ hội La
Phù

3


- Năm 2000,trong cơng trình Lễ hội cổ truyền ở Hà Tây ( Hồ Sỹ Vịnh và
Phượng Vũ chủ biên), ở bài “Lễ hội làng La Phù”, tác giả Trần Thị Huệ đã
kết luận : “Vào những dịp này ở làng diễn ra những phong tục rất độc đáo
thể hiện những đặc tính riêng trong sinh hoạt tín ngưỡng của cư dân La
Phù,song điều đó khơng nằm ngồi tính chất chung của mơt hội làng”
- Năm 2008 , cơng trình Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã La
Phù, ở chương 2 có miêu tả lại lễ hội rước lợn ở La Phù
- Năm 2008, trong cuốn Lịch lễ hội Việt Nam của nhiều tác giả (Nhà xuất
bản Giao thơng vận tải) có giới thiệu về lễ hội rước lợn làng La Phù
6. Bố cục đề tài
Ngoài những phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ
lục, khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Vai trò của lễ hội trong đời sống tinh thần của người Việt
Chương 2 : Nét đẹp văn hóa của lễ hội Rước lợn La Phù - Hoài Đức - Hà Nội
Chương 3: Giải pháp bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa của lễ hội Rước lợn

La Phù - Hoài Đức - Hà Nội trong đời sống đương đại

4


CHƢƠNG I
VAI TRÒ CỦA LỄ HỘI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƢỜI VIỆT
1.1.

Khái niệm

* Khái niệm Lễ và Nghi lễ
Trong tiếng Hán - Việt, Lễ chính là những khuôn mẫu của người xưa
đã quy định; các phép tắc buộc phải tôn trọng, tuân theo trong các mối quan
hệ xã hội. Đó chính là cơ tầng, nền tảng của mọi mối quan hệ giữa người với
người trong bất kỳ một xã hội nào. Theo quan niệm của người xưa, lễ được
coi là những phép tắc theo khuôn mẫu đã được hình thành và củng cố theo
thời gian, được quy định một cách chặt chẽ từ “ quan -hôn- tang - tế” đến đi
đứng, nói năng, cư xử hàng ngày của mọi người dân. Đây là những quy định,
lễ nghi, phép tắc buộc mỗi con người phải tuân theo trong các mối quan hệ
ứng xử của mình trong xã hội. Dưới thời phong kiến, các nhà Nho quan niệm
rằng: Lễ nghĩa thiên chi tự. Theo họ, Lễ vốn là trật tự, là chữ đã định sẵn của
Trời, cần phải có và không thể đảo ngược. Cuộc sống xã hội của con người
cần có lễ để phân biệt, giữ gìn tơn ti trật tự trong mối quan hệ đa chiều luôn
diễn ra trong đời sống xã hội. Lễ được coi là cơ sở của một xã hội có tổ chức
và đã phát triển đến trình độ nào đó. Đối với mỗi người, lễ thể hiện sự tơn
kính, thái độ ứng xử của con người đối với đồng loại. Lễ nhằm phòng ngừa
những hành vi và tình cảm khơng chính đáng. Lễ không chỉ quy định chi tiết
về thái độ, cử chỉ bên ngồi mà cịn tạo điều kiện hình thành một trạng thái

tinh thần tương ứng trong mỗi con người. Lễ cũng đồng thời trở thành
phương tiện để tự sửa mình, điều chỉnh mình cho đúng mực, hồn thiện hơn.
Những biểu hiện của lễ bao giờ cũng tương xứng với tuổi tác, vị thế và vai
trò, điều kiện của cá nhân nào đó trong các mối quan hệ gia đình và xã hội
của con người đó. Trong chiều dài lịch sử phát triển, lễ còn được coi là
5


“phong hoá” của quốc gia, dân tộc; là những biểu hiện trong thuần phong mỹ
tục, những tập tục truyền thống, lối sống, nếp sống và tập quán sinh hoạt của
một cộng đồng dân cư được hình thành và củng cố theo thời gian.
Trong “Từ điển hội lễ Việt Nam” của Bùi Thiết thì Lễ được hiểu là các
hoạt động đã đạt đến trình độ lễ nghi [10:5]. Tác giả Lê Văn Kỳ, Viện Văn
hoá dân gian cho rằng: “Lễ trong lễ hội là một hệ thống các hành vi, động tác
nhằm biểu hiện lịng tơn kính của dân làng đối với các thần linh, lực lượng
siêu nhiên nói chung, với thần thành hồng nói riêng. Đồng thời lễ cũng phản
ánh những nguyện vọng ước mơ, chính đáng của con người trước cuộc sống
đầy rẫy những khó khăn mà bản thân họ chưa có khả năng cải tạo” [3:67].
Tác giả Hồng Lương kết luận: “Đối với các dân tộc thiểu số ở nước ta nói
chung và ở miền bắc nói riêng, lễ được thực hiện chủ yếu liên quan đến việc
cầu mùa, "người an, vật thịnh". Có thể nói, Lễ là phần đạo, phần tâm linh của
cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, nhu cầu tín ngưỡng của
mọi thành viên trong cộng đồng” [6:35].
Lễ hay nghi lễ trong thờ cúng là những nghi thức được con người tiến
hành theo những quy tắc, luật tục nhất định mang tính biểu trưng nhằm đánh
dấu hoặc kỷ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó với mục đích cảm tạ, tơn vinh
về sự kiện, nhân vật đó với mong muốn nhận được sự tốt lành, nhận được sự
giúp đỡ từ những đối tượng siêu nhiên mà người ta thờ cúng. Dưới góc độ nào
đó, lễ có thể được coi là “bức thông điệp” của hiện tại gửi quá khứ, là hoạt
động biểu trưng của thế giới hiện thực gửi thế giới siêu hình. Nghi lễ là những

sinh hoạt tinh thần của các cá nhân hay tập thể, là sinh hoạt của cả cộng đồng
người trong đời sống tôn giáo – tín ngưỡng.
Tác giả Dương Văn Sáu trong cuốn “Lễ hội Việt Nam trong sự phát
triển du lịch” thì cho rằng nghi lễ là những ứng xử của các tầng lớp nhân dân
dành cho thần, hướng về thần trong mối quan hệ “Người –Thần” vốn luôn tồn

6


tại trong tâm thức và hành động của mọi người, mọi thời đại. Nghi lễ cịn là
hình thức, biện pháp tiến hành trong các hoạt động xã hội của con người
nhằm đối ứng và tương thích với đối tượng thờ cúng, với vị thế xã hội, môi
trường sống của những người tổ chức tiến hành hoạt động nghi lễ. Trong
những hình thái như vậy, cần phải vượt ra ngồi những quan niệm thông tục
coi lễ chỉ là lễ bái, cúng tế mà còn phải coi lễ, nghi lễ là rường mối kỷ cương,
phép tắc, đạo lý, góp phần tơn vinh, củng cố và bảo vệ sự tồn tại và phát triển
của gia đình, xã hội [9:27].
Như vậy, từ các quan niệm trên có thể đúc kết, lễ là cách ứng xử của
con người trước tự nhiên đầy bí hiểm và thách đố. Các nghi thức, nghi lễ của
lễ toát lên sự cầu mong phù hộ, độ trì của các thần và giúp con người tìm ra
những giải pháp tâm lý mặc dù phảng phất chất linh thiêng, huyền bí. Lễ là sự
bày tỏ kính ý đối với một sự kiện xã hội hay tư nhiên, có thật hay hư tưởng,đã
qua hay hiện tại, được thực hành theo nghi điển rộng lớn và theo phương thức
thẩm mỹ, nhằm biểu hiện giá trị của đối tượng được cử lễ và diễn đạt thái độ
của công chúng hành lễ. Lễ là phần đạo, phần tín ngưỡng của các thành viên
trong cộng đồng và là cơ sở thiết thực chủ yếu đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm
linh sâu lắng của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay
* Khái niệm Hội:
Trong tiếng Việt, Hội là danh từ để chỉ sự tập hợp một số cá nhân vào
trong một tổ chức nào đó, tồn tại trong một khơng gian và thời gian cụ thể.

Tác giả Bùi Thiết quan niệm: “Hội là các hoạt động lễ nghi đã phát triển đến
mức cao hơn, có các hoạt động văn hố truyền thống” [10:5].
Lê Văn Kỳ, Viện Văn hóa dân gian cho rằng “hội là một sinh hoạt văn
hoá dân dã phóng khống diễn ra trên bãi sân để dân làng cùng bình đẳng
vui chơi với hàng loạt trị tục hấp dẫn do mình chủ động tham gia...” [3:83].

7


Đôi khi Hội chỉ sự liên kết giữa các cá nhân, tổ chức có chung mục đích hoặc
các mục đích gần giống nhau. Hội còn được coi là cuộc vui tổ chức cho đông
đảo người đến dự theo phong tục tập quán, hay phong trào, trào lưu ở một
thời điểm nào đó trong q trình phát triển xã hội. Đặc điểm cơ bản, xuyên
suốt của hội (trong lễ hội) là có sự tham gia của đơng người và trong hội
người ta được vui chơi thoải mái. Hội bao giờ cũng mang tính chất cơng cộng
cả về tư cách tổ chức lẫn mục đích cần đạt được của những người tổ chức và
tham dự. Đồng thời đây chính là dịp người ta tổ chức các hoạt động vui chơi,
giải trí cho đông đảo người tham dự. Các hoạt động này được diễn ra thường
niên theo phong tục tập quán truyền thống của các địa phương, vùng miền
hoặc tổ chức vào các dịp đặc biệt trong năm để hướng tới, tôn vinh với mong
muốn đạt được những mục tiêu, giá trị cụ thể nào đó trong đời sống văn hố
cộng đồng.
Như vậy, trong hội lưu giữ một phần kho tàng di sản văn hoá đặc sắc
của địa phương và dân tộc. Trong các hoạt động của hội cịn có thể bao gồm
các chương trình vui chơi giải trí hiện đại mang sắc thái thời gian, phản ánh
và thể hiện trình độ phát triển của cộng đồng dân cư của một địa phương hay
tồn xã hội ở vào thời điểm mà nó ra đời và tồn tại.
Dương Văn Sáu cho rằng: Những hoạt động diễn ra trong Hội là một
phần bộ mặt xã hội, là chiếc “phong vũ biểu”, tấm gương phản chiếu khách
quan, trung thực đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội của một địa

phương, của đất nước ở thời điểm diễn ra các hoạt động đó. Các hoạt động
diễn ra trong hội bao gồm các trò chơi dân gian, các hình thức diễn xướng
dân gian do người dân trực tiếp tham gia, các hoạt động văn hoá nghệ thuật
truyền thống và cả các hoạt động mang tính hiện đại [9:31].
Tác giả Hoàng Lương khi bàn đến hội, đã đề cập đến yếu tố “đơng
người” và có địa điểm để “vui chơi” thoải mái; đến tính chất “cơng cộng”,

8


đến “nhiều trị vui” “bách hí”, đến mọi người được “cộng cảm, cộng mệnh”,
“phần đời” bên cạnh phần tâm linh của phần lễ…Tác giả cũng đề cập đến
“mối quan hệ giữa lễ và hội” và cho rằng hội là hình thức biểu hiện của lễ,
hội là hình thức, lễ là nội dung. Quan hệ đó bện chặt, khăng khít trong nhau
và tương hỗ lẫn nhau, tồn tại trong sự thống nhất [6:38].
Trong hội, có thể tìm thấy những biểu tượng điển hình của sự thể hiện
tâm lý cộng đồng; những đặc trưng của văn hoá dân tộc; những quan niệm,
cách ứng xử đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của các cá
nhân và cả cộng đồng người. Những hoạt động diễn ra trong hội phải luôn
phản ánh và thể hiện một phần lịch sử địa phương, đất nước. Từ những quan
niệm trên có thể hiểu: Hội là tập hợp những hoạt động kinh tế, văn hoá - xã
hội của một cộng đồng dân cư nhất định; là cuộc vui tổ chức cho đông đảo
người dự theo phong tục truyền thống hoặc nhân những dịp đặc biệt. Những
hoạt động diễn ra trong hội phản ánh điều kiện, khả năng và trình độ phát
triển của địa phương, đất nước ở vào thời điểm diễn ra các sự kiện đó.
* Khái niệm Lễ hội
Trong những năm vừa qua đồng thời với việc nghiên cứu về Lễ hội thì
các quan niệm về Lễ hội cũng được quan tâm nhất định. Tuy nhiên qua nhiều
cơng trình nghiên cứu về lễ hội thì việc bàn đến khái niệm lễ hội khơng nhiều.
Lễ hội là một khái niệm được tiếp cận trên những góc độ khác nhau.

Trong cuốn Folklore một số thuật ngữ đương đại đã đưa ra định nghĩa
về lễ hội : “Lễ hội là một hoạt động kỷ niệm định kỳ biểu hiện thế giới quan
của một nền văn hóa hay nhóm xã hội thơng qua hành lễ, diễn xướng, nghi lễ
và trò chơi truyền thống. Là một hoạt động hết sức phổ biến, lễ hội có thể là
sự kiện có tính tượng trưng và tính xã hội phức tạp nhất,tồn tại lâu đời trong
truyền thống”

9


Đây được coi là một định nghĩa khá đầy đủ về những lễ hội kỉ niệm đã trở
thành truyền thống
Có thể có những cách phát biểu khác nhau, tùy thuộc vào góc tiếp cận,
nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đều vạch rõ hai cơ cấu chức năng trong
một chỉnh thể hiện tượng xã hội. bao gồm một hệ thống hành vi nghi thức
biểu đạt thế ứng xử của cộng đồng hướng tới đối tượng nhất định và tổ hợp
của những hoạt động văn hóa như là sự hưởng ứng tinh thần được công bố
bởi nghi lễ. Tuy nhiên, khi tiếp cận lễ hôi theo hướng của quản lý văn hóa sẽ
bao trùm lên tất cả các sự kiện lễ hội đang diễn ra trong dương đại bao gồm cả
truyền thống dân gian và các sáng tạo mới mang tính bác học. Mặt khác, lĩnh
vực quản lý văn hóa sẽ quan tâm nhiều hơn đến các can thiệp bảo tồn, khai
thác và phát triển vốn liếng truyền thống, cũng như sáng tạo nên các sự kiện,
lễ hội. Do vậy, sẽ thuận tiện hơn nếu nhìn hiện tượng lễ hội dưới góc độ của
cấu trúc loại hình. Từ góc độ đó, tài liệu này đưa ra định nghĩa chung về các
sự kiện lễ hội như sau: Lễ hội là tổ hợp các yếu tố và hoạt động văn hóa đặc
trưng của cộng đồng,xoay xung quanh một trục ý nghĩa nào đó, nhằm tôn
vinh và quảng bá cho những giá trị nhất định. Đây là một cách nhìn có tính
hình thức về hiện tượng và có thể bao trùm mọi hiện tượng được gọi là hội hè
Bùi Thiết cho rằng: “Hội lễ là cách gọi cơ đọng nhằm để chỉ tồn bộ
các hoạt động tinh thần và ứng xử, phản ánh những tập tục, vật hiến tế, lễ

nghi dâng cúng, những hội hè đình đám của một cộng đồng làng xã nhất
định” [10:5].
Lễ hội là một sinh hoạt văn hoá dân gian nguyên hợp mang tính cộng
đồng cao của các tầng lớp nhân dân, diễn ra trong những chu kỳ về không
gian và thời gian nhất định để tiến hành những nghi thức mang tính biểu trưng
về sự kiện nhân vật được thờ cúng. Những hoạt động này nhằm để tỏ rõ
những ước vọng của con người, để vui chơi giải trí trong cộng đồng. Lễ hội là

10


những hoạt động, những sinh hoạt văn hoá mà ở đó có sự gắn kết khơng thể
tách rời của cả nội dung và hình thức của hai thành tố cơ bản là Lễ và Hội.
Ngoài ra, trong hoạt động lễ hội còn bao gồm một số thành tố khác như: hệ
thống các tục hèm, các trò diễn dân gian, hoạt động hội chợ triển lãm và văn
hoá ẩm thực. Các thành tố này ln có trục trung tâm là định hướng phát
triển. Các thành tố của lễ hội luôn vận hành quanh trục trung tâm đó để đạt
được những mục tiêu nhất định, những mục tiêu này nhằm phục vụ lợi ích của
cả cộng đồng, chứ khơng chỉ phục vụ lợi ích của riêng những người tổ chức
hoạt động lễ hội. Từ tình hình trên đây chúng ta có thể nhận thấy một cách
khái quát rằng: Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra trên
địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự
kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại; đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng
xử văn hóa của con ngưịi với thiên nhiên, thần thánh và con người trong xã
hội. Khái niệm trên đã phản ánh bản chất và những nội dung của lễ hội truyền
thống Việt Nam.
Trước hết, lễ hội là sinh hoạt văn hố cộng đồng, bởi vì đây là hoạt
động văn hoá của tập thể, thuộc về tập thể, do tập thể tổ chức. Dù ở bất cứ
đâu, vào bất cứ thời gian nào lễ hội cũng phải do đông đảo quần chúng nhân
dân tiến hành. Chính họ là những người sáng tạo chân chính những giá trị bắt

nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu. Họ là chủ nhân, đồng thời
là người đánh giá, thẩm nhận và hưởng thụ những thành quả sáng tạo văn hoá
ấy. Khơng bao giờ lễ hội chỉ thuộc về một nhóm người nào đó trong xã hội.
Khơng có đơng người tham dự, khơng thành hội! người ta nói: “đơng như
hội” chính là vậy.
Lễ hội là một hoạt động tập thể do quần chúng nhân dân tiến hành, bất
cứ lễ hội nào cũng gắn với các địa bàn dân cư cụ thể, là hoạt động văn hố
của một địa phương đó. Về cơ bản, lễ hội truyền thống Việt Nam là những “lễ

11


hội làng" nhưng cũng có nhiều lễ hội do nội dung và tính chất của nó nên
được diễn ra trong một khơng gian rộng lớn hơn, có tính liên làng, liên vùng.
Những hoạt động lễ hội này diễn ra không thường xuyên mà chỉ ở một vài
thời điểm nhất định vào mùa xuân hay mùa thu trong năm. Đây là thời điểm
chuyển giao thời tiết, cũng là thời điểm chuyển giao mùa vụ trong sản xuất
nông nghiệp. Vào thời điểm này, người ta tổ chức hoạt động lễ hội nhằm các
mục đích khác nhau.
Trước hết, những hoạt động mang tính nghi lễ nhằm nhắc lại sự kiện,
nhân vật lịch sử hay huyền thoại đã diễn ra trong quá khứ. Đây chính là biểu
hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, thể hiện cách
ứng xử văn hoá với thiên nhiên, thần thánh, con người, thông qua các hoạt
động trong lễ hội. Đó là những ứng xử của tập thể, của cộng đồng cư dân với
cả hai đối tượng: siêu hình (thần thánh) và hữu hình (con người). Nó cũng
phản ánh mối quan hệ, giao thoa giữa siêu và thực, giữa con người với con
người trong những hoàn cảnh và hoạt động cụ thể.
1.2.

Quan điểm và định hƣớng của Đảng và Nhà nƣớc về công tác quản

lý lễ hội
Lễ hội là di sản văn hóa dân tộc, là sinh hoạt văn hóa cộng đồng hấp

dẫn, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia.
Trước năm 1945 về cơ bản, lễ hội là một phong tục “đến hẹn lại lên”.
Ngay sau khi giành chính quyền từ tay thực dân pháp Hồ Chí Minh đã ký sắc
lệnh về bảo tồn di sản văn hố lịch sử trong đó có di tích và lễ hội. Nhưng do
chiến tranh, cũng như quan điểm sai lầm trong một giai đoạn đã dẫn tới hành
động phá vỡ các đình, đền, chùa, miếu...lễ hội và nhiều hoạt động văn hố dân
gian khác khơng có điều kiện tổ chức.
Sau năm 1975, tuy đã giành được thống nhất song do phải tập trung vào
công cuộc kiến thiết lại đất nước, chống chọi với các cuộc chiến tranh mới.

12


Chế độ bao cấp cũng chi phối đến quan điểm về văn hố. Trong bối cảnh đó
Di sản văn hố bị mai một đi nhiều.
Bước sang những năm 80, trong bối cảnh mới đời sống bắt đầu đi vào
sự ổn định, nhu cầu đời sống tâm linh của nhân dân cũng ngày càng tăng cao.
Do đó có nhiều chính sách mới về khơi phục lại thiết chế văn hố. Tháng
4/1984 nhà nước ban hành pháp lệnh “ bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn
hố và danh lam thắng cảnh ”. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên tạo điều kiện và
cơ hội cho hành loạt di tích lịch sử được trùng tu, tơn tạo trong cả nước. Chỉ
trong vài năm sau pháp lệnh năm 1984 được ban hành, nhiều thiết chế văn
hố được khơi phục, nhiều lễ hội cổ truyền được phục dựng và tổ chức. Văn
hố trong giai đoạn này đã có những bước khởi sắc mới. Tuy nhiên, trong giai
đoạn chuyển giao giữa cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường do chưa có
nhũng định hướng kịp thời cùng với cơng tác tổ chức và quản lý cịn nhiều
thiếu sót nên cịn tồn tại những biểu hiện của hoạt động hủ tục, mê tín dị đoan

và tiếp thu văn hố ngoại lai một cách ồ ạt, chưa có sự chọn lọc.
Trước tình hình đó, Nhà nước đã ban hành chỉ thị 27/CT - TW ngày
12/1/1998 của ban chấp hành Trung ương Đảng về việc thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Thủ tướng chính phủ cũng ban
hành chỉ thị 14/CT - TTg ngày 28/3/1998 về việc thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Thủ tướng chính phủ yêu cầu: Các
cấp các ngành có kế hoạch tổ chức các hoạt động cũng như triển khai thực
hiện nếp sống văn minh đến tận cơ sở. Coi đây là nguyên tắc trọng tâm trong
nhiều năm để xây dựng nếp sống văn minh tiến bộ, giàu bản sắc dân tộc.
Bộ văn hố thơng tin (Nay là Bộ Văn hoá - Thể Thao - Du Lịch) ban
hành thông tư 04/1998/TT -BVHTT ngày 11/7/1998 về việc thực hiện nếp
sông văn minh theo chỉ thị của Đảng và nhà nước. Trong đó quy định rõ một
số nguyên tắc về tổ chức lễ hội như: Hướng dẫn những ý nghĩa tốt đẹp của

13


ngày lễ, ngày kỷ niệm. Giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc về lịch sử,
văn hoá, nghệ thuật để bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và thắt
chặt tình cảm cộng đồng. Tưởng nhớ cơng đức của thần thánh, tiên nhân, anh
hùng dân tộc, ghi nhận công lao của các bậc tiền bối trong lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Giới thiệu các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh,
các cơng trình văn hố nghệ thuật và phát huy vốn văn hoá truyền thống của
dân tộc. Tổ chức lễ hội phải được phép quản lý của theo phân cấp của Bộ văn
hố Thơng tin. Tất cả các lễ hội truyền thống đều phải được cơ quan văn hố
thơng tin kiểm định nhằm giũ gìn bản sắc văn hố, những nghi thức truyền
thống và những giá trị nhan bản trong lễ hội. Nếu như có sự thay đổi về nội
dung hoặc hình thức của lễ hội phải được cơ quan có thẩm quyền của ngành
văn hố thơng tin quyết định, được phép của Giám đốc sở Văn hố Thơng tin.
Tại quyết định số 62/2006/QĐ - BVHTT ngày 22/6/2006 về việc ban

hành quy chế cơng nhận gia đình văn hố, làng văn hố, tổ dân phố văn hố
đã quy định tiêu chuẩn cơng nhận danh hiệu gia đình văn hố, làng văn hố và
tổ dân phố văn hố như: Gia đình phải thực hiện nghiêm túc khơng sử dụng
văn hố phẩm cấm lưu hành, không mắc các tệ nạn xã hội, không vi phạm các
quy định thực hiện nếp sống văn minh. Làng phải thực hiện tốt nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội trong sinh hoạt cộng đồng; về việc bài
trừ tệ nạn mê tín dị đoan và hủ tục, Nhà nước thống nhất quan điểm chỉ đạo,
tôn trọng tự do tín ngưỡng tơn giáo của nhân dân và kiên quyết bài trừ mê tín
dị đoan. Những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng và tơn giáo được tơn trọng là:
việc thờ cúng tổ tiên, đi lễ chùa và đến nhà thờ. Tuy nhiên nhà nước nghiêm
cấm việc xem số, xem bói, gọi hồn, đốt vàng mã tại các di tích lịch sử văn
hố trong các lễ hội.
Tại nghị quyết Trung ương V, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
nêu quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà

14


bản sắc dân tộc, thực hiện nếp sống văn minh, đó là bảo vệ bản sắc văn hố
dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc cái
hay, cái đẹp, cái tiến bộ trong văn hố các dân tộc khác, giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán
và lề thói cũ.
Tại Quyết định số 39/2001/QĐ/BVHTT của Bộ Văn hố Thơng tin về
việc ban hành quy chế tổ chức lễ hội trong đó có chương II đề cập đến vấn đề
quản lý và tổ chức lễ hội.
Tại quyết định 308/2005/QĐ - TTg của thủ tướng chính phủ ban hành
quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Tại
mục 3 quy định rất rõ: “Khi tổ chức lễ hội, chính quyền địa phương, cơ quan
đơn vị tổ chức, cá nhân phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về di sản

văn hoá và quy chế tổ chức lễ hội do Bộ Trưởng Bộ văn hố - Thơng tin ban
hành, ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm di tích, danh lam
thắng cảnh, lừa đảo, trộm cắp của du khách, thương mại hố các hoạt động
mê tín dị đoan trong lễ hội”.
Theo cục Văn hố - Thơng tin cơ sở, cả nước có 8.902 lễ hội diễn ra
thường xuyên trong năm, trong đó có 7.005 lễ hội dân gian (Chiếm 78,67 %),
407 lễ hội lịch sử cách mạng (Chiếm 4,5%), 1.399 lễ hội tôn giáo (chiếm
15,71% ) và 64 lễ hội văn hoá du lịch, ngày hội văn hoá (Chiếm 0,71%), 25 lễ
hội du nhập từ nước ngoài. Nhằm tăng cường cơng tác quản lý lễ hội, mới đây
Cục Văn hố - Thơng tin đã có văn bản số 04/ VHTTCS - ĐSVH gửi sở văn
hố - Thơng tin các tỉnh, thành phố. Yêu cầu chỉ đạo, quản lý và tổ chức lễ
hội theo tinh thần của nghị định số 11/ NĐ - CP của chính phủ, kết hợp hài
hồ giữa xây và chống trong thực hiện nếp sống văn minh, tăng cường cơng
tác thanh tra, kiểm tra, có biện pháp để ngăn chặn và loại bỏ thương mại hoá

15


như đấu thầu tổ chức lễ hội, thu phí khơng hợp lý, lừa gạt khách tham quan, tổ
chức các hoạt động mê tín di đoan, các hình thức cờ bạc.
Cục Văn hố - Thơng tin cơ sở cũng u cầu các địa phương thực hiện
công tác quy hoạch lễ hội, phân cấp quản lý rành mạch, phù hợp với quy mơ,
đặc điểm của di tích và lễ hội. Đối với lễ hội tổ chức lần đầu tiên, hoặc được
khôi phục sau nhiều năm gián đoạn, hoặc có thể thay đổi nội dung, quy mơ.
Lễ hội du nhập từ nước ngồi đều phải được cấp phép tổ chức. Những lễ hội
theo quy định không phải xin phép nhưng phải thực hiện báo cáo bằng văn bản.
Đối với lễ hội tại điều 25 - Luật di sản văn hoá Việt Nam quy định:
“Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị của lễ hội truyền thống,
bài trừ các hủ tục và chống những biểu hiện tiêu cực, thương mại hoá trong
tổ chức hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội phải theo quy định của pháp luật’’.

Lễ hội ở Hà Tây nói riêng và lễ hội truyền thống trên cả nước nói
chung trong những năm qua đều được tổ chức trọng thể, có sự chuẩn bị kĩ
càng, được sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sự kiểm tra giám sát của chính
quyền, sự hướng dẫn của bộ,ngành văn hóa nên lễ hội đang dần đi vào nề
nếp,trở thành một nét đẹp văn hóa,một sinh hoạt văn hóa lành mạnh của nhân
dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại và nảy sinh một số biểu hiện tiêu
cực, nổi cộm là vẫn cịn tình trạng kinh doanh lễ hội, nhất là các hội vùng, hội
lớn có ảnh hưởng rộng, đơng người trẩy hội. Hiện tượng khốn thu cho các vị
thủ từ phải nộp số tiền nhất định cho địa phương hoặc có nơi cho thầu từng
phần dịch vụ của lễ hội. Một số tệ nạn một thời cơ bản đã được khắc phục
như : mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, người ăn xin..lại có dịp phục hồi.
Nhiều lễ hội thu được tiền công đức, nhưng khơng chú trọng đến việc tu sửa
di tích, quản lý lỏng lẻo,để cổ vật mất mát, di tích xuống cấp, dân mất lòng tin
Một vài lễ hội còn tế lễ kéo dài, khơng phù hợp với nhịp sống hiện đại,
có nơi tế sai nghi thức. Vấn đề đáng lưu tâm là hủ tục có thời cơ trỗi dậy, lễ

16


hội cũng là dịp ý thức phường hội, phe giáp, đình đám nảy sinh, từ ý thức dẫn
đến việc khao đãi, chè chén, chia ngôi thứ, bổ bám là vẩn đục khơng khí trong
lành và ý nghĩa tốt đẹp của ngày hội
Trong các lễ hội,các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi giải trí
lành mạnh cịn nghèo nàn, những yếu tố mới đưa vào trong sinh hoạt lễ hội
chủ yếu là ca nhạc, biểu diễn nghệ thuật..chưa được quần chúng hoan nghênh
và nhiều khi kém hấp dẫn , không ăn nhập với khơng khí ngày hội
Trước thực trạng đó Đảng và Nhà nước đã đề ra những quy định, quy
chế nhằm phục vụ cho công tác quản lý lễ hội nhằm đảm bảo lễ hội - một loại
hình sinh hoạt văn hóa lâu đời của các dân tộc Việt Nam - được tổ chức và
quản lý cho phù hợp với thuần phong, mỹ tục, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội nhằm phát huy tác dụng tích cực của lễ hội trong cuộc sống của nhân

dân để qua lễ hội nhân dân được hưởng thụ, giao lưu và sáng tạo văn hóa
Như vậy, cơ sở pháp lí cho thực thi công tác quản lý Nhà nước đối với
các hoạt động lễ hội dưạ trên chính sách và luật pháp hiện hành của Việt
Nam. Cụ thể và trực tiếp là :
+ Luật di sản văn hóa của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩaViệt Nam
+ Nghị định số 26/1999/NĐ – CP ngày 19/4/1999 của Chính phủ về các hoạt
động tôn giáo
+ Quy chế tổ chức lễ hội (ban hành kèm theo Quyết định 39/2001/QĐ –
BVHTT ngày 23 tháng 8 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thơng tin)
+ Nghị định số 154/2004/NĐ – CP ngày 9 tháng 8 năm 2004của Chính phủ về
Nghi thức Nhà nước trong tổ chức mít tinh,lễ kỉ niệm,trao tặng và đón nhận
danh hiệu vinh dự của Nhà nước,Huân chương,cờ thi đua của Chính
phủ,Bằng khen của thủ tướng Chính phủ

17


+ Quy chế về việc cưới hỏi,việc tang và lễ hội ngày 25/11/2005,Thủ tướng
Chính phủ đã kí quyết định số 308/2008/QĐ – TT ban hành quy chế thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới,việc tang và lễ hội.
+ Các quy định cụ thể của chính quyền địa phương nơi diễn ra lễ hội và sự
kiện.
Luật pháp và những văn bản mang tính pháp quy nêu trên đã thể hiện rõ
các mục tiêu của quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hộ và sự kiện là duy
trì nghiêm minh những điều khoản đã được ghi trong Luật và các văn bản liên
quan và đang có hiệu lực.Cụ thể mục tiêu cơ bản của quản lí nhà nước đối với
hoạt động lễ hội và sự kiện là : giữ gìn và phát huy những giá trị của di sản lễ
hội,đảm bảo an ninh trật tự công cộng và an tồn của người dân tham gia lễ
hội,chống lạm dụng tín ngưỡng vào những mục đích vụ lợi,tổ chức tốt các
dịch vụ đáp ứng nhu cầu của du khách,đảm bảo tính minh bạch thu – chi

trong hoạt động lễ hội,bảo vệ môi trường sống,phát triển hoạt động lễ hội với
đa mục tiêu văn hóa – xã hội – kinh tế
Có thể nói Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách
ngày càng phù hợp với cơng tác tổ chức và quản lý lễ hội, góp phần quan
trọng trong việc giữ gìn và phát huy di sản văn hố của dân tộc.
1.3. Khái qt về vị trí địa lý và văn hóa vùng đất Hà Tây (cũ)
1.3.1. Vị trí địa lý tỉnh Hà Tây
Hà Tây là một tỉnh cũ của Việt Nam, thuộc vùng đồng bằng sông
Hồng. Hà Tây nằm bên bờ phải (bờ Nam) sông Hồng và bờ trái (bờ Đơng)
sơng Đà. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hà Đông nằm cách
trung tâm thủ đơ Hà Nội cũ 10km về phía tây nam, cách sân bay quốc tế Nội
Bài 35km. Trước tháng 8 năm 2008,Hà Tây có địa giới phía đơng giáp thủ dơ
Hà Nội cũ, phía đơng – nam giáp tỉnh Hưng n, phía nam giáp tỉnh Hà Nam,
phía tây giáp tỉnh Hịa Bình, phía bắc giáp hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ

18


Hà Tây có vị trí như cửa ngõ phía Tây, Đông Nam và Tây Bắc của kinh
đô Thăng Long - Đông Đô trong quá khứ và thủ đô Hà Nội ngày nay. Trong
“Lịch triều hiến chương loại chí” có đoạn viết về Hà Tây: “Trấn Sơn Tây là
một khu có hình thế tốt đẹp và chỗ đất có khí thế hùng hậu. Trấn Sơn Nam đất
tụ khí anh hoa, tục gọi văn nhã thực là cái bình phong, phên chắn của Trung
đô và là kho tàng của Nhà Vua...”
1.3.2. Những sinh hoạt văn hóa đặc sắc của vùng đất Hà Tây (cũ)
Vị trí cửa ngõ kinh đơ nước Việt trong suốt chiều dài lịch sử đã tạo nên
một nền văn hố truyền thống với một kho tàng di tích lịch sử - văn hoá đồ sộ
và quý giá, xứng danh là đất tụ khí anh hoa, địa linh nhân kiệt với những con
người và 'địa danh đã đi vào sử sách.
Là tỉnh có nhiều dân tộc cùng chung sống, Hà Tây có một kho tàng văn

học dân gian phong phú: ca dao, dân ca, tục ngữ, truyện thơ, truyện cổ tích,
truyện cười có giá trị văn học. Người Kinh có hát chèo, hát trống qn, hát cị
lả, hát cửa đình, múa rối nước. Người Mường có hát xéc bùa, hát ví, hát đúm,
hát ru, hát đồng dao. Nhạc cụ có trống kèn... Cồng chiên là một loại hình âm
nhạc độc đáo của dân tộc Mường. Người Dao có múa rùa, múa chung, múa
chim.
Hà Tây là vùng đất sản sinh ra nhiều danh nhân dân tộc tiêu biểu như
Phùng Hưng, Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Phan Huy Chú. Đồng thời là mảnh
đất bảo tồn nhiều di sản văn hóa dân tộc tiêu biểu là hàng trăm đình chùa,
miếu mạo có giá trị về kiến trúc điêu khắc, nghệ thuật tôn giáo.
Hà Tây có rất nhiều Lễ hội mang đặc trưng của Lễ hội truyền thống
đồng bằng Bắc bộ Việt Nam, mỗi làng, mỗi vùng đều có Lễ hội riêng. Mỗi Lễ
hội như một bảo tàng văn hoá sống động thể hiện rõ những nét đặc trưng văn
hoá dân tộc. Du khách sẽ bắt gặp những nghi lễ tôn thờ các vị thần linh của cư
dân nông nghiệp, để cầu cho mưa thuận gió hồ, mùa màng bội thu hay để tơn

19


vinh, tưởng nhớ những vị anh hùng, những người có công lao với đất nước,
với làng xã được tôn làm phúc thần bảo hộ. Lễ hội cũng là dịp để du khách
tham dự vào những trò chơi dân gian như đấu vật, đánh cờ người, thổi cơm
thi, kéo co, hội thả diều, hội chọi gà... hay xem các loại hình nghệ thuật dân
gian truyền thống như hát dô, hát chèo tầu, múa rối nước, múa rối cạn ... Dưới
đây là một số Lễ hội chính:
Hội Chùa Bối Khê xã Tam Hưng, Thanh Oai mở vào ngày 2 tháng Giêng
âm lịch, thờ phật và đức thánh Bối Nguyễn Bình An
Hội Chùa Trăm Gian xã Tiên Phương, Chương Mỹ là lễ hội thờ phật diễn
ra từ ngày 4 đến ngày 6 tháng Giêng âm lịch
Hội Chùa Hương xã Hương Sơn, Mỹ Đức là lễ hội dài nhất Việt Nam từ

ngày 6 tháng Giêng đến ngày 25 tháng Ba âm lịch.
Hội Chùa Đậu xã Nguyễn Trãi, Thường Tín diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10
tháng Giêng âm lịch thờ thần Pháp Vũ, bà Đậu.
Hội Chùa Thầy xã Sài Sơn, Quốc Oai diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng
Ba âm lịch để tưởng nhớ đức thánh Từ Đạo Hạnh người đã tu thành chính quả
tại Chùa Thầy.
Hội Chùa Tây Phương xã Thạch Xá, Thạch Thất diễn ra vào ngày 6 tháng
Ba âm lịch, là Lễ hội cầu phật
Hội Đình Tây Đằng thị trấn Tây Đằng, Ba Vì diễn ra vào ngày 15 tháng
Giêng âm lịch, tưởng nhớ công lao đức thánh Tản Viên và hai vị tướng của
ông là Cao Sơn và Quý Minh.
Hội Đền Và xã Trung Hưng, TP Sơn Tây mở vào ngày 15 tháng Giêng âm
lịch, thờ đức thánh Tản Viên.
Hội đền Hát Môn (đền thờ Hai Bà Trưng) xã Hát Môn, Phúc Thọ diễn ra
vào ngày 6 tháng Ba âm lịch, tương truyền là ngày mất của hai Bà.

20


Hội làng Chuông xã Phương Trung, Thanh Oai diễn ra vào ngày 10 tháng
Giêng âm lịch để tưởng nhớ công ơn của Bố cái đại vương Phùng Hưng.
Hội làng Đa Sĩ xã Kiến Hưng, thành phố Hà Đông diễn ra từ ngày 12 đến
ngày 15 tháng Giêng âm lịch để tưởng nhớ cơng lao của thành hồng và cũng
là ơng tổ nghề rèn, Hồng Đơn Hồ.
Hội làng La Khê xã Văn Phú, thành phố Hà Đông mở ngày 15 tháng Giêng
âm lịch .
Hội làng Yên Nội xã Đông Quang, Quốc Oai diễn ra vào ngày 10 tháng Hai
âm lịch để tưởng nhớ công đức của tướng quân Cao Lỗ thời An Dương
Vương
Hội làng La Phù ( lễ hội rước lợn ), huyện Hoài Đức, diễn ra từ ngày 7 – 15

tháng Giêng âm lịch với nghi lễ rước lợn để tưởng nhớ thành hồng lang Tĩnh
Quốc Cơng Đại Vương ( Tĩnh Quốc Tam Lang )
Lễ hội là sự kết tinh từ sản phẩm văn hoá truyền thống của dân tộc. Nó
có một vai trị, vị trí khá quan trọng trong đời sống của một cộng đồng, đặc
biệt là cộng đồng làng xã ở nơng thơn. Hà Tây có rất nhiều Lễ hội mang đặc
trưng của Lễ hội truyền thống đồng bằng Bắc bộ Việt Nam, mỗi làng, mỗi
vùng đều có Lễ hội riêng. Mỗi Lễ hội như một bảo tàng văn hoá sống động
thể hiện rõ những nét đặc trưng văn hoá dân tộc. Lễ hội rước lợn La Phù là
nét đẹp văn hóa của làng La Phù,nhằm để tưởng nhớ thành hồng lang Tĩnh
Quốc Cơng Đại Vương ( Tĩnh Quốc Tam Lang ). Ngày nay,với sự quan tâm
của Đảng và nhà nước, các hoạt động lễ hội trong cả nước nói chung và lễ hội
Rước lợn làng La Phù, huyện Hồi Đức, Hà Nội nói riêng được quan tâm và
đưa vào quản lý chặt chẽ hơn.

21


CHƢƠNG 2
NÉT ĐẸP VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI RƢỚC LỢN LÀNG
LA PHÙ - HOÀI ĐỨC - HÀ NỘI
2.1 Khái quát về xã La Phù - Hoài Đức - Hà Nội
2.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành làng La Phù - Hoài Đức - Hà Nội
Làng La Phù, nay là xã La Phù thuộc cực Nam của huyện Hoài Đức, Hà
Nội. Đây là miền đồng bằng được bồi đắp bởi các nhánh của con sông Cái (
sông Hồng ) là sông Nhuệ, sông Đáy, nằm trong dãy đất ven thị xã Hà Đông,
ép giữa quốc lộ 6 và tỉnh lộ 72. Xưa kia, vùng đất cổ này thường được nhắc
tới trong câu phương ngôn “ Bảy làng La, ba làng Mỏ”. Bảy làng La là La
Nội, La Khê, La Cả, La Tỉnh, La Dương, La Phù và Ỷ La [7:11] là những
làng nổi tiếng với các ngành nghề thủ cơng nghiệp và có truyền thống khoa
bảng

Theo các cụ già trong làng, cái tên Làng La Phù không phải ngẫu nhiên
mà có, làng La Phù ngày nay cũng khác xưa về địa giới hành chính. Bên cạnh
ý kiến của các bô lão trong làng, một số nhà nghiên cứu về ngơn ngữ học
cũng cho rằng La có nghĩa là Lụa [13:10]. Tên làng và tên của cụm bảy làng
La (hay kẻ La nói chung) được gọi theo sản phẩm của nghề dệt, có lẽ người
xưa đã lấy tên này đặt cho làng. Cho tới nay chưa có nguồn tài liệu nào khẳng
định chắc chắn thời điểm nghề lụa được truyền vào làng La nói riêng và vùng
La nói chung. Trần Lê Văn, một trong những tác giả của cuốn sách “ Hà Tây
– làng nghề - làng văn” [15:33] cho rằng : Nghề dệt ở đây có từ thời Lê
Trung Hưng do mười vị “tổ sư” nhập vào làng La Khê, sau đó một trong
mười vị đấy đến làng Ỷ La ở rể và truyền nghề cho làng này, sau đó nghề dệt
phát triển ra cả vùng La.

22


×