Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun đũa neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy bê, nghé dưới 3 tháng tuổi ở tỉnh tuyên quang và biện pháp điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.94 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------    --------------------




LÊ THỊ THANH NHÀN



Tên đề tài:
"MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, VAI TRÒ CỦA GIUN ĐŨA
NEOASCARIS VITULORUM TRONG HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY
BÊ, NGHÉ DƢỚI 3 THÁNG TUỔI Ở TỈNH TUYÊN QUANG VÀ
BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ"


Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 60.62.50




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Lan





Thái Nguyên, 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2

Lời cảm ơn

Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể khoa sau Đại học - Trường Đại học
nông lâm Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và thực hiện luận văn Thạc sỹ nông nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS.TS. Nguyễn Thị
Kim Lan - Phó hiệu trưởng Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã tận
tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh, chị em, các bạn bè đồng
nghiệp Chi cục Thú y tỉnh Tuyên Quang đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng xin được dành lời cảm ơn tới gia đình, những người thân đã
động viên, chia sẻ với tôi trong suốt khoá học và thực hiện luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 14 tháng 6 năm 2008

Tác giả luận văn



Lê Thị Thanh Nhàn









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn và các
thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.


Thái nguyên, ngày 14 tháng 6 năm 2008

Tác giả luận văn



Lê Thị Thanh Nhàn



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, ngành chăn nuôi đã được Nhà nước và nhân dân
đầu tư phát triển, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về sản lượng và chất lượng
thực phẩm cao. Một số địa phương đã tập trung phát triển đàn bò sữa, đặc biệt
là đàn trâu bò thịt để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm, góp phần nâng cao đời
sống xã hội.
Trong ngành chăn nuôi, chăn nuôi trâu bò nói riêng và chăn nuôi gia
súc nhai lại nói chung có một ưu thế đáng chú ý là thức ăn chăn nuôi chủ yếu
là cỏ và phế phụ phẩm nông nghiệp, song lại có khả năng cung cấp một lượng
lớn thực phẩm có giá trị cho người tiêu dùng. Ngoài ra, chăn nuôi trâu bò đã
góp phần cơ bản giải quyết sức cày kéo cũng như bổ sung một lượng phân
bón hữu cơ đáng kể cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc còn rất khó khăn về điều kiện
kinh tế, điều kiện địa hình phức tạp không thể áp dụng cơ giới hoá ở nhiều địa
phương, vì vậy, con trâu vẫn được coi là “đầu cơ nghiệp”.
Tuy nhiên, vấn đề dịch bệnh, trong đó có hội chứng tiêu chảy vẫn xẩy
ra phổ biến, gây trở ngại lớn cho ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trâu
bò nói riêng. Tiêu chảy thấy ở mọi lứa tuổi, nhưng ra nhiều nhất vẫn là ở bê
nghé từ sơ sinh đến ba tháng tuổi. Theo Lê Minh Trí (1995), ở bê nghé có đến
70-80% tổn thất nằm trong thời kỳ bú sữa mẹ và 80-90% trong số đó là hậu quả
của bệnh tiêu chảy gây ra.
Tiêu chảy có thể do nhiều nguyên nhân gây ra: do khí hậu thời tiết thay
đổi đột ngột, do thức ăn kém phẩm chất, do điều kiện vệ sinh chuồng trại
kém, do các bệnh nội khoa, do bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng
vv...Nhiều kết quả nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy cho thấy: dù bất kỳ
nguyên nhân nào gây ra viêm nhiễm, tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá
cũng dẫn đến rối loạn tiêu hoá và tiêu chảy (Hồ Văn Nam và cs, 1997 [25]).


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân gây tiêu chảy cho
bê nghé, phần lớn các tác giả tập trung vào tìm hiểu nguyên nhân gây tiêu
chảy ở giai đoạn bú sữa mẹ. Trong các nguyên nhân trên, ký sinh trùng đường
tiêu hoá, đặc biệt là giun đũa Neoascaris vitulorum có vai trò quan trọng đối
với bê nghé dưới 3 tháng tuổi, bởi vì ngoài việc gây tiêu chảy, ký sinh trùng
này còn là nguyên nhân mở đường cho các mầm bệnh khác xâm nhập.
Bệnh ký sinh trùng không gây thành dịch ổ dịch lớn như các bệnh do vi
khuẩn và vi rút khác, nhưng thường kéo dài âm ỉ, làm giảm năng xuất chăn
nuôi, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của gia súc.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1982) [38], tiêu chảy xảy ra quanh năm, trong
đó tiêu chảy do giun đũa Neoascaris vitulorum chiếm tỷ lệ cao trong tổng số
bê nghé sinh ra và tỷ lệ chết tới 38,97% trong tổng số bê nghé bị bệnh.
Là một cán bộ của Chi cục Thú y tỉnh Tuyên Quang, trực tiếp theo dõi
tình hình dịch bệnh trên đàn bê nghé, chúng tôi thấy hội chứng tiêu chảy khá
phổ biến, gây nhiều thiệt hại cho người chăn nuôi, đặc biệt đối với bê nghé
giai đoạn dưới 3 tháng tuổi.
Xuất phát từ thực tiễn chăn nuôi trâu bò sinh sản ở tỉnh Tuyên Quang,
chúng tôi đã nghiên cứu đề tài: “Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun
đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dưới 3
tháng tuổi ở tỉnh Tuyên Quang và biện pháp điều trị”.
Với mục đích:
- Xác định một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới
3 tháng tuổi tại Tuyên Quang.
- Xác định vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng
tiêu chảy ở bê nghé.
- Đề xuất biện pháp điều trị tiêu chảy ở bê nghé có hiệu quả cao.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Hội chứng tiêu chảy ở bê nghé
1.1.1. Khái niệm về hội chứng tiêu chảy.
Tiêu chảy ở bê nghé là một hiện tượng bệnh lý phức tạp gây ra bởi sự
tác động của nhiều yếu tố như: sự tác động bất lợi của điều kiện ngoại cảnh
gây ra các stress cho cơ thể, chăm sóc, quản lý và vệ sinh kém, thức ăn nước
uống không đảm bảo... tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh xâm nhập vào
cơ thể, đặc biệt là các loại vi khuẩn và ký sinh trùng gây bệnh đường tiêu hoá,
dẫn tới nhiễm khuẩn và làm rối loạn quá trình tiêu hoá, gây ra hiện tượng tiêu
chảy ở bê nghé non. Đây cũng là những nguyên nhân đóng vai trò quan trọng
trong hội chứng tiêu chảy ở bê nghé. Bệnh lý xuất hiện thường là ở thể cấp
tính hoặc mãn tính, tuỳ thuộc tính chất và nguyên nhân gây bệnh tác động.
Đặc điểm của sự rối loạn tiêu hóa là tiêu chảy nhiều lần trong ngày, trong
phân có nhiều nước so với bình thường do tăng tiết dịch ruột (Blackwell T.E,
1989 [42]; Fairbrother, 1992 [44]).
1.1.2. Nguyên nhân gây tiêu chảy ở bê nghé.
Hội chứng tiêu chảy thường gặp ở gia súc, đặc biệt là gia súc non, gây
thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi. Sự tổn thất ở bê nghé sơ sinh chiếm tỷ lệ
rất cao, mà chủ yếu là do bệnh tiêu chảy (Lê Minh Chí, 1995 [5]).
Nguyên nhân gây tiêu chảy rất đa dạng. Nhiều tác giả đã dày công tìm
hiểu nguyên nhân gây tiêu chảy. Tuy nhiên, tiêu chảy là hiện tượng bệnh lý có
liên quan đến nhiều yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố
là nguyên nhân thứ phát. Vì vậy, để phân biệt rõ ràng nguyên nhân gây tiêu
chảy là vấn đề không đơn giản. Sự phân loại chỉ có tính chất tương đối, chỉ
nêu được yếu tố nào chính xuất hiện đầu tiên, yếu tố nào phụ xuất hiện sau, để


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7

từ đó đưa ra phác đồ điều trị bệnh có hiệu quả. Tiêu chảy được coi là một hội
chứng do nhiều nguyên nhân gây ra, có thể điểm qua các nguyên nhân sau đây:
1.1.2.1. Nguyên nhân do điều kiện ngoại cảnh.
Điều kiện ngoại cảnh, một trong những yếu tố thường xuyên tác động
lên cơ thể gia súc chính là điều kiện thời tiết, khí hậu. Với sự tác động liên tục
của bức xạ mặt trời cũng như những biến đổi bất thường về nhiệt độ, ẩm độ,
gây ra các stress cho cơ thể. Chính sự tác động này, làm cho cơ thể động vật
luôn có các đáp ứng điều chỉnh với điều kiện ngoại cảnh thay đổi, làm sức đề
kháng giảm sút, khả năng mắc bệnh tăng (Rosenberg N.J, 1974 [56]).
Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, phân chia làm 4 mùa rõ rệt, trong
mỗi mùa lại có đặc điểm riêng biệt đặc trưng, khác nhau rõ rệt. Nhiều đợt thời
tiết thay đổi đột ngột từ nắng sang mưa, từ nóng sang lạnh, tác động xấu đến
vật nuôi và cây trồng. Vụ đông xuân nhiệt độ tăng cao dần, các đợt mưa đầu
mùa làm độ ẩm không khí tăng cường, đây là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn
có hại phát triển và gây bệnh. Các bệnh truyền nhiễm xảy ra mạnh, gây chết
nhiều gia súc, trong đó bệnh phổ biến thường gặp ở gia súc non là các bệnh về
đường tiêu hoá (Nguyễn Vĩnh Phước, 1974 [28]; Sử An Ninh, 1993 [26]; Đào
Trọng Đạt và cs, 1996 [8]; Hồ Văn Nam và cs, 1997 [25]). Theo Trịnh Văn
Thịnh (1962,1982) [36], [38], thời tiết ấm và ẩm là điều kiện thuận lợi cho
trứng và ấu trùng giun sán tồn tại và phát triển ở ngoại cảnh, từ đó gây bệnh
cho gia súc, gia cầm.
1.1.2.2. Nguyên nhân tiêu chảy do thức ăn dinh dưỡng.
Thức ăn là một trong những nguyên nhân gây ra tiêu chảy cho bê nghé.
Như ta đã biết, mầm bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể gia súc bằng nhiều
đường khác nhau như: qua da, niêm mạc, các vết thương, qua đường hô hấp,
qua đường tiêu hoá. Song trong hội chứng tiêu chảy, sự xâm nhập của các yếu

tố gây bệnh qua đường tiêu hoá có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8

hình thành bệnh. Mầm bệnh nhiễm vào thức ăn, nước uống và trực tiếp vào cơ
thể gia súc, khi gặp điều kiện thuận lợi dễ tăng sinh số lượng và gây bệnh.
Purvis G.M và cs 1985 [52]). Trứng hoặc ấu trùng giun sán, noãn nang cầu
trùng có sức gây bệnh cũng xâm nhập vào cơ thể ký chủ qua đường tiêu hoá,
do nhiễm vào thức ăn, nước uống (Phạm Văn Khuê, 1996 [12]; Nguyễn Thị
Kim Lan và cs, 1999 [13]).
Trong một số trường hợp bê nghé bị tiêu chảy do dinh dưỡng không
hợp lý, có thể do bê nghé bú quá nhiều sữa, thức ăn nhiễm nấm mốc, giàu
protein, nhiều nước, thức ăn non tươi, khẩu phần ăn thay đổi đột ngột, thành
phần dinh dưỡng không cân đối... Bệnh biểu hiện ở mức độ bình thường,
nhanh hồi phục khi thay đổi khẩu phần ăn hợp lý.
Trong thức ăn thiếu một số nguyên tố đa, vi lượng như sắt, đồng hoặc
thừa molipden... cũng gây ra những rối loạn tiêu hoá, gây tiêu chảy ở thể cấp
tính hoặc mãn tính, kèm theo sự thay đổi màu sắc lông da và thiếu máu.
(Daniels G và cs, 1990 [43]).
1.1.2.3. Nguyên nhân do vi khuẩn và virus.
Ở những điều kiện nhất định, vi khuẩn được xem như là tác nhân thứ
phát sau những nguyên nhân về thức ăn, chăm sóc quản lý. Trong đường tiêu
hoá của động vật, ngoài các vi khuẩn có lợi có tác dụng lên men, phân giải
các chất trong đường tiêu hoá, giúp cho sinh lý tiêu hoá của gia súc diễn ra
bình thường, còn có một số loài vi khuẩn có hại như E. coli, Salmonella, họ vi
khuẩn yếm khí Clostridium, họ cầu khuẩn Streptococcus... là những vi khuẩn
quan trọng gây ra rối loạn tiêu hoá, viêm ruột hoại tử và tiêu chảy ở người và
nhiều loài động vật khi có điều kiện thuận lợi (Vũ Văn Ngũ và cs, 1997 [27]).
Rối loạn tiêu hoá dẫn tới tiêu chảy ở động vật do các vi sinh vật gây ra

thường có những đặc điểm đặc trưng về biểu hiện bệnh lý riêng của từng loài.
E.coli thường là nguyên nhân gây bệnh nguyên phát ở bê nghé 1-2 ngày tuổi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9

gây tiêu chảy, phân sống ở bê nghé lớn hơn và từ đó tạo ra những phản ứng
stress hoặc nhiễm trùng kế phát các bệnh khác. Triệu chứng chủ yếu của bệnh
tiêu chảy bê nghé do E.coli cũng như triệu chứng tiêu chảy do các nguyên
nhân khác, đó là hiện tượng tiêu chảy cấp tính, mất nước và rối loạn điện giải;
phân thường từ nhão đến toàn nước, màu của phân chuyển từ vàng nhạt sang
màu trắng, phân có lẫn vết máu, có mùi hôi thối. Đặc điểm gây bệnh của
E.coli là vi khuẩn chỉ tác động chủ yếu ở đường tiêu hoá cho nên khi bê nghé
chết thường xác gầy, bẩn, lông xù, bê bết phân, hông lõm, xương cánh hông
nhô cao, niêm mạc ruột non bị xuất huyết, có chỗ tụ máu. (Phạm Sỹ Lăng và
Lê Văn Tạo, 2002 [18]). Vi khuẩn Salmonella xâm nhập vào cơ thể qua
đường tiêu hoá, chúng bám vào các tế bào nhung mao ruột, xâm nhập vào lớp
tế bào biểu mô, sản sinh độc tố đường ruột, phá huỷ niêm mạc ruột gây tiêu
chảy.
Có rất nhiều virus gây bệnh ở hệ tiêu hoá Coronavirus 1 và
Coronavirus 2, Rotavirus vv... làm tổn thương các niêm mạc ruột, phá huỷ
quá trình hấp thu và điều tiết dịch, dẫn đến tiêu chảy nặng ở gia súc. Bệnh lý
xuất hiện chủ yếu là viêm ruột, viêm kết tràng, manh tràng, tiêu chảy cấp hoặc
mãn tính, phân lỏng màu vàng, đôi khi có lẫn máu, tỷ lệ mắc bệnh và chết
trong đàn cao. Nguyên nhân rối loạn tiêu hoá và tiêu chảy do Coronavirus 2
gây ra bệnh TGE (Transmissble Gastroenteritis), với triệu trứng nôn mửa kèm
theo tiêu chảy có nhiều nước, phân màu vàng hoặc hơi xanh, mùi hôi thối.
(Radostits O.M và cs, 1994 [53]).
1.1.2.4. Nguyên nhân tiêu chảy do rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột:
Trong đường tiêu hoá của cơ thể gia súc, khu hệ vi sinh vật bình

thường đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hấp thu dinh dưỡng của cơ thể, đó
là sự hấp thu các axit amin, gluxít, các axit béo...Sự có mặt của các vi khuẩn
đường tiêu hoá như vi khuẩn lactobacillus, Bacillus subitilis, vi khuẩn thuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10

giống Bacteroides...là những vi khuẩn có lợi cho gia súc. Khi có tác động của
yếu tố khí hậu thời tiết, một số bệnh truyền nhiễm, trạng thái stress, thức ăn
chất lượng kém làm rối loạn quá trình trao đổi chất, một số vi khuẩn có khả
năng cạnh tranh cao sẽ ức chế các vi khuẩn khác tạo ra hiện tượng loạn
khuẩn. Đặc biệt, một số vi khuẩn đường ruột như Salmonella, E.coli tăng sinh
quá nhiều, lan tràn lên phía trên của ống tiêu hoá, chúng sản sinh một lượng
độc tố đường ruột (Enterotoxin) rất lớn gây tiêu chảy ở gia súc.
1.1.2.5. Nguyên nhân do ký sinh trùng.
Các ký sinh trùng trong đường tiêu hoá, ngoài tác động chiếm đoạt chất
dinh dưỡng của vật chủ, còn có một tác hại lớn khác là gây tổn thương niêm
mạc ruột, tạo điều kiện cho các vi khuẩn xâm nhập gây bệnh, làm rối loạn quá
trình phân tiết, gây viêm ruột và tiêu chảy cấp tính hoặc mãn tính. Độc tố của
nhiều loài ký sinh trùng gây ngộ độc cho vật chủ, thể hiện bằng những biến
loạn thần kinh.
Gia súc thường nhiễm ký sinh trùng và bị bệnh ở thể mãn tính. Vì vậy,
triệu chứng tiêu chảy cũng ở thể mãn tính, hầu hết bị tiêu chảy song không liên
tục, có sự xen kẽ giữa tiêu chảy và bình thường, cơ thể thiếu máu, da và niêm
mạc nhợt nhạt, kém ăn, thể trạng sa sút.
Các loại ký sinh trùng đường ruột hay gây tiêu chảy cho bê nghé
thường gặp là: Cầu trùng; Giun đũa; Sán dây và các loại giun sán khác.
Ký sinh trùng là những sinh vật sống nhờ vào vật chủ khác đang sống,
chiếm đoạt chất dinh dưỡng của sinh vật đó để sống và phát triển. Ký sinh
trùng đường tiêu hoá ở bê nghé cũng không nằm ngoài cách sống này, chúng

ký sinh ở đường tiêu hoá của bê nghé và gây bệnh. Bệnh ký sinh trùng đường
tiêu hoá gây ra cho bê nghé không thành ổ dịch nguy hiểm, không làm cho bê
nghé chết nhiều (trừ những trường hợp bị bệnh nặng), song chúng gây tác hại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11

nghiêm trọng, làm giảm sinh trưởng và phát triển của bê nghé, làm bê nghé
gầy còm, thiếu máu, khả năng sinh trưởng chậm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1999) [19], bệnh cầu trùng gây
ra ở bê nghé mắc với tỷ lệ từ 20 - 50%, có 7 loài cầu trùng phổ biến gây hại
cho bê nghé. Trong quá trình ký sinh và phát triển ở ruột bê nghé, cầu trùng
gây tổn thương lớp nhung mao ruột và lớp cơ vòng tiếp với nhung mao, làm
tróc niêm mạc ruột và xuất huyết. Cầu trùng tiết ra enzym và độc tố, phá hoại
mô ruột, những tổn thương ở ruột tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh có sẵn
trong ruột xâm nhập và gây viêm ruột kế phát.
Tiêu chảy ở bê, nghé do giun đũa Neoascaris vitulorum gây ra là nguyên
nhân đáng lưu ý. Theo các tác giả bê, nghé mắc sớm nhất là 14 ngày (tỷ lệ
23%), phổ biến ở 23 - 35 ngày tuổi (64%). Khi ký sinh trong đường tiêu hoá,
giun đũa còn tiết chất độc làm bê nghé trúng độc, gây ỉa chảy và gầy sút nhanh.
Sán dây Moniezia expensa và Moniezia benedeni ký sinh ở ruột non
của bê nghé cũng thường gây viêm ruột thứ phát, có thể làm chết đến 80% gia
súc non bị bệnh. Mổ khám bê, nghé chết thấy nhiều sán cuộn lại thành từng
búi ở ruột non, có những ca bệnh nặng có thể tới 200 - 300 gam sán dây ở
ruột non.
1.1.3. Bệnh lý và lâm sàng hội chứng tiêu chảy ở bê nghé.
1.1.3.1. Bệnh lý.
Tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù ở đường
tiêu hoá. Như đã đề cập ở trên, nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy rất đa
dạng, do đó quá trình bệnh lý do chúng gây ra cũng rất phức tạp. Mỗi nguyên

nhân khi tác động lên đường tiêu hoá đều theo một cơ chế nhất định, đồng
thời vị trí tác động không giống nhau, vì vậy mà cơ quan tiêu hoá tổn thương
khác nhau và mức độ nặng nhẹ cũng khác nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12

Theo Phạm Sỹ lăng và Lê Văn Tạo (2002) [20], vi sinh vật và ký sinh
trùng xâm nhập vào đường tiêu hoá của súc vật non do ăn uống, chúng gây
tác hại khi số lượng nhiều, sức đề kháng của con vật giảm thấp hoặc khi ruột
bị tổn thương.
Vi khuẩn đóng vai trò quan trọng gây tác hại trong hệ thống tiêu hoá
của súc vật. Chúng xâm nhập vào những chỗ tổn thương của niêm mạc dạ dày
và nhung mao ruột, phát triển rất nhanh và tiết độc tố hoặc các men (enzym)
phá huỷ tổ chức nhung mao, làm tróc ra từng mảng và làm mất dần khả năng
hấp thụ chất dinh dưỡng.
Vi khuẩn còn làm vỡ các mao mạch trong lớp cơ tiếp với nhung mao
của ruột gây xuất huyết ruột.
Các loài nấm độc, đặc biệt là nấm Candida albicans có trong thức ăn
thối mốc, xâm nhập vào ruột cũng gây tác hại tương tự như các vi khuẩn gây
bệnh. Ngoài tác hại phá hoại tổ chức dạ dày, ruột gây ỉa chảy, nấm còn tiết
độc tố gây nhiễm độc toàn thân cho gia súc.
Sokol A và cs (1991) [57] cho biết; E.coli xâm nhập vào cơ thể động
vật từ rất sớm, thậm chí khi vừa được sinh ra. Sau khi phát triển và tăng
nhanh ở tế bào thành ruột, vi khuẩn xâm nhập vào hệ lâm ba, hệ tuần hoàn
gây nhiễm trùng và dung huyết. Vi khuẩn theo máu đi đến các cơ quan tổ
chức, phá huỷ các tổ chức tế bào, gây viêm ruột, tiêu chảy và ngộ độc cấp,
làm cho gia súc chết nhanh.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi được sinh ra một thời gian
ngắn, trong đường tiêu hoá, hô hấp của gia súc non đã xuất hiện một số loài vi

sinh vật, trong đó có các vi sinh vật gây bệnh. Những trường hợp tiêu chảy
nặng hoặc chết do bội nhiễm, vi khuẩn còn được tìm thấy ở nhiều cơ quan, bộ
phận khác trong cơ thể như: gan, lách, thận, phổi, dạ dày, ruột non...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13

Radostits O.M (1994) [53], nghiên cứu cho thấy, 20 - 30% động vật
chết ở giai đoạn sơ sinh là do nguyên nhân tiêu chảy. Tiêu chảy ở động vật do
E.coli có sự liên quan chặt chẽ với điều kiện ngoại cảnh thay đổi đột ngột,
cùng với sự chăm sóc nuôi dưỡng kém, làm giảm sức đề kháng, đó là nguyên
nhân cơ bản dẫn tới rối loạn tiêu hoá, gây hiện tượng loạn khuẩn và tiêu chảy
ở gia súc (Đào Trọng Đạt và cs, 1996 [8])
Đối với những vi khuẩn gây bệnh đường ruột, độc tố do chúng tiết ra
hoặc các sản phẩm độc sinh ra trong quá trình huỷ hoại tế bào sẽ tác động lên
cơ chế hấp thu ở ruột và gây ra tiêu chảy.
Đã có nhiều tài liệu đề cập những biến đổi bệnh lý ở đường tiêu hoá
của bê nghé do ký sinh trùng gây ra.
Trong thời kỳ ấu trùng, giun đũa di hành và làm tổn thương một số khí
quan như phổi, gan. Giun trưởng thành ở ruột non nhiều, cuộn thành búi gây
tắc ruột, có khi làm thủng ruột. Giun còn tiết chất độc làm cho bê nghé trúng
độc. Tác động cơ học và tác động do độc tố dẫn đến ruột non viêm cata, ruột
tăng nhu động, gây cho bê, nghé ỉa chảy, gầy sút nhanh. Bệnh tích chủ yếu ở
đường tiêu hoá, có trường hợp có từ 200 - 300 giun xếp thành 5-6 hàng ở tá
tràng, vít chặt ruột, có trường hợp còn thấy giun đũa ở các bộ phận khác như
dạ cỏ, dạ múi khế, ống dẫn mật. (Phạm Sỹ lăng và cs, 2005 [21]).
Ngoài ra, các tác giả còn cho biết; sán dây Moniezia expensa ký sinh ở
ruột non bê nghé cũng gây tổn thương thành ruột non, làm cho gia súc bị viêm
ruột cata và tiêu chảy.
Trong các loại ký sinh trùng đường tiêu hoá bê nghé, cầu trùng là một

loại ký sinh trùng đơn bào cũng gây tiêu chảy. Trong quá trình ký sinh và
phát triển ở ruột bê nghé, cầu trùng đã gây tổn thương lớp nhung mao ruột
và lớp cơ vòng tiếp với nhung mao, làm tróc niêm mạc ruột và xuất huyết
ruột. Ở thể cấp tính, bê nghé bị nhiễm cầu trùng nếu không được điều trị kịp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14

thời sẽ chết sau 7 - 10 ngày; mỗi ngày bê nghé ỉa 5-10 lần, mỗi lần ỉa phải
cong lưng rặn, nhưng phân rất ít và lẫn máu, vì vậy người ta gọi là bệnh lỵ đỏ
ở gia súc non.
Như vậy, bệnh lý của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé tập trung chủ yếu
ở đường tiêu hoá, từ tổn thương dẫn đến viêm ở ruột non hoặc ruột già. Nhìn
chung khi bê nghé bị tiêu chảy nặng đều dẫn đến mất nước, mất chất điện
giải, rối loạn hoạt động của enzim, từ đó làm rối loạn chức năng tiêu hoá hấp
thu, rối loạn cân bằng dịch thể ở ruột. Mất nước có thể làm giảm lưu lượng
tuần hoàn, dẫn đến truỵ tim mạch, gây tử vong.
1.1.3.2. Lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé.
Biểu hiện lâm sàng của hội chứng tiêu chảy nói chung, dễ thấy và điển
hình nhất là hiện tượng ỉa chảy. Phân lúc đầu có thể táo hoặc không, sau đó ỉa
chảy, có thể sền sệt hoặc lỏng do các bệnh ký sinh trùng, trong khi các bệnh
phó thương hàn, dịch tả ở giai đoạn cuối phân lỏng hoặc vọt cần câu. Đồng
thời màu sắc phân cũng có sự khác nhau: bê nghé bị phó thương hàn phân có
màu vàng xám, bệnh do vi khuẩn E. coli phân chuyển từ vàng nhạt sang màu
trắng. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [18], bê nghé bị tiêu chảy phân có lẫn
máu tươi hoặc màu nâu do tổ chức niêm mạc và mao mạch ở ruột bị phá hoại
có thể là biểu hiện lâm sàng của bệnh cầu trùng...
Bê nghé bị tiêu chảy thường có các biểu hiện như: thân nhiệt thường
tăng nhẹ, con vật uống nhiều nước, ăn ít hoặc bỏ ăn, đầu tiên phân sền sệt, vài
ngày sau ỉa chảy nặng, phân chỉ là dịch màu xám xanh, xám vàng và có mùi

tanh, phân dính ở hậu môn và đuôi. Bê nghé ỉa chảy nặng có thể 10-15
lần/ngày, mất nước nhanh làm cho con vật trũng mắt, da nhăn nheo và chết
trong tình trạng mất nước, mất chất điện giải.
Bê nghé non bị tiêu chảy nặng thường chết sau 3-4 ngày, tỷ lệ chết cao
(30-40%), trong số số bê nghé bệnh nếu không điều trị kịp thời. Tuy nhiên, tỷ lệ
chết rất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ trầm trọng của bệnh. Theo Đỗ Dương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15

Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], tỷ lệ nghé ốm do giun đũa chiếm tới 38-
44% so với số nghé đẻ ra, số nghé chết về bệnh chiếm tới 25-50% số nghé ốm.
Như vậy, mỗi năm số nghé chết do giun đũa chiếm 20% số nghé đẻ ra.
Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo (2002) [18] cho biết, những bê nghé mắc
bệnh tiêu chảy do E.coli ở thể nhẹ có thể qua khỏi sau một vài ngày mà không
cần điều trị, nhưng khoảng 15 - 20% số bê nghé bị bệnh ngày một nặng hơn,
suy sụp hoàn toàn, nhiễm độc huyết dẫn đến chết nếu không điều trị tích cực.
Ngoài những triệu chứng chung của bê nghé mắc hội chứng tiêu chảy,
các triệu chứng điển hình cho từng loại bệnh cũng biểu hiện rất rõ. Những
triệu chứng đặc trưng cho mỗi bệnh cho phép chẩn đoán phân lập hội chứng
tiêu chảy với các bệnh truyền nhiễm:
- Bệnh thương hàn ở bê nghé: là bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra,
vi khuẩn xâm nhập vào lớp tế bào biểu mô, sản sinh độc tố đường ruột, phá
huỷ niêm mạc ruột gây tiêu chảy. Ở thể viêm ruột cấp thân nhiệt tăng 40-
41
o
C, ỉa chảy hoặc có trường hợp kiết lỵ, phân hôi thối chứa màng nhầy.
- Bệnh tiêu chảy bê nghé do vi khuẩn E.coli gây ra: phân thường từ
nhão đến hoàn toàn là nước, màu của phân chuyển từ vàng nhạt sang màu
trắng, trong phân có lẫn những vết máu, có mùi hôi thối. Thân nhiệt bình

thường hoặc tăng hơn một chút, vào giai đoạn cuối thân nhiệt thường hạ
xuống dưới mức bình thường.
- Bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum thường gây ỉa chảy, phân
chuyển từ xanh đen sang vàng dần, rồi chuyển thành trắng. Bệnh thường thấy
ở bê nghé non từ 1-3 tháng tuổi, phân mùi thối khắm, con vật ỉa vọt cần câu,
phân dính ở khuỷu chân, xung quanh hậu môn, thân nhiệt có thể tăng tới 40-
41
o
C, khi sắp chết thân nhiệt hạ xuống dưới mức bình thường. Bê nghé từ 3
tháng tuổi trở lên thường không mắc bệnh giun đũa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16

- Các bệnh do vi rút như: Coronavirut, Rotavirut... thường gây viêm
ruột, viêm kết tràng, manh tràng, tiêu chảy cấp hoặc mãn tính, phân lỏng màu
vàng, đôi khi có lẫn máu, tỷ lệ bệnh và chết trong đàn cao, điều trị bằng kháng
sinh không có hiệu quả.
1.1.4. Chẩn đoán hội chứng tiêu chảy ở bê nghé.
Để việc điều trị đạt hiệu quả cao thì việc chẩn đoán tìm ra nguyên nhân
gây tiêu chảy rất quan trọng. Chẩn đoán một bệnh chính xác là rất khó khăn,
song để chẩn đoán chính xác được nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy
càng khó khăn hơn. Do vậy, khi chẩn đoán hội chứng tiêu chảy cần phải chú ý
xem xét rất nhiều yếu tố: đặc điểm dịch tễ, biểu hiện lâm sàng và phi lâm
sàng, kết quả mổ khám, các phương pháp chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
Đối với những bệnh nghi do ký sinh trùng, người ta thường dùng phương pháp
chẩn đoán xét nghiệm phân để tìm trứng giun sán; đối với bệnh do vi khuẩn
phải nuôi cấy trên các môi trường để phân lập và giám định vi khuẩn...
Ở thể cấp tính, con vật chết rất nhanh, chẩn đoán bệnh cần căn cứ các
yếu tố liên quan như: thức ăn, nước uống, phương thức chăn nuôi, chế độ

chăm sóc nuôi dưỡng, thời tiết khí hậu, tuổi bê nghé... Ví dụ bệnh ký sinh
trùng thường phát triển trong những tháng nóng ẩm, mưa nhiều. Bệnh cầu
trùng bê nghé, khi thời tiết nóng ẩm, cho noãn nang cầu trùng dễ phát triển
đến giai đoạn cảm nhiễm ngay trên nền chuồng và bãi chăn thả. Người ta
cũng quan sát thấy bê nghé thường phát bệnh khi thời tiết thay đổi từ ấm áp
sang lạnh ẩm. Thiếu thức ăn cũng làm cho bê nghé giảm sức đề kháng. Đối
với bệnh giun đũa, thường mắc ở bê nghé sơ sinh đến 3 tháng tuổi (23 - 64%),
đến 4 tháng tuổi thì không bị nhiễm. (Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo, 2002
[20]).
Nhiều tác giả lưu ý rằng, khi chẩn đoán bê nghé mắc tiêu chảy dựa vào
đặc điểm dịch tễ thì tuỳ từng điều kiện cụ thể mà loại trừ bớt khả năng gây
bệnh, để có kết luận ban đầu về nguyên nhân gây bệnh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17

Biện pháp thường dùng nữa là căn cứ vào biểu hiện lâm sàng để chẩn
đoán, nhưng cần phải chẩn đoán phân biệt giữa các bệnh có triệu chứng tiêu
chảy để loại trừ nguyên nhân nghi ngờ và tìm ra nguyên nhân chính. Dù là
nguyên nhân gì dẫn đến tiêu chảy thì bê nghé đều biểu hiện bằng triệu chứng
ỉa chảy, phân lỏng hoặc toàn nước. Do tiêu chảy mất nước nên bê nghé gầy
còm, ốm yếu, da nhăn, lông xù, niêm mạc nhợt nhạt. Nếu ỉa chảy kéo dài, con
vật suy nhược hoàn toàn, run rẩy, đứng không vững. Tiêu chảy nặng có thể
dẫn đến truỵ tim mạch và chết. Nếu nguyên phát là do vi khuẩn, độc chất hoặc
vi rút, rồi kế phát nhiễm khuẩn sẽ làm thân nhiệt tăng từ 0,5 - 1,5
o
C tuỳ theo
mức độ nhiễm khuẩn. Tiêu chảy do độc tố, chất độc, thời tiết, thay đổi thức ăn
thì nhiệt độ cơ thể không tăng. Màu phân có thể thay đổi tuỳ thuộc nguyên
nhân gây bệnh. Ví dụ, bê nghé sơ sinh bị nhiễm giun đũa thường phân có màu

trắng, nếu bị nhiễm Salmonella thì phân có màu vàng, bê nghé nhiễm cầu
trùng có thể triệu chứng lâm sàng điển hình là ỉa lỏng, phân nhày, có máu tươi
(lỵ đỏ). Bê nghé sơ sinh bị tiêu chảy nếu không điều trị kịp thời có thể bị chết
trong vòng 12 - 96 giờ, tỷ lệ chết có thể chiếm tới 90% trong số mắc bệnh.
Biện pháp mổ khám xác chết để tìm bệnh tích điển hình là phương
pháp chẩn đoán có hiệu quả, nhất là trong bệnh giun sán. Mổ khám tìm thấy
giun sán ký sinh với số lượng nhiều và gây bệnh tích nặng ở đường tiêu hoá
thì có thể kết luận là bê nghé chết do bệnh ký sinh trùng đường tiêu hoá.
Tuy nhiên, một biện pháp hữu hiệu cần thực hiện là chẩn đoán trong
phòng thí nghiệm. Thu thập mẫu phân bê nghé mới thải ra về phòng thí
nghiệm để xét nghiệm trứng giun sán hoặc cầu trùng bằng phương pháp lắng
cặn Benedek (1943), các phương pháp phù nổi (Fulleborn, Darling...).
Từ các bệnh phẩm của bê nghé tiêu chảy (phân, ruột non, ruột già...) có
thể nuôi cấy, phân lập vi khuẩn, giám định các đặc tính sinh hoá, tiêm truyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18

động vật thí nghiệm... là phương pháp vi sinh vật vẫn thường được áp dụng
trong chẩn đoán bệnh, trong đó có hội chứng tiêu chảy.
1.1.5. Biện pháp điều trị tiêu chảy cho bê nghé.
Nguyên lý chung của điều trị tiêu chảy ở bê nghé cũng giống như các
gia súc khác là loại bỏ nguyên nhân gây bệnh. Nếu nguyên nhân do thức ăn
thì phải thay đổi thức ăn, nếu nguyên nhân là vi khuẩn phải sử dụng các loại
kháng sinh, hoá dược để tiêu diệt mầm bệnh. Nếu nguyên nhân là do ký sinh
trùng thì dùng các thuốc trị ký sinh trùng. Đồng thời với điều trị nguyên nhân
phải kết hợp với điều trị triệu chứng. Trước hết, kịp thời bổ sung nước và chất
điện giải, các yếu tố vi lượng bị mất bằng cách cho uống hoặc truyền tĩnh
mạch các dung dịch nước muối sinh lý 0,9%, dung dịch đường ưu trương
20%, uống orezol. Ngoài ra, phải dùng các chất chống viêm như

Dexamethazon kết hợp với các loại vitamin C, B1, K để chống xuất huyết
đường tiêu hoá và nâng cao sức đề kháng của cơ thể cho bê nghé. Bê nghé
tiêu chảy nếu được điều trị kịp thời, tích cực, đúng nguyên nhân thì tỷ lệ chết
thấp, bê nghé chóng hồi phục, ít ảnh hưởng đến sự phát triển sau này.
Đào Trọng Đạt và cs (1995) [7] đã đưa ra phương pháp điều trị chung
đối với hội chứng tiêu chảy như sau:
+ Điều trị bằng huyễn dịch.
+ Điều trị bằng chế phẩm sinh học.
- Điều trị bằng huyễn dịch:
Theo tác giả, hiện tượng tiêu chảy bao giờ cũng dẫn tới sự mất nước và
rối loạn điện giải ở con vật bệnh. Mất nước làm rối loạn các hoạt động sinh lý
bình thường của cơ thể, làm mất đi một số chất điện giải quan trọng như:
HCO
3
-
, K
+
, Cl
-
, Na
+
..., từ đó làm cho quá trình bệnh lý càng trở nên trầm trọng
hơn. Mất nước nhiều thường là nguyên nhân chính làm cho súc vật bệnh tử
vong. Vì vậy, việc điều trị bổ sung nước, chất điện giải cho gia súc bị tiêu chảy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19

là rất cần thiết và có hiệu quả. Các dung dịch truyền được Đào Trọng Đạt và cs
khuyến cáo dùng là: dung dịch Dextrose 5% hoặc Dextrose 20-50%, dung dịch

Sodium clorit sinh lý (NaCl 0,9%), dung dịch ưu trương (NaCl 7,5%)...
Đề cập đến vấn đề này, Phạm Khắc Hiếu và cs (1997) [9], Phạm Khuê
(1998) [10] cho biết: bổ sung chất điện giải cho cơ thể tuỳ thuộc mức độ mất
nước và chất điện giải. Nếu mất nước ở độ I hoặc độ II là sự mất nước ở thể
nhẹ và trung bình, có thể cho uống dung dịch Oresol hoặc nước muối sinh lý
đẳng trương. Khi mất nước cấp tính (mất nước cấp tính là tình trạng mất nước
ở độ III hoặc độ IV, là sự mất nước phức tạp và nguy hiểm), thì ngoài các
biện pháp trên, cần phải truyền tĩnh mạch bằng dung dịch Ringer lactat.
Trong hội chứng viêm ruột tiêu chảy, sự mất nước cùng với các chất
điện giải là nguyên nhân chính gây ra những rối loạn hoạt động chức năng của
các cơ quan trong cơ thể, gây tỷ lệ tử vong cao. Do vậy, cần phải thực hiện 3
vấn đề cơ bản, đó là: thực hiện tốt chế độ ăn uống, chống nhiễm khuẩn và
điều trị hiện tượng mất nước và chất điện giải (Vũ Triệu An, 1978 [1]).
- Điều trị bằng các chế phẩm sinh học:
Trong đường ruột của động vật, hệ vi sinh vật luôn ổn định, đảm bảo
trạng thái thăng bằng cho hoạt động của đường ruột. Khi hệ vi sinh vật đường
ruột cân bằng thì những vi sinh vật có lợi (90% là vi khuẩn lactic) sẽ có hoạt
động hữu ích cho đường ruột. Nếu sự cân bằng này bị phá vỡ thì những vi
khuẩn có hại cạnh tranh phát triển, làm rối loạn tiêu hoá, gây tiêu chảy.
Xuất phát từ cơ sở trên, các nhà nghiên cứu đã chế nhiều chế phẩm khác
nhau từ vi khuẩn hữu ích, chủ yếu là vi khuẩn Lacto bacillus để đưa vào đường
ruột, tạo sự cân bằng cho hệ vi sinh vật đường ruột. Những chế phẩm này được
gọi là chế phẩm trợ sinh học. Ở nước ta có chế phẩm B. subtilis, Yoaurt, Menth,
Biolactin...các chế phẩm này đều là dạng thuốc nước cho gia súc uống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20

Năm 1981, Vũ Văn Ngữ và Lê Kim Thao đã sử dụng chế phẩm vi sinh
vật Subcolac đưa vào đường ruột, là một hỗn hợp của loại vi khuẩn sống

Bacillus subtilis, Coli bacterium và Lacto bacillus. Chế phẩm này một mặt cung
cấp một số men cần thiết, một mặt lặp lại sự cân bằng của hệ vi sinh vật đường
ruột, góp phần khắc phục rối loạn tiêu hoá ở ruột (Chu Đức Thắng, 1997 [33]).
Đào Trọng Đạt và cs (1995) [7] đã khẳng định kết quả phòng trị bệnh
đường ruột và tác dụng điều tiết kích thích sinh trưởng của chế phẩm
Biolactyl là rất tốt.
Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo (2002) [20] đề xuất một số phác đồ điều
trị tiêu chảy cho bê nghé như sau:
Cách 1: Điều trị tiêu chảy do nhiễm khuẩn:
- Điều trị nguyên nhân: phối hợp kháng sinh và sulfamid.
Kanamycin: 20-30mg/kg thể trọng/ngày.
Tetracyclin: 20-30mg/kg thể trọng/ngày.
Bisepton hoặc Sulfaguanidin: 30-50mg/kg thể trọng/ngày.
Thuốc kháng sinh có thể cho uống hoặc tiêm. Sulfamid cho uống. Ba
loại thuốc phối hợp dùng liên tục 3-5 ngày. Mỗi liều thuốc chia làm 2 liều nhỏ
cho gia súc uống ngày 2 lần.
- Điều trị triệu chứng:
Chống mất nước: truyền huyết thanh mặn ngọt vào tĩnh mạch, cứ
1000ml/100kg thể trọng/ngày. Nếu không có huyết thanh mặn ngọt thì cho
uống dung dịch Oresol
Chống chảy máu ruột: tiêm vitamin K, C.
Thuốc trợ tim mạch: Tiêm vitamin B1, long não nước hoặc cafein.
Cách 2: Điều trị tiêu chảy do giun tròn, cầu trùng và nhiễm khuẩn:
- Thuốc điều trị: phối hợp thuốc tẩy giun và kháng sinh.
+ Tẩy giun dùng một trong hai loại thuốc sau:
Mebendazol: 10 - 15mg/kg thể trọng/ngày.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21


Tetramisol: 7-10mg/kg thể trọng/ngày.
Thuốc tẩy giun chỉ dùng một lần. Chỉ dùng thuốc tẩy khi phát hiện
trong phân gia súc có các loại trứng giun và có dấu hiệu lâm sàng nhiễm giun.
+ Thuốc điều trị cầu trùng: Sulfamerazin hoặc Sulfadimerazin, liều
0,10 - 0,12g/kg thể trọng, dùng liên tục 5-6 ngày liền.
Dùng thuốc trợ sức, chống chảy máu và bổ sung nước: vitamin C, B1,
K, cafein, long não nước, truyền huyết thanh mặn ngọt 1000ml/100kg thể
trọng/ngày.
+ Chống nhiễm khuẩn: phối hợp kháng sinh và sulfamid:
Oxytetracyclin: 20-30mg/kg thể trọng/ngày.
Bisepton: 40-50mg/kg thể trọng/ngày.
Phối hợp hai loại thuốc dùng liên tục trong 3-4 ngày.
Theo Fairbrother J.M (1992) [44], một trong những nguyên nhân gây
hội chứng tiêu chảy của gia súc là do một số loài vi khuẩn gây bệnh đường
ruột bao gồm cả những vi khuẩn hiếu khí, vi khuẩn yếm khí tuỳ tiện và những
vi khuẩn yếm khí bắt buộc. Những loài thường gặp là: E.coli, Salmonella spp,
Proteus, Streptococcus...
Gia súc bị tiêu chảy do E.coli, khi điều trị, ngoài việc dùng kháng sinh
sớm từ đầu nên dùng kết hợp một số thuốc hay hoá dược có tác dụng ức chế
sự sản sinh và ảnh hưởng của độc tố đường ruột Entrotoxin do vi khuẩn
phóng thích ra. Một số hoá dược thường dùng như: Chlopromazin hoặc
Berberin sulphate, kết hợp sử dụng dung dịch các chất điện giải như dung
dịch đường glucose, dung dịch muối natri, kali. Các dung dịch này có vai trò
quan trọng trong việc cung cấp, bổ sung lượng nước và chất điện giải bị mất
trong khi tiêu chảy (Nagy và cs, 1985 [49]).
Trong điều trị tiêu chảy cho bê nghé do vi khuẩn Salmonella gây ra
Đoàn Thị Băng Tâm (1987) [31] cho biết: ở các cơ sở chăn nuôi không có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22


điều kiện làm kháng sinh đồ, có thể tiến hành điều trị qua việc dùng các
kháng sinh và sulfamid như: Neomycin và Sulfamethyphenazol, kết hợp với
một số loại hoá dược có tác dụng cung cấp nước, chất điện giải và thuốc làm
se, dịu niêm mạc ruột.
Trong điều trị tiêu chảy, các nhà chuyên môn đã sử dụng thuốc có tác
dụng làm se niêm mạc ruột. Các cây thảo dược trong tự nhiên có chứa hoạt
chất, có tác dụng hữu hiệu trong việc phòng và trị nhiều bệnh khác nhau,
trong đó, có bệnh đường tiêu hoá ở người và động vật.
Cây, quả dược liệu có vị chát hoặc đắng như: cây sim, búp ổi, quả hồng
xiêm, chuối, ổi, lựu và nhiều loại cây quả khác có tác dụng làm se niêm mạc
ruột rất tốt, nhất là các quả này còn ở trạng thái xanh non (lượng axit tanic cao
hơn nhiều khi quả chín)
Để đề phòng tiêu chảy, trước hết khi mới đẻ ra bê nghé phải được uống
đầy đủ sữa đầu, chuồng nuôi bê nghé phải được dọn sạch sẽ hàng ngày, không
để bê nghé uống nước bẩn, nước uống cho bê nghé phải đảm bảo vệ sinh, bổ
sung các loại vitamin A, D để nâng cao sức đề kháng. Một số nước áp dụng
phương pháp sau: 1-3 ngày đầu sau khi sinh cho bê nghé uống hỗn hợp gồm
250mg Oxytetracyclin + 62.000 UI vitamin A + 6.250 UI vitamin D (2
lần/ngày), có tác dụng phòng bệnh tiêu chảy tốt. Cũng có thể dùng các loại  -
globulin miễn dịch cho bê nghé uống để chống tiêu chảy do vi khuẩn, vi rút
gây ra. (Phạm Sỹ Lăng và Lê Văn Tạo, (2002) [20]).
1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum và bệnh giun đũa ở bê nghé
Theo nhiều tác giả, một trong những nguyên nhân quan trọng gây tiêu
chảy ở bê nghé từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi là giun tròn Neoascaris vitulorum.
1.2.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Neoascaris vitulorum.
1.2.1.1. Đặc điểm hình thái của Neoascaris vitulorum.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23


Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996) [12]; Nguyễn Thị Kim Lan và cs,
1999 [13], thì giun tròn Neoascaris vitulorum có ba môi, rìa của những môi
này có răng cưa.
Giun đực không có cánh đuôi, dài 13 - 15cm, rộng nhất 0,35cm.
Giun cái dài 19 - 23cm, chỗ rộng nhất là 0,5 cm. Trứng có vỏ với nhiều
chỗ lõm nhỏ, dài 0,080-0,090 mm, rộng 0,070-0,075mm.
Prokopic,-J; Sterba,-J (1989) [51] đã quan sát giun đũa Neoascaris vitulorum
trên kính hiển vi điện tử thấy cấu trúc bề mặt của giun gồm môi, răng, gai nhỏ và
phần đuôi; ở giun non răng hình nón và nhọn chúng cao lên khi tuổi tăng lên.
Theo Taira-N; Fujita-J (1991) [60]. Từ năm 1982-1988 giun tròn đã
được tìm thấy và nghiên cứu ở hai huyện Kyushu và Okinawa, Nhật bản. Có 7
giun đực và 21 giun cái được nghiên cứu về hình thái học, cho thấy độ dài
trung bình của giun đực 15,64 cm (14,0-18,0 cm), giun cái 25,75 cm (16,5-
34,0). Thân trắng đục và mềm. Trứng giun 81,6ỡm và 71,8ỡm đường kính
rộng nhất và nhỏ nhất, bề mặt vỏ trứng trơn nhẵn, không nhăn nheo.
Ở Việt Nam, Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32],
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [21], giun đũa Neoascaris vitulorum (Goeze
1782), ký sinh ở bê nghé có kích thước: Giun đực ở nghé dài 13-15cm, đường
kính 0,3; ở bê dài 14-16 cm. Giun cái ở nghé dài 19-23 cm, đường kính 0,5
cm, trứng 70-75 x 80-90 ỡm, ở bê dài 20-26 cm, trứng (75-85 x 90-100 ỡm).
Vị trí âm hộ của giun cái là 1/8 phần trước thân, phù hợp với tài liệu mô tả
của Orlov (1970), Euzeby (1981), Khổng Phôn Giao (1957), khác với tài liệu
mô tả của Skrjabin (1950), Neveu-Lemaire (1952), Soulsby (1965), Drozdz
(1967) âm hộ ở 1/6 trước thân.
1.2.1.2. Đặc điểm vòng đời của Neoascaris vitulorum.
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], trứng giun thải
ra môi trường ở thời kỳ tiền phân là trứng không cảm nhiễm. Skjabin &
Schulz (1973) cho biết, sự phát triển của trứng đến giai đoạn cảm nhiễm (theo


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24

tài liệu của Davtian) kéo dài 12 - 13 ngày ở nhiệt độ 28-30
o
C và 17-19 ngày ở
nhiệt độ 25
o
C.
Chẩn đoán bằng cách xét nghiệm phân tìm trứng giun Neoascaris
vitulorum hoặc trên cơ sở phát hiện thấy giun tự thải ra ở trong phân.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1962) [36], trứng giun đũa ra ngoài thiên nhiên
gặp nhiệt độ nóng ẩm thích hợp thì phát triển thành phôi thai: ở nhiệt độ 15-
17
o
C thì phải 38 ngày, ở nhiệt độ 19-22
o
C thì phải sau 20 ngày. Nếu để phân
khô đi hoặc ủ phân theo phương pháp nhiệt sinh học thì trứng sẽ ngừng phát
dục. Dưới ánh nắng trực tiếp mùa hè thì một tuần, nếu ở sâu trong đất thì 12-15
ngày phôi chết, mùa đông phân khô thì sau một tháng phôi bị diệt.
Nghé đẻ ra sau 14 ngày đã có trứng giun trong phân (tức là có giun
trưởng thành trong ruột) chứng tỏ nghé bị nhiễm bệnh từ trong bào thai.
Chu kỳ phát triển trực tiếp không qua ký chủ trung gian. Giun trưởng
thành sống trong ruột non của bê nghé đẻ trứng; trứng theo phân ra ngoài,
phát triển thành phôi thai trong trứng, sau đó lại vào cơ thể con vật
Khi mới theo phân ra ngoài trứng không phân chia. Tuỳ theo điều kiện
nhiệt độ và độ ẩm bên ngoài, thời gian trứng phát triển thành trứng cảm nhiễm
có khác nhau.
Theo Soulsby (1965), ở nhiệt độ tối ưu 28-30

o
C, thời gian là 7 ngày; ở
25
o
C cần 10-11 ngày, ở 15-18
o
C cần trên 28 ngày. Trứng giai đoạn cảm nhiễm
có chứa ấu trùng giai đoạn II, có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh.
Irfan M và Sarwar M.M (1954) nghiên cứu ở Pakistan, trứng phát triển
đến giai đoạn cảm nhiễm sau 11 ngày ở 26
o
C; trứng sẽ bị thoái hoá nếu để ở
nhiệt độ 30
o
C; ở 10
o
C trứng ngừng phát triển.
Euzeby (1981) theo dõi ở Malaixia cho biết, với nhiệt độ 15-17
o
C, cần
38 ngày. Theo Orlov (1970) ở nhiệt độ 30
o
C, cần hai tuần; ở nhiệt độ 25
o
C, cần
ba tuần. Refuerzo P.G & Jemenez A (1954), quan sát sự phát triển của trứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25


giun ở Philippin cho biết, ở nhiệt độ 17
o
C phôi bắt đầu hình thành ngày thứ
sáu, hoàn thành vào ngày thứ chín và có khả năng gây bệnh ở ngày thứ 13-15.
Trứng giun cảm nhiễm có sức đề kháng cao với một số hoá chất cũng
như yếu tố vật lý. Khi trứng ở trong phân thì trứng có sức đề kháng cao đối
với một số chất sát trùng.
Refuerzo P.G & Jemenez A (1954) đã làm thí nghiệm về sức đề kháng
của trứng giun đũa ở Philippin, thấy trứng có sức đề kháng kém dưới ảnh
hưởng trực tiếp của ánh nắng mặt trời; Trứng trong phân thì tồn tại lâu hơn và
còn phụ thuộc vào khối lượng cục phân. Nước nóng có tác dụng diệt phôi thai
rất nhanh, nếu ở trong phân thì tác dụng hạn chế; Với nước nóng 90-100
o
C
trứng đã phân lập ra bị hỏng sau 2 giây, phôi bị huỷ, nhưng nếu ở trong phân
thì chỉ ở lượt ngoài trứng bị hỏng.
Đối với một số chất sát trùng thông thường như Lysol 2%, Zyphen 4-
5%, sau 17-20 giây phôi bị huỷ hoàn toàn, nhưng ở trong phân thì phôi không
bị diệt. Phạm Chức (1986) [4] cũng cho biết, Lysol 5% diệt trứng giun đũa
trong một giờ; Axit phêníc 5% diệt trứng trong thời gian 45 phút đến một giờ.
Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [32], trứng giun đũa
phát dục thành phôi thai trong khoảng 20 ngày ở nhiệt độ 19-22
o
C, nhưng
phải cần 38 ngày ở nhiệt độ 15-17
o
C.
Dương Công Thuận đã lấy phân của bê nghé bị nhiễm giun đũa có
trứng nhiều, trộn với nước để giữ ẩm, cho vào đĩa Pettri, để ở nhiệt độ trong
phòng khoảng 15-22

o
C (tháng 10-11), thì trứng phát triển thành phôi thai sau
20 ngày, ở nhiệt độ 15-17
o
C phôi hình thành sau 38 ngày.
Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1999) [19] cho biết, con cái đẻ trứng
ở ruột non, theo phân ra ngoài, gặp nhiệt độ thích hợp trứng phát triển thành
trứng có khả năng gây bệnh (nhiệt độ 15-17
o
C cần 38 ngày, 19-22
o
C cần 20
ngày, 25
o
C cần 10-12 ngày, 28-30
o
C cần 65 ngày, nhưng khi nhiệt độ đến 34-
35
o
C thì trứng không phát triển). Khi bê nuốt trứng giun đũa có khả năng gây

×