Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.35 KB, 30 trang )

MỤC LỤC

PHẦN I - LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong q trình đi lên XHCN, nền kinh tế cịn đang ở trong
giai đoạn sơ khai. Để có thể tạo lập được một nền kinh tế thị trường vững chắc thì
Nhà Nước ta phải xây dựng một nền kinh tế cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại với trình độ kỹ thuật tiên tiến.
Trong lịch sử phát triển của mình, con người đã trải qua nhiều hình thái kinh
tế xã hội, nổi bật là: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa, và cuối cùng là: xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế lại chưa có một
hình thái kinh tế nào có một cơ chế quản lý và điều hành một cách hợp lý nhất. Bên
cạnh đó nền kinh tế nước ta lại đang đi vào giai đoạn của sự phát triển, đó là bước
ngoặt trong q trình chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà Nước. Nên vai trị của Nhà Nước trong nền kinh tế
thị trường là rất quan trọng, nó khơng chỉ có mặt tích cực như: năng suất lao động
tăng nhanh, công nghệ sản xuất không ngừng được cải tiến, hàng hoá đa dạng, thu
nhập quốc dân tăng... mà bên cạnh đó thị trường cũng nảy sinh nhiều mặt tiêu cực,
cần giải quyết như: lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng, tệ nạn xã hội...
Để kinh tế được đảm bảo là phát triển có hiệu quả, cơng bằng, ổn định và phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì Nhà Nước phải can thiệp và quản lý một
cách chặt chẽ. Do những vấn đề tiêu cực chưa được giải quyết triệt để nên khơng
có nền kinh tế nào mà lại không chịu sự quản lý của Nhà Nước ở những mức độ và
phạm vi khác nhau.

1


Xuất phát từ tầm quan trọng đó, em xin lựa chọn đề tài: "Vai trò của Nhà
Nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam"
làm đề tài tiểu luận của mình.


2


PHẦN II – NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chun
làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm duy trì, bảo vệ
trật tự xã hội, bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã
hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, là một
hình thức tổ chức xã hội hiệu quả nhất phù hợp với trình độ phát triển của xã hội
hiện nay.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Nó được mơ tả là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mà ở đó
khu vực nhà nước giữ vai trị chủ đạo trong nền kinh tế, hướng tới mục tiêu phát
triển chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi
Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch tập trung bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động
theo cơ chế thị trường mà ở đó kinh tế nhà nước nắm vai trị chủ đạo. Những thay
đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ "định hướng xã
hội chủ nghĩa" mang hàm ý là Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang
trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho hệ thống này trong tương lai.

3



1.2. Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường:
Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một thành phần
của nền kinh tế có quan hệ độc lập với nhau, mỗi chủ thể tự quyết định lấy hoạt
động của mình.
Tính phong phú của hàng hóa. Do các chủ thể kinh tế đều tự quyết định lấy
hoạt động của mình nên bất cứ hàng hố nào có nhu cầu thì sẽ có người sản xuất.
Mà nhu cầu của con người thì vơ cùng phong phú, điều này tạo nên sự phong phú
của hàng hố trong nền KTTT.
Tính cạnh tranh tất yếu. Hàng hố nào có nhu cầu lớn thí sẽ có nhiều người
sản xuất. Khi có quá nhiều người cùng sản xuất một mặt hàng thì sự cạnh tranh là
tất yếu.
KTTT là một hệ thống kinh tế mở, trong đó có sự giao lưu rộng rãi không chỉ
trong thị trường một nước mà là giữa các thị trường với nhau.
Giá cả hình thành ngay trên thị trường. Không một chủ thể kinh tế nào quyết
định được giá cả. Giá của một mặt hàng được quyết định bởi cung và cầu của thị
trường.
Nền KTTT có thể tự hoạt động được là nhờ vào sự điều tiết của cơ chế thị
trường. Đó là các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung
cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh… tác động, phối hợp hoạt động của toàn bộ thị
trường thành một hệ thống thống nhất.
1.3. Những ưu điểm, hạn chế của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường vận động theo các quy luật của thị trường, trong đó quy
luật giá trị đóng vai trị chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung cầu trên thị
trường. Nền kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hố,
nó nằm trong tiến trình phát triển lịch sử khách quan về kinh tế của xã hội lồi
người, do đó nền kinh tế thị trường cũng có những ưu thế và khuyết tật của nó.
* Ưu điểm:
Nền kinh tế thị trường thúc đẩy sản xuất và gắn sản xuất với tiêu thụ, thực

hiện mục tiêu của sản xuất. Do đó người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kỳ sản xuất,
4


thực hiện tái sản xuất mở rộng, áp dụng nhanh chóng sản xuất khoa học - cơng
nghệ và quay vịng vốn một cách nhanh chóng để đạt lợi nhuận tối đa.
Nền kinh tế thị trường còn thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động,
thích nghi với các điều kiện biến động của thị trường bằng cách: thay đổi mẫu mã
sản xuất, tìm mặt hàng mới cùng với thị trường tiêu thụ, mở rộng quan hệ trong
kinh doanh, phá thế độc quyền, khép kín trong một đơn vị kinh doanh, tìm lợi
nhuận tối đa.
Cùng với hai ưu điểm trên thì thúc đẩy khoa học cơng nghệ, kích thích tăng
năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất và chất lượng sản phẩm,
giá thành hạ, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của khách hàng và thị trường.
Q trình đẩy nhanh tích tụ, tập trung sản xuất. Đây là con đường để mở rộng
quy mô: một mặt kinh doanh, làm ăn giỏi, có hiệu quả cao cho phép tích tụ, mở
rộng quy mơ sản xuất, một mặt do quá trình cạnh tranh tạo ra cho các doanh nghiệp
kinh nghiệm làm ăn có hiệu quả, đồng thời loại bỏ những đơn vị làm ăn thua, kém
hiệu quả. Chính q trình cạnh tranh kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập
trung sản xuất. Q trình tăng trưởng dồi dào sản phẩm hàng hoá, dịch vụ kích
thích sản xuất, đề cao trách nhiệm của nhà kinh doanh đối với khách hàng, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
* Hạn chế:
Nền kinh tế thị trường là mang tính tự phát, tìm kiếm lợi nhuận bằng bất cứ
giá nào, không cần đi theo hướng của Nhà Nước vì mục tiêu của nó là phát triển
kinh tế vĩ mơ. Khuyết tật này cịn sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh làm giảm
hiệu quả chung của nền kinh tế.
Xã hội phát sinh tiêu cực, tệ nạn đi đôi với kinh tế sa sút, gây rối loạn... Các nhà
kinh doanh ln tìm mọi thủ đoạn để làm hàng giả, bn lậu, trốn thuế... mục đích
cuối cùng là thu về lợi nhuận tối đa. Ngồi ra cịn vì lợi ích cá nhân mà dẫn đến tàn

phá tài nguyên và huỷ hoại môi trường.

5


CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ NỀN KINH TẾ
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Đảng cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội XI
Bước vào thời kỳ đổi mới, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng và
Nhà nước ta luôn chú trọng nghiên cứu đổi mới về nhận thức lý luận, xây dựng và
thực thi nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để phát triển nền kinh tế thị trường
ở nước ta. Trong hơn 30 năm đổi mới, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường
(KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) qua mỗi kỳ Đại hội, nhận thức về
mơ hình KTTT định hướng XHCN ngày càng được hoàn thiện, nâng cao và không
ngừng phát triển.
Khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được khẳng
định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001). Đây là kết quả
của quá trình 15 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ
sở đánh giá và rút ra các bài học lớn qua các kỳ Đại hội Đảng, đặc biết là Đại hội
VII, VIII.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách
để phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng làm rõ nội hàm, mục tiêu của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: “Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đây
là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên những cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và

bản chất của CHXH.
6


Về quản lý nhà nước đối với nền kinh tế: Tập trung hoàn thiện thể chế thị
trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Hoàn thiện khung khổ pháp lý, cơ
chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt,
hiệu quả các loại thị trường và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Việc xây
dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ các nguồn lực cho sản xuất kinh
doanh phải theo cơ chế thị trường. Đồng thời, sử dụng các nguồn lực nhà nước, các
cơng cụ điều tiết, chính sách phân phối, phân phối lại để thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội vào đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Đại hội XII của Đảng đã có bước phát triển mới về tư duy, nhận thức về “nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN” ở nước ta: Cụ thể: Về những đặc trưng cơ
bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Về việc thực hiện thể chế sở hữu
và phát triển các thành phần kinh tế; về việc phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường; về việc đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế.
2.2. Quan điểm “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” trong Nghị quyết Đại hội XII
2.2.1 Về đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
KTTT, đồng thời đảm bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước.”
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế có nhiều
hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị

chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; thị trường
7


đóng vai trị chủ yếu trong phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động
lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Các nguồn lực nhà nước được phân bố theo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai
trị định hướng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách và các nguồn lực của
Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế; thực tiễn tiến bộ và công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Đại hội XII của Đảng đã nêu phương hướng hoàn thiện thể chế, phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN trong nhiệm kỳ tới và chỉ rõ: “Đến 2020,
phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế KTTT định hướng XHCN
theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; đảm bảo
đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo
đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường,
phát triển xã hội bền vững.”
2.1.2 Tiếp tục hoàn thiện thể chế sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế,
các loại hình doanh nghiệp.
Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định
đoạt và hưởng lợi từ tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân theo quy định trong
Hiến pháp 2013. Nhà nước bảo về quyền sở hữu hợp pháp của người dân theo quy
định của pháp luật, bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản
công. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản; bảo vệ quyền tự do kinh
doanh mà pháp luật không cấm. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở
hữu và quyền tài sản.
Mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ

chế thị trường. Có chính sách thúc đẩy phát triển doanh nghiệp Việt Nam cả về số
8


lượng và chất lượng, thật sự trở thành nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động thep cơ chế thị
trường. Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn tại các doanh nghiệp nhà nước không cần
nắm hoặc không cần giữ cổ phần chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh
doanh có hiệu quả. Hồn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình, tài sản vơ
hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu) trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo
nguyên tắc thị trường; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của
kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ
lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Hồn
thiện cơ chế chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân
ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế: nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi, chú trọng chuyển
giao cơng nghệ, trình độ quản lý tiên tiến,…
2.2.3 Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường; thực
hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; hồn thiện pháp luật về phí, lệ phí và rà sốt
chuyển đổi chính sách phí lệ phí đối với một dịch vụ công sang áp dụng giá dịch
vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá, đảm bảo tính đúng, tính đủ và
cơng khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công thiết
yếu.
2.2.4 Đẩy mạnh nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ động, tích cực hơi nhập quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kêt hợp hiệu
quả ngoại lực và nội lực để phát triển kinh tế đất nước. Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển. Chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia dân tộc; vì một nước Việt Nam Xã hội Chủ


9


nghĩa giàu mạnh. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế.

CHƯƠNG 3. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
3.1 Tính tất yếu khách quan trong vai trò quản lý của Nhà Nước.
Nhà Nước được coi là công cụ của giai cấp thống trị để duy trì trật tự và quản
lý xã hội cho phù hợp với lợi ích của chính xã hội đó. Do đó Nhà Nước có vai trị
hết sức quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô từ xưa cho đến nay.
3.1.1 Trong lịch sử.
Trong lịch sử xã hội loài người, thời kỳ công xã nguyên thuỷ là thời kỳ
không có Nhà Nước, do trình độ thấp kém, cuộc sống sinh hoạt bầy đàn: cùng sống,
cùng lao động, cùng hưởng thành quả chung nên mọi người đều bình đẳng, xã hội
khơng có sự phân chia giai cấp, khơng có kẻ giàu người nghèo, khơng có đấu tranh
và phân chia giai cấp. Quyền lực trong thời kỳ này hết sức đơn giản, với hệ thống
quản lý khơng mang tính giai cấp mà dưới cơ sở kinh tế, xã hội xuất hiện một hình
thái tổ chức mới gọi là thị tộc.
Lực lượng sản xuất phát triển đã thúc đẩy năng suất lao động trong xã hội
tăng nhanh hơn, tổ chức xã hội thay đổi. Trong xã hội khơng cịn tồn tại thị tộc, mà
thay vào đó là chế độ tư hữư xuất hiện đã phân chia giai cấp thành kẻ giàu người
nghèo, hình thành chủ nơ và nơ lệ. Những yếu tố mới xuất hiện đã làm cho thị tộc
không thể đứng vững và từ đó một xã hội mới với sự phân chia khó điều hồ đã
được hình thành. Để có thể quản lý, điều hồ và có khả năng dập tắt xung đột giai
cấp thì tổ chức ấy phải có khả năng chi phối được cả xã hội, khơng gì khác tổ chức
ấy chỉ có thể là Nhà Nước. Theo như Mác và Ănghen đã từng nói: đó là lực lượng

10


từ bên ngoài đặt vào xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội có nhiệm
vụ làm dịu bớt xung đột và giữ cho xung đột đó nằm trong vịng trật tự.
Khơng chỉ có chức năng quản lý lãnh thổ và trật tự xã hội mà Nhà Nước cịn
có chức năng kinh tế, cụ thể :
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà Nước đã trực tiếp dùng quyền lực của
mình để can thiệp vào việc phân phối của cải sản xuất.
Trong thời đại phong kiến, Nhà Nước bên cạnh việc tham gia vào quá trình
phân phối của cải mà còn đứng ra thành lập lực lượng nhân công xây dựng kết cấu
hạ tầng cho sản xuất nơng nghiệp, khuyến khích nhân dân đi mở đường các vùng
kinh tế mới, đề ra các chính sách về ruộng đất cho phù hợp với từng thời kỳ.
Trong thời đại tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế phát triển nhanh nên giai cấp tư
sản cần có sự hỗ trợ và giúp đỡ của Nhà Nước để quản lý chặt chẽ nền kinh tế.Với
vai trị của mình Nhà Nước đã đưa ra các hình thức chính sách nhằm mục đích
khơng cho tiền thốt ra ngồi như: khơng cho phép các tư thương nước ngoài mang
tiền ra khỏi nước họ và chỉ dược phép mang hàng vào. Trong ngoại thương, họ
dùng hàng rào thuế quan để đánh thuế nhập khẩu cao hơn thuế xuất khẩu. Mặt
khác, Nhà Nước hỗ trợ các phương tiện, vật chất và tài chính cho các thương nhân
khi họ tham gia bn bán quốc tế. Nhờ đó mà các nước tư bản có được một lượng
tiền lớn, của cải dồi dào dẫn đến lĩnh vực sản xuất phát triển. Ngành cơng nghiệp
phát triển, tạo ra nhiều máy móc thiết bị hiện đại, có kỹ thuật tiên tiến và yếu tố thất
nghiệp là hậu quả được đưa lên hàng đầu.
Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống kinh tế. Các
nhà kinh tế học cổ điển đã ủng hộ tự do cạnh tranh, mà tiêu biểu là nhà kinh tế học
người Anh - Adam Smith đã đưa ra thuyết bàn tay vơ hình và nguyên lý Nhà Nước
không can thiệp vào hoạt động của nề kinh tế. Đến những năm 30 của thế kỷ XX,
những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên và đã chứng tỏ bàn tay vơ
hình khơng thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển.

11


Bên cạnh đó trình độ sản xuất ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế thấy tầm
quan trọng của việc can thiệp vào quá trình hoạt động nền kinh tế của Nhà Nước.
Theo các nhà kinh tế học thì Nhà Nước điều tiết nền kinh tế và làm cho sản
xuất tăng lên kéo theo thu nhập cũng tăng lên, làm cho tiêu dùng tăng. Song
khuynh hướng tiêu dùng có giới hạn nên đến một thời điểm nào đó thì khuynh
hướng này sẽ giảm xuống và dẫn đến sự giảm sút về giá cả hàng hóa, làm cho tỷ
suất vay của các chủ doanh nghiệp sẽ khơng có lợi trong việc vay vốn để đầu tư. Và
như vậy họ sẽ không đầu tư kinh doanh nữa, nền kinh tế đi đến trì trệ, khủng hoảng,
làm cho nạn thất nghiệp ngày càng tăng. Muốn khắc phục tình trạng này thì Nhà
Nước can thiệp vào thị trường và mở ra các cuộc đầu tư lớn. Tuy nhiên nó cũng
khơng thể xố đi những hậu quả này mà nạn thất nghiệp còn xảy ra trầm trọng hơn,
do đó nền kinh tế hiện đại muốn phát triển phải dựa vào cả cơ chế thị trường cũng
như sự quản lý của Nhà Nước.
Nổi bật là quan điểm kinh tế hỗn hợp của nhà kinh tế học người Mỹ - Paul
Samuelra, ông cho rằng cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều
lĩnh vực, trong đó Chính phủ điều tiết kinh tế thị trường bằng các chương trình
thuế, chỉ tiêu, và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều có tính chất thiết
yếu.
3.1.2 Trong chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ngay từ khi nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng và Chính phủ
ln ln tìm cách duy trì và thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Nước ta tiền
thân là nước nông nghiệp nên cuộc sống của người dân là “con trâu đi trước cái cày
đi sau”, nhưng mấy năm trở lại đây nền kinh tế công nghiệp đang trên đà phát triển,
thương mại và kỹ thuật công nghệ đang từng bước mở rộng hơn.
Với vai trị và chức năng của mình, Nhà Nước đưa ra những chính sách phù
hợp để thu về lợi nhuận tối ưu cho nền kinh tế như: thuế nhập khẩu cao hơn thuế
xuất khẩu và đánh trực tiếp vào các mặt hàng xa xỉ, có giá trị cao, bên cạnh đó cho

12


phép các thương nhân nước ngoài kinh doanh nhưng dưới sự giám sát của Nhà
Nước. Trong du lịch, bằng việc đầu tư tu sửa, nâng cấp các khu du lịch, nghỉ mát,
danh lam thắng cảnh... Nhà Nước từ đó có một khoản thu nhập lớn để đầu tư và
phát triển mạnh khoa học kỹ thuật.
3.2 Vai trò của Nhà Nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam.
Qua gần 30 năm đổi mới, nước ta đã dần chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá,
tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai
trị quản lý của nhà nước có những bước chuyển biến lớn trong điều kiện kinh tế
thị trường, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị
trường.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách một nhiệm vụ
chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã
hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để xây dựng được
một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì cơng cụ, phương tiện cơ bản chỉ có
thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở
lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta tiếp tục đẩy mạnh
cải cách hành chính Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước khơng
ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển
kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững
chắc vào đời sống quốc tế.

13


Hai là, các nguồn lực do Nhà nước quản lý được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường.
Chính phủ có thể thơng qua hệ thống luật pháp và thông qua sự lựa chọn của
mình để tác động đến sản xuất. Đồng thời, thơng qua thuế và các khoản chuyển
nhượng để tác động đến khâu phân phối, từ đó tác động đến việc phân bổ các
nguồn lực của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Việt Nam trong những năm qua cho
thấy để phân bổ nguồn vốn hiệu quả thì khâu đột phá là giải quyết mối quan hệ
Nhà nước và thị trường. Cho dù sự phân bổ các nguồn lực thuộc về Nhà nước thì
cũng phải tơn trọng các ngun tắc của thị trường.
Với chủ trương phát triển đồng bộ và vững chắc thị trường tài chính, Nhà
nước đã sử dụng nhiều biện pháp tăng cường quản lý thị trường vốn, đảm bảo thị
trường này vận hành thống suốt, công khai và hiệu quả; nâng cao tính thanh khoản
và tạo được những thay đổi căn bản về thể chế, cấu trúc thị trường để tạo dựng nền
tảng tài chính vững mạnh, đảm đương được vai trò phân bổ nguồn lực xã hội hiệu
quả, đồng thời đảm bảo ổn định tài chính để phát triển bền vững.
Ba là, Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế
kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
Vai trị kinh tế của nhà nước là hướng tới mục tiêu chung, làm cho dân giàu,
nước mạnh, tăng trưởng ổn định và công bằng xã hội. Sự định hướng nền kinh tế
của nhà nước được thực hiện thông qua việc nhà nước xây dựng quy hoạch, chiến
lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Mặt khác, nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi như: hệ thống luật pháp đồng
bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; hệ thống các văn bản hướng dẫn,
các định chế, các chính sách phát triển kinh tế …để các chủ thể kinh tế giảm thiểu
rủi ro, tranh chấp. Nhà nước đã xây dựng hệ thống pháp lý để chống lại gian lận
bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá
sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các

14


ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách
nghiêm ngặt.
Đồng thời, Nhà nước sử dụng công cụ chiến lược, kế hoạch, luật pháp và
chính sách làm căn cứ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát, đánh giá đối với nền
kinh tế để điều tiết các hành vi ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, Nhà nước sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và cơng cụ, cơ chế,
chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bên cạnh
sự phát triển tất yếu của xã hội xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng.
Do vậy, nhà nước cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm
hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội. Nhà nước thực hiện phân phối thu
nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện
đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ rệt nhất
tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Về vấn đề thu nhập, Nhà nước sử dụng hai biện pháp là: Điều tiết tăng thu
nhập được thực hiện thông qua trợ cấp, ưu đãi đối với người có cơng với cách
mạng; chính sách đối với người già, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật;
điều tiết giảm thu nhập được thực hiện thông qua công cụ thuế: như thuế thu nhập
cá nhân; thuế thu nhập doanh nghiệp; mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ
góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập trong xã hội.
Về vấn đề an sinh xã hội, Nhà nước có vai trị quyết định trong việc nâng cao
phúc lợi cơng cộng, xố đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức khoẻ, bảo
hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn là những vấn đề rất cần đến sự quan
tâm của Nhà nước.


15


Tóm lại, Nhà nước có vai trị to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho
phát triển và tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự cân đối, hài hịa các quan hệ nhu cầu,
lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục
tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định
và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm
nhiệm là điều kiện tiên quyết để hình thành sự đồng thuận đó. Việc tăng cường
quản lý vĩ mô sẽ nâng cao hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

CHƯƠNG 4. CÁC BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI, TĂNG CƯỜNG VAI
TRÒ NHÀ NƯỚC VỚI NỀN KINH TẾ ĐỊNH HƯỚNG XHCNVN
Nền kinh tế nước ta đang có những bước chuyển biến tích cực, bước đầu đã có
sự hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà Nước. Nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động
tốt hơn, tốc độ lạm phát được kiềm chế, đầu tư của nước ngoài vào trong nước gia
tăng nhanh chóng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao... Tuy
nhiên kết quả mà cơng cuộc đổi mới đem lại thì khơng được như ý, cịn hạn chế và
chưa vững chắc, nguyên nhân là do những thiếu sót chủ quan và những tác động
bất lợi của yếu tố khách quan. Bên cạnh những nhân tố tích cực được phát huy thì
tình hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cán bộ quản lý chưa
theo kịp và còn nhiều lúng túng.
Trước tình hình khó khăn và phức tạp đó, Nhà Nước cần phải sử dụng những
cơng cụ gì và có những biện pháp gì để nâng cao hiệu lực quản lý, phát huy được
vai trị của mình trong việc ổn định nền kinh tế, đưa đất nước vượt qua mọi khó
khăn, thử thách.
16



4.1 Các công cụ quản lý kinh tế của Nhà Nước.
Để đạt được mục tiêu và thực hiện những chức năng của mình Nhà Nước phải
sử dụng những cơng cụ sau:
a- Pháp luật.
Luật pháp tạo ra một hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động
trong an toàn và trong trật tự. Sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu khách quan
bắt nguồn từ chính những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị
trường. Nhìn chung hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay còn chưa đầy đủ và chưa
đồng bộ, do đó Nhà Nước cần ban hành sớm các bộ luật cần thiết để làm nền tảng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống pháp luật phải đảm bảo kinh tế ổn
định và phát triển bảo vệ lợi ích của cơng dân, đảm bảo cơng bằng xã hội. Đó là
một hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, khoa học rất quan trọng, địi hỏi phải
được thực hiện cơng minh, bảo đảm sự bình đẳng hồn tồn của mọi cơng dân
trước pháp luật.
b- Kế hoạch hố nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Kế hoạch hố là q trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách
quan, trước hết là quy luật kinh tế mà trong đó có các quy luật của thị trường để
xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội, là cơng cụ chủ yếu của quản lý
kinh tế, nó phải xuất phát từ thị trường và đặc biệt chú ý đến việc phân tích các yếu
tố ảnh hưởng tới mức cung cầu. Kế hoạch hố chủ yếu là những thơng tin và chỉ
tiêu hướng dẫn để các nhà doanh nghiệp có một cách nhìn dài hạn về nền kinh tế,
đồng thời nó thúc đẩy nhanh chóng q trình phân cơng lao động, tạo điều kiện vật
chất cho sự vận động của thị trường, tạo điều kiện để cung cầu gặp nhau.
Trong nền kinh tế cần phân biệt rõ: kế hoạch kinh tế xã hội và kế hoạch kinh
doanh.

17



- Về kinh tế xã hội: đó là kế hoạch có định hướng, nó định hướng cho Nhà
Nước xây dựng nhằm cân đối toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kế hoạch này tạo ra
môi trường cho sản xuất kinh doanh, thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công
bằng và tiến bộ xã hội. Nó khơng hồn tồn phụ thuộc vào thị trường mà có thể
điều tiết thị trường.
- Về kinh doanh: đó là kế hoạch hành động, làm ăn, mua bán do các doanh
nghiệp xây dựng và quyết định dựa theo kế hoạch Nhà Nước và thị trường. Kế
hoạch này phải đạt mục tiêu vừa thoả mãn nhu cầu xã hội vừa thu lợi nhuận tối đa
và gắn chặt với thị trường, coi thị trường là mệnh lệnh đối tượng của kế hoạch.
Cả hai hình thức kế hoạch này đều có mối liên hệ với nhau: giữa chủ quan với
khách quan.
c- Chính sách tài chính.
Chính sách tài chính chủ yếu thể hiện ở hai nội dung: thu và chi của Chính
phủ, do đó mà nó tác động vào tổng cung, tổng cầu, sản lượng, giá cả, và việc làm.
Chính sách tài chính được áp dụng để giảm hoặc thốt khỏi suy thối kinh tế
thì được gọi là chính sách tài chính mở rộng. Chính sách này tác động thơng qua
hai con đường: tăng chi tiêu Chính phủ để tăng tổng cầu hoặc giảm thuế để kích
thích tiêu dùng và đầu tư.
- Về tăng chi tiêu của Chính phủ, Nhà Nước cần ưu cho các khoản đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng, cấp phát cho sự nghiệp hoạt động kinh tế, chi cho các hoạt
động thông tin dự báo, tạo môi trường hoạt động thuận lội cho các doanh nghiệp,
đẩy mạnh sản xuất hàng hố cơng cộng, tăng đơn đặt hàng mua và những khoản chi
khác, như vậy sẽ làm tăng tổng cầu và qua đó tác động, kích thích làm tăng tổng
cung, do đó giải quyết được vấn đề suy thoái và thất nghiệp.
- Về đầu tư và giảm thuế, như chúng ta đã biết thuế là nguồn thu chủ yếu cho
ngân sách Nhà Nước của bất cứ quốc gia nào. Trong các công cụ kinh tế mà Nhà
Nước sử dụng để quản lý nền kinh tế xã hội thì thuế có vai trị rất quan trọng. Nếu
18



chính sách thuế ban hành thì nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ổn định và lâu
dài, ngược lại nếu một chính sách thuế khơng phù hợp sẽ gây trở ngại lớn cho nền
kinh tế, thậm chí có thể gây nên khủng hoảng kinh tế và rối loạn chính trị. Hiện nay
khi việc giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng trên phạm vi tồn thế giới thì phương
hướng chung để sửa đổi hồn thiện chính sách thuế là mở rộng diện tích đánh thuế
và hạ bớt mức thuế, thu hẹp độ chênh lệch giữa các mức thuế. Việc làm này sẽ kích
thích tiêu dùng và khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sản xuất và kinh
doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thiết yếu nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của
nhân dân. Đồng thời động viên các doanh nghiệp đầu tư vốn vào các dự án để mở
rộng và phát triển sản xuất, động viên các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh
doanh cả ở những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội không thuận lợi. Như
vậy sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện giải quyết việc làm trong nước.
Khi chính sách tài chính được áp dụng để giảm lạm phát thì được gọi là chính
sách tài chính thắt chặt. Nó tác động đến các biến cố của nền kinh tế vĩ mô thông
qua hai con đường: giảm chi tiêu Chính phủ hoặc tăng thuế.
- Giảm chi tiêu của Chính phủ như: giảm chi tiêu cho các hoạt động đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng, cấp phát sự nghiệp hoạt động kinh tế... dẫn đến giảm cung
cầu của xã hội, bình ổn vận giá và hạn chế được lạm phát.
- Tăng thuế dẫn đến làm giảm thu nhập, giảm tiêu dùng, đầu tư dẫn đến giảm
nhu cầu xã hội và làm cho giá cả đi vào ổn định, hạn chế được lạm phát.
Ngồi những cơng cụ đã nêu trên thì Nhà Nước cịn có thể sử dụng nhiều cơng
cụ khác như chính sách: tiền tệ, tiền lương, bảo hiểm, kinh tế đối ngoại, dự trữ quốc
gia...
4.2. Các biện pháp đổi mới tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước với
nền kinh tế vĩ mô ở nước ta.
Vào giai đoạn hiện nay, việc tăng cường hơn nữa vai trò quản lý của Nhà
Nước trong nền kinh tế thị trường ngày càng cấp thiết và khơng cịn cách nào khác
19



là phải thúc đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà
Nước.
a- Đổi mới và bổ sung hệ thống pháp luật.
Tiếp tục đổi mới và bổ sung hệ thống pháp luật, nhất là luật kinh tế và luật bảo
vệ môi trường. Tăng cường kỹ thuật trong việc chấp hành chính sách, chế độ của
Nhà Nước. Bảo đảm tính hệ thống của luật pháp và các văn bản dưới luật. Phát
triển các hình thức dịch vụ pháp lý, phổ thơng cập luật cho tồn dân - kiện toàn bộ
máy kiểm tra việc thi hành pháp luật, nghiên cứu thành lập toà án kinh tế.
b- Đổi mới và nâng cao chất lượng kế hoạch.
Công bố kế hoạch hố qua thời gian đổi mới đã có một số bước tiến bộ :
chuyển từ kế hoạch hoá pháp lệnh sang kế hoạch hoá định hướng. Cần tiếp tục đổi
mới nâng cao kế hoạch, xác định những cân đối lớn hướng dẫn hoạt động của các
thành phần kinh tế lấy thị trường làm đối tượng chính và căn cứ quan trọng. Sử
dụng mục tiêu chính sách đầu tư tín dụng...để tạo điều kiện và hướng dẫn sự phát
triển của các thành phần kinh tế, nâng cao trình độ dự báo kinh tế - xã hội trong
công tác kế hoạch.
c- Đổi mới ngân sách.
Lĩnh vực tài chính tiền tệ thời gian qua đã có một bước đổi mới nhưng nhìn
chung còn yếu kém, đáng chú ý là hiện tượng thất thu thuế và bội chi ngân sách còn
lớn. Nhà Nước hầu như thả nổi phân phối thu nhập, các xí nghiệp quốc doanh,
trong khi đó ngân hàng chưa trở thành trung tâm thanh tốn và tín dụng của xã hội.
Vì thế cần đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ, xây dựng chính sách tài chính quốc
gia và thực hiện hệ thống cải cách tài chính theo hướng khai thác tiềm năng của các
tầng lớp dân cư để phát triển kinh tế, nâng cao nguồn thu cho ngân sách, tìm biện
pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện phân phối hợp lý và giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, đảm bảo cơng bằng xã hội và góp phần
hạn chế đẩy lùi lạm phát. Đổi mới ngân sách là phải xây dựng một ngân sách Nhà
20



Nước lành mạnh, không bao cấp và ỷ lại vào viện trợ nước ngoài. Đồng thời ngân
sách Nhà Nước phải hạch toán theo nguyên tắc ngang giá, thu chi ngân sách hợp lý.
d- Nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ - tín dụng.
Nhà Nước nên nhanh chóng tổ chức ngân hàng đủ mạnh, có khả năng thực
hiện tốt nghiệp vụ trong cơ chế thị trường. Ngân hàng Nhà Nước làm đúng chức
năng quản lý đồng tiền của mình và giữ tính độc lập tương đối tốt trong quá trình
phát hành tiền. Phát huy mạnh mẽ vai trị quan địn bẩy và cơng cụ điều tiết vĩ mơ
của chính sách tiền tệ tín dụng. Kiên trì thực hiện những nguyên tắc cơ bản của tín
dụng ngân hàng, thúc đẩy nâng cao tính tự chủ tài chính của xí nghiệp để hiện đại
hố và hiệu quả hố các xí nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
e- Nâng cao vai trò kinh tế quốc doanh. Kinh tế tập thể để có thể làm chủ
được các lĩnh vực then chốt để từ đó điều chỉnh nền kinh tế qua hệ thống này, thơng
qua tổng cung và tổng cầu.
g- Thực hiện tốt chính sách kinh tế đối ngoại.
Mở rộng hợp tác với các nước trên thế giới và trong khu vực, tạo ra mơi
trường quan hệ giao lưu trao đổi về văn hố, khoa học, thương mại để hoà nhập nền
kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
h- Tiếp tục phân định rạch rịi chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với
kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước cần làm tốt
chức năng hỗ trợ cho tồn xã hội sản xuất hàng hóa công cũng như tư; đặc biệt là
kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội…
i- Tích cực đấu tranh chống các hành vi độc đoán, chuyên quyền, tệ quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu
dài đó sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập tồn cầu hiện nay.
21



4.3. Bài học thực tiễn kinh nghiệm của Việt Nam rút ra từ các nước
trong khu vực
a) Đào tạo và thu hút nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế
dựa vào tri thức.
Đào tạo và thu hút nguồn nhân lực ln được xem là tiêu chí hàng đầu nhằm
phát triển đất nước của mỗi quốc gia. Các chính sách phát triển xã hội học tập suốt
đời và cải cách giáo dục phổ thông cần được cân nhắc.
Trong thế kỷ XXI với các điều kiện kinh tế, xã hội và cơng nghệ thay đổi
nhanh chóng, học sinh cần được trang bị kiến thức chung và kỹ năng nghề nghiệp
sâu trong một số chuyên môn nhất định.
- Cần tính tốn làm sao để giảm thiểu tối đa các chi phí học tập, đặc biệt là ở
các cấp tiểu học và trung học để động viên 100% số trẻ em trong độ tuổi được cắp
sách đến trường. Trong điều kiện thu nhập của người dân cịn thấp thì chính phủ
phải đầu tư tối đa ngân sách cho cấp học này.
- Cải cách quá trình học theo hướng giúp học sinh phát triển được đầy đủ hơn
để đáp ứng được những thay đổi nhanh trong xã hội.
- Xây dựng mô hình học tập trong đó học sinh làm chủ q trình học thay thế
cho mơ hình giáo viên trung tâm trước đây. mục tiêu phát triển năng lực cá nhân và
khả năng tự học của mỗi học sinh được đề cao.
- Cải cách quá trình giảng dạy và đội ngũ giáo viên. Trọng tâm của cuộc cải
cách này là vai trị người thầy giáo phải được chuyển từ vị trí người "độc thoại",
giảng bài liên tục trong thời gian trên lớp thành người hướng dẫn học sinh biết cách
khai thác bài, còn người học phải tự học và khai thác bài cho mình. Tiêu chí này
hiện tại các trường ĐH tại VN áp dụng khá hiệu quả.
- Cải cách quản lý giáo dục theo hướng phi tập trung hoá. Bên cạnh việc thực
hiện các cuộc cải cách quá trình học và dạy, tiến hành đổi mới hệ thống quản lý
giáo dục theo hướng nâng cao trách nhiệm của nhà trường và địa phương. Để
22



chương trình học trở nên sát với thực tiễn hơn, các cộng đồng dân cư có quyền
được tham gia vào việc xây dựng chương trình học cho HS, SV.
b) Nhấn mạnh phát triển khoa học và công nghệ và đổi mới doanh nghiệp
Một trong những hướng nền tảng cho định hướng phát triển nền kinh tế tri
thức là phát triển khoa học và cơng nghệ được chính phủ Đài Loan rất chú trọng,
mà chúng ta có thể dùng để làm bài học kinh nghiệm cho mình.
- Chú trọng đến nguồn đầu tư dành cho nghiên cứu và triển khai này. Ở Đài
Loan, thường được huy động từ chính phủ, doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp tư nhân. Cũng như nhiều nước có nền cơng nghiệp phát triển, phần đóng
góp từ nguồn tư nhân là đặc biệt quan trọng, chiếm tỷ trọng gần một nửa.
- Tăng cường lực lượng cán bộ nghiên cứu lên ngang tầm các nước công
nghiệp phát triển và lựa chọn các lĩnh vực trọng điểm thích hợp như công nghệ sinh
học, chế tạo vật liệu mới, điện tử viễn thơng.
- Chính phủ cũng tăng cường bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát
triển với mục tiêu là phát triển và hồn thiện các cơng nghệ được du nhập từ nước
ngoài và thành lập các cơ quan quản lý, các viện nghiên cứu để phổ biến, khai thác
và hướng dẫn chuyển giao công nghệ. Nhằm phân loại tính chất cơng nghệ và đặc
điểm các kênh chuyển giao để tránh nhập những “công nghệ rác”, mà đi thẳng vào
công nghệ hiện đại, công nghệ cao, tạo ra những ngành cơng nghiệp mới có giá trị
gia tăng cao, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia của họ.
- Thúc đẩy sự phát triển và khả năng sáng tạo từ các sinh viên ở trường ĐH,
tạo thêm nhiều sân chơi thực tiễn giúp các SV có mơi trường được học hỏi và trau
dồi kinh nghiệm.
- Chính từ sự đầu tư nhấn mạnh trong phát triển khoa học và công nghệ là đòn
bẩy mạnh mẽ giúp các doanh nghiệp ngành điện tử, hóa chất,…trong nước có tiềm
năng đổi mới. Và thực tế Đài Loan đã chứng minh được điều này khi họ chiếm
được thị phần máy tính quan trọng trên thị trường Mỹ.
23



c) Nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng sản xuất nông nghiệp tăng thu
nhập thực tế của người dân nơng thơn.
Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nơng nghiệp, tuy nhiên
vẫn cịn nhiều bất cập trong việc quản lý hiệu quả, chất lượng sản xuất nông nghiệp
dẫn đến phần lớn người nông dân vẫn chưa cải thiện nhiều về điều kiện sống, cũng
như trong việc được tiếp cận với những phương pháp nuôi trồng, máy móc với
cơng nghệ hiện đại, vì vậy năng suất chưa cao và chủ yếu là phải dùng sức lao
động.
- Cần chú trọng hơn nữa đến khâu tạo việc làm ổn định cho lực lượng lao động
ở nông thôn bằng cách lập các xí nghiệp chế biến nơng sản, xí nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng xuất khẩu tại các khu vực ngoại thành, nhằm cải thiện điều kiện sống tốt
hơn.
- Thành lập các trang trại nông nghiệp tập trung chuyên mơn hóa sản xuất cây
trồng và vật ni theo vùng, với quy trình khép kín. Sẽ cho ra năng suất cao và chất
lượng tốt dẫn đến đáp ứng được các tiêu chuẩn xuất khẩu.
- Nhà nước ta cần có nhiều chính sách phát triển nơng nghiệp cụ thể và ổn
định hơn mới kích thích được tinh thần hăng hái sản xuất của người nơng dân, giảm
bớt tình trạng nơng dân ào ạt đổ ra thành thị kiếm việc làm trong khi nơng nghiệp
vẫn cịn nhiều lĩnh vực cần đầu tư sản xuất.
d) Những ngành công nghiệp truyền thống mà Việt Nam đang chú trọng phát
triển cần được lựa chọn, cân nhắc trong dài hạn.
- Những ngành công nghiệp Việt Nam đang xây dựng và phát triển đều là
những ngành công nghiệp truyền thống như luyện kim, hoá dầu, dệt may, giày dép,
vv... Nghĩa là những ngành công nghiệp tiêu hao nhiều nguyên vật liệu, năng
lượng, gây ô nhiễm môi trường, giá trị thặng dư thấp, ... đang được các nước phát
triển và cả Trung Quốc muốn chuyển giao sang các nước lạc hậu, chủ yếu để tận
dụng nguồn nhân lực giá rẻ, kỹ năng thấp.
24



- Nếu Việt Nam tiếp nhận tất cả những ngành này, thì chỉ sau một thời gian,
kinh tế Việt Nam sẽ vấp phải những thách thức do giá nguyên nhiên vật liệu cao,
môi trường ô nhiễm, bệnh tật, tai nạn lao động,...
- Vấn đề đặt ra là trong điều kiện đó Việt Nam cần có sự tính tốn, cân nhắc
thận trọng, tiếp nhận những ngành công nghiệp truyền thống nào, không tiếp nhận
những loại công nghệ nào và mức độ phát triển những ngành này đến đâu là phù
hợp.
- Thực tế của Hàn Quốc cho ta thấy khi tiếp nhận, xây dựng, phát triển một
ngành cơng nghiệp phải tính cho một thời hạn dài, cân nhắc cả những mặt tích cực
và tiêu cực, và khi hết hạn sử dụng thì sẽ phải chuyển đổi thế nào. Nếu khơng có sự
tính tốn, tiên liệu đầy đủ, thì có thể nền kinh tế sẽ gánh chịu những hậu quả khó
lường.
e) Tích cực thu hút đầu tư nước ngồi
Tích cực thu hút đầu tư nước ngoài là nhu cầu cấp bách đối với Việt Nam
nhằm nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật và đổi mới công nghệ của các ngành sản xuất
nội địa.
- Nhìn chung, các nhà đầu tư nước ngồi đều cho rằng, Luật Đầu tư nước
ngoài của Việt Nam là khá thơng thống, hấp dẫn. Tuy nhiên, do nhiều lý do nên
trong quá trình thực hiện, Luật Đầu tư đã không phát huy hết hiệu quả và ưu thế,
làm hạn chế không nhỏ đến khối lượng, quy mô và tiến bộ đầu tư của các doanh
nghiệp nước ngoài.
- Hiện tại, Việt Nam đang tích cực thực hiện chế độ "một cửa" trong khâu xét
duyệt, cấp giấy phép cho các hạng mục đầu tư, tạo thuận lợi và củng cố lòng tin
cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
- Trong quá trình thu hút đầu tư, cần chú ý đến việc xây dựng các khu chế xuất
thế nào cho hiệu quả. Không thể tuỳ tiện xây dựng một cách vô nguyên tắc, khơng
tính đến hoặc bỏ qua một số u cầu tất yếu mà một khu chế xuất cần phải có.
25



×