Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN – những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.73 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ CỦA CÁC
NƯỚC ASEAN................................................................................................................................1
1. Khái niệm về cơ chế giải quyết tranh chấp..........................................................................1
2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN.......................................2
II. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ CỦA CÁC
NƯỚC ASEAN................................................................................................................................3
1. Phạm vi giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN............................................3
2. Cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN............................................4
2.1. Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM)..............................................................4
2.2. Hội nghị các quan chức kinh tế cao cấp (SEOM)...........................................................5
2.3. Ban Thư kí.........................................................................................................................6
2.4. Ban Hội thẩm Panel..........................................................................................................6
2.5. Cơ quan phúc thẩm...........................................................................................................7
3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN..............................8
3.1. Giai đoạn tham vấn, trung gian hòa giải.........................................................................8
3.2. Giai đoạn hội thẩm..........................................................................................................10
3.3. Giai đoạn phúc thẩm.......................................................................................................11
4. Thi hành phán quyết SEOM hoặc AEM.............................................................................11
III. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ CỦA CÁC NƯỚC ASEAN......12
1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế của các nước ASEAN...............12
2. Đánh giá việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN.......15
2.1. Ưu điểm cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế...............................................................15
2.2. Nhược điểm cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế.........................................................16
3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam để phù hợp với cơ chế giải quyết tranh
chấp kinh tế của các nước ASEAN..........................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................19

A. MỞ ĐẦU



Trong quá trình tham gia phát triển kinh tế khu vực, các nước ASEAN khó
tránh khỏi những bất đồng căng thẳng trong việc giải quyết quyền lợi của các bên
thực hiện các giao kết thuộc lĩnh vực kinh tế.
Mặt khác, các tranh chấp kinh tế phát sinh giữa các quốc gia được xem là
lĩnh vực phức tạp. Nếu các tranh chấp kinh tế khơng giải quyết thỏa đáng thì mối
quan hệ giữa các bên sẽ bị ảnh hưởng xấu, trong khi Cộng đồng ASEAN đặt mục
tiêu nỗ lực hướng tới xây dựng Cộng đồng kinh tế vào năm 2020.
Trước tình hình đó, u cầu đặt ra một cơ chế giải quyết các mâu thuẫn là vơ
cùng cần thiết. Vì vậy, các quốc gia thành viên của ASEAN đã nỗ lực hồn thành
điều đó. Việc nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN khơng chỉ có
ý nghĩa trong nghiên cứu lý luận mà cịn có ý nghĩa trong việc áp dụng thực tiễn
giải quyết tranh chấp và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp pháp lý
quốc tế. Do đó, tác giả đã chọn đề tài: “Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của
các nước ASEAN – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” để tìm hiểu kĩ và rút ra
những hiểu biết mới liên quan đến vấn đề này.
B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ
CỦA CÁC NƯỚC ASEAN
1. Khái niệm về cơ chế giải quyết tranh chấp
Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN là tổng thể các nguyên tắc, quy
phạm pháp luật và thủ tục giải quyết tranh chấp cũng như thi hành phán quyết của
cơ quan giải quyết tranh chấp trong ASEAN1.
Theo khoa học luật quốc tế Việt Nam, các nhà nghiên cứu luật có quan điểm
cho rằng: “Tranh chấp quốc tế trong khn khổ ASEAN chủ yếu được phân hóa
thành hai loại, đó là tranh chấp kinh tế và tranh chấp chính trị - pháp lý. Đối với
mỗi loại tranh chấp, ASEAN có các điều ước quốc tế chun mơn để cơ quan thẩm
quyền giải quyết2.
1 Trần

Thị Thu Trà, Luận văn Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của hiệp

hội các nước Đông Nam Á, tr. 17
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế (2013), NXB. Công an Nhân dân

1


Đặc biệt, với tranh chấp kinh tế của các quốc gia ASEAN, việc nghiên cứu
tổng thể thống nhất các cơ quan giải quyết tranh chấp, cách thức, trình tự, thủ tục
giải quyết được giải quyết theo Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh
chấp ngày 29/1/2004.
2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp truyền thống của ASEAN là các tranh chấp
giữa các quốc gia thành viên phải được giải quyết bằng biền pháp hịa bình, khơng
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau trên cơ sở hợp tác hiệu quả giữa các bên,
tôn trọng nguyên tắc thỏa thuận, kiềm chế không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực khi có tranh chấp3.
Nhìn chung, các văn kiện của ASEAN về biện pháp giải quyết tranh chấp
đều khuyến khích các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng thiện chí, quyết tâm để
ngăn ngừa các diễn biến xấu.
Theo Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali năm
1976 hay viết tắt là TAC) quy định về nguyên tắc chung khi có tranh chấp phát
sinh, Hiệp ước Bali khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp thông qua thương
lượng trước khi lựa chọn các biện pháp khác. Các bên tranh chấp có thể giải quyết
bằng các biện pháp như đàm phán; trung gian hòa giải; trọng tài…
Trong Hiến chương ASEAN, các biện pháp giải quyết tranh chấp khá đa
dạng. Các bên có thể sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác nhau như đề
nghị bên thứ ba, hòa giải, trung gian hoặc trọng tài. Việc lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp tùy thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp.
Ngồi ra, các bên có thể viện dẫn các hình thức giải quyết tranh chấp được
quy định tại Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc hoặc các văn bản luật quốc tế

khác mà các quốc gia thành viên ASEAN là bên tranh chấp tham gia miễn là các
phương thức giải quyết quyết tranh chấp này đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của
ASEAN là giải quyết bằng hịa bình.

Trần Thăng Long, Về một số cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN hiện nay, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 12/2006, tr.67
3

2


Theo đó, Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc quy định “Các bên đương sự
trong cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến
hịa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh
chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án,
sử dụng những tổ chức hoặc những điều ước khu vực, hoặc bằng các biện pháp
hịa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình.”
Việc áp dụng giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN cũng tuân
thủ quy định Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc. Các biện pháp giải quyết tranh
chấp kinh tế bao gồm giải quyết tranh chấp theo kênh tài phán và giải quyết theo
kênh ngoài tài phán quy định cụ thể trong Nghị định thư năm 2004. Trong đó, các
biện pháp giải quyết theo kênh ngoài tài phán thường được áp dụng trong thực tiễn
giải quyết tranh chấp thương mại – đầu tư ở các nước (chủ yếu là thương lượng,
trung gian, hòa giải) theo quy định của Nghị định thư năm 2004.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
TẾ CỦA CÁC NƯỚC ASEAN
1. Phạm vi giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN
Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp ngày 29/1/2004 đã
xác định rõ phạm vi áp dụng giải quyết tranh chấp theo quy định tại Khoản 1 Điều
1 như sau: “Các quy định và thủ tục của Nghị định thư này được áp dụng đối với

các tranh chấp phát sinh theo các quy định về tham vấn và giải quyết tranh chấp
của Hiệp định cũng như các hiệp định được nêu tại Phụ lục I và các hiệp định kinh
tế ASEAN trong tương lai (“các hiệp định liên quan”). Phạm vi giải quyết tranh
chấp của asean được quy định là những tranh chấp kinh tế thương mại giữa các
quốc gia thành viên ASEAN.
Điều 24 Khoản 3 Hiến chương ASEAN quy định: “Nếu khơng có quy định
cụ thể khác, các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng các hiệp
định kinh tế ASEAN sẽ được giải quyết theo Nghị định thư ASEAN về Tăng cường
Cơ chế Giải quyết Tranh chấp.”

3


Nội dung quy định tại Điều 1 Nghị định thư 2004 về phạm vi giải quyết
tranh chấp hoàn toàn phù hợp với quy định của Điều 24 Khoản 3 Hiến chương
ASEAN. Phạm vi giải quyết tranh chấp của Nghị định thư 2004 khá rộng, bao trùm
các quan hệ kinh tế- thương mại đã quy định trong các hiệp định cụ thể như Hiệp
định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN, Hiệp định về chương trình ưu
đãi thuế quan có hiệu lực chung cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Hiệp định
khung về dịch vụ (AFTA)…
Tuy nhiên, các Hiệp định kinh tế ASEAN có thể quy định giải quyết tranh
chấp đến vấn đề liên quan sẽ xung đột với quy định của Nghị định thư. Nghị định
thư 2004 đã dự liệu 2 loại xung đột trong việc giải quyết tranh chấp giữa Nghị định
thư 2004 và các hiệp định kinh tế khác và cách giải quyết như sau4:
Thứ nhất, nếu có sự khác biệt giữa các quy tắc và thủ tục Nghị định thư năm
2004 và các quy định về giải quyết tranh chấp (nếu có) được quy định trong các
hiệp định kinh tế - thương mại ASEAN thì sẽ áp dụng các quy định của các hiệp
định kinh tế - thương mại.
Thứ hai, nếu có sự khác biệt giữa các cơ chế giải quyết tranh chấp, đặc biệt
trong hai hoặc nhiều hiệp định ghi ở Phụ lúc I thì các bên tranh chấp sẽ thương

lượng với nhau để lựa chọn cơ chế phù hợp.
2. Cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN
Tại Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp ngày
29/11/2004 thì hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế của ASEAN bao
gồm: Hội nghị Bộ trưởng kinh tế AEM, Hội nghi quan chức kinh tế cao cấp SEOM,
Ban Thư ký ASEAN. Trong trường hợp cần thiết, ASEAN có thể lập một cơ quan
giúp việc có tính chất adhoc là Ban Hội thẩm Panel.
2.1. Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM)
Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN là cơ quan có chức năng chuyên môn
cao nhất. Các phiên họp của AME được thực hiện thường niên. Trường hợp cần

Ths. Lê Minh Tiến, Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN, Tạp chí Luật học số
9/2007, tr.72
4

4


thiết, AEM có thể triệu tập bất thường nhằm chỉ đạo việc hợp tác trong khuôn khổ
ASEAN.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 Nghị định thư năm 2004 thì hội nghị
AEM có thẩm quyền thành lập cơ quan phúc thẩm gồm 3 thành viên trong số 7
thành viên của Cơ quan phúc thẩm thường trực do AEM bổ nhiệm với nhiệm kì 4
năm.
Chức năng của cơ quan phúc thẩm này là giải quyết các kháng cáo đối với
các tranh chấp mà Ban hội thẩm đã xem xét. Cơ quan có chức năng phúc thẩm này
tạo điều kiện cho việc xem xét, giải quyết tranh chấp được toàn diện, khách quan,
đảm bảo sự công bằng trong các phán quyết.
Như vậy, AEM không phải là cơ quan chuyên trách về giải quyết tranh chấp,
chức năng này được AEM kiêm nhiệm với tư cách là cơ quan chỉ đạo các hoạt động

hợp tác kinh tế trong ASEAN5. Đồng nghĩa với điều này, AEM không phải là cơ
quan trực tiếp giải quyết kháng cáo mà việc giải quyết các kháng cáo của các bên
tranh chấp thuộc về Cơ quan phúc thẩm do AEM thành lập. Vì vậy, vai trị của cơ
quan AEM khơng thực sự rõ ràng trong việc giải quyết tranh chấp.
2.2. Hội nghị các quan chức kinh tế cao cấp (SEOM)
Hội nghị các quan chức kinh tế cao cấp là cơ quan của tổ chức ASEAN được
thành lập nhằm thực hiện các nhiệm vụ hợp tác kinh tế giữa các quốc thành viên
(cơ quan chấp hành) theo đúng đường lối chỉ đạo và chính sách kinh tế chung được
AEM thơng qua trong lĩnh vực hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là thành viên.
Trong giải quyết các tranh chấp linh vực kinh tế của ASEAN, Hội nghị các
quan chức kinh tế cao cấp sẽ là một trong những cơ quan giải quyết. Theo quy định
tại Điều 2 Đoạn 1 Nghị định thư 2004 thì:
“1. SEOM sẽ giám sát việc thi hành Nghị định thư này và các quy định về
tham vấn và giải quyết tranh chấp của các hiệp định liên quan, trừ khi có quy định
khác trong hiệp định liên quan đó. Theo đó, SEOM có quyền thành lập Ban Hội
thẩm, thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, giám sát việc
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN (2012), NXB.
Công an nhân dân, tr.365
5

5


thi hành các kết luận và khuyến nghị trong báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan
Phúc thẩm đã được SEOM thông qua và cho phép tạm ngừng ưu đãi và các nghĩa
vụ khác theo các hiệp định liên quan.”
Như vậy, SEOM sẽ có các thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp như
thành lập Ban hội thẩm; Thông qua báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc
thẩm; Giám sát việc thực hiện các phán quyết đã được SEOM thơng qua; Cho phép
hỗn thi hành các nhượng bộ hay các nghĩa vụ khác theo các hiệp định của

ASEAN.
Từ góc độ pháp lý, SEOM cũng khơng được xem là cơ quan chuyên trách
giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các quốc gia của ASEAN mà chỉ là cơ quan
có chức năng thực hiện các nhiệm vụ phối hợp trong nhiệm vụ giải quyết tranh
chấp kinh tế. Việc SEOM tiến hành thủ tục thành lập Ban hội thẩm cịn gặp vướng
mắc vì trong trường hợp SEOM khơng tiến hành họp sẽ mất nhiều thời gian hơn,
ảnh hưởng đến thời gian giải quyết tranh chấp.
2.3. Ban Thư kí
Theo quy định tại Điều 19 Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết
tranh chấp năm 2004 thì Ban thư kí có các trách nhiệm sau:
- Trợ giúp cho Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm trong các vấn đề về pháp
lý, lịch sử, thủ tục có liên quan đến vấn đề được giải quyết cũng như những trợ
giúp về mặt thư ký, kỹ thuật;
- Trợ giúp cho SEOM trong việc giám sát và theo dõi việc thực hiện các kết
luận và khuyến nghị trong báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm đã
được SEOM thông qua.
- Ban Thư ký là nơi tiếp nhận và xử lý tất cả các tài liệu có liên quan đến vụ
tranh chấp.
- Trên cơ sở tham vấn với SEOM, Ban Thư ký sẽ cập nhật danh mục các hiệp
định có liên quan quy định tại Phụ lục I khi cần thiết. Ban Thư ký sẽ thông báo cho
các nước thành viên về các thay đổi đó.
2.4. Ban Hội thẩm Panel
6


Thành phần Ban Hội thẩm do SEOM thánh lập theo quy định tại Điều 2
Khoản 1 Nghị định thư năm 2004, bao gồm những cá nhân có trình độ, tính độc lập
và có kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực thuộc các cơ quan chính phủ và phi
chính phủ, những người đang tiến hành điều tra hoặc đệ trình vụ việc tranh chấp lên
Ban hội thẩm, những người đang làm việc trong Ban thư ký, những người giảng

dạy hoặc xây dựng luật, chính sách thương mại quốc tế, cũng có thể là quan chức
chính sách thương mại cấp cao của các nước thành viên.
Công dân của các nước thành viên có liên quan tranh chấp khơng được tham
gia vào Ban hội thẩm giải quyết tranh chấp đó, trừ trường hợp có sự đồng ý của các
bên liên quan trong tranh chấp. (Phục lục II Mục I Điều 1 Nghị định thư 2004).
Ban Hội thẩm gồm 3 thành viên. Trong vòng 10 ngày từ ngày thành lập Ban
hội thẩm, nếu các bên tranh chấp đồng ý, Ban hội thẩm có thể bao gồm 5 thành
viên (Phụ lục II Mục I Điều 5 Nghị định thư 2004).
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, những thành viên trong ban hội thẩm
chỉ tham gia với tư cách cá nhân, không phải là đại diện cho bất kỳ chính phủ hay
tổ chức khác. Vì thế, các quốc gia thành vi không thể gây ảnh hưởng đến định
hướng của từng cá nhân trong Ban Hội thẩm.
Chức năng của Ban Hội thẩm là đánh giá khách quan tồn bộ nội dung vụ
tranh chấp được đệ trình gồm sự kiện, tình tiết và khả năng áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết tranh chấp. (Điều 7 Nghị định thư năm 2004)
2.5. Cơ quan phúc thẩm
Cơ quan phúc thẩm có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế quốc tế của
các quốc gia ASEAN. Thành viên của cơ quan phúc thẩm ASEAN gồm 7 người.
Mỗi vụ tranh chấp giải quyết theo quy trình phúc thẩm sẽ được một Hội đồng gồm
3 thành viên thụ lí và giải quyết theo trình tự phúc thẩm. (Điều 12 Khoản 1 Nghị
định thư năm 2004).
Nhiệm kì các thành viên được bổ nhiệm của cơ quan phúc thẩm là 4 năm.
Mỗi thành viên có thể tái bổ nhiệm một lần. Trong trường hợp người được bổ
nhiệm thay thế một thành viên của Cơ quan Phúc thẩm trước khi thành viên đó kết
7


thúc nhiệm kỳ sẽ làm việc trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ của người tiền
nhiệm (Điều 12 Khoản 2 Nghị định thư năm 2004).
Thành viên của Cơ quan Phúc thẩm là những người có năng lực được thừa

nhận, có kiến thức chun mơn về luật thương mại quốc tế và về các vấn đề của các
hiệp định liên quan đến tranh chấp kinh tế, thương mại.
Phạm vi hoạt động của Cơ quan phúc thẩm còn hẹp và chưa rõ ràng. Chức
năng chính của Cơ quan phúc thẩm chỉ là xem xét việc áp dụng và giải thích pháp
luật của Ban hội thẩm chứ khơng xem xét tồn bộ vấn đề liên quan đến vụ tranh
chấp (Điều 12 Đoạn 6 Nghị định thư năm 2004).
Khi phát hiện ra các tình tiết phát sinh mà chưa được Ban hội thẩm xem xét
mà tình tiết này liên quan đến việc giải quyết tranh chấp hoặc khi phát hiện kết luận
của Ban hội thẩm chưa thật sự chính xác và đủ căn cứ thì Cơ quan phúc thẩm
khơng có đủ thẩm quyền để xử lý. Phạm vi hoạt động của Cơ quan Phúc thẩm gây
ảnh hưởng tiêu cực đến tiến trình giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại.
3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN
Cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong Nghị định thư 2004 bao
gồm 4 giai đoạn là tham vấn, hội thẩm, phúc thẩm và thi hành phán quyết.
3.1. Giai đoạn tham vấn, trung gian hòa giải
a) Quá trình tham vấn
Tham vấn được coi là giai đoạn sơ bộ của quá trình giải quyết tranh chấp
thương mại, giai đoạn này giúp các bên tranh chấp tránh được những va chạm căng
thẳng, tranh chấp của họ được giải quyết thông qua một giải pháp thỏa đáng.
Liên quan đến các vấn đề ảnh hưởng tới việc thực hiện, giải thích hay áp
dụng hiệp định và các hiệp định có liên quan, các nước thành viên ASEAN hồn
tồn có cơ hội tiến hành tham vấn theo Nghị định thư năm 2004. ASEAN cũng
khuyến khích các nước thành viên của mình giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua giai đoạn tham vấn và Nghị định thư năm 2004 cũng quy định các nước
thành viên giải quyết tranh chấp của họ trong hòa bình kịp thời, nhanh chóng.

8


Mọi yêu cầu tham vấn phải được thông báo cho SEOM. Đây là một điểm

mới so với Nghị định thư năm 1996 và kể từ khi các bên tranh chấp có nghĩa vụ
thơng báo cho SEOM về việc sử dụng cách thức tham vấn để giải quyết tranh chấp,
các bên có thể xác định chính xác thời gian khi giai đoạn tham vấn bắt đầu và kết
thúc.
Mỗi nước thành viên khi nhận được yêu cầu tham vấn sẽ phải trả lời yêu cầu
tham vấn trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Các bên
tranh chấp sẽ tiến hành tham vấn trong thời hạn 30 ngày nhằm đạt được giải pháp
thỏa đáng cho cả hai bên. Nếu khơng giải quyết được tranh chấp, trong vịng 60
ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, tranh chấp sẽ được đưa lên SEOM
nếu bên khiếu nại đề nghị thành lập Ban hội thẩm.
b) Quá trình trung gian hịa giải
Bên cạnh đó, các nước thành viên ASEAN cũng có thể giải quyết tranh chấp
thơng qua các biện pháp khác như trung gian hòa giải hoặc dàn xếp ở bất cứ thời
điểm nào. Theo thỏa thận của các bên tranh chấp, thủ tục này có thể được tiến hành
song song với quá trình xem xét của Ban hội thẩm. (Điều 4 Nghị định thư 2004).
Trung gian hòa giải được thực hiện bởi Tổng thư kí ASEAN trong quyền hạn
đương nhiệm của mình có thể tiến hành trung gian hịa giải để giúp các nước thành
viên giải quyết tranh chấp (Điều 4 Đoạn 3 Nghị định thư 2004). Giai đoạn giải
quyết tranh chấp bằng còn đường trung gian hòa giải được cung cấp sự hỗ trợ cho
các bên tranh chấp khác biệt so với giải quyết bằng tham vấn.
Nghị định thư năm 2004 đưa ra các biện pháp như tham vấn, trung gian hòa
giải hoặc dàn xếp trong hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của ASEAN đã
thay thế được biện pháp kiện tụng tốn kém. Những phương pháp này được sử dụng
rất phổ biến trong giai đoạn đầu của hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế ở các tổ chức thương mại khác. Các cách giải quyết tranh chấp khác nhau
thể hiện sự linh hoạt trong cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN trong lĩnh vực
kinh tế- thương mại, cho phép các quốc gia khác có thể lựa chọn cơ chế giải quyết
tranh chấp phù hợp với yêu cầu của mình.
9



Tuy nhiên, các quy định về tham vấn trong Nghị định thư năm 2004 cũng
bộc lộ hạn chế như tính linh hoạt đơi khi có thể làm suy yếu thẩm quyền của các cơ
quan giải quyết tranh chấp của ASEAN vì đây khơng phải là cơ chế độc quyền cho
giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh tế - thương mại.
3.2. Giai đoạn hội thẩm
a) Thành lập Ban Hội thẩm
Theo quy định tại Điều 5 Nghị định thư năm 2004, vụ việc tranh chấp sẽ
được đệ trình lên Hội nghị quan chức kinh tế cao cấp SEOM và giai đoạn giải
quyết theo trình tự tố tụng tại cơ quan này sẽ bắt đầu được tiến hành nếu:
- Bên được yêu cầu tham vấn không trả lời yêu cầu trong vòng 10 ngày;
- Bên được yêu cầu tham vấn khơng tiến hành tham vấn trong vịng 30
ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn;
- Tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày.
Ban hội thẩm sẽ được thành lập tại cuộc họp SEOM được tổ chức ngay sau
khi nhận được yêu cầu thành lập Ban hội thẩm, u cầu đó phải được vào chương
trình nghị sự của cuộc họp SEOM (Điều 5 Đoạn 2 Nghị định thư 2004).
Việc thành lập Ban Hội thẩm hoặc quyết định không thành lập Ban Hội thẩm
sẽ được thực hiện hoặc quyết định bằng cách gửi văn bản lấy ý kiến các nước thành
viên. Việc không trả lời văn bản lấy ý kiến sẽ được coi là sự nhất trí đối với yêu cầu
thành lập Ban Hội thẩm. Nghị định thư năm 2004 sử dụng nguyên tắc đồng thuận
phủ quyết giống như Hiệp định về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp trong
khuôn khổ WTO (Dispute Settlement Understanding –DSU). Nguyên tắc đồng
thuận phủ quyết là một nguyên tắc mới. Theo đó, một quyết định chỉ khơng được
thơng qua khi tất cả thành viên ASEAN bỏ phiếu không thông qua. Các quyết định
của ASEAN hầu như được thông qua vì việc một quyết định có thể bị bỏ phiếu
trống bởi tất cả các thành viên ASEAN là khó xảy ra. Nguyên tắc đồng thuận phủ
quyết đã đánh dấu một sự cải thiện đáng kể so với Nghị định thư năm 1996.
Vấn đề thành lập Ban hội thẩm sẽ được giải quyết trong vòng 45 ngày, dù tại
cuộc họp SEOM hay bằng cách gửi văn bản lấy ý kiến. Như vậy, dù Ban hội thẩm

10


được thành lập bởi SEOM hay bằng cách gửi văn bản thì cũng khơng được vượt
q 45 ngày. Quy định đã ngăn chặn sự chậm trễ và tăng tốc thủ tục tố tụng của
Ban hội thẩm trong việc áp dụng Nghị định thư năm 1996.
b) Quy trình làm việc của Ban hội thẩm
Điều 6 Nghị định thư năm 2004 thiết lập các điều khoản tham chiếu quy định
quy chế làm việc của Ban hội thẩm. Theo đó, Ban hội thẩm sẽ xem xét các điều
khoản liên quan của các hiệp định liên quan mà các bên trích dẫn.
Ban hội thẩm sẽ đánh giá một cách khách quan tranh chấp được đệ trình bao
gồm cả xác minh các sự kiện của vụ việc, khả năng áp dụng cũng như tính phù hợp
với các điều quy định của Hiệp định liên quan và thu thập các chứng cứ khác hỗ trợ
được cho SEOM trong việc ra quyết định.
Kết quả làm việc Ban hội thẩm là một báo cáo đệ trình lên SEOM. Nếu các
bên khơng có kháng cáo thì báo cáo này sẽ được thông qua theo nguyên tắc đồng
thuận nghịch (Điều 9 Đoạn 1 Nghị định thư 2004).
Với cơ chế đồng thuận nghịch thì báo cáo của cơ quan hội thẩm (trong
trường hợp khơng có kháng cáo của một trong các bên tranh chấp) sẽ đảm bảo cho
kết luận và khuyến nghị giả quyết tranh chấp dễ dàng được thực hiện trên thực tế,
vụ tranh chấp nhanh chóng được giải quyết và bảo đảm kịp thời cho bên có quyền
và lợi ích bị xâm phạm.
3.3. Giai đoạn phúc thẩm
Trong trường hợp không đồng ý với báo cáo của Ban Hội thẩm, các bên
tranh chấp sẽ kháng cáo lên cơ quan phúc thẩm. Sau khi xem xét, báo cáo của cơ
quan phúc thẩm sẽ được đệ trình lên để SEOM thơng qua theo nguyên tắc đồng
thuận (Điều 12 Đoạn 13 Nghị định thư 2004). Báo cáo của cơ quan phúc thẩm coi
như đương nhiên khi được thông qua khi được SEOM đồng thuận sẽ đem lại nhiều
lợi ích trong việc áp dụng giải quyết vấn đề tranh chấp nhanh chóng, kịp thời tạo ít
ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia thành viên.

4. Thi hành phán quyết SEOM hoặc AEM

11


Việc tuân thủ ngay lập tức các kết luận và khuyến nghị trong báo cáo của
Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm đã được SEOM thông qua nên bên thua kiện
phải thực hiện phán quyết trong thời gian quy định để đảm bảo tính hiệu quả pháp
lý.
Bên thua kiện có nghĩa vụ thực hiện các phán quyết của SEOM trong vòng
60 ngày kể từ khi Báo cáo của Ban Hội thẩm hoặc Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm
được thông qua, trừ khi các bên thỏa thuận một khoảng thời gian dài hơn. Tối thiểu
10 ngày trước khi phiên họp được tổ chức, bên thua kiện phải đệ trình lên SEOM
một bản báo cáo nêu rõ quá trình thực hiện phán quyết đó (Điều 15 Nghị định thư
2004).
III. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ CỦA CÁC NƯỚC
ASEAN
1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế của các nước ASEAN
Trong quá trình hình thành và phát triển của các cơ chế giải quyết tranh chấp
của ASEAN từ năm 1976 (từ khi Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đơng Nam Á
có hiệu lực) đến nay, các cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN đã và đang được
xây dựng một cách hoàn thiện hơn, đáp ứng phần nào yêu cầu thực tiễn hoạt động
của khối.
Với Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á, chức năng của Hội
đồng cấp cao mới chỉ giới hạn ở việc ghi nhận tranh chấp và khuyến nghị các biện
pháp giải quyết tranh chấp thích hợp hoặc làm trung gian, hoà giải nếu các bên
thống nhất đề nghị; trong Hiến chương ASEAN vai trò của Cấp cao ASEAN đã
được nâng cao với quyền ra quyết định giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, vai trị của Nghị định thư Tăng cường cơ chế giải quyết tranh
chấp 2004 không thể không nhắc đến trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp

liên quan đến kinh tế - thương mại thông qua các cơ quan được Nghị định thư quy
định.
Về mặt thực tiễn, mặc dù với các quy định và thủ tục trong Nghị định thư
2004 rất cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ nhưng kể từ khi ra đời cho đến nay, cơ chế giải
12


quyết tranh chấp bằng trọng tài rất ít khi được sử dụng, nếu các nước thành viên có
sử dụng thì cũng chỉ dừng lại ở giai đoạn tham vấn.
Khi tranh chấp xảy ra, các nước thành viên của ASEAN thường tiến hành
tham vấn. Sau đó, các nước này cùng nhau xây dựng thêm các cơ chế nhằm hạn
chế việc vi phạm các hiệp định. Ví dụ cho thực tiễn này là sự kiện Việt Nam ban
hành lệnh tạm ngừng nhập khẩu 12 mặt hàng vào tháng 5/1997 đã gây ra sự phản
ứng của các nước thành viên khác 6 (vì trong thực tế hợp tác kinh tế, việc một quốc
gia không thông báo kịp thời về việc áp dụng những hành động hoặc biện pháp như
ngừng nhập khẩu, tăng thuế, áp đặt hạn ngạch, hàng rào kĩ thuật… thường làm
phương hại hay đe doạ làm phương hại đến lợi ích của các quốc gia thành viên
khác) nhưng chỉ sau giai đoạn tham vấn, các nước ASEAN đã không đưa vụ việc ra
giải quyết theo quy trình của Nghị định thư khi Việt Nam đã bãi bỏ lệnh tạm ngừng
nhập khẩu. Đồng thời, sự kiện này lại là tiền đề cho việc các nước thành viên khởi
động xây dựng và kí kết Nghị định thư về thủ tục thông báo của ASEAN ngay sau
đó7.
Mặc dù đã có cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài theo quy định của
Nghị định thư nhưng các nước thành viên ASEAN vẫn thường sử dụng phương
pháp giải quyết tranh chấp truyền thống như để khẳng định và xây dựng sự đồng
thuận và nhất trí. Điều này khiến vai trò của Nghị định thư trong việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài chưa thực sự được các nước chú trọng.
Với mục tiêu tổng quát trong Tầm nhìn ASEAN là đưa Hiệp hội trở thành
“một nhóm hài hồ các dân tộc Đơng Nam Á, gắn bó trong một cộng đồng các xã
hội đùm bọc lẫn nhau8” đã định hướng các thành viên gạt bỏ những bất đồng sang

một bên để tiếp tục thảo luận và hợp tác trong các vấn đề hiện tại. Điều này đã
được chứng minh trong một số tình huống. Ví dụ, chương trình động cơ diesel của
Báo cáo về Hợp tác Kinh tế năm 1997 của Ban Thư ký ASEAN
Lê Minh Tiến, Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN, Tạp chí Luật học số 9/2007,
tr.77
8 Tổng quan về ASEAN, tr. 4. Website:
/>%E1%BB%94NG%20QUAN%20V%E1%BB%80%20ASEAN.pdf
6
7

13


Singapore thuộc dự án công nghiệp ASEAN (AIPS) không tăng thương mại nội
khối ASEAN vì lợi ích xung đột kinh tế giữa các thành viên cá nhân và hợp tác khu
vực. Các dự án đã được nhân đôi ở cấp và khu vực, quốc gia thành viên ASEAN,
trong đó, Indonesia và Malaysia cũng muốn sản xuất động cơ diesel. Kết quả là,
các thành viên này chỉ đơn giản là thi đấu với nhau trong các thị trường khu vực
cho động cơ diesel khi các kế hoạch quốc gia về động cơ diesel đã được hồn
thành. Thực tế, khơng có quy định rõ ràng về các bản sao của AIPS và các sản
phẩm quốc gia. Hiệp định cơ bản về AIPS nói, khi giao một dự án cơng nghiệp
tương tự của ASEAN như các dự án quốc gia chỉ có thể được thành lập sau khi
tham vấn với các nước thành viên và cũng với điều kiện là cơ sở cho các dự án
công nghiệp ASEAN không bị ảnh hưởng bởi dự án mới đề nghị quốc gia. Tuy
nhiên, dự án tương tự của quốc gia đã được hoạch định và vững chắc đã có trong
giai đoạn đầu thực hiện trước khi phân bổ AIPS được phép tiến hành như dự án
quốc gia. Các dự án như vậy sẽ được quy định với các chi trong theo đây có liên
quan bổ sung kèm theo thỏa thuận. Quy định này cho phép các dự án quốc gia để
tồn tại cùng với các dự án của AIPS. Nói cách khác, sẽ khó có một dự án nào đó có
một vị trí độc quyền trong ASEAN. Tuy nhiên, khơng có một tổ chức chính thức

nào có thể quyết định xem dự án cơng nghiệp của ASEAN có thể khơng bị ảnh
hưởng cũng khơng phải là một tiêu chuẩn cố định có thể được sử dụng để định
nghĩa "ảnh hưởng" đã có trong quy định của ASEAN. Hiệp định cơ bản về AIPS
cũng khơng có quy định về sự tồn tại của các tổ chức mà chỉ có thể xem xét dự án
quốc gia đã có kế hoạch vững chắc trong giai đoạn đầu của họ hay chưa. Ban đầu
Singapore cho rằng khu vực đặc biệt ưu đãi thuế quan sẽ được dành cho động cơ
diesel của họ và sẽ khơng có nhà máy động cơ diesel nào được phép thành lập ở
các nước ASEAN khác. Tuy nhiên khi dự án động cơ diesel của Singapore được
đưa ra thì Indonexia nói rằng họ cũng phát triển các sản phẩm tương tự trong hoạt
động hợp tác với Deutz của Đức. Tương tự như vậy, Malaysia cũng đã có kế hoạch
cho năm nhà máy sản xuất các sản phẩm cùng loại, Philippines cũng đã có bốn nhà
máy như vậy. Có thể nói rằng, sao chép sản phẩm đã xảy ra. Tuy nhiên bất chấp
14


phản đối của Singapore, các vấn đề về sao chép sản phẩm vẫn chưa được giải quyết
và trở thành một điểm chính trong sự bất đồng giữa Indonexia và Singapore dẫn tới
việc thu hồi các dự án động cơ diesel của Singapore AIPS vào năm 19789.
Như vậy, các nước quốc gia thành viên luôn lựa chọn cách giải quyết tranh
chấp thông qua con đường ngoại giao. Thực tiễn phản ánh khuynh hướng văn hoá
của các nước thành viên ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế là tránh
xung đột và phù hợp với thái độ xã hội Châu Á và giữ gìn hồ bình. Ví dụ, ở Thái
Lan việc giải quyết tranh chấp theo phương thức tránh xung đột được đánh giá rất
cao và kiện tụng được xem là một hình thức giải quyết tranh chấp khơng phù hợp.
Những đặc điểm văn hoá tiêu biểu và truyền thống của Châu Á đã được thể hiện rõ
nét trong thực tiễn ASEAN và đang được thể hiện trong Nghị định thư năm 200410.
Các phương thức giải quyết tranh chấp chính thức như tham vấn, trung gian,
hồ giải ln là cách thức giải quyết tranh chấp kinh tế được các quốc gia thành
viên ASEAN lựa chọn hàng đầu. Các phương thức này phù hợp với văn hoá của
ASEAN, quy định của Hiến chương Liên hợp quốc và được thể chế hoá trong Nghị

định thư năm 2004.
2. Đánh giá việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước
ASEAN
Các quy định của Nghị định thư năm 2004 tạo thuận lợi cho các bên tranh
chấp với nhiều cơ hội để giải quyết tranh chấp kinh tế theo pháp lý. Việc áp dụng
thực tiễn Nghị định thư 2004 cũng cần được xem xét, đánh giá để hoàn thiện hơn
trong việc áp dụng.
2.1. Ưu điểm cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế
Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp – thương mại được hoàn thiện dần từ
Nghị định thư năm 1996. Cho đến hiện nay cơ chế được sử dụng trong lĩnh vực
kinh tế - thương mại là áp dụng theo Nghị định thư tăng cường cơ chế giải quyết

9 Declaration of ASEAN Concord II, Annex, ASEAN Security Community
10 Trần Thị Thu Trà, Luận văn Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương

hội các nước Đông Nam Á, tr. 56

15

mại của hiệp


năm 2004 (ghi nhận trong Hiến chương ASEAN). Đây là bước tiến mới quan trọng
trong tiến trình hồn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN.
Thứ hai, trong Nghị định thư 2004, Ban Hội thẩm là cơ quan trực tiếp xem
xét và giải quyết, đưa ra các khuyến nghị và kết luận cho các tranh chấp kinh tế.
Kết luận của Ban Hội thẩm phải trình báo cáo lên SEOM xem xét và ra quyết định
đồng thuận. Vì thế, những kết luận giải quyết tranh chấp ln chính xác, hiệu quả
và tạo được lòng tin đối với các bên tranh chấp.
Thứ ba, Nghị định thư 2004 cũng quy định thời gian chặt chẽ trong mỗi tiến

trình giải quyết tranh chấp để trành trường hợp tranh chấp giải quyết chậm gây ảnh
hưởng dây chuyền trong kinh tế của các bên.
Thứ tư, quy định các biện pháp mang tính pháp lý hơn ở các giai đoạn thực
thi. Để khuyến khích các bên thua kiện thực hiện phán quyết của cơ quan giải
quyết, Nghị định thư đưa ra biện pháp tạm ngừng ưu đãi hay thực hiện nghĩa vụ,
các lĩnh vực áp dụng được mở rộng và quy định thực hiện theo trình tự, nguyên tắc
cụ thể, các biện pháp giám sát quá trình thực thi các phán quyết được đưa ra.
Những quy định này sẽ thúc đẩy quá trình thực thi phán quyết nhanh chóng, hiệu
quả. Đây cũng là động lực để bảo vệ các nước kém phát triển trong việc thực thi
phán quyết của các quốc gia lớn có tiềm lực mạnh.
2.2. Nhược điểm cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế
Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN quy định Ban Hội thẩm
phải họp kín11 nên các bên có liên quan đến tranh chấp chỉ có mặt trong các cuộc
họp của Ban hội thẩm khi được Ban hội thẩm mời. Theo đó, các nước thành viên có
thể nghi ngờ về quá trình giải quyết tranh chấp của Ban Hội thẩm. Điều này cũng
có thể ảnh hưởng đến sự vô tư, khách quan, công bằng của cơ chế giải quyết tranh
chấp, làm giảm lòng tin của các nước thành viên.
Thứ hai, tuy Nghị định thư 2004 quy định biện pháp tạm ngừng ưu đãi hay
thực hiện nghĩa vụ khi bên thua kiện không thực hiện phán quyết nhưng hiện tại

Xem thêm Phụ lục II, Mục II, Điều 2 Nghị định thư Tăng cường Cơ chế giải quyết
tranh chấp năm 2004
11

16


vẫn chưa có một cơ quan nào cưỡng chế việc thi hành nên bên thua kiện vẫn có thể
khơng thực hiện, đặc biệt các nước lớn.
Thứ ba, thời gian giải quyết tranh chấp của mỗi bước được quy định cụ thể

nhưng tựu chung, tổng thời gian giải quyết theo cơ chế này quá dài (gần 15 tháng
chưa tính thêm thời gian gia hạn trong một số trường hợp). Điều này khiến cho vi
phạm đã gây nhiều thiệt hại, tốn kém cho các bên tham gia giải quyết tranh chấp.
Vì thế, các quốc gia thường chỉ áp dụng biện pháp tham vấn, trung gian hịa giải mà
khơng tiền hành bằng phương pháp trọng tài.
3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam để phù hợp với cơ chế giải
quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN
Việt Nam là một trong những quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (viết tắt là ASEAN) nên việc soạn thảo văn bản pháp luật chuyên biệt
trong giải quyết tranh chấp kinh tế phải phù hợp với quy định cơ chế giải quyết
tranh chấp của các nước ASEAN. Với phương châm “chủ động, tích cực và có
trách nhiệm”, Việt Nam đã đóng góp xây dựng ASEAN liên kết chặt chẽ trong việc
giải quyết tranh chấp kinh tế.
Ngày 24/5/2005, Nghị quyết sơ 48 – NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 được ban hành, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong quá trình hội
nhập quốc tế. Một trong những định hướng quan trọng trong việc giải quyết tranh
chấp là “Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế (trọng tài, hoà giải)
phù hợp với tập quán thương mại quốc tế. Tham gia các điều ước quốc tế đa
phương về tương trợ tư pháp, nhất là các điều ước liên quan tới việc công nhận và
cho thi hành các bản án, quyết định của toà án, quyết định trọng tài thương mại”.
Việt Nam cần phải nỗ lực phát triển hệ thống pháp luật trên cơ sở tham khảo,
đối chiếu các văn bản pháp luật quốc tế và học hỏi kinh nghiệm của những chuyên
gia của các quốc gia là thành viên của ASEAN như Singapore… trong lĩnh cực lập
pháp.

17


Đồng thời, để xây dựng và pháp triển hệ thống pháp lý giải quyết tranh chấp

kinh tế cho ASEAN nhằm tạo thuận lợi của các quốc gia trong quá trình giải quyết
trinh chấp. Nhà nước cần tăng cường công tác đào tạo chuyên môn trong lĩnh vực
giải quyết tranh chấp quốc tế để đảm bảo tiếng nói và đóng góp tích cực vào q
trình xây dựng Cộng đồng ASEAN.
C. KẾT LUẬN
Thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của Hiệp hội các quốc gia
Đông Á, các nước thành viên đã hoàn thiện hơn hệ thống giải quyết tranh chấp kinh
tế từ việc sử dụng các biện pháp ngoại giao chuyển sang biện pháp xét xử. Từ đây,
hệ thống pháp lý giải quyết tranh chấp chặt ché hơn để các nước áp dụng giải
quyết.
Khi giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế nói riêng hay bất ki lĩnh vực
khác nói chung thì các nước thành viên ln phải cân nhắc thỏa đáng mọi khía cạnh
để giữ gìn quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các nước thành viên.
Thực tế, cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN bằng
trọng tài chưa thực sự được đề cao áp dụng. Các quốc gia vẫn sử dụng phương
pháp hịa giải truyền thống qua đàm phán mà khơng qua thủ tục pháp lý. Bên cạnh
đó, những khó khăn trong việc áp dụng, thực thi đã ngăn cản các nước giải quyết
tranh chấp bằng cơ chế này. Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế giải quyết
tranh chấp là vô cùng cần thiết.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định thư Tăng cường Cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2004
2. Hiến chương ASEAN
18


3. Hiến chương Liên hợp quốc
4. Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á
5. Đề án công nghiệp ASEAN (AIC)
6. Trần Thị Thu Trà, Luận văn Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại

của hiệp hội các nước Đông Nam Á.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế (2013), NXB. Công an
Nhân dân.
8. Trần Thăng Long, Về một số cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN hiện nay,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/2006.
9. Ths. Lê Minh Tiến, Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN, Tạp chí Luật học
số 9/2007.
10.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN

(2012), NXB. Cơng an nhân dân.
11.

Báo cáo về Hợp tác Kinh tế năm 1997 của Ban Thư ký ASEAN.

12.

Tổng quan về ASEAN, tr. 4. Website:

/>s/37/T%E1%BB%94NG%20QUAN%20V%E1%BB%80%20ASEAN.pdf
13.

Declaration of ASEAN Concord II, Annex, ASEAN Security Community

19




×