Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Giá trị văn hóa nghệ thuật di tích đình ngọc chi ( xã vĩnh ngọc , huyện đông anh, thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 144 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
LỊCH

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
*********

NGUYỄN LỆ QUYÊN

GIÁ TRỊ VĂN HĨA NGHỆ THUẬT DI
TÍCH ĐÌNH NGỌC CHI
(XÃ VĨNH NGỌC, HUYỆN ĐƠNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI)

Chun ngành: Văn hóa học
Mã số
: 60 31 70

LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN QUỐC HÙNG

HÀ NỘI - 2012


2
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC


1

DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

2

MỞ ĐẦU

3
Chương 1

9

ĐÌNH NGỌC CHI TRONG KHƠNG GIAN
VĂN HĨA XÃ VĨNH NGỌC
1.1. Tổng quan về vùng đất Vĩnh Ngọc

9

1.2. Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của đình Ngọc Chi

23

Chương 2
GIÁ TRỊ VĂN HĨA NGHỆ THUẬT ĐÌNH LÀNG NGỌC CHI

35

2.1. Giá trị kiến trúc


35

2.2. Giá trị nghệ thuật

51

2.3. Thực trạng và một số giải pháp bảo tồn các giá trị kiến trúc
nghệ thuật đình Ngọc Chi
Chương 3
LỄ HỘI ĐÌNH ĐÌNH NGỌC CHI

70
86

3.1. Không gian và lịch diễn ra lễ hội

86

3.2. Chuẩn bị lễ hội

91

3.3. Diễn trình lễ hội

96

3.4. Vai trị của lễ hội đình Ngọc Chi trong đời sống cộng đồng
cư dân địa phương hiện nay
3.5. Một số biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội đình
Ngọc Chi


113
116

KẾT LUẬN

125

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

129

PHỤ LỤC

133


3
DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CTQG

Chính trị quốc gia

ĐHQGHN

Đại học quốc gia Hà Nội

KHXH


Khoa học xã hội

NCKH

Nghiên cứu khoa học

NCKHKC

Nghiên cứu khoa học khảo cổ

Nxb

Nhà xuất bản

TĐBK

Từ điển bách khoa

Tp

Thành phố

Tr.

Trang

UBND

Ủy ban nhân dân


VHDT

Văn hóa dân tộc

VHNT

Văn hóa nghệ thuật

VHTT

Văn hóa thơng tin


4
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Dân tộc Việt Nam từ khi hình thành đến nay đã trải qua những chặng
đường dài phát triển, từ chỗ sống dựa vào tự nhiên cho đến lúc biết dựng làng,
lập ấp, xây dựng cuộc sống, đấu tranh với thiên nhiên, ngoại xâm, giữ nhà, giữ
nước. Lịch sử hàng nghìn năm xây dựng và chiến đấu để tồn tại, phát triển đã
hun đúc nên một tâm hồn và khí phách Việt, làm nên một nền văn hiến – văn
minh rực rỡ sánh vai cùng các dân tộc trong khu vực và thế giới. Trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước dẻo dai, bền bỉ đầy sáng tạo đó, cha ơng đã
để lại cho những thế hệ con cháu mai sau một kho tàng di sản văn hóa vơ cùng
phong phú và có giá trị. Tiêu biểu là hệ thống các di tích lịch sử văn hóa nhiều
về số lượng, phong phú về loại hình, đa dạng trong biểu đạt trên mọi miền đất
nước – đây chính là niềm tự hào của văn hóa Việt Nam, là nhân tố góp phần
tạo nên vẻ đẹp, sức mạnh tinh thần dân tộc, là động lực giúp cho đất nước phát

triển kinh tế - xã hội, và đây cũng chính là một phần làm nên một nền văn hóa
Việt đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong mỗi di tích ẩn chứa các giá trị đặc trưng tiêu biểu, đó cũng là một
bảo tàng sống về kiến trúc, điêu khắc, văn hóa nghệ thuật và cả phong tục tập
quán cổ truyền ở mỗi làng quê Việt Nam. Đồng thời, mỗi di tích lịch sử, kiến
trúc cũng chứa đựng biết bao những tình cảm, tâm huyết của cha ơng, đó cũng
là nơi để người dân gửi gắm những khát vọng, ước mơ về một cuộc sống hịa
bình, ấm no, hạnh phúc và thể hiện lòng biết ơn đối với các vị thần linh đã có
cơng lao bảo trợ cho làng xã. Di tích lịch sử văn hóa, đặc biệt là các cơng
trình tơn giáo, tín ngưỡng cũng là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa truyền
thống, là nơi tụ họp của dân làng và tứ xứ trong mỗi dịp hội hè, đình đám. Do
đó khơng chỉ xưa kia, mà cho đến tận bây giờ đa số các công trình kiến trúc


5
tơn giáo và nghệ thuật như đình, đền, chùa, miếu… vẫn ln giữ một vị trí
quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi người dân nước Việt.
Trải qua bao biến đổi, thăng trầm của lịch sử cùng với những bước đi lên
của dân tộc, di tích cũng mang trong mình dấu ấn và hơi thở của thời gian.
Những điều kiện khí hậu khắc nghiệt cùng với sự biến thiên của lịch sử như
chiến tranh, sự thiếu quan tâm của con người đã dẫn đến hiện trạng các di tích
khơng cịn được như xưa, nhiều di tích đã bị lãng quên hoặc đã trở thành các
phế tích. Trong điều kiện đất nước hịa bình hiện nay, với xu hướng hội nhập
hố quốc tế, q trình thương mại hố, cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa diễn ra
ngày càng nhanh chóng, việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy giá trị những di sản
văn hố ngày càng địi hỏi sự quan tâm đúng mức hơn.
Cũng giống như các làng quê thuộc ngoại thành của thủ đô Hà Nội,
xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh là một vùng quê thanh bình với những
cánh đồng lúa bát ngát và những dải đất bãi phù sa màu mỡ đem lại thuận
lợi cho phát triển kinh tế nơng nghiệp. Đây cũng là nơi cịn lưu giữ khá

nhiều các giá trị văn hóa truyền thống. Trong đó, đáng chú ý là di tích
đình Ngọc Chi – nơi thờ vợ chồng Nội Hầu cùng hai người con trai đã có
cơng với đất nước từ thời Thục An Dương Vương. Di tích này tiềm ẩn rất
nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật đáng được quan tâm nghiên cứu. Với
mong muốn được tìm hiểu sâu sắc về giá trị văn hóa nghệ thuật di tích
lịch sử văn hóa đình Ngọc Chi và lịch sử của vùng đất Ngọc Chi (xã Vĩnh
Ngọc), đồng thời góp một phần nhỏ vào cơng cuộc bảo vệ di tích lịch sử
văn hố của dân tộc, tơi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giá trị văn hóa nghệ
thuật di tích đình Ngọc Chi (xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, thành phố
Hà Nội)” làm luận văn tốt nghiệp Cao học cho mình.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU

Di tích đình Ngọc Chi đã được Bộ Văn hố - Thơng tin (nay là Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử - văn hố từ năm 1993.


6
Theo thống kê sơ bộ, những ghi chép về di tích đình Ngọc Chi các nhân vật
được thờ và di sản văn hóa phi vật thể tại đình có từ khá sớm có thể nêu tên một
số tài liệu như sau:.
- Bản thần tích hiện được lưu giữ rất cẩn mật tại đình làng Ngọc Chi do
quan hàn lâm đơng các đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn vào năm 1572 cho
biết về lai lịch của các vị thần tại đình như sau: “Đống Cơng và Vực Cơng là
hai người con trai của Hãn Công và Ả Nương ở trang Chiêm Trạch (gồm
Vĩnh Thanh và Ngọc Chi). Ba cha con đều là những người tài giỏi được vua
Thục An Dương Vương nước Âu Lạc trọng dụng và cùng làm quan trong
triều. Nhà vua yêu mến tài năng, đức độ của họ, nên đã phong thực ấp cho
Tam Công ở trang Chiêm Trạch. Trước họa xâm lăng của Triệu Đà, Tam
Công đã hai lần giúp Thục An Dương Vương đánh đuổi được quân xâm lược.
Tuy nhiên, do An Dương Vương mắc mưu của Triệu Đà và Trọng Thủy nên

đã thua chạy ra biển. Ba cha con Tam Công dũng cảm chiến đấu chống lại
quân nhà Triệu và đều hy sinh anh dũng tại quê nhà Chiêm Trạch. Nhớ công
ơn của Tam Cơng vì nghĩa lớn đối với đất nước và thực ấp của Tam Công để
lại cho dân làng, dân làng Ngọc Chi đã lập đền thờ và suy tôn Tam Cơng làm
Thành hồng làng, thờ ở đình làng Ngọc Chi. Hàng năm, dân làng và chính
quyền xã Vĩnh Ngọc đều tổ chức lễ hội ở đình để tưởng nhớ tới công lao của
Tam công, đây cũng dịp để nhân dân bày tỏ tấm lịng của mình tới các vị
thành hồng làng. Lễ hội được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng là ngày
hố của Hãn Cơng và Ả Nương, ngày mồng 6 tháng giêng là ngày hố của
Đống Cơng và Vực Cơng.
- Hồ sơ khoa học di tích đình Ngọc Chi do Ban quản lý Di tích và danh
thắng Hà Nội lập, có các nội dung khảo tả về di tích như: đường đến di tích,
khơng gian di tích tồn tại, niên đại đình Ngọc Chi, đặc trưng kiến trúc, điêu
khắc di tích, xác định các giá trị của di tích, thống kê các di vật. Kèm theo


7
phần lý lịch di tích cịn có các tập ảnh và các bản vẽ minh họa… Nhưng trong
hồ sơ khoa học này khơng có tư liệu về lễ hội đình Ngọc Chi.
- Khóa luận tốt nghiệp đại học tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội,
chuyên ngành Bảo tàng với tiêu đề “ Tìm hiểu di tích Đình Ngọc Chi ” của tác
giả Vương Thị Liên. Trong nội dung khóa luận đã có những giới thiệu bước
đầu về vùng đất nơi ngơi đình tồn tại, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật
thể, đặc biệt là lễ hội đình làng đã được tác giả đề cập đến, đồng thời khóa
luận đã đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích
này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những giá trị văn hóa nghệ thuật của di tích đình Ngọc Chi.

- Nghiên cứu thực trạng di tích và lễ hội để đưa ra một số giải pháp
góp phần bảo tồn và phát huy tốt nhất giá trị của di tích.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu vùng đất, con người thôn Ngọc Chi, xã Vĩnh Ngọc,
huyện Đơng Anh, thành phố Hà Nội, từ đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu
di tích đình Ngọc Chi.
- Nghiên cứu những nguồn tư liệu đã viết về di tích, đồng thời nghiên
cứu trực tiếp di tích thơng qua các di vật, hiện vật, kiến trúc nghệ thật để xác
định niên đại khởi dựng và quá trình tồn tại của di tích đình Ngọc Chi.
- Xác định giá trị văn hóa nghệ thuật của di tích trên hai phương diện: giá
trị văn hóa vật thể (kiến trúc, điêu khắc, di vật) và giá trị văn hóa phi vật thể (lễ
hội: các nghi thức, nghi lễ và sinh hoạt văn hố cộng đồng).
- Tìm ra những nét cổ truyền và biến đổi trong xu thế phát triển hiện nay.


8
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Di tích đình Ngọc Chi, xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, thành phố Hà
Nội với những giá trị văn hóa nghệ thuật tiêu biểu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về khơng gian: nghiên cứu khơng gian văn hóa thơn Ngọc Chi, xã
Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội là chủ yếu, có so sánh liên hệ
mở rộng ra các địa phương khác trong khuôn khổ của đề tài luận văn.
+ Về thời gian: xác định nghiên cứu từ khi di tích đình Ngọc Chi được
khởi dựng cho tới nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đề tài áp dụng phương pháp duy vật biện chứng trong việc xem xét quá

trình ra đời, tồn tại và biến đổi của đối tượng nghiên cứu từ cội nguồn đến nay và
dự báo công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích trong thời gian tới. Bên cạnh đó đề
tài cịn áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như:
- Phương pháp khảo sát điền dã: quan sát, đo vẽ, chụp ảnh, miêu tả,
tham dự, ghi âm, phỏng vấn…
- Tập hợp, hệ thống hóa những tư liệu liên quan đến di tích để phân
tích, đánh giá, so sánh và đối chiếu…
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hóa học như: sử liệu
học, mỹ thuật học, văn hóa học, bảo tàng học, dân tộc học, xã hội học…
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Nghiên cứu các giá trị văn hoá nghệ thuật của di tích đình Ngọc Chi.
- Phân tích thực trạng của di tích, đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát
huy giá trị của di tích trong xu thế phát triển hiện nay. Đồng thời, khẳng định
vị trí của di tích trong đời sống cộng đồng cư dân nơi đây.


9
- Là nguồn tư liệu đóng góp thêm nhận thức về mối quan hệ mật thiết
giữa đình và miếu trong các làng quê truyền thống ở nước ta.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Đình Ngọc Chi trong khơng gian văn hóa xã Vĩnh Ngọc
Chương 2: Giá trị văn hóa nghệ thuật đình làng Ngọc Chi
Chương 3: Lễ hội đình làng Ngọc Chi


10
Chương 1
ĐÌNH NGỌC CHI TRONG KHƠNG GIAN VĂN HĨA XÃ VĨNH NGỌC


1.1. TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT VĨNH NGỌC
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Đình Ngọc Chi ngày nay nằm ở thơn Ngọc Chi, xã Vĩnh Ngọc, huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng trên
15km về phía Đơng Bắc. Xã Vĩnh Ngọc là một trong 24 xã thuộc huyện Đông
Anh. Thời kỳ trước cách mạng tháng 8 năm 1945, xã có tên là Chiêm Trạch.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, xã Chiêm Trạch được đổi tên là xã Tân
Trạch, đến năm 1956 đổi thành xã Tân Tiến, và vào năm 1961 đổi thành xã
Vĩnh Ngọc. Nay, xã Vĩnh Ngọc có bốn thơn gồm: Phương Trạch, Ngọc Chi,
Vĩnh Thanh và Ngọc Giang.
Xã Vĩnh Ngọc nằm ở phía Nam huyện Đơng Anh; phía Bắc giáp với
các xã Kim Nỗ, Tiên Dương, và thị trấn Đơng Anh; phía Nam giáp sơng
Hồng, phường Phú Thượng quận Tây Hồ; phía Tây giáp xã Hải Bối; phía
đơng giáp các xã Uy Nỗ, Cổ Loa, Xuân Canh và Tàm Xá. Trên địa bàn xã
hiện cịn dấu tích con sơng Thiếp, sơng Hồng, cả 2 con sơng này gắn liền với
truyền tích Loa Thành và sự tích của Nồi Hầu thời kì Âu Lạc.
Để tới thăm di tích đình Ngọc Chi, khách tham quan có thể đi bằng
nhiều con đường khác nhau. Nếu lấy mốc từ trung tâm thủ đô Hà Nội - Hồ
Gươm, ta có thể đi theo 2 đường. Một là qua cầu Chương Dương, qua thị trấn
Gia Lâm, đi tiếp qua cầu Đuống theo đường quốc lộ 3 đến ngã ba thì rẽ hướng
đường về cầu Thăng Long, đi tiếp khoảng 1km là tới. Hai là từ Hồ Gươm theo
đường đi Cầu Giấy - Mai Dịch đến ngã ba đường Phạm Văn Đồng, qua cầu


11
Thăng Long rẽ về phía đi sang thị trấn Đơng Anh, qua địa phận xã Hải Bối,
cách đầu cầu Thăng Long khoảng 4km là tới di tích.
* Điều kiện tự nhiên

Xã Vĩnh Ngọc nhìn chung có địa hình bằng phẳng, cao ráo, đê sông
Hồng (con sông lớn nhất ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ) dài 2,6 km chia đất
đai thành hai phần. Phần ngoài bãi, đất đai hàng năm được phù sa sơng Hồng
bồi đắp. Bên cạnh đó diện tích trồng cây hàng năm phụ thuộc vào dịng chảy,
có năm bị sói lở mất diện tích, đất đai phù hợp với cây màu và cây công
nghiệp ngắn ngày. Phần trong đồng chủ yếu trồng lúa, mưa nhiều hay bị ngập
úng, nắng nhiều thì bị hạn, ở phía bắc có con sông Thiếp chảy qua rất thuận
lợi cho việc tưới tiêu.
Khí hậu ở vùng này là khí hậu nhiệt đới gió mùa, tính thất thường của
thời tiết theo chu kỳ năm, trong một mùa, hoặc giao giữa các mùa. Mùa đơng
gió Đơng Bắc lạnh, khơ hanh hoặc ẩm ướt rất khó chịu. Mùa hè có gió nồm
Nam với tính chất nóng ẩm. Cường độ của sự biến đổi khí hậu khá lớn. Khi
mưa thì ngập cả làng và phá huỷ cây cối mùa màng, khi nắng hạn lại có thể
làm chết lúa, hoa màu. Có thể nói, đặc trưng về thời tiết và khí hậu đã ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống sản xuất và sinh hoạt văn hoá của cộng đồng cư
dân nơng nghiệp nơi đây.
Xã có đường giao thông khá thuận lợi, tiếp giáp với tuyến đường cao
tốc Hà Nội – Nội Bài, có quốc lộ 3 chạy qua và cả đường đê sông Hồng. Do
kế hoạch phát triển kinh tế đất nước cùng với nhu cầu đi lại của người dân
sang thủ đô Hà Nội ngày càng lớn, hiện nay trên địa bàn xã Vĩnh Ngọc đang
tiến hành một số dự án xây dựng trọng điểm như: cầu Nhật Tân bắc qua sông
Hồng, dự án đường 5 kéo dài rồi chạy lên thẳng sân bay Nội Bài, tạo điều
kiện giảm tải sự tắc nghẽn ở cầu Thăng Long, mở rộng thêm nhiều hoạt động
kinh doanh mới giữa các vùng miền với nhau, góp phần phát triển đời sống
kinh tế của nhân dân.


12
Xã Vĩnh Ngọc có 4 thơn, 15 xóm, chiều dài 4km, rộng 3km, tổng diện
tích là 12km2, trong đó có khoảng 6 km2 là đất canh tác. Với địa hình bằng

phẳng, khí hậu ơn hồ, sơng ngịi nhiều, đất đai màu mỡ, lại có tuyến đường
giao thơng thuận lợi nối liền với thủ đô đã thu hút dân cư ở mọi nơi về đây
sinh cơ lập nghiệp, khai hoang phục hố làm nên những đồng ruộng xanh
tươi, thơn xóm đơng vui, náo nhiệt, giúp cho mảnh đất này ln có nhịp sống
sôi động về kinh tế.
1.1.2. Đời sống dân cư
Thôn Ngọc Chi thuộc xã Vĩnh Ngọc là một làng cổ với nghề nơng
nghiệp trồng lúa nước đã có từ lâu. Trước và sau Cách mạng tháng 8 năm
1945, người dân nơi đây chỉ có trơng chờ vào nghề nơng là chủ yếu. Đặc biệt,
sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, đời sống nhân dân xã Vĩnh Ngọc gặp rất
nhiều khó khăn, nguyên nhân là do chiến tranh chống Nhật và chống Pháp,
nơng nghiệp mất mùa, đói kém (cả nước lúc này có khoảng 2 triệu người chết
đói)... cả nước phải dồn sức người, lương thực cho chiến tranh nên cuộc sống
của người dân cũng thiếu thốn nhiều. Do nằm gần Sông Hồng, trước đây
thường xảy ra vỡ đê nên người dân hay bị mất mùa, đồng thời với chế độ
canh tác lạc hậu, năng suất lao động không cao khiến cho cuộc sống của họ
gặp nhiều vất vả, long đong. Trong lịch sử phát triển, dân cư Vĩnh Ngọc
cũng có những biến động về dân số do chiến tranh, thiên tai, lũ lụt, hạn
hán, cũng có người dân chuyển đi nơi khác và cũng có người từ vùng khác
chuyển đến định cư.
Hiện nay do việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, người dân xã Vĩnh Ngọc
sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng hoa màu, lương thực, chăn ni, ngồi ra
cịn một số lao động buôn bán, kinh doanh dịch vụ nhỏ như đồ sắt, trồng đào,
quất và một số làm nghề truyền thống... Với hơn 90% số hộ gia đình chăn
nuôi, đi buôn đồ sắt, đời sống con người ở đây được thay đổi, khấm khá hơn


13
so với trước. Do nằm ở phía ngoại thành cách Hà Nội 10km, là cơ sở cho việc
buôn bán bằng chính những sản phẩm chăn ni từ gia súc, gia cầm, bn bán

đồ sắt tạo ra khơng ít việc làm cho người dân, khiến cho tỉ lệ thất nghiệp, đói
nghèo của người dân trong xã giảm hẳn so với trước. Trong làng hiện nay vẫn
còn một số hộ lưu giữ được nghề thủ công truyền thống như nghề mộc, nghề
rèn, nấu rượu... tuy vậy những nghề này không phải là nghề chính của người
dân mà nó chỉ dừng lại ở mức độ nghề phụ, làm thêm lúc nhàn rỗi, hoặc tăng
thêm thu nhập cho gia đình.
Do cơ chế đơ thị hoá ngày càng tăng, bộ mặt của làng quê Việt Nam
ngày càng thay đổi. Cũng theo xu thế đó trong 10 năm trở lại đây, một loạt hệ
thống khu công nghiệp nằm ở phía Bắc Thăng Long đã và đang tiếp tục được
mở rộng xây dựng. Đây là một trong những khu cơng nghiệp lớn nhất ở Phía
Bắc, tập trung hơn 50 cơng ty của nước ngồi điển hình là nước Nhật, Hàn
Quốc. Các công ty này chủ yếu sản xuất, lắp ráp các linh kiện điện tử, ôtô, xe
máy, máy ảnh... tạo ra khơng ít việc làm cho người lao động ở Vĩnh Ngọc nói
riêng và lao động ở các tỉnh trong cả nước nói chung, giải quyết tình trạng
thất nghiệp, nâng cao mức thu nhập của người dân. Cho tới thời điểm này, tình
hình kinh tế xã hội ở Vĩnh Ngọc đã ổn định trên tất cả các lĩnh vực, đời sống nhân
dân được đẩy mạnh và nâng cao. Nhiều gia đình trong xã đã thốt khỏi hộ
nghèo, mua sắm được các trang thiết bị cần thiết trong gia đình như tivi, tủ
lạnh, máy giặt, máy vi tính, thậm chí có những hộ đã có ơ tơ riêng… giúp cải
thiện đời sống con người nơi đây một cách đáng kể. Hệ thống nhà ở đã ngày
càng được nâng cấp, xây mới hơn bằng những ngôi nhà tầng, khép kín bên
trong có những trang thiết bị hiện đại thay thế những ngơi nhà ngói ba gian
chật chội hay bị hỏng vào những mùa mưa...
Về Ngọc Chi - Vĩnh Ngọc hơm nay, tuy tốc độ đơ thị hố ngày càng diễn
ra nhanh chóng và mạnh mẽ làm cho diện mạo của vùng đất này có nhiều thay


14
đổi lớn lao nhưng nơi đây vẫn còn lưu giữ được những hình ảnh thân thuộc của
làng q, đó là cổng làng, là giếng nước, là sân đình, tất cả đều đã gắn bó sâu

đậm với chất nơng nghiệp của con người Việt Nam. Đến nay đời sống của nhân
dân Ngọc Chi đã khấm khá hơn, với tỉ lệ hơn 50% số hộ gia đình khá giả,
khoảng 47% số hộ có kinh tế ổn định và chỉ cịn khơng q 3% số hộ gia đình
cịn khó khăn. Do nằm gần nhà máy nước nên 80% người dân ở đây có điều
kiện dùng nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày, đảm bảo sức khỏe. Trình độ
dân chí được nâng cao do công tác giáo dục ngày càng được quan tâm đầu tư từ
gia đình, nhà trường và xã hội. Chất lượng dạy và học được nâng cao hơn với
99% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, nhiều em đỗ vào các trường cao
đẳng và đại học có danh tiếng. Cơng tác y tế, chăm sóc sức khoẻ, đáp ứng nhu
cầu khám chữa bệnh cho người dân được quan tâm và nâng cao, đảm bảo cơ sở
vật chất cũng như nhiệm vụ trực và khám sức khỏe kể cả phục vụ cho việc
khám và cấp thuốc theo bảo hiểm y tế và cán bộ hưu trí, học sinh của các nhà
trường, kịp thời tuyên truyền phòng chống các dịch bệnh, tổ chức tập huấn cho
các hộ kinh doanh về an toàn thực phẩm… Bên cạnh đó, cơng tác dân số kế
hoạch hóa gia đình cũng được thực hiện tích cực và có hiệu quả. Đó là những
điều kiện, sự thuận lợi cho cuộc sống và con người nơi đây ngày càng được
đảm bảo và phát triển trong xu thế kinh tế hiện nay.
Nhìn chung, xã Vĩnh Ngọc có tiềm năng kinh tế - xã hội lớn, hiện đang
từng bước đi lên, nông thôn đổi mới, phát triển theo trào lưu của xã hội là đơ
thị hóa nơng thơn trên cơ sở tiếp thu học hỏi những thành tựu khoa học kỹ
thuật, tiếp biến những giá trị văn hoá mới trong việc xây dựng đời sống văn
hoá. Các phong trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào sống và làm việc theo tấm
gương đạo đức của Bác Hồ vĩ đại đang ngày càng được hưởng ứng rộng rãi và
đã có ảnh hưởng nhất định đến việc hoàn thiện nhân cách lối sống của mỗi cá
nhân cũng như của cả cộng đồng dân cư.


15
1.1.3. Truyền thống văn hoá, cách mạng
* Phong tục tập quán

Trước Cách mạng tháng tám năm 1945, phong tục tập qn của nhân
dân thơn Ngọc Chi cũng được hình thành bởi phong thổ và từ trong lao động
sản xuất giống như hầu hết các làng quê ở đồng bằng châu thổ Sơng Hồng.
Đó là những thói quen đã trải lâu tháng lâu năm, đã ăn sâu vào đời sống xã
hội từ lâu đời, được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo. Phong tục tập
quán có trong mọi mặt đời sống của người dân, có thể kể đến như phong tục
thờ cúng tổ tiên, phong tục hôn nhân, tang ma, sinh nở, lễ hội, tập quán canh
tác sản xuất… đây là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong đời sống
lao động cũng như đời sống tinh thần của nhân dân thơn Ngọc Chi nói riêng
và xã Vĩnh Ngọc nói chung. Phong tục tập quán đã làm cho đời sống của
người dân thêm phong phú và ngày càng góp phần gắn kết con người với quê
hương, đất nước.
Ở Ngọc Chi hiện nay có 13 dịng họ lớn như Lý, Trần, Lê, Nguyễn,
Đặng, Bùi, Hoàng, Đỗ... Việc thờ cúng tổ tiên, gia tộc trong các dịng họ ln
được các thế hệ nối tiếp thực hiện một cách chu đáo, cẩn thận. Điều này thể
hiện truyền thống văn hóa tốt đẹp từ bao đời của người Việt và cũng mang ý
nghĩa nhân văn sâu sắc. Người Việt Nam thờ cúng tổ tiên, ơng bà khơng chỉ
để cầu bình n, mạnh khỏe, mà tín ngưỡng tốt đẹp này cịn nhắc nhở mỗi
người chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay sống trong xã hội hiện đại biết
hướng về truyền thống đạo lý tốt đẹp: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ
người trồng cây”; biết nâng niu, trân trọng và tự hào trước những thành quả
trong lao động và chiến đấu mà các thế hệ cha ông đã đạt được; từ đó kế thừa
và phát huy những giá trị, truyền thống tốt đẹp để ngày càng sống tốt, sống có
ích cho xã hội. Qua mỗi lần giổ tổ cũng là dịp để bảo lưu và giữ gìn phong tục
thờ cúng của dòng họ, đồng thời cũng là cơ hội giúp cho mọi người trong


16
dịng họ, làng xóm gắn bó, đồn kết với nhau, trao đổi, giúp đỡ nhau trong
mọi công việc của cuộc sống. Với niềm tin ông bà ở nơi cửu tuyền vẫn luôn

hướng về phù hộ cho con cháu. Trong phạm vi gia đình, nhà nào cũng có bàn
thờ tổ tiên, con cái thờ cúng ông bà, cha mẹ và cứ thế nối tiếp từ đời này qua
đời khác. Trong phạm vi dịng họ, họ nào cũng có từ đường, nhà thờ họ riêng.
Quy mô của nhà thờ họ được xây to nhỏ khác nhau, điều đó tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế và số hộ gia đình của từng họ. Nhưng dù quy mô to nhỏ
khác nhau nhưng cách bài trí đều mang một phong cách đồng nhất với hàm ý:
đề cao cơng đức của cha ơng, người có cơng mở mang dịng họ; khuyến khích
con cháu vươn lên trong học hành thi cử, luôn ghi nhớ công ơn của ơng bà,
cha mẹ. Dịng họ nào cũng có ngày giỗ của họ còn gọi là tết Thanh minh. Vào
ngày này con cháu của các họ tụ họp đông đủ tại nhà thờ họ, làm cỗ mặn ăn
mừng, nghe cụ trưởng họ thuật lại tiểu sử của cụ tổ: ngày sinh, ngày mất,
ngày cụ tổ đến làng lập họ; thứ bậc các “chi” trên dưới rõ ràng; những người
đỗ đạt cao… Tất cả được ghi lại chi tiết trong cuốn gia phả của từng dòng họ.
Trong tư tưởng của người địa phương nơi đây còn mang nặng yếu tố trọng
nam: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vơ” điều đó được thể hiện thơng qua
cây gia phả của dịng họ, chỉ nam giới mới được ghi tên tuổi lên đó. Điều này
đã trở thành một lệ bất thành văn, truyền lại từ xa xưa, ăn sâu và bén rễ vào
tâm thức của người dân nơi đây từ bao đời. Vậy nên dù xã hội đã phát triển,
vấn đề bình đẳng giới đã được đề cao, nhiều quan điểm sống mới được du
nhập nhưng luật lệ này vẫn khơng có gì thay đổi.
Các phong tục hôn nhân, tang ma hay phong tục lễ tết, lễ hội vẫn luôn
được người dân kế thừa và luôn ẩn hiện trong cuộc sống của mỗi gia đình và
tồn thể cộng đồng với những giá trị văn hóa tốt đẹp được đúc kết qua bao
đời. Thơng qua những phong tục này có thể thấy được đặc trưng cơ bản của
làng xã Việt Nam, đó là tính cộng đồng và sự cố kết cộng đồng. Từ việc cưới


17
hỏi đến ma chay, hễ gia đình nào có cơng có việc là bà con làng xóm lại
chung tay góp sức, mỗi người một việc để giúp đỡ gia chủ trong những việc

được coi là đại sự. Mặc dù trong xã hội hiện đại ngày nay, một số nghi lễ,
cách thức thực hiện trong các phong tục đã được đơn giản hóa hơn theo nếp
sống mới, nhưng những gì là thuần phong mỹ tục, là đạo lý làm người vẫn
luôn được bảo lưu, trân trọng.
Việc tang lễ: Việc tổ chức tang lễ cho người quá cố đã trở thành một
phong tục đối với người dân nơi đây. Khi gia đình ai đó trong thơn có người
mất thì chủ tang báo cho người lãnh đạo trong thôn, trước hết là trưởng thơn
được biết. Nếu là người cao tuổi mất thì trưởng thôn báo trên loa đài của thôn
xã, nếu là người trẻ tuổi mất thì dân làng tự thơng báo cho nhau biết và việc
quá cố được bà con họ hàng và trong làng ngồi xóm giúp đỡ cho đến khi mồ
yên mả đẹp. Những người thân trong gia đình người quá cố mặc quần áo tang
bằng vải xô trắng, đội khăn tang màu trắng, vàng, đỏ… theo thứ bậc và tùy
theo quan hệ của người đó với người quá cố như thế nào. Lễ đưa tang được
diễn ra với sự chia buồn của chính quyền thơn, xã, bà con họ hàng thân thích
và hàng xóm. Đưa tang ở làng gọi là đưa ra đồng, mọi việc đều được tổ chức
phân cơng chu đáo, thứ bậc rõ ràng. Đưa tang có thể bằng hình thức đi bộ,
khiêng linh cữu người chết bằng kiệu hoặc cũng có gia đình đưa thi hài người
quá cố bằng xe ôtô chở tang (khoảng 03 đến 04 chiếc xe ơtơ). Trên đường đưa
tang có rắc vàng thoi bằng giấy, tiền âm từ nhà gia chủ ra đến huyệt để người
chết nhớ đường về nhà mình. Khi hạ huyệt thường có thầy cúng hoặc vị sư
làm phép trì huyệt, các cụ bà đọc kinh trước mộ. Động thái này cho rằng,
cúng trì huyệt mới xua đuổi được tà ma cũ để cho ma mới được yên ổn. Mai
táng xong thì ai về nhà nấy, chỉ những người họ gần với người quá cố, đội
kèn trống mới quay trở về nhà đám ăn uống, đó cũng là điều mà gia đình
người q cố muốn thể hiện lịng cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ của mọi


18
người. Tuy nhiên, cỗ đám ma rất đơn giản và khơng khí khơng ồn ào theo
phong cách đời sống văn hóa mới. Tiếp đó, vào ngày thứ ba sau khi có người

mất gia đình tang chủ làm lễ ba ngày để cúng cho người quá cố.
Việc cưới xin: Ở xã Vĩnh Ngọc cũng như mọi nơi khác của thủ đô Hà
Nội, hôn nhân và cưới xin là việc không phải chỉ của riêng mỗi cá nhân mà là
của cả gia đình và dịng họ. Người con trai đến tuổi lấy vợ, khơng chỉ là nhằm
duy trì nịi giống, thờ phụng tổ tiên, nuôi dưỡng cha mẹ khi già yếu, nhiều khi
còn tăng sức lao động để phát triển kinh tế và nâng cao uy thế về sự lớn mạnh
của dòng họ mình trong mối quan hệ với các dịng họ khác. Thanh niên trong
làng được tự do lựa chọn, tìm hiểu người bạn đời của mình. Khi sự tìm hiểu
đã chín muồi, người con trai thưa chuyện với cha mẹ mình để chuẩn bị lễ vật
sang nhà gái xin cưới.
Lễ cưới của người dân nơi đây cũng khá phức tạp với nhiều tục lệ như
có lễ ăn hỏi (nhà trai rước lễ gồm trầu cau, bánh kẹo, thuốc lá, rượu… số
lượng thường từ 3 tráp lễ, 5 tráp lễ đến 7 tráp lễ, tất cả đều được phủ khăn đỏ
rất đẹp mắt và mang nhiều ý nghĩa) sang nhà gái xin dạm hỏi cơ gái về làm
dâu nhà mình. Sau đó, hai bên gia đình cùng bàn bạc ngày cưới, giờ đón dâu...
Ngày cưới được tổ chức tưng bừng với sự chia vui của họ hàng, bà con lối
xóm và bạn bè của đôi bạn trẻ. Cỗ cưới không mở q rộng và khơng lãng
phí. Đúng giờ đã định, nhà trai gồm khoảng 25 đến 30 người đầy đủ các thành
phần, vai vế, nội ngoại và bạn bè đến nhà gái. Đại diện họ nhà trai có lời xin
đón dâu. Được sự đồng ý của đại diện nhà gái, cô dâu chú rể làm lễ gia tiên.
Ông bà, bố mẹ cơ dâu nếu có của hồi mơn cho con gái trước khi về nhà chồng
sẽ trao cho cô dâu chú rể trước sự chứng kiến của quan viên hai họ. Sau đó lễ
rước dâu được tiến hành. Khi về đến nhà trai, sau lễ thành hôn, cô dâu chú rể
tự tay mời trầu, chè, thuốc tới các khách mời và mọi người tới dự. Bạn bè và
các vị khách mời, nhất là các bạn thanh niên nam nữ vui vẻ hát tặng những


19
bài ca mừng hạnh phúc tới cô dâu chú rể, tạo ra một khơng khí rất vui và náo
nhiệt trong tiếng reo hò và cổ vũ của tất cả mọi người có mặt .

Hàng năm, các lễ hội làng, hội đình, hội chùa hay các hoạt động liên
quan đến đời sống tinh thần của người dân vẫn luôn được quan tâm, chú
trọng và tổ chức thường xuyên, liên tục, được người dân ủng hộ, tham gia
rất nhiệt tình. Các lễ hội được tổ chức chủ yếu vào các dịp “xuân thu nhị
kỳ” cũng là những thời gian nông nhàn của người dân nên đã thu hút được
đông đảo người dự hội. Thông qua những lần mở hội, các nghi thức, nghi
lễ, các trò chơi dân gian được tái hiện, các tích về vị thành hồng làng, về
làng xóm, về truyền thống văn hoá, phong tục tập quán xưa được khai mở.
Dự hội làng, người ta nhớ tới vị tổ của làng, thực hiện một lề lối ứng xử tôn
quý nhau, thể hiện một vẻ đẹp hoàn thiện từ ăn mặc, nói năng đến đi lại,
trình diễn. Thói quen ấy tiếp tục được củng cố và định hình, rồi dần dần tạo
thành những nét đặc trưng văn hoá của người dân Việt Nam nói chung và
nhân dân Ngọc Chi nói riêng. Đồng thời, hội làng nhắc nhở mọi thành viên
trong làng ý thức về cội nguồn, về đồng loại, về tinh thần thượng võ, ý thức
về cái đẹp và việc giữ gìn thuần phong mỹ tục nơi đây. Như vậy, một nếp
sống, nếp nghĩ, một truyền thống nhân văn được hình thành và đề cao trong
mỗi dịp lễ hội như một lý tưởng sống cần được thực hiện trong đời sống.
Ngoài ra, trong năm cịn có các ngày lễ như: Lễ xuống đồng, lễ lên đồng,
lễ cơm mới, lễ xá tội vong nhân (15/7 âm lịch), các ngày mồng một (Sóc)
và ngày 15 (Vọng) hàng tháng… cũng được người dân hết sức quan tâm.
* Tơn giáo, tín ngưỡng
Tơn giáo, tín ngưỡng là một bộ phận văn hố truyền thống khơng thể thiếu
trong đời sống văn hoá của người dân Việt Nam nói chung và nhân dân Ngọc Chi
nói riêng. Tín ngưỡng văn hoá đan xen, thẩm thấu và hiện diện mọi mặt trong đời


20
sống vật chất và tinh thần của người dân. Ngọc Chi là một trong bốn thôn của
xã Vĩnh Ngọc được hình thành từ rất sớm. Trải qua thời gian, sự thăng trầm
của lịch sử, trên địa bàn xã Vĩnh Ngọc vẫn cịn lưu lại những dấu tích mà cha

ơng ta đã để lại, đó là những ngơi đình, đền, miếu là nơi thờ phụng những vị
thần, vị thánh, những anh hùng dân tộc có cơng với đất nước… Tín ngưỡng
thờ thành hoàng làng được biểu hiện khá rõ nét: trong phạm vi làng xã
quan trọng nhất là việc thờ cúng Thành hoàng làng - vị thần bảo hộ của
cộng đồng - một biểu tượng tinh thần che chở cho cả làng. Cứ mỗi dịp tết
đến xuân về, hay những ngày lễ hội, người người thường tới những nơi này
làm lễ với mục đích tưởng nhớ cơng ơn của các vị thánh thần, đồng thời cầu
xin thần linh che chở, bảo vệ gia đình mình, và cầu cho một năm mới bình an,
hạnh phúc... cùng với tất cả những điều tốt đẹp nhất. Như vậy có thể thấy, bên
cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đây chính là những biểu hiện và thể hiện rõ
nét của tín ngưỡng sùng bái con người, đặc biệt là tín ngưỡng thờ thành hồng
làng và các anh hùng dân tộc, những người con ưu tú của quê hương vẫn còn
được bảo lưu ở vùng đất này.
Được hình thành từ rất lâu, giống như ở nhiều vùng quê Việt Nam
khác, Vĩnh Ngọc còn lưu giữ được nhiều di tích lịch sử, văn hố nổi tiếng đã
được xếp hạng như di tích Đình Ngọc Chi, miếu Vĩnh Thanh đều thờ vợ
chồng Nội Hầu cùng hai con trai đã có cơng với đất nước. Ngồi ra cịn có
các di tích như ngơi Đình Xóm dưới thơn Phương Trạch, ngôi chùa đầu làng
Ngọc Giang trước đây là cơ sở tiền khởi nghĩa. Đến với các di tích này,
người dân được tự do sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo, được cầu khấn xin xỏ
thần linh phù hộ cho gia đình mình những điều may mắn tốt lành nhất. Bên
cạnh đó, chính quyền xã Vĩnh Ngọc hồn tồn tơn trọng sự tự do tín ngưỡng
này của người dân, tuy nhiên khơng được ở mức thái quá gây ra những hành
động tiêu cực cho xã hội, để phát huy và giữ gìn bản sắc truyền thống văn


21
hố của dân tộc. Vì vậy chính quyền xã cũng đã rất quan tâm và tạo mọi
điều kiện giúp đỡ nhân dân trong việc bảo lưu các di tích và gìn giữ những
giá trị văn hóa tốt đẹp bằng những việc làm cụ thể như cử người trông nom

thường xuyên, cùng với nhân dân bảo quản, trùng tu, tôn tạo những cơng
trình di tích ở trong xã.
* Truyền thống hiếu học
Người dân xã Vĩnh Ngọc từ lâu đã có truyền thống hiếu học cao và
truyền thống ấy vẫn luôn được tiếp bước đến ngày nay. Trong lịch sử, tuy
đời sống vật chất cịn nhiều khó khăn nhưng đã có một số người học hành
thành đạt đem lại niềm tự hào cho vùng đất này, và trở thành những tấm
gương sáng về tri thức cho các thế hệ trẻ noi theo. Như ở Vĩnh Thanh có cụ
Nguyễn Cơng tự là Phúc Trọng đậu tiến sĩ và được bổ nhiệm làm tri phủ
Thừa Thiên, hiện nay dấu vết còn được ghi lại trên bức hoành phi nhà thờ họ
Nguyễn là “Văn cảnh thủ gia truyền” nghĩa là nhà nông mà đời đời thành
đạt. Hay ở Ngọc Chi có cụ Bùi Cống thi đỗ đạt được bổ nhiệm làm án sát
tỉnh Bắc Ninh, đình làng cịn ghi bút tích của cụ ở câu đối:
“ Song mục Sơn Hà vô triệu uý
Thế tâm thiên địa hữu Dương Vương”.
Ở làng Phương Trạch có gia đình tuy nghèo nhưng cả hai cha con học hành
thành đạt và đỗ thủ khoa, bố là Hồng Cơng tự Phúc Lâm (nghè Lâm), con là
Hồng Cơng tự Sỹ Kỳ (nghè Kỳ), hiện nay nhà thờ họ Hồng vẫn cịn câu đối ghi:
“Nhị đại khoa danh trưng thế đức
Bách Niên thi lễ thụ gia phong”.
Nghĩa là:
“Hai đời khoa bảng danh tôn tộc
Trăm năm gìn giữ lễ gia phong”.


22
Do có truyền thống hiếu học từ lâu đời nên các thế hệ nhân dân xã
Vĩnh Ngọc hiện nay vẫn ln ý thức gìn giữ và phát huy tích cực truyền
thống đó, bởi việc học hành với mỗi con người khơng chỉ là trách nhiệm với
bản thân mà cịn là trách nhiệm làm rạng danh cho mỗi gia đình, dịng họ,

cho gia tộc và cả xóm giềng. Việc học hành rất được người dân quan tâm,
chú ý. Các gia đình dù vẫn cịn rất nhiều khó khăn, đặc biệt là về mặt kinh
tế, nhưng các bậc phụ huynh luôn sẵn sàng tạo mọi điều kiện tốt nhất để con
em mình được tới lớp tới trường và học ở các bậc học cao nhất. Những
người làm cha làm mẹ bên cạnh những lo toan trong cuộc sống mưu sinh
vẫn không quên động viên và uốn nắn con cái trong việc học hành, rèn luyện
cho con cái họ ý thức tự học ngay từ khi cịn nhỏ. Cũng chính vì vậy mà
hiện nay 100% số con em trong xã đã được đi học các bậc tiểu học, trung
học và phổ thông, số lượng học sinh được cử đi thi các kỳ thi học sinh giỏi
hàng năm ngày càng tăng. Số em đỗ đạt ở các bậc học cao đẳng và đại học
ngày càng cao, có nhiều người đã đạt đến học vị thạc sĩ, tiến sĩ. Tinh thần
học tập đó vẫn ln tiếp tục được các thế hệ con em trong xã Vĩnh Ngọc cố
gắng phát huy. Hội khuyến học thôn, xã cũng đã được thành lập và hoạt
động tích cực nhằm động viên, khích lệ thế hệ trẻ kế thừa truyền thống cha
ông, tiếp tục phấn đấu học tập cho bản thân và trở lại quê hương đưa kiến
thức đã học ở trường về xây dựng, phát triển địa phương, làm rạng danh quê
hương, đất nước.
* Tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm
Khơng chỉ có truyền thống, tinh thần hiếu học cao mà nhân dân xã
Vĩnh Ngọc còn tự hào với tinh thần yêu nước nồng nàn, kiên cường bất khuất
đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Dưới thời Mạc, ở Phủ Bắc Ninh (nay là xã
Vĩnh Ngọc) có 18 người tham gia vào việc dẹp bọn gian thần, giữ bình an cho
đất nước. Do cơng lao đó mà Mạc Kính Điển phong 18 người đó làm tước


23
quận công. Triều Mạc suy đồi, mục nát, 18 quận cơng đó đã đồng tâm chống
lại các chính sách khơng hợp lý do nhà Mạc đưa ra, kết quả là đã bị nhà Mạc
truy bức bắt phải đầu hàng, nhưng 18 người này thà chết chứ không chịu làm
tôi tớ cho kẻ hỗn quân vô đạo.

Cuối triều Lê (Lê Trung hưng, thế kỷ XVII), đất nước phân chia thành
2 miền, Đàng Trong do chúa Nguyễn đứng đầu, Đàng Ngoài do chúa Trịnh
thao túng, vua Lê chỉ cịn có việc rủ áo nghe theo. Ở phía Bắc sơng Nhị (sơng
Hồng), tại huyện Đơng Ngàn có một đạo qn đứng lên phát động phong trào
“phị Lê, diệt Trịnh” để xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước. Đạo quân này
cũng có sự góp mặt của trên chục người ở Chiêm Trạch với tinh thần thống
nhất đất nước, bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm của người dân Vĩnh Ngọc
còn được thể hiện ở hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Từ đầu
năm 1942 – 1944, ATK (An toàn khu) được lập ở khu vực Tây Nam của
Đông Anh là một trong những cơ sở cách mạng đầu tiên ở làng Ngọc Giang,
xã Vĩnh Ngọc. Từ đó ánh sáng cách mạng của Đảng cũng được chiếu dọi đến
các làng xã tạo cơ sở cách mạng vững vàng, là hạt nhân nòng cốt của phong
trào quần chúng. Trong cao trào đánh Pháp đuổi Nhật, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), xã Chiêm
Trạch là một trong những cơ sở cách mạng cất giấu tài liệu, bảo vệ cán bộ của
Đảng được an toàn từ năm 1942 đến 1945.
Tháng 8 năm 1945, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời xã Chiêm Trạch
(nay là Vĩnh Ngọc) do ông Lê Văn Đẩu làm chủ tịch xã đã lãnh đạo nhân dân
đứng lên chống Nhật, cướp chính quyền, giải phóng nạn đói lúc bấy giờ.
Với tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong hai cuộc kháng
chiến chống Mỹ và chống Pháp, nhân dân xã Vĩnh Ngọc đã anh dũng, chiến
đấu kiên cường bất khuất để bảo vệ nền độc lập dân tộc với những tấm gương


24
điển hình tiêu biểu như các đồng chí Nguyễn Xn Lành, Nguyễn Xuân Điều,
Lê Văn Lật, Hoàng Văn Khả, Nguyễn Hữu Đồi... đã cùng nhân dân chiến đấu
dũng cảm vì quê hương đất nước, góp phần đem lại cuộc sống tự do, hồ bình
cho mọi người.

1.2. LỊCH SỬ XÂY DỰNG VÀ QUÁ TRÌNH TỒN TẠI CỦA ĐÌNH NGỌC CHI
2.1. Lịch sử xây dựng
Tìm hiểu sự hình thành và quá trình tồn tại của đình Ngọc Chi nói riêng
và các di tích lịch sử văn hố nói chung là sự trở về với quá khứ dân tộc. Bởi
các di tích là nơi chứa đựng và phản ánh mọi hoạt động xã hội đương thời từ
trong quá khứ tới hiện tại, trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, như về
mặt kinh tế, chính trị, văn hố, qua đó cho chúng ta biết được đặc điểm xã hội
của từng thời kỳ lịch sử
Đình làng là ngơi nhà cơng cộng của làng xã Việt Nam. Sau lũy tre
làng, bên giếng làng, dưới mái đình làng, trong bầu khơng khí thân thương
của những ngày hội làng, mọi người sống với nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp
đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Tình làng nghĩa xóm, quan hệ láng giềng ràng
buộc con người trong nếp sống làng, xã có kỷ cương, trong sáng và thanh cao.
Xưa kia, đình làng thường có ba chức năng chính là: hành chính, tơn giáo và
văn hóa. Về chức năng hành chính, đình là chỗ để họp bàn các “việc làng”, để
xử kiện, phạt vạ, ăn khao… theo những quy ước của làng, từ những cuộc họp
của bô lão trong làng, trong họ tộc, chuyện làm lễ lên lão cho nhà này, phạt vạ
nhà kia có con gái không chồng mà chửa… cho đến những việc đại sự như
đón sắc phong của vua ban, hội đình, tất tật đều được diễn ra ở sân đình và
theo lệ làng. Về chức năng tơn giáo, đình là nơi thờ thần của làng, được gọi là
“Thần Thành hoàng làng”. Về chức năng văn hóa, đình là nơi biểu diễn các
kịch hát, như chèo hay hát cửa đình, nơi tiến hành các lễ hội, các trò chơi…


25
Các chức năng trên không bao giờ tách bạch mà ln đan xen hịa quyện với
nhau. Có thể coi đình là một tịa thị chính, một nhà thờ và một nhà văn hóa
cộng lại của làng xã Việt Nam. Ngơi đình là biểu tượng cho cộng đồng làng
xã Việt Nam, là một yếu tố hữu hình của văn hóa làng Việt Nam. Ở các làng
xã trong xã hội cũ, việc tơn thờ Thần Thành hồng làng là việc tối quan trọng,

và đặc biệt đó là việc của cả làng xã, chính vì vậy mà ban đầu Thần được thờ
ở những ngơi đình nhỏ, ít được mọi người chú trọng, trải qua thời gian, việc
thờ Thần đã được nhân dân hết sức coi trọng và chính người dân đã tạo ra một
hệ thống kiến trúc, trang trí phù hợp với chức năng, đặc trưng của các hoạt
động tín ngưỡng tơn giáo này.
Cho tới nay, chưa có tài liệu nào khẳng định và nói tới niên đại khởi
dựng chính xác của đình Ngọc Chi. Nhưng dựa vào những chứng cứ mà tôi
khảo sát được thơng qua tồ đại định đã khẳng định rằng đình được xây dựng
vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Với phong cách kiến trúc, điêu khắc
mang đậm màu sắc thời Hậu Lê, trong đó có 12 đầu dư nằm trên các cột cái
chạm hình đầu rồng với các đao mác thon dài uốn lượn chạy ngược về phía
sau đầu. Rồng có mắt và miệng mở to, hướng về phía trước. Trên các bức cốn
ở gian bên tồ đại đình được chạm nổi các đề tài như: người cưỡi rồng, người
đánh cờ, hình người dắt ngựa, đơi trai gái chèo thuyền... các hình tượng được
chạm khắc rất cơng phu và tỉ mỉ. Nhìn chung các đề tài được chạm khắc trên
kiến trúc gỗ đình Ngọc Chi khá phổ biến trên trang trí của các ngơi đình Việt
Nam ở thế kỷ XVII, XVIII như đình Chu Quyến, Liên Hiệp (Hà Nội), Ngọc
Canh (Vĩnh Phúc).... Trong gian hậu cung của đình cịn lưu giữ được ba ngai
thờ sơn son thếp vàng, theo dân làng cho biết đó là ngai thờ quan Nội Hầu
cùng hai người con có cơng trong cuộc chiến đấu chống xâm lược Triệu Đà.
Mỗi ngai thờ được làm theo kiểu 9 bậc (cửu trùng đài), mỗi bậc được người
thợ thể hiện mang một kiểu dáng riêng, nơi có hình mặt hổ phù, nơi chạm


×