Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

ĐỀ TÀI: Quy luật giá trị và sự vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.45 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA TÀI CHÍNH

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI: Quy luật giá trị và sự vận dụng quy luật giá trị
ở Việt Nam hiện nay

Giảng viên hướng dẫn: Phạm Thị Nguyệt
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hương Ly
Lớp: K22CLCB
Mã sinh viên: 22A4010299
1


MỤC LỤC
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung chính
I.

II.

III.

Chương 1: Khái quát lý luận
1.
Nội dung của quy luật giá trị
2.
Mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng


hóa
3.
Tác động của quy luật giá trị
Chương 2: Phân tích thực trạng
1. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam
1.1. Giai đoạn trước đổi mới
1.2. Giai đoạn sau đổi mới
2. Kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta
Chương 3: Những vấn đề còn tồn đọng và một số giải pháp tháo gỡ
1. Những vấn đề còn tồn đọng
2. Một số giải pháp tháo gỡ các vấn đề đang đặt ra

Phần 3: Kết luận chung
Tài liệu tham khảo

2


Lời mở đầu
Phát triển kinh tế thị trường là xu hướng tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế xã hội .
Mỗi quốc gia có một chính sách quản lý và phát triển kinh tế đặc thù của quốc gia đó,
nhưng xét cho đến cùng thì cũng khơng thốt khỏi quy luật chung là áp dụng các quy luật
kinh tế và vận hành chúng một cách có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế. Các quy luật
kinh tế có vai trị điều tiết nền sản xuất hàng hố một cách hợp lý. Như kiến thức đã được
học, sản xuất hàng hóa là một hoạt động vơ cùng quan trọng trong sự phát triển của một
đất nước. Nó giúp thúc đẩy sự phân công lao động, phát triển chuyên mơn hóa, nâng cao
trình độ, mở rộng phạm vi và thúc đẩy sản xuất phát triển. Thêm vào đó, sản xuất hàng
hóa cịn giúp cho q trình giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng miền, các
nước càng ngày càng phát triển, đời sống tinh thần được nâng cao hơn. Vì vậy quy luật
giá trị đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển kinh tế thị trường của mỗi quốc gia.

Theo quy luật này, sản xuất và trao đổi hàng hóa được thực hiện theo hao phí lao động xã
hội cần thiết. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị
hàng hóa và trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng
trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung – cầu, sức mua của đồng tiền. Điều này cắt
nghĩa vì sao khi trình bày quy luật kinh tế chi phối hoạt động của sản xuất và lưu thơng
hàng hóa người ta chỉ trình bày quy luật giá trị, một quy luật bao quát cả bản chất và các
nhân tố cấu thành cơ chế tác động của nó.
Đối với Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, phải đối mặt với rất nhiều thử thách và
khó khăn nhất là trong phát triển kinh tế, do đó địi hỏi chúng ta phải áp dụng những biện
pháp phát triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và có hiệu quả. Chính vì vậy, việc vận
dụng quy luật giá trị vào phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là rất cần thiết và quan
trọng.
Trước tầm quan trọng của quy luật giá trị, em đã thực hiện nghiên cứu đề tài: “Quy luật
giá trị và sự vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam hiện nay “
Song do kiến thức còn hạn chế nên khơng thể tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ để đề tài này có thể hồn thiện hơn nữa.

3


CHƯƠNG I: KHÁT QUÁT LÝ LUẬN
1. Nội dung của quy luật giá trị
Khái niệm: Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Ở đâu
có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Mọi
hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thơng hàng hóa đều chịu sự
tác động và chi phối của quy luật này. Tuân theo u cầu của quy luật giá trị thì mới
có lợi nhuận, mới tồn tại và phát triển được, ngược lại sẽ bị thua lỗ và phá sản.
Quy luật giá trị địi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở lượng
giá trị hàng hóa hay thời gian lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi
người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình nhưng giá trị của hàng

hố khơng phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất
hàng hoá mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết . Vì vậy, muốn bán được hàng hố,
bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho chi phí lao động
cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
Đòi hỏi trên của quy luật là khách quan, đảm bảo sự cơng bằng, hợp lí, bình đẳng
giữa những người sản xuất hàng hoá. Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất
và trao đổi hàng hoá phải tn theo u cầu hay địi hỏi của nó thơng qua “mệnh lệnh”
của giá cả thị trường.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vân động của giá cả hàng hố vì giá
trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hố nào nhiều
giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường ngồi giá trị, giá cả cịn
phụ thuộc vào các nhân tố như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Nhất là
quy luật cung cầu làm cho giá cả hàng hoá thường xuyên tách rời giá trị. Nhưng sự
tách rời đó chỉ xoay quanh giá trị, C.mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Trong
vẻ đẹp này, giá trị hàng hoá là trục, giá cả thị trường lên xuống quanh trục đó. Đối với
mỗi hàng hố, giá cả của nó có thể cao thấp khác nhau, nhưng khi xét trong một
khoảng thời gian nhất định, tổng giá cả phải phù hợp với tổng giá trị của nó. Giá cả thị
trường tự phát lên xuống xoay quanh giá trị là biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá
trị.

4


2. Mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng
hóa
Quy luật giá trị biểu hiện qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản thành
quy luật giá cả sản xuất (giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh) và thành quy
luật giá cả độc quyền (giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền). Nó tiếp tục tồn tại và
hoạt động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộỉ các nước xã hội chủ nghĩa ở các
nước khác trên thế giới và ở nước ta.

Ta xét mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền với giá trị hàng
hoá: Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá trị là cơ sở của giá cả. Khi
quan hệ cung cầu cân bằng, giá cả hàng hoá cao hay thấp là ở giá trị của hàng hoá
quyết định.
Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, giá cả hàng hoá tự phát lên xuống xoay quanh
giá trị tuỳ theo quan hệ cung cầu, cạnh tranh và sức mua của đồng tiền. Sự hoạt động
của quy luật giá trị biểu hiện ở sự lên xuống của giá cả trên thị trường. Tuy vậy, sự
biến động của giá cả vẫn có cơ sở là giá trị, mặc dù nó thường xuyên tách rời giá trị.
Điều đó có thể hiểu theo hai mặt:
Thứ nhất, không kể quan hệ cung cầu như thế nào, giá cả không tách rời giá trị xã
hội.
Thứ hai, nếu nghiên cứu sự vận động của giá cả trong một thời gian dài thì sẽ thấy
tổng số giá cả bằng tổng số giá trị, vì bộ phận vượt quá giá trị sẽ bù vào bộ phận giá
cả thấp hơn giá trị (giá cả ở đây là giá cả thị trường. Giá cả thị trường là giá cả sản
xuất giữa người mua và người bán thoả thuận với nhau).
Giá cả sản xuất là hình thái biến tướng của giá trị, nó bằng chi phí sản xuất của
hàng hố cộng với lợi nhuận bình quân. Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh do
hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân nên hàng hố khơng bán theo giá trị mà bán
theo giá cả sản xuất. Giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất không phải là phủ
nhận quy luật giá trị mà chỉ là biểu hiện cụ thể của quy luật giá trị trong giai đoạn tư
bản tự do cạnh tranh. Qua hai điểm dưới đây sẽ thấy rõ điều đó:
Điểm đầu tiên, tuy giá cả sản xuất của hàng hố thuộc ngành cá biệt có thể cao hơn
hoặc thấp hơn giá trị, nhưng tổng giá trị sản xuất của tồn bộ hàng hố của tất cả các
5


ngành trong toàn xã hội đều bằng tổng giá trị của nó. Tổng số lợi nhuận mà các nhà tư
bản thu được cũng bằng tổng số giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Điểm thứ hai, giá cả sản xuất lệ thuộc trực tiếp vào giá trị. Giá trị hàng hoá giảm
xuống, giá cả sản xuất giảm theo, giá trị hàng hoá tăng lên kéo theo giá cả sản xuất

cũng tăng lên.
Giá cả độc quyền:
Trong giai đoạn tư bản độc quyền, tổ chức độc quyền đã nâng giá cả hàng hoá lên
trên giá cả sản xuất và giá trị. Giá cả độc quyền bằng chi phí sản xuất cộng với lợi
nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền vượt q lợi nhuận bình qn.
Khi nói tới giá cả độc quyền thì thường hiểu là giá cả bán ra cao hơn giá cả sản
xuất và giá trị, đồng thời cũng cần hiểu cịn có giá cả thu mua rẻ mà tư bản độc quyền
mua của người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ ngoài độc quyền.
Giá cả độc quyền khơng xố bỏ giới hạn của giá trị hàng hố, nghĩa là giá cả độc
quyền khơng thể tăng thêm hoặc giảm bớt giá trị và tổng giá trị thặng dư do xã hội sản
xuất ra; phần giá cả độc quyền vượt quá giá trị chính là phần giá trị mà những người
bán (công nhân, người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ...) mất đi. Nhìn vào phạm vi
toàn xã hội, toàn bộ giá cả độc quyền cộng với giá cả khơng độc quyền về đại thể
bằng tồn bộ giá trị.
3. Tác động của quy luật giá trị
a) Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa
Thực chất điều tiết sản xuất cuả quy luật giá trị là điều chỉnh tự phát các yếu tố sản
xuất như: tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác, từ
nơi này sang nơi khác. Nó làm cho sản xuất hàng hố của ngành này, nơi này được
phát triển mở rộng, ngành khác nơi khác bị thu hẹp, thông qua sự biến động giá cả thị
trường. Từ đó tạo ra những tỷ lệ cân đối tạm thời giữa các ngành, các vùng của một
nền kinh tế hàng hoá nhất định.
Quy luật canh tranh thể hiện ở chỗ: cung và cầu thường xuyên muốn ăn khớp với
nhau, nhưng từ trước đến nay nó chưa hề ăn khớp với nhau mà thường xuyên tách
nhau ra và đối lập với nhau. Cung luôn bám sát cầu, nhưng từ trước đến nay không lúc
6


nào thoả mãn được một cách chính xác. Chính vì thế thị trường xảy ra các trường hợp
sau đây:

- Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hoá, trường hợp này xảy ra một
cách ngẫu nhiên và rất hiếm.
- Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao.
Những người đang sản xuất những loại hàng hoá này sẽ mở rộng quy mô sản xuất và
sản xuất hết tốc lực; những người đang sản xuất hàng hoá khác, thu hẹp quy mơ sản
xuất của mình để chuyển sang sản loại hàng hoá này. Như vậy tư liệu sản xuất, sức lao
động, tiền vốn được chuyển vào ngành này tăng lên, cung về loại hàng hoá này trên
thị trường cũng tăng lên theo.
- Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hoá ế thừa, bán khơng chạy,
có thể lỗ vốn. Tình hình này bắt buộc những người đang sản xuất loại hàng hóa này
phải thu hẹp quy mô sản xuất, chuyển sang sản xuất loại hàng hố có giá cả thị trường
cao hơn; làm cho tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn ở ngành hàng hoá này
giảm đi.
Thực chất điều tiết lưu thông của quy luật giá trị là điều chỉnh một cách tự phát
khối lượng hàng hoá từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, tạo ra mặt bằng giá cả xã
hội. Giá trị hàng hoá mà thay đổi, thì những điều kiện làm cho tổng khối lượng hàng
hố có thể tiêu thụ được cũng sẽ thay đổi. Nếu giá trị thị trường hạ thấp thì nói chung
nhu cầu xã hội sẽ mở rộng thêm và trong những giới hạn nhất định, có thể thu hút
những khối lượng hàng hoá lớn hơn. Nếu giá trị thị trường tăng lên thì nhu cầu xã hội
về hàng hố sẽ thu hẹp và khối lượng hàng hoá tiêu thụ cũng sẽ giảm xuống. Cho nên
nếu cung cầu điều tiết giá cả thị trường hay nói đúng hơn điều tiết sự chênh lệch giữa
giá cả thị trường và giá trị thị trường thì trái lại chính giá trị thị trường điều tiết quan
hệ cung cầu, hay cấu thành trung tâm, chung quanh trung tâm đó những sự thay đổi
trong cung cầu làm cho những giá cả thị trường phải lên xuống.
Trong xã hội tư bản đương thời, mỗi nhà tư bản công nghiệp tự ý sản xuất ra cái mà
mình muốn theo cách mình muốn, và với số lượng theo ý mình. Đối với họ số lượng
mà xã hội cần là một lượng chưa biết, cái mà ngày hôm nay cung cấp không kịp thì
ngày mai lại có thể cung cấp nhiều q số yêu cầu. Tuy vậy người ta cung thoả mãn

7



được nhu cầu một cách miễn cưỡng, sản xuất chung quy là căn cứ theo những vật
phẩm mà người ta yêu cầu.
b) Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động
Để tránh bị phá sản, giành được ưu thế trong cạnh tranh và thu hút được nhiều lãi,
từng người sản xuất hàng hố đều tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,
ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật mới vào sản xuất để giảm hao phí lao
động cá biệt của mình, giảm giá trị cá biệt của hàng hố do mình sản xuất ra. Từ đó
làm cho kỹ thuật của toàn xã hội càng phát triển lên trình độ cao hơn, năng suất càng
tăng cao hơn.
Như thế là chúng ta thấy phương thức sản xuất tư liệu sản xuất luôn bị biến đổi,
dẫn đến sự phân cơng tỉ mỉ hơn dùng nhiều máy móc hơn, lao động trên một quy mô
lớn đưa đến lao động trên một quy mơ lớn hơn như thế nào.
Đó là quy luật luôn hất sản xuất ra con đường cũ và luôn buộc sản xuất phải làm
cho sức sản xuất của lao động khẩn trương hơn. Quy luật đó khơng gì khác mà là quy
luật nhất định giữ cho giá cả hàng hố ngang bằng với chi phí sản xuất của chính
hàng hố đó, trong giới hạn của những biến động chu kì của thương mại. ”... Nếu một
người nào sản xuất được rẻ hơn, có thể bán được nhiều hàng hố hơn và do đó chiếm
lĩnh được trên thị trường một địa bàn rộng hơn bằng cách bán ra hạ giá hơn giá cả thị
trường hiện hành hay hạ hơn giá trị thị trường thì anh ta làm ngay như thế và do đó
mở đầu một hành động dần dần buộc những người khác cũng phải áp dụng các
phương pháp ít tốn kém hơn và làm cho thời gian lao động xã hội cần thiết giảm
xuống một mức thấp hơn”.
c) Phân hóa những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo một cách tự
nhiên
Trong nền sản xuất hàng hóa, điều kiện sản xuất của từng người khơng hồn tồn
giống nhau; khả năng đổi mới kĩ thuật, công nghê và hợp lí hóa sản xuất khác nhau;
tính năng động và khả năng nắm bắt nhu cầu của thị trường khác nhau, nên giá trị cá
biệt của từng người khác nhau, nhưng quy luật giá trị lại đối xử như nhau, nghĩa là

khơng có ngoại lệ đối với họ. Vì vậy khơng tránh khỏi tình trạng một số người có giá
trị hàng hóa cá biệt thấp hoặc bằng so với giá trị xã hội của hàng hóa nên có lãi, mua
sắm thêm tư liệu sản xuất, đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất. Ngược lại, nhiều người
8


sản xuất khác, do điều kiện sản xuất không thuận lợi, năng lực quản lí sản xuất, kinh
doanh kém, gặp rủi ro nên họ bị thua lỗ, dẫn đến phá sản. Hiện tượng này dẫn đến sự
phân hóa giàu – nghèo.
“ ...Mỗi người đều sản xuất riêng biệt, cho lợi ích riêng của mình, khơng phụ thuộc
vào nhà sản xuất khác. Họ sản xuất cho thị trường, nhưng dĩ nhiên không một người
nào trong số họ biết được dung lượng của thị trường. Mối quan hệ như vậy giữa
nhưng người sản xuất riêng rẽ, sản xuất cho một thị trường chung, thì gọi là cạnh
tranh. Dĩ nhiên trong những điều kiện ấy, sự thăng bằng giữa sản xuất và tiêu dùng
chỉ có thể có được sau nhiều lần biến động. Những người khéo léo hơn, tháo vát hơn
và có sức lực hơn sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ những sư biến động ấy; cịn những
người yếu ớt, vụng về thì sẽ bị sự biến động đó đè bẹp. Một vài người trở nên giàu có,
cịn quần chúng trở nên nghèo đói, đó là kết quả khơng tránh khỏi của quy luật cạnh
tranh. Kết cục là những người sản xuất bị phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế
của họ và trở thành công nhân làm thuê trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt
số của họ” (V.Lênin: Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường)
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ
1. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam
1.1. Giai đoạn trước đổi mới
Trước năm 1986, chính sách điều chỉnh giá của Chính Phủ ta trong giai đoạn này
đã phủ nhận vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế nước ta. Trong giai đoạn này,
với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, Nhà nước trực tiếp điều khiển
nền kinh tế bằng hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh.
Cho đến 1964, ở Miền Bắc Việt Nam, hệ thống giá chỉ đạo của Nhà nước đã được
hình thành trên cơ sở lấy giá thóc sản xuất trong nước làm căn cứ xác định giá chuẩn

và tỷ lệ trao đổi. Hệ thống giá này về cơ bản được thực hiện cho đến năm 1980, trong
khi điều kiện sản xuất, lưu thông, thị trường trong nước và quan hệ kinh tế đối ngoại
đã có những thay đổi lớn. Hệ thống giá nhà nước ngày càng thấp so với giá trị trường
tự do. Quá trình diễn biến giá cả cho đến năm 1981 có thể được diến biến như sau:
-

Hầu hết các hàng hóa và dịch vụ lưu thơng trong nền kinh tế đều theo giá chỉ đạo
của Nhà nước.

9


-

-

Trên thị trường có hai hệ thống giá: Giá chỉ đạo của Nhà nước áp dụng trên thị
trường có tổ chức và giá trị trường tự do biến động theo quan hệ cung – cầu, đặc
điểm của giá chỉ đạo là không chú ý đến quan hệ cung cầu.
Quan hệ cung cầu chỉ được chú ý đối với giá cả của những hàng hóa khơng thiết
yếu và khơng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Toàn bộ giá cả thị trường trong nước khơng có quan hệ với giá thị trường thế giới.
Giá cả được xây dựng trên cơ sở lấy giá trị trong nước làm căn cứ, tách rời hệ
thống giá quốc tế theo chủ trương xây dựng hệ thống giá độc lập tự chủ.

Điều đáng chú ý là từ sau năm 1975, khi đất nước thống nhất thì gần như tồn bộ
thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trước đó ở Miền Bắc lại được diễn ra
trên cả nước. Việc duy trì các chính sách tài chính, tín dụng, chính sách giá cả và tiền
lương theo kiểu cấp phát, giao nộp hiện vật bình quân của nền kinh tế thời chiến đã
gây tác hại nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Đồng thời cũng xuất hiện chênh lệch

ngày càng lớn giữa mặt bằng giá do Nhà nước quy định và mặt bằng giá thị trường tự
do, trong đó giá thị trường tự do gấp 7 – 8 lần giá Nhà nước quy định.
Tóm lại, trong những năm 1976 đến 1985, do hoàn cảnh lịch sử của Đất nước có
nhiều thay đổi, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung của nước ta đã tỏ ra khơng phù hợp,
bộc lộ nhiều hạn chế, kìm hãm sự phát triển của kinh tế Đất nước. Do đó việc đổi mới
cơ chế quản lý nền kinh tế là một yêu cầu rất bức thiết của Đảng và Nhà nước.
1.2.

Giai đoạn sau đổi mới

Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong
sự nghiệp đổi mới, tiến lên xây dựng CNXH ở nước ta. Đây thực sự là một cuộc cách
mạng sâu sắc diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Từ những tư tưởng của
Nghị quyết này, Nhà nước đã bước đầu tổng kết, đánh giá chính sách và cơ chế giá từ
1969 đến 1980, từ đó đề ra chủ trương phải cải cách giá và xem đó là khâu trung tâm
của cơng cuộc đổi mới cơ chế kinh tế; phê phán chính sách và hệ thống giá đương
thời, phê phán tư tưởng “ kinh tế thị trường”, chỗ dựa lâu dài và vững chắc của chính
sách và hệ thống giá vẫn tồn tại cho tới lúc bấy giờ. Sự phê phán này có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc đổi mới tư duy, đổi mới quan điểm về chính sách giá cả. Trong
bối cảnh kinh tế - xã hội lúc ấy, những căn cứ hoạch định chính sách giá cả có những
thay đổi dẫn tới một sự thay đổi lớn về tư duy kinh tế. Nó bắt đầu tạo nền móng cho
sự chuyển biến từ tư duy giá cả thị trường tức là giá phải phù hợp với sức mua của
10


đồng tiền và có tính đến giá cả trên thị trường thế giới của hàng nhập, xóa bỏ những
bất hợp lý của Nhà nước và chấm dứt tình trạng xí nghiệp sản xuất, kinh doanh bị lỗ
vốn do Nhà nước quy định giá khơng chính xác.
Đại hội VII (tháng 6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm

2000, khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội
nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) tiếp tục phát triển và
cụ thể hoá tư tưởng của Đại hội VII, xác định mục tiêu tổng quát của quá trình đổi
mới là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hội nghị cũng
chỉ ra những nguy cơ mà đất nước phải vượt qua. Đó là: tụt hậu ngày càng xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ
nghĩa; tệ tham nhũng và quan liêu; “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch. Hội
nghị đưa ra quan điểm về cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước trong thời kỳ mới;
khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xem "phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt".
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) khẳng định “Sản xuất hàng hóa khơng đối
lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã
hội đã được xây dựng” chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020;
coi phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
khâu đột phá trong q trình thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Có thể khái qt một số bước chuyển đổi mới kinh tế đặc trưng ở nước ta trong
hơn 30 năm đổi mới như sau:
+ Từ sản xuất theo mơ hình kinh tế hiện vật, phi thị trường sang sản xuất theo mơ
hình kinh tế hàng hố, kinh tế thị trường định hướng XHCN, gắn tăng trưởng kinh tế
với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách.
Trong đó, tư duy kinh tế về bản chất kinh tế thị trường và những nội hàm của tính
định hướng XHCN, được xác định và ngày càng cụ thể hóa trong các kỳ đại hội Đảng,

11



đã thực sự trở thành tư duy lý luận có sức sáng tạo, không chỉ làm sáng rõ con đường
đi lên CNXH ở Việt Nam mà còn là sự bổ sung cho kho tàng lý luận về CNXH.
+ Từ đơn sở hữu sang đa sở hữu, đa thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế
được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Có thể nói, bước chuyển đổi mới
này thực sự là khâu đột phá trong nhận thức lý luận kinh tế, cởi trói tư duy và tạo
động lực cho công cuộc đổi mới thực hiện thuận lợi, có hiệu quả.
+ Từ quản lý theo cơ chế tập trung bao cấp, làm cho con người ỷ lại, thụ động, sang
quản lý theo cơ chế thị trường, đòi hỏi tính năng động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của con người.
+ Từ phân phối bình qn, khơng thừa nhận đến thừa nhận đa dạng hóa hình thức
phân phối mà phân phối theo lao động là chủ yếu, gắn với phân phối theo vốn, tài
sản…
+ Từ không chấp nhận bóc lột, khơng chấp nhận phân hố giàu nghèo, sang chấp
nhận bóc lột, chấp nhận phân hố giàu nghèo ở mức độ nhất định.
+ Từ đảng viên không làm kinh tế tư nhân sang đảng viên được làm kinh tế tư
nhân
+ Từ kinh tế “khép kín” sang tư duy mở, chủ động hội nhập quốc tế, chấp nhận
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
+ Từ “Nhà nước làm thay thị trường”, “Nhà nước làm tất cả”, độc quyền sang nhà
nước chủ yếu thực hiện vai trò kiến tạo phát triển, khắc phục các khuyết tật của thị
trường, đa dạng hóa các chủ thể làm kinh tế, giảm độc quyền nhà nước, xoá bỏ độc
quyền doanh nghiệp...
+ Từ Nhà nước đóng vai trị phân bổ các nguồn lực là chủ yếu, sang thị trường
đóng vai trị phân bổ các nguồn lực là chủ yếu.
+ Từ cơng nghiệp hố bằng con đường “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”, sử dụng vốn của
nhà nước sang công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức và phát triển rút
ngắn, sử dụng nguồn vốn xã hội hoá theo cơ chế thị trường.
12



+ Từ mơ hình kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng với năng suất, chất lượng và
hiệu quả thấp, sang mơ hình kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu với năng suất,
chất lượng và hiệu quả cao, phát triển nhanh, bền vững gắn với bảo vệ môi trường…
Những đặc trưng đổi mới kinh tế nêu trên là nền tảng tiền đề nhận thức lý luận của
tư duy đổi mới hiện nay trên các lĩnh khác về chính trị, văn hố, xã hội, an ninh - quốc
phịng, đối ngoại… Đương nhiên, mức độ thành công, chất lượng chuyển đổi của mỗi
bước chuyển đổi mới kinh tế nêu trên không đều nhau. Khơng nắm bắt, giải mã được
những tín hiệu đặc trưng tư duy kinh tế mới đó thì khơng thể có tư duy lý luận đổi mới
đúng đắn, sáng tạo.
Nhìn chung sau đại hội Đảng VI, những cải cách của Chính Phủ đã tạo điều kiện
cho nền kinh tế nước ta phát triển đúng hướng, nền kinh tế đã có những chuyển biến
hết sức tích cực, mà cơ bản nhất đó chính là đã bước đầu hình thành nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước.
Phát triển chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng VI, các kì đại hội Đảng tồn quốc lần
thứ VII, VIII, IX, X, XI, XII đã tiếp tục công cuộc đổi mới kinh tế đất nước với quan
điểm tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, từng bước đưa nền kinh tế
hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Hòa nhịp với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, các quy luật kinh tế riêng của
nền kinh tế thị trường cũng đã và đang phát huy các tác động tích cực của mình trong
vai trị cùng với Nhà nước điều tiết kinh tế. Riêng trong lĩnh vực quản lí giá cả, chúng
ta đã vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó quy luật giá trị đóng vai trị trung
tâm có tác động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị, đồng thời phải phù hợp với
sức mua của đồng tiền và tính tới quan hệ cung cầu.
Để vận dụng đúng đắn quy luật giá trị, chúng ta cũng đã phải trải qua cả một quá
trình thử nghiệm lâu dài, mà đó chính là q trình cải cách chính sách quản lí giá.
Trước hết chúng ta đã phấn đấu thi hành chính sách một giá trong nền kinh tế, đây là
một bước ngoặt lớn trong tư duy kinh tế, cũng như trong việc lựa chọn phương hướng
cho chính sách giá cả. Chủ trương xác định một giá kinh doanh thống nhất, nhưng vẫn

trong cơ chế kinh doanh XHCN, chứ chưa chỉ rõ đó là một cơ chế một giá thị trường.
Do vậy ngay sau đó chủ trương một giá đã bộc lộ một số điểm khơng thích hợp. Trong
cơ chế này, vai trò tự chủ của cơ sở không được đề cao. Hơn nữa, cơ chế này chưa
13


tính tới vai trị của người tiêu dùng, tức là tiếng nói của người tiêu dùng trong việc
định giá. Đây là nhược điểm có tính chất cơ bản, vẫn mang nặng tính chất độc quyền,
áp đặt.
Nhìn chung, trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới chúng ta chưa xác định được
mơ hình mới của chính sách và cơ chế quản lí giá nhằm tiến tới giá thị trường có điều
tiết vĩ mô của Nhà nước, vẫn chưa thừa nhận một mức giá do thị trường quy định.
Chính vì vậy chỉ khi chúng ta quyết định chuyển toàn bộ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước thì quy
luật giá trị mới thật sự được thừa nhận. Sự thừa nhận đó được thể hiện trên các mặt
như:
-

-

-

-

Những kế hoạch phát triển toàn bộ nền kinh tế được đề ra mang tính định hướng
chứ khơng mang tính pháp lệnh như trước, qua đó bước đầu thừa nhận các quy
luật kinh tế riêng của nền kinh tế thị trường như quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, quy luật giá trị, quy luật cung cầu...
Giá cả của các loại hàng hóa cơ bản do thị trường quyết định, Nhà nước chỉ can
thiệp bình ổn giá cả của một số loại hàng hóa đóng vai trị quan trọng đối với nền

kinh tế như xăng, dầu, gạo,...
Thực tiễn kinh tế đã chứng tỏ thị trường và giá cả trên thị trường là hiện tượng
khách quan. Chúng hình thành và phát triển có quy luật và do đó có thể điều tiết
bằng một chủ thể có thực lực và nhận thức được quy luật, có kinh nghiệm kinh
doanh.
Giá cả thị trường trong nước ít nhiều đã chịu ảnh hưởng từ sự biến động của giá cả
trên thị trường thế giới như việc tăng giá xăng dầu, tăng giá vàng,...
Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp chờ đợi vào
chỉ tiêu, vào kế hoạch của Nhà nước. Giờ đây trong cơ chế mới thì họ nhận tín
hiệu chủ yếu của thị trường, căn cứ vào yêu cầu của thị trường, xuất phát từ kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp mà đề ra kế hoạch.

2. Kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta
Thứ nhất, về tốc độ tăng trưởng kinh tế
Trong hơn 30 năm qua (1986-2017), tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta, tuy có sự
dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và thế giới với mức
tăng bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm. Nếu như giai đoạn 1986-1990, tốc độ tăng
14


trưởng kinh tế nước ta chỉ đạt 4,4%/năm, thì đến giai đoạn 1991-1995 là 8,2%/năm;
giai đoạn 1996-2000 là 7,6%/năm; giai đoạn 2001-2005 là 7,34%; giai đoạn 20062010 là 6,32%/năm; năm 2016 là 6,21% và năm 2017 là 6,81% 10.
Chất lượng tăng trưởng từng bước được cải thiện, trình độ cơng nghệ trong sản xuất
được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng
trưởng GDP giai đoạn 2001-2005 đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2%, đến giai
đoạn 2011-2015 tăng lên 28,94%. Kinh tế vĩ mơ ổn định, lạm phát được kiểm sốt, nợ
cơng có xu hướng giảm dần, dự trữ ngoại tệ tăng, đạt mức an tồn. Thu nhập bình
qn đầu người từ khoảng 100 USD/người/năm vào năm 1986, lên 471
USD/người/năm vào năm 2003. Năm 2015, quy mô nền kinh tế nước ta đạt 204 tỷ
USD, bình quân đầu người 2300 USD/người/năm. Năm 2017, quy mô nền kinh tế

theo giá hiện hành đạt 5.007,9 nghìn tỷ đồng, tương ứng hơn 220 tỷ USD; thu nhập
bình quân đầu người khoảng 2385 USD/người/năm.
Thứ hai, về kết quả huy động nguồn vốn đầu tư
Giai đoạn 1986-2017, để tạo nguồn lực tài chính cho phát triển, Đảng và Nhà nước
ta đã khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức chính trị, xã hội, các thành phần kinh tế bỏ
vốn đầu tư phát triển kinh tế. Kết quả là tổng vốn đầu tư toàn xã hội của nước ta ngày
càng tăng. Nếu như giai đoạn 1998-2000, tổng vốn đầu tư tồn xã hội đạt 117,9 nghìn
tỷ đồng, đến năm 2017 đạt 1667,4 nghìn tỷ đồng, tăng gấp hơn 14 lần so với giai đoạn
1998-2000. Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế cũng có sự dịch chuyển theo
hướng tích cực, thể hiện ở chỗ: vốn đầu tư phát triển của khu vực nhà nước đã giảm
xuống; khu vực ngồi nhà nước và khu vực có vốn ĐTNN tăng lên. Nếu như giai
đoạn 1986-2000, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước chiếm 54,3% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội; khu vực kinh tế là 24,1%; khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là 21,6% thì
đến năm 2017, cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần lần lượt là: 35,6%; 40,6% và
23,8%.
Thứ ba, về tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu
Từ năm 1986, nước ta thực hiện mơ hình nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế, nhờ đó sức sản xuất trong nước được giải
phóng, các thành phần kinh tế phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng.
Nhu cầu tiêu thụ, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước và quốc tế không ngừng mở
15


rộng. Do đó, xuất nhập khẩu hàng hóa tăng đột biến, nếu năm 1986 tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu mới đạt 2.944 triệu USD, trong đó, xuất khẩu đạt 789 triệu USD, nhập
khẩu 2.155 triệu USD, thì năm 2017, tức là sau 31 năm, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu lên tới 425 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 213,96 tỷ USD, nhập khẩu đạt 211,04
tỷ USD, xuất siêu hơn 2,9 tỷ USD.
Thứ tư, về các vấn đề an sinh xã hội
Với mục tiêu định hướng XHCN, Đảng ta luôn thống nhất quan điểm tăng trưởng

kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và cơng bằng xã hội. Do đó, các vấn đề về an sinh xã
hội cơ bản được đảm bảo, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi cho mọi người đều phát
triển khá đồng bộ và ngày càng được cải thiện.
Vấn đề lao động việc làm, năng suất lao động và tỷ lệ thất nghiệp đều phát triển
theo hướng tích cực. Cụ thể: Số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong
các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, tăng từ 37.975 nghìn người vào năm 2000, lên
53.718 nghìn người vào năm 2017 tăng 41,4%, bình quân mỗi năm tăng 2,4%/năm;
năng suất lao động xã hội năm 2005 đạt 21,4 triệu đồng/người, đến năm 2017 đạt 93,2
triệu đồng/người. Như vậy, trong vòng 12 năm, năng suất lao động xã hội tăng 3,35
lần, bình quân tăng 27,9%/năm; tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta thấp và có xu hướng giảm
dần từ 2,88% năm 2010, xuống 2,24% vào năm 2017.
Vấn đề xóa đói, giảm nghèo là một trong nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà
nước, các cấp chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội và của toàn dân, được tổ chức
thực hiện nghiêm túc, chu đáo, từ khâu xác định chuẩn nghèo cho từng giai đoạn phù
hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và mức sống bình quân của dân cư. Các
chương trình, dự án đầu tư nhằm tạo điều kiện cho các hộ nghèo, vùng đặc biệt khó
khăn để mọi người tham gia sản xuất kinh doanh vươn lên thoát nghèo và trở thành hộ
khá giả, nên hộ nghèo cả nước đã giảm dần qua các giai đoạn phát triển. Nếu xét theo
chuẩn nghèo qua các giai đoạn từ 1993-1995 và 1997-2000 thì tỷ lệ hộ nghèo năm
1993 là 58%, giảm xuống 37,4% vào năm 1998. Áp dụng chuẩn nghèo giai đoạn
2001-2005, năm 2002 tỷ lệ hộ nghèo là 28,9%, năm 2004 là 23,2%. Theo chuẩn nghèo
giai đoạn 2006-2010, năm 2007 tỷ lệ hộ nghèo là 14,8%, năm 2009 là 11% và năm
2010 là 9,45%. Căn cứ chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ hộ nghèo năm 2011 là
11,76%, năm 2014 là 8,4%, năm 2015 là 7,1%. Năm 2015, Chính phủ có quyết định
số 59/2015/QĐ-TTg về chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 201616


2020, theo tiêu chuẩn đó thì tỷ lệ hộ nghèo năm 2016 là 8,93%, năm 2017 là 6,72%.
Chương trình xóa đói giảm nghèo ở nước ta được các tổ chức quốc tế đánh giá là
thành cơng và đó là do sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp, các đồn

thể chính trị, xã hội, của tồn dân và đặc biệt là nỗ lực thoát nghèo của bản thân các
hộ nghèo.
Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được quan tâm như: Tích
cực triển khai nhiều giải pháp giảm quá tải bệnh viện; Tập trung đầu tư xây dựng hệ
thống các bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh và tuyến cuối. Đội ngũ cán bộ y tế phát
triển cả về số lượng và chất lượng đối với cả y tế công lập và tư nhân. Riêng đối với y
tế công lập, số cơ sở khám chữa bệnh năm 1986 là 11.600 cơ sở, năm 2016 là 13.591
cơ sở, đạt tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1986-2016 là 0,6%/năm; số giường bệnh
tăng bình quân 47,2%/năm; số bác sĩ tăng bình quân 9,8%/năm.
Tuổi thọ trung bình của nước ta tăng, đạt 73,3 tuổi vào năm 2015; năm 2016 là 73,4
tuổi; năm 2017 là 73,5 tuổi, vượt xa các nước có thu nhập thấp (58 tuổi) và cao hơn
các nước có thu nhập trung bình (71 tuổi).
Số trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, theo báo cáo của Viện dinh dưỡng trước cơ
quan truyền thông ngày 12-10-2018 thì suy dinh dưỡng thể thấp cịi là 23,8%, thể nhẹ
cân là 13,4% và đang có xu hướng giảm dần.
CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN ĐỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
THÁO GỠ
1. Những vấn đề còn tồn đọng
Những kết quả đạt được sau hơn 30 năm đổi mới của nước ta là rất to lớn, toàn
diện, song cũng cịn nhiều vấn đề đặt ra cần nghiên cứu hồn thiện:
- Đổi mới chính trị đơi khi chưa bắt kịp đổi mới kinh tế, nên tạo ra nhiều khoảng
trống pháp lý; nhiều cơ chế, chính sách cịn thiếu, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển
của nền kinh tế. Nhiều chính sách hiện khơng cịn phù hợp, thậm chí cản trở sự phát
triển.

17


- Tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta cao hơn mức trung bình của khu vực và thế
giới, song chất lượng tăng trưởng chưa cao, tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng

GDP còn thấp.
- Mặc dù Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi, ban hành nhiều chính sách
hỗ trợ về cơ sở vật chất, đào tạo nghề, hướng nghiệp để các hộ nghèo, hộ cận nghèo,
các hộ kinh tế cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ vươn lên làm giàu, xích lại gần với
nhóm trung lưu, giầu có trong xã hội. Song, khoảng cách giữa nhóm người giàu và
nhóm người nghèo về thu nhập vẫn khơng giảm, mà có xu hướng ngày càng tăng.
Năm 2002, mức chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người giầu và nhóm người nghèo
là 8,1 lần, năm 2004 là 8,3 lần, năm 2006 là 8,4 lần, năm 2008 là 8,9 lần và năm 2010
là 9,4 lần. Như vậy, mức độ bất bình đẳng về thu nhập ở nước ta có xu hướng tăng
dần.
- Giáo dục - đào tạo và chăm sóc y tế khơng được Nhà nước bao cấp như cơ chế cũ,
nên phần đông số người nghèo không đủ tiền chữa bệnh, con em khơng có tiền đóng
học phí phải bỏ học. Như vậy, sẽ dẫn đến tình trạng một bộ phận khá lớn lực lượng
lao động trong tương lai sẽ khơng đủ sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chun mơn
nghiệp vụ, sẽ rất khó tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, gây áp lực lớn đối
với vấn đề giải quyết việc làm.
2. Một số giải pháp tháo gỡ các vấn đề đang đặt ra
Nhà nước và chính quyền các cấp cần kiểm tra, rà sốt lại các cơ chế, chính sách đã
ban hành. Nếu cơ chế, chính sách nào khơng cịn phù hợp, cản trở sự phát triển của
các cơ sở kinh tế, doanh nghiệp thì nên bãi bỏ. Bởi vì, mọi hoạt động quản lý của Nhà
nước và chính quyền các cấp là nhằm kiến tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở
kinh tế, các doanh nghiệp được tự do phát huy tính năng động sáng tạo trong hoạt
động sản xuất - kinh doanh.
- Khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đầu tư vào các ngành công
nghệ cao, công nghiệp chế tạo, công nghiệp vật liệu mới và hỗ trợ các doanh nghiệp
vừa và nhỏ đầu tư đổi mới công nghệ, tạo ra động lực phát triển mới thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh trên thị
trường trong nước, quốc tế và khu vực. Đồng thời, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, nâng

18



cao tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP. Chú trọng đưa công nghệ cao vào
sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản.
- Để rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, lãnh thổ; giữa đồng bằng với Trung du
miền núi; giữa thành phố và nơng thơn, Nhà nước cần có các chính sách, cơ chế quản
lý phù hợp để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào các vùng
sâu, vùng xa, vùng có kết cấu hạ tầng kỹ thuật yếu kém, nhưng họ vẫn thu được lợi
nhuận ít nhất là bằng đầu tư vào các nơi gần đơ thị có điều kiện thuận lợi hơn. Khi các
cơng trình cơng nghiệp được hình thành sẽ thu hút nhiều lao động, việc làm cho người
dân, tạo thu nhập cho địa phương, các cụm dân cư đơ thị được hình thành, từng bước
được cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của dân cư trong vùng và sẽ rút ngắn dần
khoảng cách với vùng đồng bằng. Đồng thời, cũng làm giảm khoảng cách về bất bình
đẳng về thu nhập giữa các nhóm dân cư. Đó cũng là một trong các nội dung của tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ mơi trường.
- Nhà nước cần thay đổi tồn diện chương trình, nội dung, phương pháp dạy và
học, gắn dạy và học với sự vận động phát triển của kinh tế, xã hội. Phương châm là
dạy cho học sinh biết làm người, dạy cho sinh viên biết làm việc, giảm bớt kinh viện,
sách vở. Song, Nhà nước cũng cần đầu tư cho giáo dục và chỉ đạo thực hiện có hiệu
quả xã hội hóa giáo dục, nhưng vẫn có thể hỗ trợ, giúp đỡ con em người nghèo được
đi học. Nghiên cứu tiến tới xóa bỏ học phí cho hệ mầm non, tiểu học, phổ thông cơ sở
trên phạm vi cả nước để mọi người đều được đi học, đi học khơng chỉ là quyền lợi, mà
cịn là nghĩa vụ, từng bước thực hiện mục tiêu xã hội học tập và học tập suốt đời.
- Nhà nước cần đầu tư đúng mức cho y tế dự phòng, thực hiện phòng bệnh hơn
chữa bệnh, đầu tư thỏa đáng cho y tế tuyến xã, huyện để giảm áp lực cho các tuyến
trên và tránh lãng phí về cơ sở vật chất kỹ thuật ở các tuyến xã, huyện mà không sử
dụng hết công suất.
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thơng hàng hố.
Sự ra đời và hoạt động của quy luật này gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hố. ở

đâu có sản xuất và lưu thơng hàng hố thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Cơ
chế điều tiét sản xuất và lưu thơng hàng hố chính là sự hoạt động của quy luật giá trị sự
hoạt động của quy luật giá trị được biểu hiện thong qua cơ chế giá cả. Thông qua sự vận
19


động của giá cả thị trường ta sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị
trường ta sẽ lên xuống xung quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động của quy
luật giá trị. Cơ chế tác động của quy luật giá trị phát sinh khi tác dụng lên thị trường
thông qua cạnh tranh, cung - cầu, sức mua của đồng tìen. Điều này cắt nghĩa tại sao khi
trình bày quy luật kinh tế chi phối hoạt động của sản xuất, lưu thơng hàng hố và tác
động của các quy luật kinh tế đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, ta chỉ
trình bày quy luật giá trị, một quy luật bao quát chung được cả bản chất, các nhân tố cấu
thành và cơ chế tác động của nó đối với kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.61 và 62.
Văn kiện Đại hội VI của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.61.
Văn kiện Hội nghị tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1994, tr.35.
Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,tr.162.

20



×