Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tê và thực trạng bảo hộ ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.81 KB, 28 trang )

Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN DỀ TÀI
Sau 5 năm trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO),
Việt Nam đã nghiêm túc thực hiện các cam kết khi gia nhập, trong đó, một trong
những cam kết quan trọng là việc Việt Nam cần phải thực hiện đầy đủ cam kết về
quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ. Theo đó, hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ
của Việt Nam đã được điều chỉnh và hướng đến hoàn thiện các nguyên tắc và qui
định của các tổ chức quốc tề mà Việt Nam đã tham gia. Xây dựng và vận hành
một hệ thống sở hữu trí tuệ đầy đủ và có hiệu quả là mục tiêu quan trọng của
Việt Nam. Thấy được tầm quan trọng của việc đăng kí bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ của các doanh nghiệp , đặc biệt dưới sự cạnh tranh gay gắt trong kinh doanh
quốc tế, hiện tại doanh nghiệp Việt Nam đã có ý thức hơn về quyền được bảo hộ
này. Số lượng đơn xin đăng kí bảo hộ ngày càng tăng qua các năm. Tính đến năm
2011, Cục SHTT đã tiếp nhận 65.383 đơn các loại, với hơn phân nửa số đơn là
đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp (38.789 đơn).
Với quyết tâm là vậy, mặc dù trong những năm qua số lượng đơn đăng kí
bảo hộ sở hữu trí tuệ ngày càng tăng nhưng chưa nhiều. Hiện nay trên thị trường
xuất hiện rất nhiều hàng hóa làm nhái, hàng chất lượng kém như: dược phẩm,
thuốc lá, phim ảnh, âm nhạc, Và một thực trạng ở đây là: số đơn đăng kí có
tăng qua các năm nhưng số lượng đơn đăng kí của các doanh nghiệp Việt Nam
chiếm tỉ lệ rất ít, các doanh nghiệp nước ngoài chiếm tỉ trọng cao, đặc biệt là đơn
đăng kí quyền sáng chế (chiếm trên 92%) tổng số đơn đăng kí bảo hộ quyền sáng
chế. Hơn nữa, công tác xử lí đơn của các cơ quan chức năng còn chậm chạp,
chưa đồng bộ. Theo cục SHTT, tính đến 2011 số văn bằng bảo hộ do Cục SHTT
cấp chỉ khoảng gần 130.000 trong khi tổng số doanh nghiệp của cả nước khoảng
520.000- 530.000. Vậy làm thế nào để giải quyết những vấn đề nói trên? Làm thế
nào để quyền sở hữu trí tuệ thực sự phát huy vai trò của nó trong kinh doanh đặc
biệt là trong kinh doanh quốc tế?
Từ thực trạng nêu trên, nhóm em quyết định chọn đề tài : “tìm hiểu về vấn


đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tê và thực trạng bảo hộ
ở Việt Nam hiện nay” nhằm tìm hiểu thực trạng đăng kí bảo hộ sở hữu trí tuệ ở
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
1
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp để nâng cao vai trò của việc đăng
kí sở hữu trí tuệ đối với các doanh nghiệp.
2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1Mục tiêu chung:
Tìm hiểu về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực
trạng thực thi bảo hộ trì tuệ ổ Việt Nam.
2.2Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu về quá trình hình thành luật sở hữu trí tuệ trên thế giới và tại
Việt Nam
- Tìm hiểu những lỗi thường gặp về quyền sở hữu tri tuệ trong kinh
doanh quốc tế và thực trạng thực thi bảo hộ quyền sở hữu trì tuệ ở Việt
Nam hiện nay.
- Tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp hạn chế vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ.
3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương pháp thu thập số liệu
Các số liệu là số liệu thứ cấp, được thu thập từ Internet,các bài báo, tạp
chí, sách,…
3.2 Phương pháp xử lí số liệu
Dữ liệu thu thập được sẽ sử dụng phương pháp: phân tích, đánh giá, tổng
hợp để làm rõ nội dung nghiên cứu.
4.PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Về không gian
Địa bàn nghiên cứu: Việt Nam

4.2 Về thời gian
Số liệu sử dụng được lấy từ năm 2005 đến năm 2011
4.3 Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề về sở hữu trì tuệ và quyền sở hữu trí tuệ.
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
2
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ được hiểu là việc sở hữu các tài sản trí tuệ – những kết quả
từ hoạt động tư duy, sáng tạo của con người. Đối tượng của loại sở hữu này là
các tài sản phi vật chất nhưng có giá trị kinh tế, tinh thần to lớn góp phần quan
trọng trong quá trình hình thành và phát triển nền văn minh, khoa học, công nghệ
của nhân loại. Đó là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các công trình khoa học
kỹ thuật ứng dụng cũng như các tên gọi, hình ảnh được sử dụng trong các hoạt
động thương mại.
1.1.2 Quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của cá nhân, pháp nhân đối với các sản
phẩm trí tuệ do con người sáng tạo. Đó là độc quyền được công nhận cho một
người, một nhóm người hoặc một tổ chức, cho phép họ được sử dụng hay khai
thác các khía cạnh thương mại của một sản phẩm sáng tạo.
Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: (i) Quyền tác giả các tác
phẩm văn học và nghệ thuật; (ii) Sáng chế, giải pháp hữu ích; (iii) bí mật kinh
doanh; (iv) kiểu dáng công nghiệp; (v) nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ;
(vi) chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ hàng hoá; (vii) tên thương mại; (viii) giống
cây trồng mới; (ix) thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; (x) quyền chống cạnh

tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp.
1.2 Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một trong ba cột trụ của đàm phán thương
mại quốc tế: Thương mại hàng hoá, Thương mại dich vụ, bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ. Vì vậy, bảo hộ trí tuệ có vai trò rất quan trọng:
- Sở hữu trí tuệ có thể trở thành một tài sản có giá trị của doanh
nghiệp, có thể được khai thác để tăng doanh thu và lợi nhuận, tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
3
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
- Sở hữu trí tuệ có thể nâng cao giá trị của doanh nghiệp trong mắt
của các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính trên toàn thế giới.
- Luật Sở hữu trí tuệ bảo vệ cho hàng hoá, dịch vụ của doanh
nghiệp chống lại nguy cơ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp bị làm nhái.
- Quyền Sở hữu trí tuệ có thể được sử dụng nhiều lần, không bị
giảm giá trị (có thể được sử dụng bởi nhiều người ở nhiều nơi khác nhau).
- Quyền Sở hữu trí tuệ giúp doanh nghiệp cải thiện vị thế trên thị
trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Thông tin sáng chế giúp doanh nghiệp nhận biết đối thủ cạnh
tranh và phát triển thị trường. Mở cửa cho chuyển giao công nghệ và quốc tế hoá.
1.3 Quá trình hình thành luật sở hữu trí tuệ trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1 Quá trình hình thành luật sở hữu trên thế giới
Các quốc gia tiên phong trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mạnh mẽ
nhất là các quốc gia có nền văn hoá, khoa học, nghệ thuật phát triển nhất (Mỹ,
Nhật và Tây Âu).
Khác với các chế định khác trong luật dân sự, được phát triển từ các
nguyên tắc hình thành từ luật La Mã, luật về sở hữu trí tuệ hình thành từ thực tiễn
phát triển của công cuộc cách mạnh công nghiệp, mà trước sau gì các nước tiếp

cận với khoa học kỹ thuật sẽ phải quy định. Các luật này chủ yếu nhằm vào việc
bảo hộ việc khai thác các lợi ích kinh tế của thành quả sáng tạo mang lại. Sau đó,
các nước đã công nghiệp hoá nhận thấy nhu cầu cần phải chuẩn hoá các qui định
về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ hữu hiệu tài sản lao động sáng tạo ở
nước mình và thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước.Hai công ước đầu tiên
về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là Công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp
năm 1883 và Công ước Berne và quyền tác giả năm 1886. Tiếp đó, các công ước
về sở hữu công nghiệp liên tiếp ra đời, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, thí dụ Công ước Madrid 1891 và Công ước Washington 1970.
Sau đó thỏa ước về các khía cạnh thương mại về Sở hữu Trí tuệ (TRIPS)
yêu cầu các nước thành viên tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ. Các nước không tuân thủ sẽ được đưa ra hội đồng giải quyết tranh
chấp (Dispute Settlement Board, gọi tắt là DSB) và sẽ bị áp dụng các biện pháp
trừng phạt. Năm 1996, thoả thuận về hợp tác giám sát thực thi quyền sở hữu trí
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
4
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
tuệ giữa WIPO và WTO có hiệu lực, bao gồm việc hợp tác trong việc trợ giúp
các nước thành viên xây dựng luật về sở hữu trí tuệ, đăng ký bảo hộ một số đối
tượng sở hữu trí tuệ, sao cho các nước thành viên có thể thoả mãn các yêu cầu
của Thoả ước TRIPS vào ngày 1/1/2000. Các thành viên là các nước đang phát
triển, hay các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ tập trung bao cấp sang kinh tế
thị trường có quyền hoãn thực hiện thêm 4 năm đối với TRIPS (năm 2004). Đối
với các nước kém phát triển, thời gian gia hạn sẽ là 10 năm.
Như vậy, Thoả ước TRIPS đã mở ra một chương mới về bảo hộ và thực
thi quyền sở hữu trí tuệ trên bình diện quôc tế, cũng như tăng cường vai trò của
WIPO trong việc giám sát thực thi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
mại. Tuy Thoả ước có hiệu lực từ 1/1/2000, song các nước đang phát triển được
quyền kéo dài thời gian chuyển tiếp để thích ứng với các điều kiện của Thoả ước

TRIPS đặt ra cho đến hết 10 năm kể từ ngày Thoả ước có hiệu lực.
1.3.2 Quá trình hình thành luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
Xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nghèo và chậm phát triển do bị
thực dân Pháp đô hộ. Vì vậy, luật về sở hữu trí tuệ của chúng ta ra đời muộn hơn
ở những nước khác. Mãi đến năm 1957, Miền Nam mới ban hành Luật Thương
hiệu và năm 1958, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ban hành "Thể lệ
về thương phẩm và thương hiệu". Tuy nhiên, giá trị thực tiễn của các văn bản này
chưa cao. Năm 1976, Việt Nam đã tham gia vào Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới
(WIPO). Ngày 14/12/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 197/HDBT
ban hành "Điều lệ về Nhãn hiệu hàng hoá." Đây là văn bản đầu tiên
chính thức nhắc đến vấn đề bảo hộ độc quyền trong sở hữu công nghiệp. Tuy
vậy, luật về sở hữu trí tuệ chỉ thực sự phát huy tác dụng kể từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI.
Đến năm 1995 ban hành Bộ Luật Dân Sự và Nghị định 63/CP về sở hữu
công nghiệp (ngày 24/10/1996) và Nghị định 12/1999/NĐ-CP ngày 8/3/1999 về
xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Rất nhiều sáng chế, giải
pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá đã được đăng ký.
Cùng với sự phát tiển kinh tế của đất nước cũng như để đáp ứng những
yêu cầu của Tổ chức kinh tế thế giới (WTO) khi Việt Nam là thnah viên,Việt
Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ nhằm đảm bảo
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
5
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
sự phù hợp với những điều ước quốc tế trong lĩnh vực này. Chính vì vậy, hiện
nay, pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã phù hợp với những yêu cầu của
TRIPS, đảm bảo cho việc Việt Nam có thể thực hiện được ngay những cam kết
của mình trong WTO về quyền sở hữu trí tuệ. Kể từ những giai đoạn đầu của quá
trình đàm phán gia nhập WTO các văn bản pháp luật chủ yếu về bảo hộ sở hữu
trí tuệ ở Việt Nam là Bộ luật Dân sự năm 1995 (Phần thứ 6) và một loạt các Nghị

định hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự năm 1995 về quyền sở hữu trí tuệ như:
Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu
công nghiệp; Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 Về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo
hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công
nghiệp; và hàng loạt các Thông tư do các Bộ, ngành ban hành.
Trong năm 2005, Việt Nam đã sửa đổi Bộ luật Dân sự, trong đó tái khẳng
định những nguyên tắc dân sự cơ bản của quyền sở hữu trí tuệ (Phần VI của Bộ
luật), ban hành Luật Sở hữu trí tuệ điều chỉnh tất cả các khía cạnh của quyền sở
hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành nhằm pháp điển hóa các quy định
trước đây về quyền sở hữu trí tuệ trong hàng loạt các văn bản dưới luật, đảm bảo
sự phù hợp của pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật quốc tế về
quyền sở hữu trí tuệ. Cùng với việc ban hành và triển khai thực hiện Luật Sở hữu
trí tuệ, nhiều Quyết định và Nghị định về quyền tác giả, sở hữu công nghiệp,
giống cây trồng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ để hướng dẫn thi hành Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 đã được ban hành như: Nghị định số 100/2006/NĐ-CP
ngày 21/9/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở
hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định số 104/2006/NĐ-CP
ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 về quyền đối với giống cây trồng; Nghị định số
105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản
lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; Nghị định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp;…
Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật trong nước, cho đến nay, Việt Nam là
thành viên của Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả ước
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
6
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay

Madrid về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ năm 1949; Công ước thành lập Tổ chức
Sở hữu trí tuệ thế giới từ năm 1976; Hiệp ước Hợp tác bằng sáng chế từ tháng
3/1993; thành viên chính thức của Công ước Bern từ ngày 26/10/2004; Công ước
Geneva từ ngày 6/7/2005; Công ước Brussels từ ngày 12/1/2006; và Nghị định
thư liên quan đến Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ ngày
11/7/2006. Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định song phương về bảo hộ sở
hữu trí tuệ với Hoa Kỳ và Thuỵ Sĩ.
Theo Điều 200 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, tòa án, cơ quan thanh
tra, quản lý thị trường, hải quan, công an và Uỷ ban Nhân dân chịu trách nhiệm
xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong phạm vi quyền hạn của
mình và áp dụng các chế tài hành chính, hoặc trong những trường hợp cụ thể, áp
dụng các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp bảo đảm việc áp dụng các hình
phạt hành chính. Đây chính là những cơ quan có trách nhiệm trong việc bảo đảm
thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Về nguyên tắc đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ, Việt Nam đã áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc đối
với công dân nước ngoài. Nguyên tắc này đã được khẳng định không chỉ trong
pháp luật Việt Nam mà còn được dựa trên các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ
mà Việt Nam là thành viên.
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
7
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
2.1.1 Thực trạng đăng kí quyền sở hưu trí tuệ
Hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta được bắt đầu triển khai từ
những năm 80, nhưng chỉ từ khi Quốc hội ban hành bộ Luật Dân sự (năm 1995)
thì hoạt động này mới bắt đầu tiến triển. Đặc biệt, từ khi Quốc hội ban hành Luật

Sở hữu trí tuệ (năm 2005) và Việt Nam là thành viên chính thức của WTO thì
hoạt động này trở nên sôi động với tất cả các dạng tài sản trí tuệ được bảo hộ,
bao gồm: bản quyền tác giả và các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hóa, tên gọi xuất xứ và chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng mới
Nắm bắt được tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ, hiện nay, ở Việt
Nam, đa số các doanh nghiệp đều tiến hành đăng kí bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ.Từ năm 2005 đến năm 2011,mặc dù số lượng đơn đăng kí bảo hộ SHTT có
gia tăng qua các năm nhưng số lượng tăng không nhiều. Đặc biệt, năm 2010 số
đơn nộp vào còn giảm so với năm 2009. Nguyên nhân của sự sụt giảm nhẹ này là
do nền kinh tế Việt Nam và thế giới, sau khi thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế trầm trọng năm 2008 lại tiếp tục rơi vào tình trạng khủng hoảng “kép”
trong giai đoạn này, khiến các doanh nghiệp không muốn mở rộng sản xuất kinh
doanh và cũng không mặn mà với việc đăng kí SHTT.
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
8
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Hình 2.1: Số lượng đơn đăng kí bảo hộ SHTT giai đoạn 2005 – 2011
(Nguồn: Cục sở hữu trí tuệ)
Năm 2011, Cục SHTT đã tiếp nhận 65.383 đơn các loại, với hơn phân nửa
số đơn là đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp (38.789 đơn), trong đó đơn
đăng kí nhãn hiệu là nhiều nhất với 28.237 đơn và ít nhất là đơn chỉ dẫn đại lí chỉ
với 5 đơn.
Bảng 2.1: Các đối tượng đăng kí chính chính của quyền sở hữu công nghiệp
(Nguồn: Cục sở hữu trí tuệ)
Hiện nay, tại Việt Nam, việc đăng kí nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và
sáng chế được hầu hết các doanh nghiệp chú ý và luôn chiếm tỉ trọng cao trong
các loại đơn khác.
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
STT Đối tượng đăng kí Số đơn đăng kí

1 Đơn nhãn hiệu; 28.237
2 Đơn nhãn hiệu đăng ký quốc tế chỉ định Việt
Nam;
4.567
3 Đơn sáng chế 3.688
4 Đơn kiểu dáng công nghiệp 1.861
5 Đơn giải pháp hữu ích 307
6 Đơn đăng ký quốc tế có nguồn gốc Việt Nam 109
7 Đơn đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp; 15
8 Đơn chỉ dẫn địa lý; 5
Tổng cộng: 38.789
9
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Xét trên bình diện cả nước, ta thấy việc đăng kí quyền sở hữu trì tuệ có sự
chênh lệch về số đơn đăng kí giữa các tỉnh, thành phố và chỉ tập trung ở các
tỉnh,thành phố lớn. Trong đó nhiều nhất là ở Tp Hồ Chí Minh (6613 đơn, năm
2011), tiếp đến là Hà Nội ( 4850 đơn, năm 2011), Bình Dương, Đà nẵng, Số đơn
đăng kí về nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp chiếm hầu hết số đơn đăng kí,
ngược lại đơn đăng kí chỉ dẫn đại lí lại rất thấp hầu chỉ có vài tỉnh, thành trong cả
nước có đăng kí.
Bảng2.2: Thống kê bằng sở hữu công nghiệp năm 2010-2011 theo các tỉnh
Tỉnh/TP Sáng chế Giải pháp
hữu ích
Kiểu dáng
công
nghiệp
Nhãn hiệu Chỉ dẫn
2010 2011 2010 2011 2010 2011 2010 2011 2010 2011
TP Hồ

Chí
Minh
87 7 66 11 573 404 8589 619
1
0 0
Hà nội 126 21 72 20 220 155 7552 465
4
0 0
Bình
Dương
3 0 5 0 36 35 634 469 0 0
Đà Nẵng 5 2 0 0 1 5 407 206 0 0
Đồng
Nai
6 2 6 2 26 15 339 340 1 0
Hải
Phòng
6 1 3 2 32 7 321 206 0 0
Long An 8 1 1 1 32 12 311 302 0 0
Hải
Dương
2 0 2 1 9 7 303 118 0 0
Cần Thơ 2 0 2 1 7 2 271 282 0 0
Hưng
Yên
5 0 0 0 19 21 193 129 0 0
(Nguồn: Cục sở hữu trí tuệ)
2.1.2 Thực trạng đăng kí nhãn hiệu giai đoạn 2005 – 2011
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, nhãn hiệu được coi là một
trong những tài sản có giá trị của một doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp

hiện nay luôn coi trọng nhãn hiệu của mình. Chính vì vậy, trong tổng số các đơn
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
10
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
được tiếp nhận tại cục SHTT thì đơn xin đăng kí nhãn hiệu chiếm tỉ trọng lớn
trong các loại đơn khác (khoảng 43% trong tổng các loại đơn và khoảng 72,8%
trong tổng đơn đăng kí xác lập quyền SHCN).
Hình 2.2: Số đơn đăng kí nhãn hiệu tại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2011
(Nguồn: Cục SHTT)
Như vậy, bằng một vài số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy số lượng đơn
đăng kí nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn so với doanh nghiệp
nước ngoài (trung bình doanh nghiệp Việt Nam chiếm khoảng 75% trong tổng số
đơn đăng kí). Nhưng nếu xét dưới khía cạnh sử dụng thực tế, phải chăng tất cả
các nhãn hiệu đã đăng ký đều đang sử dụng tại Việt Nam? Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này: có thể nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã sử dụng quyền
này nhằm mục đích khác như: ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh khác, để giữ chỗ
cho một dự án đầu tư khác,…
2.1.3 Thực trạng đăng kí kiểu dáng công nghiệp giai đoạn 2005-2011
Kiểu dáng công nghiệp (KDCN) ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng
trong cuộc tranh đua giữa các nhà sản xuất để giành giật thị trường. Một kiểu
dáng hấp dẫn thị hiếu người tiêu dùng sẽ làm tăng giá trị thương mại của sản
phẩm và có thể coi là một loại tài sản quan trọng của nhà sản xuất
Do vậy, kiểu dáng đó phải được bảo hộ để chống lại việc các đối thủ cạnh
tranh sao chép nó và hưởng lợi bất hợp pháp trên thành quả sáng tạo và đầu tư
của nhà sản xuất. Khi KDCN được bảo hộ thì chủ sở hữu kiểu dáng có độc quyền
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
11
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay

sử dụng KDCN. Mọi hành vi sử dụng KDCN được bảo hộ mà không xin phép
chủ sở hữu đều bị coi là xâm phạm quyền đối với KDCN. Vì vậy, việc đăng kí
KDCN cũng được các doanh nghiệp chú trọng.
Đối với doanh nghiệp Việt Nam việc đăng kí kiểu dáng công nghiệp cũng
rất được chú trọng, vì đa số người tiêu dùng Việt Nam coi trọng kiểu dáng hơn
chất lượng. Thấy được điều đó, các doanh nghiệp đã tận dụng quyền lợi của mình
để đăng kí bảo hộ kiểu dáng. Số đơn đăng kí cũng tăng qua các năm nhưng vẫn
bất ổn có năm tăng năm lại giảm,chẳng hạn như từ năm 2008 đến năm 2009 số
đơn đăng kí kiểu dáng công nghiệp tăg từ 1736 đơn lên 1899 đơn, nhưng đến
năm 2010 lại giảm 169 đơn xuống còn 1730 đơn đăng kí, và kh bước sang năm
2011 số đơn đăng kí lại tăng trở lại lên 1861 đơn.
Hình 2.3: Số lượng đơn đăng kí bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
(Nguồn: Cục SHTT)
2.1.4 Thực trạng đăng kí bảo hộ quyền sáng chế
Việc đăng kí bảo hộ quyền sáng chế chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng số đơn
xin bảo hộ SHCN (khoảng 10%). Tuy nhiên, có một thực trạng đáng chú ý hiện
nay là có sự chênh lệch rất lớn giữa doanh nghiệp Việt Nam đăng kí và doanh
nghiệp nước ngoài, số lượng đơn đăng kí bảo hộ quyền sáng chế của người nước
ngoài chiếm tỉ lệ rất cao (khoảng 92% trên tổng số đơn được nộp).
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
12
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Hình 2.4: Số lượng đơn đăng kí bảo hộ quyền sáng chế giai đoạn 2005 – 2011
(Nguồn: Cục sở hữu trí tuệ)
Đây là một thực trạng đáng báo động đối với lĩnh vực SHTT ở Việt Nam
hiện nay. Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến việc chênh lệch quá cao giữa đơn
đăng kí của người nước ngoài và người Việt Nam là:
- Ở Việt Nam, các doanh nghiệp chưa chú trọng đầu tư nghiên cứu tạo ra
sáng chế để tạo ra chất lượng sản phẩm và tăng năng lực cạnh tranh trên thị

trường. Việc phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài hoặc chủ yếu sử dụng công
nghệ nhập khẩu, công nghệ cũ đã làm cho các doanh nghiệp nước ta thiếu chủ
động, hoạt động chưa hiệu quả và thậm chí bị phá sản .
- Kinh phí đầu tư cho nghiên cứu và phát triển của các doanh nghiệp, ở
các trường đại học, các viện nghiên cứu còn thấp, thậm chí gây lãng phí cho công
việc này.
- Thiếu nguồn nhân lực để nghiên cứu: đội ngũ nghiên cứu của Việt
Nam tuy không thiếu nhưng chưa cao, đây là một trong những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến việc đơn đăng kí bảo hộ sáng chế của doanh nghiệp Việt Nam thấp.
Mặc dù đa số các doanh nghiệp đã quan tâm tới quyền SHTT nhưng với con
số thống kê trên vẫn còn khá ít. Đến nay, vẫn còn khá nhiều doanh nghiệp chưa
quan tâm đến vấn đề này, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo cục SHTT, tính đến 2011 số văn bằng bảo hộ do Cục SHTT cấp chỉ
khoảng gần 130.000 trong khi tổng số doanh nghiệp của cả nước khoảng
520.000- 530.000, chưa kể hộ kinh doanh cá thể. Chưa tính đến việc cấp 130.000
văn bằng đó, doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm khoảng 10% trong số đó, còn lại
là các doanh nghiệp nước ngoài.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc SHTT ở Việt Nam chưa được áp dụng
rộng rãi. Ngoài nguyên nhân do doanh nghiệp chưa quan tâm nhiều đến quyền
SHTT, còn có những tồn tại mà Cục SHTT mắc phải là công tác triển khai chậm
chạp, chưa có đột biến trong xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp v.v dẫn đến
tình trạng số đơn tiếp nhận thì nhiều mà công tác xử lí để cấp bằng thì lại chậm
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
13
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
trễ như đơn đăng kí sáng chế, giải pháp hữu ích có 3.995 đơn tiệp nhận, nhưng
chỉ có 1.760 đơn được xử lí chưa tới 50% số đơn
Bảng2.3 :So sánh số lượng đơn đăng kí SHTT được tiếp nhận và xử lí
năm 2011

TT Loại đơn đăng kí Tiếp nhận đơn Xử lí đơn (Từ chối và
chấp nhận bảo hộ)
2010 2011 So
sánh
2010 2011 So sánh
1 Sáng chế/GPHI 3.881 3.995 Tăng
3%
1.270 1.760 Tăng
38,6%
2 Kiểu dáng công
nghiệp
1.730 1.861 Tăng
7,6%
1.461 1.493 Tăng
2,2%
3 Nhãn hiệu đăng kí
quốc gia
27.919 28237 Tăng
1%
23310 30453 Tăng
30,6%
4 Đăng kí quốc
tế nhãn hiệu
có chỉ định
VN
4236 4567 Tăng
7,8%
4236 4595 Tăng
8,5%
5 Chỉ dẫn đại lí 7 5 Giảm

29%
8 7 Giảm
12,5%
6 Thiết kế bố trí 2 15 Tăng
650%
- 4
7 Đăng kí quốc tế
nhãn hiệu nguồn
gốc VN
72 98 Tăng
36,1%
58 54 Giảm
6,9%
8 Đơn đăng kí quốc
tế(sáng chế) nguồn
gốc VN
5 11 Tăng
120%
5 10 Tăng
100%
Tổng số 37852 38789 Tăng
2,5%
30348 38376 Tăng
26.5%
(Nguồn: Cục sở hữu trí tuệ)
Mọi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều liên quan đến những sở hữu trên.
Nếu quan tâm đúng mức, quyền sở hữu trí tuệ có thể trở thành một tài sản có giá
trị của một doanh nghiệp, có thể được khai thác để tăng thu lợi nhuận.
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
14

Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Luật Sở hữu trí tuệ bảo vệ cho hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp chống lại
nguy cơ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp bị làm nhái.
Nhưng thực tế số vụ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn không ngừng tăng về
số lượng lẫn mức độ nghiệm trọng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của
doanhnghiệp cũng như người tiêu.
2.2 Một số lỗi phổ biến về sở hữu trí tuệ mà các doanh nghiệp thường gặp
trong kinh doanh quốc tế
2.2.1 Nguyên nhân của những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ.
- Thứ nhất, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ
luôn tạo ra “siêu lợi nhuận” nên rất có sức hút, lôi kéo được nhiều đối tượng
tham gia, kể cả những người lao động thuần túy, trên nhiều địa bàn và nhiều lĩnh
vực khác nhau.
- Thứ hai, trong quá trình hội nhập, ngoài những tác động tích cực góp
phần làm nên những kết quả đáng kể trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội, còn phát sinh những yếu tố tiêu cực xâm nhập vào nền kinh tế nhiều
thành phần với tính cạnh tranh cao và diễn biến phức tạp của nước ta. Các mặt
hàng nội địa tuy đa dạng, phong phú và có cải tiến nhưng vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu cho người tiêu dùng, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân thấp, giá
hàng hoá sản phẩm phục vụ sinh hoạt cao tạo nên sự bất cân đối. Vì vậy, nhiều
người tiêu dùng ưa lựa chọn những sản phẩm giả nhưng mẫu mã, kiểu dáng công
nghiệp “như thật” mà lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít doanh
nghiệp thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng người tiêu dùng, vì
mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng làm giả, làm nhái những sản phẩm được bảo hộ có
uy tín, chất lượng, kiểu dáng để gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng. Vì vậy,
việc sao chụp, mô phỏng, làm nhái các sản phẩm của nhau để giành giật thị
trường trở thành hiện tượng phổ biến. Đây là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ tồn tại và

ngày càng mở rộng quy mô hoạt động.
-Thứ ba, phần lớn các chủ sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo
vệ quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá, trong khi trình độ và hiểu biết về tác hại của xâm phạm sở hữu trí tuệ
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
15
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
đối với sức khoẻ, lợi ích của cộng đồng còn rất hạn chế. Hiện nay rất ít doanh
nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về sở hữu trí tuệ, hầu như chưa có doanh
nghiệp nào có chiến lược về sở hữu trí tuệ, coi vấn đề sở hữu trí tuệ là bộ phận
trong chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở thành đối tượng
quản lý như quản lý tài sản thông thường. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp
đã chú trọng vào việc xây dựng thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, chất
lượng hàng hóa nhưng lại quên mất khâu đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của
mình ở những khu vực thị trường đã và sẽ phát triển. Nhiều doanh nghiệp chưa
có ý thức trong việc phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình,
chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm
soát. Có những doanh nghiệp do sợ bị ảnh hưởng đến doanh số và mức tiêu thụ
sản phẩm, không dám công khai về sản phẩm bị làm giả. Có những sản phẩm
làm giả tinh vi đến mức chính doanh nghiệp sản xuất cũng không phát hiện được,
đến khi biết, tuy có một số biện pháp khắc phục nhưng không đáng kể, coi như
“chấp nhận sống chung với hàng giả”.
-Thứ tư, các quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ
còn chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản, như: Hiến pháp năm
1992, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1997 (sửa đổi bổ
sung năm 2002, 2008), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2001),
Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000, Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004,
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Tố tụng dân sự năm 2005, Luật Hải
quan năm 2002… và trong nhiều văn bản hướng dẫn, thi hành các luật, pháp

lệnh nêu trên.
Trong khi đó, những quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở
hữu trí tuệ lại chưa thật đầy đủ, chưa đồng bộ, đặc biệt là những quy định về các
biện pháp và chế tài xử lý mới chủ yếu dừng ở các hình thức xử lý hành chính,
chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm. Chế
tài về hình sự chỉ được áp dụng với cá nhân, trong khi nhóm tội về sở hữu trí tuệ
chủ yếu là do tổ chức thực hiện, vì vậy, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự
với pháp nhân được. Các quy định về yếu tố cấu thành của tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp, tội xâm phạm quyền tác giả, tội sản xuất, buôn bán hàng giả
chưa cập nhật được những nội dung mới trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005,
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
16
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
chưa phù hợp với yêu cầu của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia, như Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và các hiệp định của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO)
-Thứ năm, trên thực tế, tổ chức và hoạt động của các cơ quan có trách
nhiệm đấu tranh với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn thiếu đồng
bộ và chồng chéo, nhiều tầng nấc xử lý khiến hiệu lực thực thi bị phân tán, phức
tạp. Hiện có tới 6 loại cơ quan (UBND các cấp, thanh tra khoa học và công nghệ,
thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan) cùng có thẩm
quyền xử phạt vi phạm. Theo thông lệ ở các nước trên thế giới thì tòa án phải
đóng vai trò rất quan trọng trong việc xử lý các vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhưng
ở Việt Nam thì ngược lại, vai trò của tòa án rất mờ nhạt so với các cơ quan hành
chính. Mỗi năm có tới hàng nghìn vụ vi phạm sở hữu trí tuệ được xử lý bởi các
cơ quan hành chính, nhưng số vụ được đưa ra xét xử tại tòa án lại không quá 10
trường hợp. Chưa kể, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phần lớn đội ngũ cán
bộ làm công tác bảo vệ pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên
quan đến sở hữu trí tuệ, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, công nghệ máy

tính…
Các nhà xuất khẩu thường chỉ nhận ra vai trò quan trọng của việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ của mình khi đã quá muộn, nghĩa là khi họ gặp phải các
doanh nghiệp làm hàng giả hoặc hàng nhái sản phẩm của mình hoặc khi bị cáo
buộc xâm phạm quyền của người khác. Một số lỗi phổ biến nhất mà các nhà xuất
khẩu thường mắc phải là:
- Nghĩ rằng bảo hộ sở hữu trí tuệ có hiệu lực trên toàn cầu
- Cho rằng pháp luật và thủ tục bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là giống nhau
trên toàn thế giới
- Không sử dụng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ khu vực hoặc quốc tế
- Bỏ lỡ thời hạn nộp đơn đăng ký sở hữu trí tuệ ở nước ngoài
- Bộc lộ thông tin quá sớm hoặc không có hợp đồng bảo mật hay không
bộc lộ
- Không kiểm tra xem nhãn hiệu đã bị đăng ký hoặc đang được sử dụng
bởi đối thủ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu hay chưa
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
17
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
- Xuất khẩu sản phẩm được sản xuất theo li-xăng mà không được phép
của chủ sở hữu
- Không xác định vấn đề sở hữu quyền sở hữu trí tuệ khi thuê gia công
- Xin cấp li-xăng đối với sản phẩm trên thị trường mà sáng chế, kiểu dáng
hoặc nhãn hiệu có liên quan không được bảo hộ
- Sử dụng nhãn hiệu không phù hợp với thị trường nhất định
2.2.2 Các sản phẩm thường bị vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
Hiện nay do sự bất cẩn, thiếu hiểu biết của các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh và do những khoản lỡi nhuận khủng do việc làm hang giả, hang nháy
mang lại, đã tạo cơ hội cho những mặt hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ tràn lan
trên thị trường gây ảnh hưởng rất lớn cho chính các doanh nghiệp sản xuất mà

còn cho cả người tiêu dùng. Những mặt hàng thường gặp là:
• Sản phẩm có thương hiệu trong ngành thời trang, dệt may, da giày, sản
phẩm nông nghiệp, xe máy và hàng công nghiệp điện tử. Mục tiêu của vi
phạm: kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng trái phép thương hiệu
• Đồ uống có cồn. Mục tiêu của vi phạm: kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng
trái phép thương hiệu, trốn thuế.
• Dược phẩm. Mục tiêu của vi phạm: kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng
thương hiệu, trốn thuế.
• Thuốc lá. Mục tiêu của vi phạm: kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng trái phép
thương hiệu, trốn thuế.
• Phần mềm. Mục tiêu của vi phạm: kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng trái
phép thương hiệu.
• Phim ảnh, âm nhạc. Mục tiêu của vi phạm: kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng
trái phép nội dung được bảo vệ bản quyền
Danh mục sản phẩm trên là chưa đầy đủ,nó sẽ thay đổi rất nhanh vì những kẻ vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ không ngừng áp dụng các thủ đoạn mới, tinh vi hơn để thực hiện hành vi bất
hợp pháp của mình.
2.3. Tình hình vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
Từ sau khi luật sở hữu trí tuệ ra đời vào năm 2005 và được sửa đổi bổ
sung năm 2009, cũng như sau khi gia nhập WTO thì sở hữu trí tuệ trở thành vấn
đề phải được quan tâm và cũng chính vì vậy mà ngày càng cò nhiều vụ vi phạm
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
18
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
quyền sở hữu trí tuệ được phát hiện với mức độ nghiêm trọng và ngày càng tinh
vi hơn. Theo báo cáo sơ kết công tác phòng ngừa, đấu tranh chống sản xuất, buôn
bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ của Bộ Công an, trong 5 năm (2002-
2007), lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế của 43 địa phương đã phát
hiện 1092 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả. Ngoài ra mỗi năm, các cơ quan chức

năng đã phát hiện hàng ngàn vụ sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ. Trong năm 2006, thanh tra chuyên ngành văn hoá – thông tin tiến
hành kiểm tra 20.414 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá, phát hiện 5.647 cơ sở vi
phạm; đã cảnh cáo 519 cơ sở; đình chỉ hoạt động của 289 cơ sở; tạm giữ giấy
phép kinh doanh của 160 cơ sở; chuyển xử lý hình sự 09 trường hợp; xử phạt
hành chính 10.891.780.000 đồng. Thanh tra chuyên ngành khoa học và công
nghệ tiến hành thanh tra, kiểm tra 1.536 cơ sở về chấp hành các quy định sở hữu
công nghiệp, xâm phạm quyền sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và cạnh tranh
không lành mạnh đã phát hiện 107 cơ sở sai phạm, buộc tiêu huỷ và loại bỏ các
yếu tố vi phạm khỏi sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và phạt tiền 224.900.000 đồng.
Thanh tra Bộ Văn hoá – Thông tin tiến hành kiểm tra và phát hiện nhiều cơ sở
kinh doanh máy tính lắp đặt, xây dựng các trang Web, cung cấp cho khách hàng
các phần mềm Windows, Micrrosoft office, Vietkey… vi phạm pháp luật về bản
quyền.
Riêng trong lĩnh vực SHCN, số vụ khiếu nại về các hành vi vi phạm
không ngừng tăng. Năm 2005, con số này là 404, đến năm 2006 đã lên đến 577.
Riêng năm 2010, Cục đã tiếp nhận và xử lý 566 đơn, thư khiếu nại về xác lập
quyền SHCN. Đợt kiểm tra sơ bộ của Thanh tra KHCN tiến hành gần đây tại hơn
3.000 cơ sở kinh doanh trên cả nước cho thấy, 37 đơn vị trong số này có hành vi
vi phạm về SHCN như sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu; chỉ dẫn
sai về tình trạng pháp lý bảo hộ quyền SHCN Theo thống kê của Cục Quản lý
thị trường (Bộ Công thương), mỗi năm có đến hàng nghìn vụ việc liên quan đến
việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có kiểu dáng "cải tiến" từ các kiểu dáng đã
được đăng ký bảo hộ bị phát hiện
Từ năm 2005 đến năm 2010 số đơn khiếu nại về việc cấp văn bằng bảo hộ
đều tăng. Đặc biệt là từ năm 2008 đến năm 2009 tăng từ 422 đơn lên 910 đơn.
Trong đó số đơn khiếu nại về nhãn hiệu là cao nhất và số đơn khiếu nại cũng
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
19
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng

bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
tăng lên gấp đôi trong năm 2009 so với năm 2008 và tiếp tục tăng nhẹ trong năm
2010.
Bảng2.4: Khiếu nại về việc cấp văn bằng bảo hộ
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Sáng chế/ GPHI - 11 7 10 15 16
Kiểu dáng công
nghiệp
7 12 10 3 13 11
Nhãn hiệu 428 367 363 409 882 884
Tổng số 435 390 380 422 910 911
(Nguồn: Cục sở hữu trí tuệ)
Riêng số đơn khiếu nại trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, nhìn chung số
đơn khiếu nại có xu hướng giảm xuống. Nếu như trong năm 2005 số đơn khiếu
đơn khiếu nại là 596 đơn thì sang năm 2007 chỉ còn 166 đơn, đến năm 2008 tăng
lên 333 đơn nhưn g khi sang năm 2010 thì đã giảm xuống 183 đơn. Tình hình
cũng cho thấy trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp có được dấu hiệu lạc quan hơn
cho việc thực thị quyền sở hữu trí tuệ một cách có hiệu quả .
Bảng2.5: Khiếu nại về việc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Sáng chế/ GPHI 41 17 7 5 7 4
Kiểu dáng công nghiệp 210 264 92 244 99 90
Nhãn hiệu 324 320 67 84 82 89
Tổng cộng 596 601 166 333 188 183
(Nguồn: Cục sở hữu trí tuệ)
Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn hiện nay được thực hiện
bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các
thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho người tiêu dùng và cơ quan quản
lý thị trường khó phát hiện thật /giả. Các hành vi vi phạm này ngày càng nguy
hiểm hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không những trong phạm vi

GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
20
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân nước ngoài. Ví dụ
như, hàng năm sản lượng nước mắm Phú Quốc chỉ đạt tối đa 15 triệu lít, nhưng
có tới hàng trăm triệu lít nước mắm mang tên Phú Quốc tung ra thị trường[2].
Hoặc Công ty Unilever Việt Nam có thời điểm bị thiệt hại do hàng nhái, hàng giả
và buôn lậu lên tới hàng chục triệu USD, trong đó đã xác định được 90% hàng
giả theo các nhãn hàng của Unilever là có xuất xứ từ nước ngoài. Chính vì thế
trong tương lai xa hơn các đơn vị có thẩm quyền, các doanh nghiệp cần tìm hiểu
rõ nguyên nhân để có những giải pháp hữu hiệu kết hợp với người tiêu dùng khắc
phục tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ như hiện nay.
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VI PHẠM VÀ LẠM DỤNG
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
3.1 Những giải pháp nhằm hạn chế vi phạm và lạm dụng quyền sở hữu trí
tuệ trong kinh doanh quốc tế
3.1.1 Đối với cơ quan quản lý Nhà Nước
Nhà nước ta đã và đang triển khai đẩy mạnh các giải pháp bao gồm:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật liên quan đến chống
hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;
- Tăng cường công tác thực thi, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi
phạm;
- Đẩy mạnh tuyên truyền và mở rộng đào tạo ở các cấp học về quyền sở
hữu trí tuệ và chống hàng giả;
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
21
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay

- Thực hiện tốt các cam kết đa phương và song phương về quyền sở hữu
trí tuệ, duy trì và mở rộng quan hệ song phương, đa phương để phục vụ công tác
chống hàng giả, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đặc biệt là các cam kết của WTO.
3.1.2 Đối với doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cũng phải nghiệm chỉnh chấp hành những giải pháp
nhằm hạn chế việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
- Xác lập quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của doanh nghiệp
- Chủ động tìm hiểu thông tin để không xâm phạm quyền của doanh
nghiệp khác
- Áp dụng các biện pháp kỹ thuật chống hàng giả
- Chủ động phối hợp với các cơ quan thực thi để bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ
3.1.3 Đối với người tiêu dùng
- Người tiêu dùng cần lưu ý khi mua hàng hóa
• Mua hàng tại những địa chỉ quen, tin cậy, có đăng ký kinh doanh hợp
pháp, có đủ điều kiện kinh doanh.
• Yêu cầu người bán hàng xuất hóa đơn cho mình. Hóa đơn bán hàng là một
trong những chứng cứ quan trọng trong trường hợp người tiêu dùng khiếu
nại, tố cáo và bảo vệ quyền lợi của mình. Hóa đơn cho biết người tiêu
dùng đã mua hàng ở đâu, mặt hàng gì, mã số bao nhiêu
• Đọc kỹ các thông tin trên nhãn hàng hóa.
-Có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi
kiện để bảo vệ quyền lợi của mình.
3.1.4 Đối với nhà phân phối
- Những vấn đề người bán lẻ cần chú ý khi nhập hàng để bán cho người
tiêu dùng
• Xem xét kỹ các nội dung liên quan đến chất lượng hàng hóa, nhãn hàng
hóa, nhãn hiệu hàng hóa, an toàn nhằm đảm bảo rằng hàng hóa là hoàn
toàn hợp pháp trước khi tiến hành nhập vào để bán cho người tiêu dùng.
• Lựa chọn những cơ sở sản xuất, cung cấp hàng hoá có uy tín, quen biết và

có đăng ký kinh doanh hợp pháp.
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
22
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
- Khi nghi ngờ hoặc phát hiện mình đang bày bán hàng giả, hàng hóa xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ,người bán lẻ cần ngừng ngay việc bán hàng hoá vi
phạm và thông báo cho cơ sở sản xuất, cung cấp hàng hóa để khắc phục vi phạm,
như: thu hồi hàng hóa vi phạm, khắc phục lỗi vi phạm hoặc tiêu hủy.
- Người bán lẻ vô tình hay cố tình bán hàng giả, hàng hóa xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ,theo quy định hiện hành, trường hợp người bán lẻ vô
tình hay cố tình bán hàng giả, hàng hóa xâm phạm quyền sở trí tuệ đều là hành vi
vi phạm pháp luật và đều bị xử phạt
3.2 Giải pháp chống lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ
Tuy nhiên trong thực tế, không chỉ có tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ mà cũng có rất nhiều trường hợp lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ gây ảnh
hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác, đặt biệt là trong kinh doanh quốc tế. Vì
vậy để hạn chế tình trạng lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ có thể sử dụng các giải
pháp:
-Vận dụng các điều khoản hạn chế quyền sở hữu trí tuệ (thí dụ như điều
khoản về sử dụng hạn chế được quy định tại Điều 760, 761, 801, 802 và 803 Bộ
luật dân sự, hay Điều 13 của Thoả ước TRIPS). Nếu biết vận dụng nhuần nhuyễn
các điều khoản về hạn chế quyền sở hữu trí tuệ nói trên, chúng ta cũng có thể hạn
chế được khả năng lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ của các chủ sở hữu. Cụ thể là,
đối với các hành vi sử dụng độc quyền mang tính chất lạm dụng, Nhà nước có
thể tuyên bố cho phép người sử dụng phá tình trạng độc quyền (sử dụng mà
không xin phép) vì lợi ích xã hội.
-Xây dựng luật cạnh tranh
Hiện nay có khoảng hơn 80 nước trên thế giới đã ban hành luật cạnh tranh
và chống độc quyền, nhằm lành mạnh hoá nền kinh tế. Toàn cầu hoá nền kinh tế,

cộng với sự gia tăng bảo hộ độc quyền của chủ sở hữu trí tuệ khiến cho các nước
cảm thấy cần thiết phải có luật cạnh tranh Luật Cạnh tranh của Việt Nam, có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2005, là bước tiến lớn trên con đường cân bằng
giữa quyền lợi của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và những người sử dụng các
đối tượng được bảo hộ.
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
23
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
PHẦN KẾT LUẬN
Qua những phân tích ở trên chúng ta có thể khẳng định sở hữu trí tuệ
đóng một vai trò rất quan trọng trog quá trính phát triển kinh tế nói chung và kinh
doanh quốc tế nói riêng. Chính vì vậy mọi người phải có trách nhiệm cùng với
Nhà Nước chống lại hàng giả hàng nhái, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ , để
thnah lọc thị trường trong nước, cũng như đảm bảo những mặt hàng mà nước ta
xuất khẩu là những mặt hàng có chất lượng và không vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ.
Hiện nay Nhà nước cũng đã áp dụng nhiều biện pháp thiết thực nhưng vẫn
còn một số vấn đề chưa thỏa đáng, nên trong thời gian tới cần tiến hành một số
giải pháp thiết thực hơn
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
24
Tìm hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh quốc tế và thực trạng
bảo hộ trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
-Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ và xử lý vi
phạm sở hữu trí tuệ cho phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu thực tế hiện nay.
Hiện nay, các quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn các
điểm yếu, dẫn đến hiệu quả thực thi còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ. Đây là một trong những bất lợi của
Việt Nam trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế.

Đối với pháp luật dân sự, pháp luật chuyên ngành về sở hữu trí tuệ,
cần tiếp tục tổng kết thực tiễn thi hành những năm qua để bổ sung các quy định
đầy đủ và cụ thể hơn, pháp điển hoá các quy định, các văn bản pháp luật về sở
hữu trí tuệ, đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện cho các chủ sở hữu tham gia bảo
hộ quyền sở hữu của mình đối với tài sản sở hữu trí tuệ.
Đối với pháp luật hình sự và pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, mặc dù vừa qua, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, các quy định
về mức xử phạt theo Pháp lệnh này và các văn bản hướng dẫn hiện hành vẫn còn
quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe các hành vi vi phạm. Ví dụ, Nghị định số
56/2006/NĐ-CP ngày 06/06/2006 của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động văn hóa thông tin quy định mức xử phạt hành chính đối
với hành vi vi phạm trong lĩnh vực hoạt động này tối đa là 30 triệu đồng (đối với
hành vi in lậu). Đây là mức phạt quá nhẹ so với lợi nhuận mà các đối tượng xâm
phạm quyền sở hữu thu được. Do đó, cần nghiên cứu điều chỉnh cách tính mức
phạt phải cao hơn, nghiêm khắc hơn đối với hành vi vi phạm, sao cho mức phạt
tối thiểu cũng phải cao hơn lợi nhuận xác định được do hành vi vi phạm gây ra.
Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự tới đây cũng sẽ được sửa đổi, bổ sung.
Trong lần sửa đổi, bổ sung này, đề nghị nên bổ sung quy định về các yếu tố cấu
thành tội phạm phù hợp với các điểm mới trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và
trong các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
-Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên và phát huy sức
mạnh toàn dân tích cực tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống sản xuất, buôn
bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ, đưa nội dung giáo dục vào nhà trường, tổ
chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về sở hữu trí tuệ trong các doanh nghiệp, cơ
quan, đoàn thể, đồng thời kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để
GVHD: Lê Trần Thiên Ý SVTH: Nhóm 7
25

×