Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Tài liệu Bành trướng toàn cầu – những ưu điểm lớn ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.41 KB, 2 trang )

Bành trướng toàn cầu – những ưu điểm lớn

Bành trướng toàn cầu là một giải pháp tốt cho những công ty có quy mô
lớn. Nó giúp cho các công ty đa quốc gia tiêu chuẩn hoá thị trường và sản phẩm,
song song đó là phát huy hiệu quả giảm chi phí theo quy mô.
Bành trướng ra toàn cầu bao gồm việc tạo lập những hoạt động và lợi ích
đáng kể ở bên ngoài quốc gia của công ty. Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc xem
xét bành trướng ra toàn cầu có thể cộng thêm giá trị cho công ty như thế nào, từ đó
có thể gia tăng đến mức tối đa lợi tức dài hạn.
1. Mở rộng thị trường
Bành trướng ra toàn cầu là một cách để vượt qua những hạn chế của thị
trường nội địa đối với sự phát triển của công ty. Nhiều công ty thích dùng cách
này hơn là đa dạng hoá thành nhiều hoạt động mới. Đây cũng là một phương pháp
để tiếp tục phát triển với tốc độ đã có khi thị trường nội địa đang vào vào giai đoạn
bão hoà. Thay vì đa dạng hoá, họ thích đầu tư tài nguyên vào một con đường kinh
doanh quen thuộc mặc dù khung cảnh là một nước lạ. Ví dụ: việc bành trướng ra
toàn cầu của McDonal’s mới đây là do sự suy giảm tốc độ phát triển của ngành
thức ăn nhanh tại Hoa Kỳ. Với một ít cơ sở còn lại, mức độ phát triển trung bình
của ngành chỉ là 1%, cộng thêm với sự cạnh tranh gay gắt của Burger King và
Wendy’s International Inc. càng làm hạn chế những cơ hội để đầu tư có lợi. Để đối
phó lại, McDonal’s đẩy mạnh sự bành trướng ra toàn cầu: 50% những cơ sở mới
của McDonal’s là ở nước ngoài. Trong trường hợp này, giá trị mới được tạo ra
bằng cách chuyển giao những kỹ năng đạt được ở thị trường nội địa của công ty để
rút lấy tiềm năng sinh lợi của những thị trường mới ở nước ngoài mà phần lớn là
chưa được khai thác.
2. Bù đắp các chi phí đầu tư
Nếu không có những thị trường toàn cầu, một số công ty khó có thể bù đắp
lại các chi phí đã bỏ ra đầu tư để phát triển sản phẩm. Các công ty dược phẩm
thường phải tốn từ 50 triệu USD đến 100 triệu USD để tung một loại thuốc ra thị
trường. Để bù đắp chi phí này, các công ty dược phẩm phải cần đến những thị
trường toàn cầu vì nếu chỉ hoạt động trong thị trường nội địa thôi không thì quá


nhỏ. Tương tự như vậy, nếu không có các thị trường toàn cầu, các nhà máy chế tạo
máy bay có lẽ không thể bù đắp nổi hàng tỷ USD chi phí cần thiết bỏ ra để sản
xuất một kiểu máy bay mới. Như vậy chứng tỏ, các thị trường toàn cầu có thể là
cần thiết để thâu đạt được toàn bộ số tiền đầu tư vào việc phát triển sản phẩm.
3. Thực hiện hiệu quả giảm chi phí theo quy mô
Bằng cách tung một sản phẩm tiêu chuẩn ra thị trường toàn cầu và bằng
việc chế tạo sản phẩm đó tại một nơi duy nhất, một công ty toàn cầu có thể đạt
được hiệu quả giảm chi phí nhờ số lượng toàn cầu. Điều này không thể được đối
với các công ty nội địa nhỏ hơn. Ví dụ: bằng cách sử dụng các phương tiện sản
xuất tập trung và các chiến lược tiếp thị toàn cầu, Sony đã giành giật thị phần trên
thị trường tivi toàn cầu ra khỏi tay các đối thủ cạnh tranh như Philip NV, RCA và
Zenith. Cũng như vậy, các nhà chế tạo linh kiện điện tử của Nhật như NEC
Corporation bắt đầu khống chế thị trường toàn cầu với một sản phẩm tiêu chuẩn
sản xuất với số lượng khổng lồ, họ có thể vượt qua bằng kinh nghiệm và đạt được
hiệu quả giảm chi phí đáng kể so với các đối thủ.
Tìm vùng chi phí thấp ở nước sở tại như thế nào?
Sẽ rất có lợi nếu một công ty đặt ra những phương tiện sản xuất tại vùng
nào trên thế giới có chi phí điều hành thấp nhất, ngay cả khi điều này có nghĩa là
trực tiếp xuất khẩu ngược trở lại quốc gia gốc của công ty. Những yếu tố quyết
định các khu vực hứa hẹn nhất cho việc sản xuất trên quy mô toàn cầu là: chi phí
lao động rẻ, chi phí năng lượng tương đối thấp, sự đạt đến kiến trúc hạ tầng cần
thiết cho công ty. Ví dụ: vào những năm 90, các chi nhánh châu Âu của Ford và
GM bắt đầu chuyển phần lớn cơ sở sản xuất từ Tây Đức qua Anh vì tiền công lao
động ở Anh rẻ hơn ở Tây Đức đến 45%, trong khi năng suất của công nhân Anh
tăng mỗi năm trung bình từ 10% đến 12% so với 8% ở Tây Đức.

×