HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH VÀ LIÊN HỆ
VỚI THỰC TRẠNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn : TS. Võ Minh Tuấn
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Thị Hương Ly
Lớp
: K22CLCB
Mã sinh viên
: 22A4010299
Hà nội, ngày 8 tháng 10 năm 2020
MỤC LỤC
3
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là một môi trường thân thuộc đối với tất cả mọi người. Trải qua nhiều
thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá
trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc. Những giá trị truyền thống
quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy
chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên
cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được Việt Nam gìn giữ, vun đắp và
phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước.
Có thể nói, gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và thời đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói: “ rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại
mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, hạt nhân
của xã hội là gia đình”. Đúng vậy, vấn đề gia đình trong những năm trở lại đây nổi
lên như một tiêu điểm trọng yếu được cả giới hàn lâm và giới chính trị quan tâm. Ở
Châu Á nói riêng, người ta nói nhiều đến gia đình, văn hố gia đình như một giải
pháp để ngăn trở sự xâm lăng của văn hoá phương Tây. Và đặc biệt hơn, Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới tác động của nhiều yếu tố khách
quan: phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cơng
nghiệp hố – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, xu hướng tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế... gia đình Việt Nam đã có sự biến đổi tương đối tồn diện cả
về cấu trúc và quan hệ nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia đình
vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước. Với mục đích lớn nhất nhằm mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
cho từng gia đình. Xuất phát từ bối cảnh trên, em đặt ra câu hỏi: thực trạng gia
đình Việt Nam biến đổi trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội như thế nào,
những thách thức gì đang đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay?
Với mục đích đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên, em xin chọn đề tài: “ Lý
luận chung về gia đình và liên hệ với thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay” cho
bài tiểu luận của mình. Với kiến thức đã được học cộng với tinh thần ham học hỏi,
em hy vọng bài tiểu luận này sẽ đưa ra được những câu trả lời xác đáng cho vấn đề
được đặt ra.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1.
4
Tiểu luận này được viết ra nhằm làm rõ vị trí và chức năng vơ cùng quan trọng
của gia đình trong xã hội, để từ đó xác định mục tiêu và đề ra những giải pháp xây
dựng gia đình. Thực hiện được điều đó là góp phần vào cơng cuộc xây dựng đất
nước trong việc bồi dưỡng nhân tài, gây dựng đội ngũ lao động có trí tuệ, có nhân
cách.. một cách bền vững từ đó hướng đất nước đến gần nhất những mục tiêu của
mình.
Để đạt được mục đích này, đề tài sẽ phải giải quyết những nội dung sau:
3.
Làm rõ khái niệm gia đình
Thấy được mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
Nhận thức được vị trí của gia đình trong xã hội
Chỉ rõ chức năng của gia đình với xã hội
Tìm hiểu thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay từ đó đề ra một số giải pháp
khắc phục những tiêu cực còn tồn tại
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vị trí và chức năng của gia đình trong xã hội
Gia đình Việt Nam hiện nay
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam, giai đoạn hiện nay
4.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: quan điểm của chủ nghĩa Mác – Leenin về gia đình và xây dựng gia
đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với
các phương pháp như: thống nhất logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái qt
hóa và hệ thống hóa.
5.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Khẳng định vai trò quan trọng của gia đình đối với cá nhân và
tồn xã hội
5
Ý nghĩa thực tiễn: Sinh viên có kỹ năng, phương pháp khoa học trong nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề gia đình và xây dựng gia
đình, từ đó có nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Từ nhận thức đúng đắn, sinh viên
sẽ có thái độ và hành vi mang tính trách nhiệm hơn về vấn đề xây dựng gia đình,
xây dựng mối quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội.
PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Vị
1.1.
trí và chức năng của gia đình trong xã hội
Khái niệm gia đình
Gia đình – hai tiếng thân thương đó đã in sâu vào trái tim mỗi người từ khi
ta cịn tấm bé. Đó chính là nơi mỗi người sinh ra và lớn lên, có tác động to lớn đến
sự hình thành nhân cách của cá nhân cũng như sự phát triển của xã hội.
Vấn đề gia đình từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau. Do đó, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về gia đình.
Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý một số khái niệm sau về gia đình.
Khi đề cập đến gia đình, C.Mác và Ph.Angghen đã cho rằng: “ Quan hệ thứ
ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra
đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác,
sinh sơi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là
gia đình”
Như vậy, theo khái niệm này, gia đình là một cộng đồng xã hội có gắn bó về
quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.
Theo Liên Hợp Quốc thì gia đình là một đơn vị được quy định thơng qua
mối liên hệ của cá nhân nói lên sự tái sản xuất thế hệ sau ở mức độ mà
những mối liên hệ này được những quy phạm và thủ tục pháp lý phê chuẩn.
Như vậy, trong khái niệm về gia đình của Liên Hợp Quốc có thêm vấn đề pháp
lý, như được Nhà nước bảo hộ. Đó là cơ sở quy phạm pháp luật của Liên Hợp
6
Quốc. Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, có cuộc sống chung, có
ngân sách chung.
Nhà tâm lý học Ngơ Cơng Hồng khi bàn về vấn đề gia đình thì cho rằng:
“gia đình là một nhóm nhỏ xã hội có quan hệ gắn bó về hơn nhân và huyết
thống, tâm sinh lý, có chung gia đình vật chất và tinh thần ổn định trong các
thời điểm lịch sử”
So với hai khái niệm trên thì khái niệm thứ ba này có thêm khía cạnh về quan
hệ kinh tế ( vật chất ) và tinh thần ( tình cảm ) giữa các thành viên trong gia
đình.
Tóm lại, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và
quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các
thành viên trong gia đình.
1.2.
Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
Trong gia đình có hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ
huyết thống. Hai mối quan hệ này được cụ thể hóa là mối quan hệ giữa vợ và
chồng; giữa cha mẹ và con cái.
Mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ cơ bản, nền tảng hình thành
nên các mối quan hệ khác trong gia đình, vì cơ bản gia đình hạnh phúc khi duy trì
được mối quan hệ trong hơn nhân. Quan hệ vợ chồng phải dựa trên tình nghĩa thủy
chung, thương yêu, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc và cùng nhau xây dựng gia đình
hạnh phúc.
Mối quan hệ huyết thống là mối quan hệ giữa những người cùng một dòng
máu, nảy sinh từ mối quan hệ hôn nhân. Đây là mối quan hệ tự nhiên, là yếu tố
mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau. Cha mẹ phải ln
chú ý lời ăn tiếng nói cũng như tác phong làm việc của mình để làm gương cho con
cái noi theo. Con cái phải ln hiếu kính, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, làm tròn
nghĩa vụ và trách nhiệm của một người con.
7
Ngồi ra, gia đình cịn bao gồm nhiều mối quan hệ khác nhau như quan hệ
khác như giữa ông bà và cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cơ, dì, chú bác
với cháu.
Có thể nói mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đều được bắt
nguồn từ quan hệ hôn nhân và huyết thống. Đây là thứ tình cảm thiêng liêng và cao
cả mà khơng một cộng đồng xã hội nào thay thế được. Đây là mối quan hệ bền
vững, lâu dài, không thể phá vỡ của cả đời người.
1.3.
Vị trí của gia đình trong xã hội
a, Gia đình là tế bào của xã hội, là đơn vị nhỏ nhất đầu tiên của con người, trong
đó con người gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ hôn nhân (vợ, chồng) và huyết
thống (cha mẹ và con cái). Giữa xã hội và gia đình có mối quan hệ biện chứng; xã
hội tốt thì gia đình càng tốt. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt; gia đình mang bản chất
xã hội sâu sắc.
Những điều kiện kinh tế - xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định nó
quy định tính chất và kết cấu của gia đình. Gia đình là một yếu tố năng động, nó
khơng bao giờ đứng ngun một chỗ, mà chuyển từ hình thức thấp lên hình thức
cao khi xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn cao.
Khơng có gia đình thì khơng có lịch sử phát triển của xã hội, cịn xã hội lồi
người thì cịn gia đình. Bất cứ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải cần
đến 2 loại sản phẩm : Một là, phải sản xuất ra thức ăn, vật dụng và những công cụ
cần thiết để sản xuất ra những thứ đó - tức là sản xuất ra tư liệu tiêu dùng và tư liệu
sản xuất; hai là sản xuất ra con người để duy trì nồi giống và tái sản xuất lực lượng
lao động cho xã hội. Gia đình là chức năng tái tạo ra con người, tái tạo ra sức lao
động đã tham gia ngay từ đầu vào cả hai q trình sản xuất đó.
b, Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá
nhân của mỗi thành viên
Gia đình là nơi chủ yếu để con người lao động và nghỉ ngơi, cống hiến và
hưởng thụ, đóng góp cho xã hội trong suốt cuộc đời này. Sự yên ổn, hạnh phúc của
8
mỗi gia đình là điều kiện, tiền đề quan trọng góp phần cho việc hình thành và phát
triển nhân cách đảm bảo cho mỗi thành viên đóng góp hiệu quả cho hoạt động xã
hội.
c, Gia đình là khâu trung gian nối liền giữa mọi thành viên trong gia đình với xã
hội.
Gia đình là thiết chế cơ sở vận động, biến đổi tuân theo những quy luật
chung của xã hội. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi còn trên cơ sở kế thừa các
giá trị văn hóa truyền thống của mỗi nền văn hóa, vùng, địa phương khác nhau.
Thơng qua thiết chế hoạt động của gia đình, cá nhân được chuẩn bị để tiếp nhận
hoặc phản ứng sự tác động của xã hội. Có thể nói cá nhân “bước ra” hịa nhập vào
xã hội thơng qua gia đình.
1.4.
Chức năng cơ bản của gia đình
Một là, chức năng tái sản xuất ra con người, tái tạo và bảo dưỡng sức lao
động cho xã hội. Đây là chức năng xã hội quan trọng của con người và gia đình.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc thực hiện chức năng này của gia
đình diễn ra theo hướng ngày càng tăng cường sự kết hợp gia đình, xã hội theo sự
định hướng của xã hội nhằm bảo đảm cho mỗi gia đình có cuộc sống ấm no hạnh
phúc, trẻ em trong mọi gia đình đều đựơc học hành, nền tảng cho xã hội ngày càng
phát triển.
Sinh đẻ có kế họach đang là một yêu cầu của xã hội ta hiện nay, đồng thời
còn là yêu cầu và tiền đề cho gia đình ni dưỡng con cái ngày càng tốt hơn. Thực
sự tốt vấn đề này là gia đình đã đóng góp một phần quan trọng là cho xã hội phát
triển.. Cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch và kế hoạch hóa gia đình ở nước ta hiện
nay chính là nhằm giúp để cho gia đình thực hiện tốt, chức năng xã hội quan trọng
nào, đồng thời có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội của
đất nước.
Hai là, chức năng nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ con cháu thành những công
dân tốt cho xã hội. Đây cũng là chức năng xã hội vốn có của gia đình dưới CNXH,
9
lợi ích gia đình, về căn bản gắn bó với lợi ích xã hội, trẻ em thật sự trở thành tương
lai của xã hội. Do vậy, chăm lo bồi dưỡng , giáo dục con cái trở thành những công
dân tốt cho xã hội khơng chỉ là tình cảm ruột thịt, mà cịn là trách nhiệm nghĩa vụ
của gia đình đối với xã hội. Làm tốt chức năng này cũng chính là vì hạnh phúc của
mỗi gia đình. Chính vì sớm nhìn thấy vai trị nền tảng của gia đình và mối liên hệ
hữu cơ giữa gia đình và xã hội, Chủ tịch Hồ chủ tịch đã chỉ rõ: Rất quan tâm đến
gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Xã hội tốt thì gia đình
càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Ba là, chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng: Đây là chức năng quan trọng
của gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Bởi vì, thực hiện tốt được chức năng
này, gia đình chẳng những có được những điều kiện vật chất để tổ chức tốt đời
sống, nuôi dạy và giáo dục con cái tốt hơn, mà gia đình góp phần to lớn vào sự
nghiệp xây dựng CNXH, bằng những việc làm cụ thể. Đồng thời tổ chức tốt đời
sống gia đình chính là việc sử dụng một cách hợp lý các khoản thu nhập của các
thành viên trong gia đình và quỹ thời gian nhàn rỗi, nhằm tạo ra một mơi trường
văn hố lành mạnh trong gia đình, trong đó tình cảm ruột thịt, quyền lợi vật chất
của mỗi thành viên được bảo đảm.
Bốn là, chức năng thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình:
Các thành viên trong gia đình cần có sự hiểu biết tâm – sinh lý, sở thích của nhau
để ứng xử cho phù hợp chân thành và tế nhị, tạo bầu khơng khí tinh thần ổn định,
vui tươi, hạnh phúc. Cần biết sống và tổ chức cuộc sống gia đình, chủ yếu là xử lý
các mối quan hệ: Quan hệ Vợ – chồng; Cha mẹ – Con cái; Ông bà – Cháu chắt;
Cha mẹ vợ - Cha mẹ chồng, sao cho dân chủ, bình đẳng, hồ thuận. Thơng qua
việc thực hiện những chức năng trên, gia đình tồn tại và phát triển, đồng thời tác
động đến tiến bộ xã hội. Ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, những nội dung của
mỗi chức năng được biến đổi phù hợp với những điều kiện cụ thể.
2. Cơ sở
2.1.
Cơ
xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
sở kinh tế - xã hội
Thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chế độ áp bức bóc lột dần được
xóa bỏ, giải phóng phụ nữ , đời sống tinh thần được nâng cao, xã hội hoàn thiện
10
từng bước quan hệ sản xuất mới, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, cải
tạo xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế quốc dân tạo điều kiện để xây dựng gia đình
mới.
Khi thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động trong cơ chế
thị trường tạo điều kiện cho gia đình phát huy mọi tiềm năng. Đó là tiền đề, cơ sở
để gia đình phát huy giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống khắc phục những hạn
chế để xây dựng gia đình mới.
2.2.
Cơ sở
- Về chính
chính trị - xã hội – văn hóa
trị: Nhà nước XHCN ra đời làm cho nhân dân lao động trở thành
người chủ xã hội. Nhà nước cùng tồn dân chăm lo xây dựng gia đình, coi
việc xây dựng gia đình là một trong những nội dung quan trọng của sự
nghiệp xây dựng CNXH
- Về xã hội: hệ thống chính sách được xây dựng, đặc biệt là luật hơn nhân gia
đình đã đóng vai trị quan trọng trong việc định hướng, thúc đẩy quá trình
xây dựng gia đình mới
- Về văn hóa: việc nâng cao dân trí, thường xun giáo dục giới tính, giáo dục
tình u – hơn nhân – gia đình đang ngày càng được coi trọng. Những nhận
thức mới làm nền tảng cho sự hình thành những giá trị, những chuẩn mực
mới làm mọi người có ý thức, trách nhiệm hơn trong việc xây dựng gia đình
mới
2.3.
Chế độ hơn nhân tiến bộ
- Hơn nhân tự nguyện: Là hơn nhân xuất phát từ tình u giữa nam và nữ, dựa
trên cơ sở tình u chứ khơng phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một sự
tính tốn nào khác. Hơn nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự
do lựa chọn người kết hôn, không như trong xã hội cũ cha mẹ đặt đâu con
ngồi đó.
- Hơn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng: Là kết quả tất yếu của
hơn nhân xuất phát từ tình u. Là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, là
sự giải phóng đối với người phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tơn trọng lẫn
nhau giữa vợ và chồng. Hai người có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về
mọi vấn đề trong cuộc sống trong gia đình nên cần phải cùng nhau chia sẻ,
giải quyết để xây dựng gia đình hạnh phúc.
11
-
Hôn nhân được bảo đảm về pháp lý: Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn
nhân là thể hiện sự tơn trọng trong tình u, trách nhiệm giữa nam và nữ,
giữa cá nhân với gia đình và xã hội. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn
nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng mà nó
là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.
PHẦN 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN
3.1. Những biến đổi chức năng gia đình trong thời kì quá độ lên CNXH ở
Việt Nam
Thứ nhất, về chức năng tái sản xuất ra con người, đại bộ phận người dân
Việt Nam vẫn cho rằng sinh con là một chức năng quan trọng của gia đình. Tuy
nhiên, đã có một sự chuyển đổi nhận thức rất rõ về số con. Theo kết quả điều tra
gia đình Việt Nam năm 2006, tỉ lệ người đồng ý rằng gia đình phải có nhiều con
chiếm tỉ lệ khá thấp (18,6% người cao tuổi, 6,6% người độ tuổi 18 - 60 và 2,8% vị
thành niên), quan niệm “gia đình nhất thiết phải có con trai” vẫn được một bộ phận
đáng kể người dân ủng hộ (gần 37% người độ tuổi 18 - 60), trong đó nhóm dân số
nghèo có nhu cầu sinh con trai nhiều hơn nhóm dân số giàu (45,5% ở nhóm có thu
nhập thấp nhất, 26% ở nhóm có thu nhập cao nhất). Lí do để giải thích vì sao phải
có con trai chủ yếu vẫn là “để có người nối dõi tơng đường” (85,7%), “để có nơi
nương tựa lúc tuổi già” (54,2%) và “để có người làm việc lớn, việc nặng” (23,4%)
… Tuy nhiên, đã có khoảng 63% người trong độ tuổi 18 - 60 cho rằng khơng nhất
thiết phải có con trai. Kết quả phân tích cho thấy đại bộ phận người dân đã tự nhận
thức được giá trị của con cái trong cuộc sống gia đình nói chung, chứ khơng chỉ
đơn thuần thực hiện theo quy định của chính sách dân số.
Thêm vào đó, cho đến nay cấu trúc xã hội và quan điểm giá trị liên quan đến
vấn đề sinh sản và quan hệ tình dục cũng đã có sự thay đổi. Sự tự do trong việc
mang thai và sinh sản do các tiến bộ của y học mang lại cho con người, sự tự do
trong quan hệ tình dục nhờ vào sự phát triển của các phương pháp tránh thai và các
loại dịch vụ liên quan đến tình dục… đã góp phần mang lại sự thay đổi trên. Giờ
12
đây tình dục khơng chỉ mang ý nghĩa là một phương cách của việc sinh sản mà còn
là sự thể hiện của nhu cầu thể xác tự nhiên của loài người. Đời sống tình dục thỏa
mãn đang trở thành nhân tố chính trong việc làm tăng mức độ thỏa mãn trong đời
sống hôn nhân.
Thứ hai, về chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng, đối với gia đình truyền
thống Việt Nam, người đàn ông được xem là trụ cột kinh tế của gia đình theo quan
niệm “đàn ơng xây nhà đàn bà xây tổ ấm”. Tuy nhiên, dưới tác động của thế giới
hiện đại, quan niệm này ít nhiều đã thay đổi. Giờ đây, người phụ nữ cũng có vai trò
quan trọng trong việc quyết định thu nhập và mức sống của gia đình. Người phụ nữ
khơng cịn quanh quẩn ở không gian ruộng vườn, bếp núc nữa. Họ đã dịch chuyển
ra không gian xã hội với nhiều điều khác lạ, mới mẻ hơn. Theo kết quả Tổng điều
tra dân số và nhà ở do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2019 thì phụ nữ chiếm
50,2% dân số, 49% lực lượng lao động ( tương đương với nam giới ), điều đó có
nghĩa là phụ nữ cũng kiếm được tiền và đóng góp cho gia đình, vị thế của người
phụ nữ cũng từ đó được nâng cao. Họ có tiếng nói và đóng góp ý kiến cũng như
quyền quyết định những việc quan trọng trong gia đình.
Khơng chỉ vậy do q trình cơng nghiệp hóa mà gia đình và nơi làm việc bị
tách rời nhau về mặt không gian, theo đó chức năng sản xuất của gia đình cũng suy
giảm hoặc mất đi và chức năng tiêu dùng được tăng cường. Điều này có thể dẫn
đến lối sống của gia đình được quyết định tùy thuộc vào cơng việc hay mức thu
nhập của các thành viên trong gia đình và tiêu chuẩn tiêu dùng của gia đình có ảnh
hưởng trực tiếp đến mức độ thỏa mãn sinh hoạt của gia đình. Đối với trường hợp
của các gia đình ở nơng thơn thì chức năng sản xuất và chức năng tiêu dùng của
gia đình khơng bị phân chia rạch ròi nhưng dưới cơ chế xã hội lấy việc sản xuất
phục vụ cho sự trao đổi thì việc xản xuất tự cung tự cấp của gia đình cũng bị suy
giảm.
Tóm lại, khi các hoạt động sản xuất kinh doanh do gia đình như một đơn vị
kinh tế thực hiện có xu hướng giảm thì các hoạt động kinh tế do cá nhân thực hiện
ngồi gia đình sẽ tăng lên, ví dụ như: làm công ăn lương… Xu hướng cá nhân hóa
các nguồn thu nhập của các thành viên trong gia đình dẫn đến chỗ phạm vi hoạt
13
động của gia đình như một đơn vị kinh tế thu hẹp lại. Chức năng kinh tế của gia
đình bộc lộ rõ hơn ở các hoạt động tiêu dùng hơn là các hoạt động tạo thu nhập.
Thứ ba, về chức năng giáo dục, chức năng này được tăng cường hơn bao giờ
hết và trở thành một trách nhiệm nặng nề mà gia đình phải gánh vác. Trong q
trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, nhu cầu về nguồn lao động có tay nghề tăng
cao nên địi hỏi nguồn nhân lực phải đáp ứng đầy đủ các tư chất cần thiết. Do đó,
tiêu chuẩn của việc dưỡng dục con cái cũng tăng theo. Sự cạnh tranh ngày càng
gay gắt đã làm tăng kì vọng xã hội đối với tiêu chuẩn chất lượng của việc dưỡng
dục con cái. Đây cũng chính là lí do chính thu hút sự quan tâm của cha mẹ đối với
việc học của con cái. Tuy nhiên, sự quan tâm này không giống nhau giữa các khu
vực, vùng, miền và dân tộc. Cha mẹ ở thành thị chăm lo đến việc học của con cao
hơn so với nơng thơn. Tây Bắc là vùng có tỉ lệ cha mẹ ít quan tâm hơn so với các
vùng cịn lại, người Hmơng là dân tộc có tỉ lệ cha mẹ quan tâm tới việc học của
con cái thấp nhất. Ngoài ra cũng cần phải chú ý đến những dữ kiện sau: các nhóm
cha mẹ có học vấn cao và có thu nhập cao thì mức độ quan tâm đến việc học của
con nhiều hơn và trẻ em ở độ tuổi 7 - 14 thì nhận được sự quan tâm của cha mẹ đến
việc học hơn là trẻ em trong độ tuổi 15 - 17. Thêm vào đó, chúng ta cần phải thấy
rằng trong quá trình xã hội biến đổi nhanh chóng, trong gia đình đang nảy sinh
nhiều xáo trộn trong chức năng dưỡng dục con cái và xã hội hóa. Hiện tượng gia
đình hạt nhân làm chặn đứng cơ hội truyền thụ những hiểu biết về việc nuôi dạy
con cái từ thế hệ ông bà cho thế hệ cha mẹ. Thế hệ trẻ mới lập gia đình cho dù có
nhận được sự giúp đỡ của bố mẹ nhưng họ vẫn bộc lộ những bất đồng thế hệ, xung
quanh việc nuôi dạy con cái vì giới trẻ ngày nay trơng cậy vào tri thức khoa học và
chuyên môn hơn là dựa vào sự hiểu biết của thế hệ cha mẹ.
Thứ tư, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm, chức
năng này dần dần đang được xem trọng. Ở các gia đình phương Tây, khi tình yêu
vợ chồng đã nguội lạnh thì họ sẽ chia tay nhau do “khơng có lí do nào buộc họ
phải sống với nhau”. Gia đình ở Việt Nam thì khơng giống như vậy. Hầu hết các
gia đình ở Việt Nam vẫn cịn tồn tại vững chắc đặc tính “gia đình chế độ” - tức là,
người vợ kì vọng vào vai trị trụ cột về kinh tế và vai trò làm cha của người chồng
hơn là kì vọng vào tình yêu và sinh hoạt tình dục của vợ chồng. Cịn người chồng
14
thì ưu tiên kì vọng vào vai trị quản gia tài giỏi, đảm đang và vai trò làm mẹ của
người vợ. Tuy nhiên, cũng khơng ít biểu hiện cho thấy rằng, ở thế hệ trẻ, số người
cho rằng quan hệ vợ chồng quan trọng hơn quan hệ giữa cha mẹ và con cái ngày
càng tăng lên.
Trong đời sống tinh thần, tình cảm của gia đình thì việc con cái đã tách hộ
về thăm hỏi cha mẹ là tập quán phổ biến ở nước ta. Khơng phải chỉ có con cháu là
chỗ dựa của cha mẹ mà cha mẹ cũng là chỗ dựa cho con cháu trong cuộc sống
hàng ngày. Trên 90% người cao tuổi cho biết họ hỗ trợ con cháu mình ít nhất một
trong các hoạt động sau: về kinh tế - góp phần tạo ra thu nhập và cấp vốn cho con
cháu làm ăn, về kinh nghiệm - quyết định các việc quan trọng của gia đình hay chia
sẻ kinh nghiệm làm ăn, ứng xử xã hội và dạy dỗ con cháu, về chăm sóc gia đình nội trợ và chăm sóc cháu nhỏ. Nhiều người cho rằng bây giờ con cháu lo toan cho
bố mẹ về vật chất nhiều hơn và đầy đủ hơn, còn việc trực tiếp trị chuyện, hỏi han
thì ít hơn trước. Có 37,5% người cao tuổi cho biết họ thường trò chuyện, tâm sự
chuyện vui buồn với vợ hoặc chồng của mình; 24,8% tâm sự, trò chuyện với con
và 12,5% tâm sự với bạn bè, hàng xóm.
3.2. Thực trạng thực hành “đạo hiếu” ở gia đình Việt Nam hiện nay
Gia đình truyền thống Việt Nam hình thành trong chế độ phong kiến với tư
tưởng Nho giáo chi phối, nên theo lễ nghĩa Nho giáo lấy “Hiếu” làm nội dung cốt
lõi, coi trọng việc giáo dục trong gia đình hay cịn gọi là gia giáo, coi trọng quyền
gia trưởng của người đàn ông trụ cột. Như vậy, nếu bỏ qua những hạn chế thì gia
đình truyền thống có những giá trị nhất định, góp phần tích cực trong việc xây
dựng một thiết chế xã hội nhỏ nhất – gia đình ổn định, hài hịa tạo cơ sở cho xã hội
phát triển. Thực chất, thực hiện tốt chữ “Hiếu” chính là giải quyết tốt mối quan hệ
người với người trong gia đình dựa trên cơ sở huyết thống gần. Gia đình truyền
thống bắt buộc mỗi người thực hiện tốt chữ “Hiếu” để bảo đảm gia đình ổn định,
mà gia đình ổn định là cơ sở để xã hội ổn định. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản
của mỗi con người, cũng như việc ứng xử giữa các thành viên trong gia đình là cơ
sở xây dựng quan hệ ứng xử trong xã hội như: Kính trên, nhường dưới, tôn trọng
phép tắc cộng đồng,...
15
Như đã phân tích ở trên, gia đình Việt Nam có những biến đổi rất lớn. Đặc
biệt, chữ “Hiếu” có nguy cơ, thách thức bị mai một. Hiện nay, tình trạng người già
bị ngược đãi xảy ra ngày càng nhiều. Nhiều đứa con bất hiếu đã thẳng tay đuổi bố
mẹ già ra khỏi nhà, thậm chí đánh đập dã man người đã mang nặng đẻ đau... vì coi
họ là gánh nặng. Người già không nơi nương tựa phải vào trung dưỡng lão, lang
thang tạo ra một áp lực rất lớn cho công tác an sinh xã hội.
Theo điều tra của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, hiện nay có 4,8% số
người được hỏi không đồng ý sống cùng bố mẹ khi họ già yếu; 10,4% số người
lưỡng lự “nửa đồng ý, nửa khơng đồng ý”. Việc chăm sóc bố mẹ khi già yếu đã
được thị trường hóa cùng với sự ra đời của các Trung tâm bảo trợ xã hội và dịch vụ
thuê người giúp việc chuyên nghiệp hoặc nhờ người thân thích giúp rồi trả tiền thù
lao theo cơ chế thị trường. Ban đầu Trung tâm bảo trợ xã hội có chức năng, nhiệm
vụ chăm sóc người già cơ đơn, khơng nơi nương tựa nhưng sau đó do nhu cầu, một
số con cái vì nhiều lý do khác nhau đã gửi cha mẹ vào thuê người chăm sóc. Việc
làm này xét về mặt ý tưởng là tốt, đáng hoan nghênh, song xét phương diện tâm lý
- xã hội thì cũng đáng bàn, xã hội chưa hoặc khơng đồng tình.
Th người giúp việc chăm sóc cha mẹ cũng đang là một cái “mốt thời
thượng” đối với những gia đình có điều kiện kinh tế hiện nay. Việc làm này biểu
hiện sự quan tâm của con cái đến cha mẹ, song chỉ là về phương diện “dịch vụ”
đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của người già mà không thay thế được con cái về
mặt tình cảm, tâm lý. Trong thực tế, nhiều người con ỷ vào người giúp việc, nên ít
thăm hỏi cha mẹ, làm cha mẹ tự ái, mặc cảm, cô đơn, dẫn đến suy sụp tinh thần,
ảnh hưởng sức khỏe.
Đây cũng là một đặc điểm của xã hội hiện đại. Con người luôn bận rộn, hối
hả, áp lực cơng việc, tiền bạc, con cái khơng cịn thời gian quan tâm, hỏi han cha
mẹ. Người già sinh hoạt phải có giờ giấc, trong khi đợi con cái về, 7-8 giờ tối mới
được ăn cơm. Các con đi làm cả ngày, nếu như ở những vùng nông thôn, các cụ
cịn có thể đi xung quanh thơn xóm và có người trò chuyện cùng; còn ở thành phố
lớn như Hà Nội, con cái chỉ có thể khóa cửa để các cụ trong nhà một mình vì lo
người già lớn tuổi, lơ đễnh đi ra ngoài đường nguy hiểm, rồi lỡ qn khóa cửa thì
16
lại mất toi công sức làm ăn cả mấy năm trời. Lâu ngày các cụ cũng sinh buồn chán
vì khơng có ai nói chuyện cùng, nên các cụ thường thích ở viện dưỡng lão hơn ở
nhà.
Quan niệm chữ “ Hiếu” trong xã hội hiện đại cũng khác rất nhiều. Trước
đây, con cái hiếu lễ là phục tùng răm rắp kiểu “con cãi cha mẹ trăm đường con hư”.
Còn giờ, con cái không cần nghe theo lời và làm theo cha mẹ hoàn toàn nữa, họ
làm theo cái đúng. Như thế cũng khơng có nghĩa là bất hiếu.
Nhu cầu hay quan hệ tình cảm giữa cha mẹ và con cái thật khó có thể định
tính để nhận biết mối quan hệ ấy có thân thiết hay khơng. Một người con ít khi
biểu hiện tình cảm đối với cha mẹ qua ngơn ngữ, cử chỉ,... nhưng người ta đã biểu
hiện tình cảm bằng cách khác. Ví dụ như biết bố mẹ có nhu cầu vật chất gì thì sẽ cố
đáp ứng trong khả năng của mình... Đấy cũng là thể hiện sự hiếu lễ.
Cuộc sống vẫn đang từng ngày trôi qua, vẫn hối hả và tấp nập như thế và
tuổi của cha mẹ cũng vậy cũng đang dần lớn tuổi hơn. Vậy nên khi cịn có thể, hãy
dành nhiều thời gian hơn cho gia đình, hỏi han cha mẹ một vài câu mỗi ngày cũng
đủ để cha mẹ không cảm thấy cô đơn, buồn tủi. Lúc về già có người sẽ thích sống
cùng con cháu, có người thích sống ở viện dưỡng lão với những người già khác để
sớm hôm bầu bạn, hoặc sống ở một ngơi chùa thanh tịnh nào đó cầu phúc cho con
cháu, vì thế nên tùy tâm nguyện của ông bà cha mẹ mà con cháu làm theo để ơng
bà cha mẹ vui lịng. Điều quan trọng nhất là ở tấm lòng, ý thức đạo đức về lòng
biết ơn, sự tơn kính đối với ơng bà cha mẹ. Không nên chỉ chu cấp về mặt vật chất
mà quên đi tình cảm, sự quan tâm.
3.3. Vấn đề hơn nhân và gia đình của những người trong cộng đồng
LGBT hiện nay
Vấn đề hợp pháp hóa hơn nhân cùng giới là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi
trong những năm vừa qua khi cộng đồng LGBT được biết đến nhiều hơn do sự
phát triển của xã hội Việt Nam với những diễn đàn, phương tiện thông tin đại
chúng, văn học nghệ thuật hay phim ảnh… Sự ra đời và phát triển của một số tổ
chức vận động quyền cho nhóm LGBT như Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và
17
môi trường (iSEE, Hà Nội), Trung tâm ICS (Trung tâm bảo vệ quyền của người
LGBT, Thành phố Hồ Chí Minh). Đến thời điểm hiện tại, các khái niệm như xu
hướng tính dục, bản dạng giới, hơn nhân cùng giới đã khơng cịn q xa lạ và một
số khái niệm chưa đúng như thế giới thứ ba, giới tính thứ ba, bệnh hoạn đã phần
nào được hạn chế... Tuy nhiên, nhìn chung, quan niệm của xã hội về đồng tính
cũng như HNCG vẫn chưa được thay đổi một cách đáng kể. Ví dụ như theo một
nghiên cứu gần đây, có 77% người dân Việt Nam được hỏi đồng ý phải bảo vệ
quyền của người đồng tính nhưng chỉ có 36.6% đồng ý cho người đồng tính có
quyền kết hơn.
Có thể nhận thấy, yếu tố văn hóa, truyền thống, tư tưởng châu Á ảnh hưởng
khá nhiều đến các quan niệm về đồng tính và HNCG tại Việt Nam hiện nay. Từ cơ
sở này, nhiều quan ngại về tính truyền thống hay mơ hình gia đình sẽ bị phá vỡ
thường được đề cập ở Việt Nam.
Thứ nhất, ảnh hưởng của quan niệm về vai trị và chức năng của gia đình
trong xã hội Việt Nam. Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng, “hơn nhân” là cái đích
mà các cặp đơi đều hướng tới khi yêu nhau để cùng xây dựng gia đình. Tuy nhiên,
mục đích sâu của hơn nhân theo quan niệm của gia đình truyền thống khơng phải
tình u mà là duy trì nịi giống, hướng tới duy trì mối quan hệ lâu dài trong gia
đình. Vợ chồng thì phải cùng sinh con và chia sẻ trách nhiệm chăm sóc con cái để
duy trì một gia đình bền lâu, hạnh phúc. Quan niệm “ trai lớn dựng vợ, gái lớn gả
chồng” ăn sâu vào tiềm thức của những người trong xã hội cũ, gia đình mong đợi
những người con lập gia đình như một “lẽ thường tình”, một “quy luật tự nhiên”.
Đến độ tuổi trường thành, người ta sẽ cảm thấy có sức ép vơ hình về việc cần phải
kết hơn để lập gia đình và sinh con nối dõi dịng tộc. Nếu mình khơng làm theo cái
được gọi là quy luật tự nhiên ấy thì mình sẽ trở thành người “bất thường”, đi
ngược lại luân thường đạo lý, truyền thống của xã hội.
Trên thực tế, trong xã hội hiện đại, do áp lực của cuộc sống, mục tiêu được
con người kỳ vọng nhất trước ngưỡng cửa hôn nhân là gia đình trở thành một “mái
ấm”, là nơi an tồn, n ổn, là nơi con người được thỏa mãn nhất những nhu cầu
tâm lý tình cảm. “Quyền được mưu cầu hạnh phúc” là một trong những quyền
18
quan trọng nhất của con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra trong Bản
Tun ngơn độc lập đầu tiên. Mỗi con người, dù với những bản dạng tình dục khác
nhau, đều có quyền kiếm tìm hạnh phúc. Nếu thừa nhận nhu cầu tình dục đồng giới
khơng phải là bệnh (như Tổ chức Y tế thế giới đã nhấn mạnh từ năm 1990), mà là
một xu hướng có tính tự nhiên, khơng thể khuyến khích hay ngăn cản, thì việc hợp
pháp hóa nhu cầu cam kết tự nguyện của người đồng tính là việc nên làm. Trong
xu thế phát triển của xã hội hiện đại, đến giai đoạn hiện nay, chúng ta đã và nên
chấp nhận sự đa dạng của các kiểu loại gia đình thay cho hình ảnh nhất thể hóa về
kiểu loại, về cấu trúc như gia đình truyền thống.
Uỷ ban Quyền trẻ em Liên Hợp Quốc đã tuyên bố điều này trong "Nhận
định về môi trường gia đình", rằng cần phản ánh "những cấu trúc gia đình khác
nhau, phát sinh từ các mẫu hình văn hóa và các quan hệ tình cảm gia đình đa dạng
đang nổi lên". Một trong các quan hệ tình cảm gia đình đa dạng ở đây có thể được
hiểu là sự đa dạng về xu hướng tính dục, là một cơ sở quan trọng cho một gia đình
của các cặp đơi đồng tính. Việc thừa nhận HNCG cũng khơng thể làm suy thối nịi
giống như ý kiến của nhiều người bởi thực ra người đồng tính chỉ chiếm khoảng
3% trong tổng dân số của xã hội. Hơn nữa, người đồng tính hồn tồn có thể nhờ
mang thai hộ hoặc xin con nuôi. Bản chất của cái gọi là “truyền thống” mang tính
bối cảnh, mang tính chính trị và vì vậy ln biến đổi khơng ngừng. Chúng ta có thể
tạo truyền thống mới và điều này diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi.
Thứ hai, giá trị xã hội của pháp luật và quyền kết hôn cùng giới. Quyền kết
hôn được xem là một quyền thiêng liêng trong đời sống của mỗi cá nhân. Gắn với
quyền này, một gia đình sẽ được hình thành, gắn kết với nhau bằng tình cảm, san
sẻ giữa những thành viên trong gia đình. Do vậy, bảo vệ quyền của người đồng tính
sẽ đảm bảo được giá trị xã hội của pháp luật, hướng đến tính cơng bằng - mục tiêu
cao cả của pháp luật. Một số quan điểm cũng lo ngại HNCG sẽ ảnh hưởng đến gia
đình và xã hội. Tuy nhiên, quan ngại này thực sự khơng hồn tồn đúng đắn, ngược
lại, HNCG tốt cho gia đình và xã hội. Thực tế ở các nước thừa nhận quan hệ đồng
giới như Đan Mạch, Hà Lan, Na Uy... đã chứng minh điều này. Hôn nhân đồng
giới không ảnh hưởng đến quan niệm xã hội về tầm quan trọng của hôn nhân
truyền thống. Hôn nhân đồng giới có tính bình đẳng tương đối cao vì hai người ít
19
có sự phân cơng lao động hay trách nhiệm theo giới. Nghiên cứu tiến hành trong ba
năm ở Vermont, Mỹ về chất lượng cuộc sống lứa đôi của các cặp đồng tính sống
chung có đăng ký và các cặp kết hơn truyền thống cho thấy, các cặp đồng tính sống
chung có đăng ký có mối quan hệ hài hịa hơn, gần gũi nhau và ít xảy ra xung đột
hơn so với các cặp kết hôn giữa nam và nữ. Quan sát ở các nước Bắc Âu cho thấy,
sau khi thông qua luật cho phép những người đồng giới đăng ký chung sống, sự
gắn bó của các cá nhân có tính lâu dài bởi đăng ký sống chung đồng nghĩa với cam
kết hành vi chung thủy và do đó giảm lây truyền các bệnh qua đường tình dục.
Điều quan trọng là sự thay đổi này không chỉ diễn ra ở các cặp đăng ký sống chung
mà còn cho cả cộng đồng những người đồng giới nói chung.
Cũng có ý kiến đề xuất không nên cho phép các cặp đôi cùng giới sinh và
ni con vì có thể đứa trẻ sẽ khơng phát triển bình thường. Điều này là khơng đúng
vì trước khi thừa nhận hôn nhân đồng giới, nhiều nước đã tiến hành các nghiên cứu
so sánh kết quả phát triển của trẻ em trong các gia đình hơn nhân truyền thống và
các kiểu hình gia đình khác. Hội Nhi khoa Hoa Kỳ (The American Academy of
Pediatrics - 2002), Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ (The American Society for
Reproductive Medicine - 2006) đã kết luận khơng có bằng chứng nào chỉ ra bất kỳ
nguy cơ cho sự phát triển của trẻ khi trẻ được ni dưỡng trong các gia đình có hai
ơng bố hoặc hai bà mẹ. Một số nghiên cứu cịn chỉ ra những đứa con do đồng tính
nữ sinh ra (nhờ xin tinh trùng), được nuôi dưỡng trong gia đình đồng tính nữ thậm
chí cịn có một số khả năng vượt trội hơn trẻ em trong các gia đình hơn nhân truyền
thống. Trong khi nghiên cứu về khả năng ni dạy con của các cặp đồng tính nam
cho thấy sự vượt trội hơn các ơng bố dị tính khi họ có cả các khả năng chăm sóc trẻ
giống như người mẹ.
Như vậy về bản chất, việc được chăm sóc, giáo dục bởi một cặp đơi đồng
tính khơng ảnh hưởng xấu đến quan niệm về thể chế gia đình truyền thống và sự
phát triển của trẻ. Ngược lại, việc hợp pháp hóa HNCG ở các nước cịn mang lại
lợi ích về sức khỏe cộng đồng, bình đẳng giới và hòa hợp xã hội.
Thứ ba, quan điểm ủng hộ của xã hội Việt Nam về quan hệ cùng giới chưa
thực sự nhất quán. Khảo sát do Báo Vnexpress vào tháng 6 năm 2012 trong số
20
3.417 người được hỏi, có 2.756 người chiếm 80.7% cho rằng nên ủng hộ QKH của
NĐT, 328 người chiếm 9,6% phản đối kịch liệt, 280 người chiếm 8.2% không quan
tâm và chỉ có 53 người chiếm 1.6% có ý kiến khác. Đến tháng 7 năm 2012, khi tiếp
tục khảo sát ý kiến về vấn đề này, Vnexpress thu được kết quả: 13.702/22.430
người chiếm 61.1% cho rằng nên công nhận hôn nhân đồng tính, cịn lại
8.728/22.430 người chiếm 38.9% cho rằng không nên công nhận.
Tuy nhiên, một số kết quả nghiên cứu thực định (khảo sát trực tiếp) thì lại
cho thấy nhìn chung, quan niệm của xã hội về đồng tính cũng như HNCG vẫn chưa
được thay đổi một cách đáng kể. Ví dụ như theo một nghiên cứu gần đây, có 77%
người dân Việt Nam (ở 04 tỉnh/thành phố) được hỏi đồng ý phải bảo vệ quyền của
người đồng tính nhưng trong số đó chỉ có 36.6% đồng ý cho người đồng tính có
quyền kết hơn. Việt Nam chưa thực sự có cuộc điều tra quy mơ tồn quốc để tìm
hiểu quan điểm của người dân về vấn đề này.
Đây cũng là một điểm đáng quan tâm bởi những kết quả khảo sát dưới
những hình thức khác nhau hiện nay chưa thực sự nhất quán. Điều này cũng dễ
hiểu bởi hình thức khảo sát qua các trang mạng khơng hồn tồn thực chất (vì một
người có thể bình chọn nhiều lần, trong đó có nhiều người đồng tính có thể bình
chọn liên tục...). Trong khi đó, khảo sát qua phiếu hỏi trực tiếp người dân sẽ cho
kết quả chính xác hơn. Bên cạnh đó, khá nhiều ý kiến cho rằng nên cơng nhận hình
thức sống chung có đăng ký trước để qua đó có thể xem xét, nghiên cứu, đánh giá
thêm việc tiến đến cơng nhận hơn nhân bình đẳng. Đây cũng chính là phương thức
mà một số quốc gia cơng nhận hơn nhân bình đẳng đã từng áp dụng trước đây. Hơn
nữa, quan điểm e ngại về sự gắn kết của cặp đơi đồng tính, mối quan hệ đồng giới
vẫn chưa thực sự được hiểu, cảm nhận một cách phổ biến tại Việt Nam dường như
cũng làm ảnh hưởng đến việc luật hóa quyền kết hơn bình đẳng của người đồng
tính.
Người đồng tính hiện nay khi yêu nhau họ thường sẽ quyết định sống chung
với nhau chứ không tổ chức đám cưới mặc dù đám cưới này cũng chỉ mang ý
nghĩa tinh thần, như một sự công khai xu hướng tính dục và lựa chọn bạn đời chứ
khơng có ý nghĩa gì về mặt pháp lý. Với nhiều cặp đôi, quyết định này đã hiện thực
21
hóa việc sống chung chính là thời khắc ghi dấu sự chuyển biến trong quan hệ tình
cảm của họ, là dấu mốc cho sự ổn định, nghiêm túc, lâu dài cũng như những chuẩn
bị của họ cho tương lai. Họ cũng mong muốn, khao khát có con như những đơi
nam nữ khác nhưng vì những định kiến, quan niệm ở trên mà việc có con của các
cặp đơi LGBT cịn là một chặng đường dài khiến việc có con đối với họ là xa xỉ và
xa vời.
Các câu chuyện về người đồng tính cũng xuất hiện khá nhiều trên báo chí,
phim ảnh và truyền hình. Tưởng như đồng tính đã khơng cịn là “chuyện xa lạ” như
nhiều năm về trước, khi đất nước mới mở cửa, nhưng thực tế, những người đồng
tính thật sự vẫn cịn nỗi niềm suy tư khi xã hội Việt Nam hiện nay vẫn không cho
họ cái quyền gọi là bình đẳng. Lẽ ra mọi người nên cảm thông và san sẻ với họ
nhiều hơn thay vì ném cho họ những cái nhìn kỳ thị, vì họ là những con người bất
hạnh, họ yêu mà không bao giờ được đáp lại, hy sinh mà không bao giờ được bù
đắp, cũng như khao khát mà không bao giờ được thỏa mãn. Đồng tính khơng phải
là một tệ nạn như ma túy, thuốc lắc, … không nên đồng hóa họ như những tệ nạn
bởi đồng tính là bẩm sinh, họ khơng có quyền lựa chọn xu hướng tính dục cho bản
thân. Đã đến lúc, xã hội có cái nhìn thống hơn cho những thành viên mang xu
hướng tính dục khác, và cho họ được quyền sống bình thường như bao nhiêu cá thể
khác của cộng đồng loài người. Thực chất, khi chúng ta tìm hiểu, đánh giá về
quyền của người đồng tính sẽ khơng hề có ý nghĩa muốn cổ vũ cho một trào lưu
mới mà nên được hiểu đây chính là thay tiếng nói cho những người đồng tính.
KẾT LUẬN
Gia đình là sự sống, tế bào hạnh phúc góp phần phát triển xã hội. Gia đình là
nơi hình thành nhân cách con người, là nơi quay về mỗi khi con người mệt mỏi.
Gia đình là cũng một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành cơng của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình lại càng tốt đẹp hơn. Mặc dù
gia đình đối mặt với rất nhiều thách thức từ việc giao lưu hội nhập với thế giới.
Song với nền tảng truyền thống lâu đời của gia đình Việt Nam là tình yêu thương
và ý thức trách nhiệm của các thành viên trong gia đình. Nó đã giúp gia đình Việt
22
Nam tồn tại để tiếp tục phát triển mà vẫn giữ gìn được bản sắc, truyền thống của
mình. Hiện nay, vẫn tồn tại nhiều vấn đề ở ngoài xã hội chưa giải quyết được hoặc
giải quyết rồi nhưng vẫn chưa thỏa đáng như vấn đề hợp pháp hóa hơn nhân cho
những người trong cộng đồng LGBT một cách công bằng. Do đó, Đảng ta cần có
nhiều chủ trương, chính sách đi vào thực tế hơn để góp phần xây dựng gia đình văn
hóa, ổn định và cải thiện đời sống, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo
đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Dù ở trong thời đại nào, chỉ có tình u thương mới sưởi ấm được trái tim
con người và mới mang lại cho con người hạnh phúc. Nên chúng ta hãy quan tâm,
trò chuyện với ông bà, cha mẹ nhiều hơn. Đi học, làm việc xa nhà thì có gắng về
nhà một, hai tháng một lần thăm cha mẹ. Thay vì chỉ trích, kì thị, phân biệt những
người LGBT thì nên mở lịng, có cái nhìn thống hơn, chia sẻ và cảm thơng với họ
vì ai cũng xứng đáng có được một cuộc sống hạnh phúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt:
Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học ( Chương trình chất lượng cao)
Tài liệu trực tuyến:
1.
Báo cáo nghiên cứu của Viện isee: Quan điểm xã hội về hôn nhân đồng giới
(nghiên cứu định tính tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh)
23
/>a52b77cb833c243/1584419970073/8.+Nghi%C3%AAn+c%E1%BB
%A9u+Quan+%C4%91i%E1%BB%83m+x%C3%A3+h%E1%BB%99i+v
%E1%BB%81+h%C3%B4n+nh%C3%A2n+c%C3%B9ng+gi%E1%BB
%9Bi.pdf
2.
Người đồng tính, song tính và chuyển giới ở Việt Nam
/>7faa21f0a076888/1591694774401/iSEE_Tong+luan+ve+nguoi+dong+tinh+va+
chuyen+gioi+o+VN.pdf
3.
Những biến đổi của đạo “Hiếu” trong gia đình Việt Nam hiện nay
/>