Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tập kết thúc học phần để thực hiện được sứ mệnh góp phần phát triển xã hội, giáo dục đại học cần được đảm bảo những yêu cầu nào việc thực hiện các yêu cầu đó ở việt nam có thể gặp những trở ngại gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.13 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÀI ĐÁNH GIÁ HẾT HỌC PHẦN

Phần I: Kiến thức về chính trị, về quản lý nhà nước
và các kỹ năng chung
Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh
Giảng viên chính - hạng II

- Họ và tên: Nguyễn Thị Quỳnh Anh
- Ngày sinh: 29/04/1989
- Nơi sinh: Thái Nguyên
- Đơn vị công tác: Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên

Thái Nguyên, năm 2020


Câu 1: Để thực hiện được sứ mệnh góp phần phát triển xã hội, Giáo dục
Đại học cần được đảm bảo những yêu cầu nào? Việc thực hiện các yêu
cầu đó ở Việt Nam có thể gặp những trở ngại gì? Hãy nêu hướng khắc
phục các trở ngại đó.
Trả lời:
 Các yêu cầu cần đảm bảo trong Giáo dục Đại học

Giáo dục Đại học được coi là một trong những nền tảng giáo dục ở mức
độ cao. Chúng thường xuyên được thực hiện và diễn ra ở các trường đại học,
trường cao đẳng, học viện và viện công nghệ. Trong đó cịn bao gồm tất cả
các hoạt động bậc sau trung học phổ thông như cao đẳng, đại học và sau đại
học. Giáo dục Đại học được coi là một trong những nhiệm vụ cần thiết và
quan trọng. Đào tạo các thế hệ trẻ sau này trở thành những người có ích cho


xã hội và đất nước.
Để thực hiện được sứ mệnh góp phần phát triển xã hội, Giáo dục Đại
học cần được đảm bảo các yêu cầu sau:


- Giáo dục Đại học cần chuyển từ trang bị kiến thức đơn thuần sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành; lý luận
gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội.
- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy
luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số
lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số
lượng.
- Xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt, liên thơng giữa các bậc học,
trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo,
đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát
triển đất nước.


 Các trở ngại trong Giáo dục Đại học

Thứ nhất, tư duy quản lý giáo dục. Sau một thời gian đổi mới, tư tưởng
bao cấp, duy ý chí, quản trị theo cảm tính vẫn cịn tàn dư, Bộ Giáo dục và
Đào tạo hiện nay vẫn còn chưa làm đúng chức năng quản lý nhà nước giáo
dục đại học mà lấn sang chức năng thừa hành giáo dục.
Thứ hai, chưa có các cơ quan, tổ chức trung gian làm việc độc lập với
các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Trong nhiều năm qua, giáo dục và
đào tạo Việt Nam gặp khó khăn nhiều nhất trong việc đánh giá và kiểm tra do
chúng ta thiếu hẳn một tổ chức trung gian để có các ý kiến phản biện, kịp thời

chấn chỉnh cũng như góp ý thực sự mang tính khoa học, có tác dụng tư vấn,
khuyến nghị cho các dự thảo cải cách giáo dục. Chúng ta hiện nay vẫn trung
thành với cách đánh giá truyền thống, nêu thành tích, ít tìm ra ngun nhân
tồn tại của chính mình.


Thứ ba, cơ chế tự chủ còn nhiều bất cập. Về phía các trường, vẫn cịn
nhiều thói quen trơng chờ bao cấp từ phía nhà nước. Về phía các nhà quản lý
nhà nước thì cịn e ngại, chưa dứt khốt trao quyền tự chủ nói chung và tự
chủ tài chính nói riêng cho các trường đại học…
Thứ tư, chương trình và giáo trình giảng dạy chưa được tiêu chuẩn hóa
và công nhận trên phạm vi quốc tế. Chưa tạo được sự liên thông giữa các
chuẩn mực giáo dục đại học trong nước và quốc tế, ít thừa nhận và tiếp nhận
các kết quả đào tạo của nhau, nên người học rất khó khăn khi chuyển trường,
ngành học. Việc liên thơng kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học trong
nước và ngồi nước lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu,
nội dung và phương pháp đào tạo giữa các cơ sở giáo dục đại học.
Thứ năm, hạn chế về khả năng nghiên cứu và công bố các kết quả
nghiên cứu trên các ấn phẩm khoa học quốc tế.
 Một số biện giải pháp phát triển Giáo dục Đại học


Thứ nhất, xây dựng triết lý giáo dục cho nền giáo dục nước nhà trong
giai đoạn hiện nay, đồng thời mỗi trường đại học, mỗi cơ sở giáo dục cũng
cần có triết lý giáo dục riêng phù hợp với tơn chỉ, mục đích và hướng tới hội
nhập vào dịng chảy phát triển chung của giáo dục quốc tế.
Thứ hai, phải thay đổi một cách căn bản hệ thống đánh giá từ kiểm tra
kiến thức sang đánh giá năng lực
Thứ ba, việc xây dựng các chương trình giảng dạy phải có chuẩn đầu ra.
Chuẩn đầu ra ở đây là phải lấy thực tế khách quan và yêu cầu của xã hội

làm căn cứ, chứ không không phải là “chuẩn” nhưng do nhà trường tự quy
định như nhiều cơ sở đào tạo đang làm. Như vậy chuẩn đầu ra phải hiểu là
đáp ứng nhu cầu rất đa dạng cả về chủng loại và chất lượng.
Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy
học theo hướng hội nhập quốc tế. Nội dung chương trình và giáo trình cần
được tổ chức xây dựng và triển khai theo hướng mở, nội dung giảng dạy phải


gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học
đang theo đuổi. Về phương pháp, cho phép sử dụng đa dạng các phương pháp
dạy học theo nguyên tắc “lấy người học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ
giảng trên lớp để người học có thời gian tự học và tự nghiên cứu. Các cơ sở
đào tạo cần thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, đánh giá khách quan, chặt
chẽ để bảo đảm tính hiệu quả của việc dạy và học.
Đổi mới vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong tổ chức giáo dục
đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Tăng cường các hoạt động nghiên
cứu và công bố quốc tế, tiến tới quốc tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học
và các hoạt động về chuyên môn tại các cơ sở giáo dục đại học.
Thứ năm, để có thể tiến hành đổi mới một cách căn bản thì giải pháp
phải đồng bộ và tồn diện. Trước hết là những đổi mới về cơ chế, chính sách.
Trong hồn cảnh khó khăn hiện nay của đất nước, có chính sách phân phối
nguồn lực cho hợp lý. Trong quá trình này, đầu tư tập trung và đầu tư hiệu


quả được coi là ưu tiên. Cần chấm dứt việc đầu tư giàn trải và kém hiệu quả
như hiện nay. Ngồi những cơ chế chính sách về tài chính, phải đổi mới hàng
loạt các cơ chế chính sách khác có liên quan đến giáo dục, đào tạo, sao cho
thực sự là quốc sách hàng đầu.
Thứ sáu, việc đổi mới tư duy giáo dục hiện nay cần “gắn với xây dựng
xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; hệ thống giáo dục

được chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế;
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc.


Câu 2: Nêu một số kỹ năng chủ yếu của giảng viên đại học trong bối
cảnh hội nhập giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn hiện nay. Theo
anh/chị, trong những kĩ năng đó, kĩ năng nào là kĩ năng then chốt? Vì
sao?
Trả lời:
Giáo dục đại học Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi để tìm ra
con đường phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong nước và hội
nhập quốc tế. Một trong những vấn đề mấu chốt của quá trình này là phát
triển đội ngũ giảng viên của các trường đại học. Đội ngũ giảng viên đóng vai
trị quyết định đến chất lượng giáo dục đại học. Để có thể đạt được mục tiêu
đó, đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải là những người có trình độ chun mơn
cao và kỹ năng nghề nghiệp tốt. Cụ thể, người giảng viên cần có những kĩ
năng chủ yếu sau:
1. Nhóm kỹ năng giảng dạy
Kỹ năng truyền đạt và tương tác với sinh viên trong quá trình dạy
học


Giáo viên trước tiên phải là người có khả năng tương tác tích cực với
học sinh. Chính vì vậy, ngồi việc chú trọng rèn luyện phương pháp dạy học,
giáo viên cần có khả năng truyền đạt, có kỹ năng tổ chức những hoạt động
tương tác với học sinh, có kỹ năng sáng tạo trong phương pháp giảng dạy, kỹ
năng quản lý nhóm, hướng dẫn hoạt động nhóm... đồng thời với chất lượng
giảng dạy kiến thức môn chuyên ngành. Vốn kiến thức liên ngành, vốn kiến
thức văn hóa xã hội, khả năng tương tác, đối thoại với học sinh, nắm bắt tâm
lý lứa tuổi, phân loại đối tượng giáo dục phù hợp, hiểu nguyên tắc giáo dục...

là những vấn đề bắt buộc người giảng viên phải hiểu và nắm vững.
Kĩ năng nêu và giải quyết vấn đề trong dạy học
Giải quyết vấn đề có một vai trị quan trọng trong việc học thực hành.
Người học sử dụng các nguồn thông tin, các phương tiện, thiết bị thực hành,
các khái niệm và các nhận định khái quát trong tiến trình tìm ra phương án
cho vấn đề nghiên cứu, đi đến quyết định phương án thực hiện.


Trong cuộc sống nói chung và trong dạy học nói riêng suy đến cùng, đó
là một chuỗi liên tục các vấn đề và giải quyết vấn đề. “Vấn đề được nêu ra
sau đó được giải quyết, một vấn đề khác lại nẩy sinh, vấn đề lại được giải
quyết cứ như thế lặp đi lặp lại”. Nêu và giải quyết các vấn đề trong dạy –
học đặc biệt là trong các bài học ở nhà trường cũng nên xem như giải quyết
các vấn đề của cuộc sống. Đặc biệt hơn là trong dạy học, người giảng viên
biết dẫn đắt người học vào tình huống có vấn đề và nêu vấn đề một cách rõ
ràng, cụ thể, sau đó tổ chức cho người học hướng giải quyết vấn đề.
Đây là một trong những biện pháp dạy học đem lại hiệu quả cao. Để làm
được điều đó, giảng viên cần phải ln tự rèn luyện và bồi dưỡng kĩ năng nêu
và giải quyết vấn đề trong dạy học.
Kỹ năng sử dụng phương tiện giảng dạy
Phương tiện dạy học vừa điều khiển được hoạt động nhận thức một cách
sinh động vừa là nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ


năng. Với người dạy, phương tiện dạy học lại là chất xúc tác để làm cho bài
giảng sâu sắc hơn, tinh giản mà đầy đủ. Ít ai biết rằng, nó còn “âm thầm” làm
cho kiểm tra, đánh giá kết quả học tập có hiệu quả hơn. Nhìn xa thêm, các
phương tiện đó cịn bồi đắp trong học sinh các phẩm chất cần thiết như: lịng
kiên trì, ý thức tự giác, tính tích cực, óc thẩm mỹ…
Căn cứ vào mục đích nghiệp vụ, nội dung và hình thức bài học để lựa

chọn phương tiện tương ứng, đưa ra phương pháp phù hợp cho việc sử dụng
mỗi loại phương tiện.
Đặc biệt, ngày nay việc sử dụng phương tiện dạy học thông qua cơng
nghệ thơng tin ngày càng cho thấy hiệu quả vì đây là kho tàng thơng tin vơ
tận có thể sử dụng trong dạy học. Việc khai thác thông tin, kiến thức trên
internet đòi hỏi người giảng viên phải được trang bị những kiến thức, kĩ năng
và những điều kiện nhất định. Trong thời đại công nghệ hiện nay, việc học
của sinh viên cũng đã có nhiều thay đổi. Thói quen học thuộc một cách thụ


động nhường chỗ cho việc tự tìm tịi, khám phá. Việc học và chơi ngày càng
được gắn với máy vi tính nhiều hơn, thu hút các em nhiều hơn vào việc tìm
tịi, khám phá.
2. Kĩ năng đánh giá
Kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của sinh viên là một khâu quan
trọng trong quá trình dạy học ở bậc Đại học. Việc đổi mới phương pháp giảng
dạy phải gắn liền với việc đổi mới phương pháp đánh giá kiến thức và kĩ
năng của sinh viên. Đây là hai mặt của một vấn để không thể tách rời được,
muốn đổi mói phương pháp dạy học cần đổi mới phương pháp kiểm tra đánh siá. Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên không chỉ bao
hàm mục đích tạo ra động cơ học tập và định hướng phát triển của họ mà cịn
góp phần cải tiến chất lượng giảng dạy của giáo viên. Đây là những thông tin
phản hồi ngược làm cơ sở cho việc điều chỉnh phương pháp dạy học của giáo
viên. Việc kiểm tra đánh giá địi hỏi phải chính xác và khách quan.


Kỹ năng đánh giá được thể hiện thông qua việc xây dựng tiêu chí kiểm
tra đánh giá, thơng qua hệ thống các câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ về nhà cho
sinh viên.
3. Nhóm kĩ năng tự học và nghiên cứu khoa học
Kĩ năng tự học

Tự học cần được xem là một phẩm chất quan trọng của giảng viên, cùng
với sự phát triển của cơng nghệ thơng tin, việc học có thể được phân tán theo
từng cá nhân ở các địa điểm khác nhau. Không nhất thiết người học phải gặp
mặt thầy trực tiếp, hàng ngày. Nội dung dạy học có thể được chuyển tải trên
tất cả các phương tiện công nghệ thơng tin. Người học có thể tiếp cận thơng
tin ở bất kỳ nơi nào (mọi nơi, mọi lúc). Lúc ấy, kĩ năng tự học của người học
càng trở nên hết sức quan trọng, họ sẽ ý thức cao hơn về vấn đề mình đang
tìm hiểu, đang khám phá và lĩnh hội. Những kĩ năng đó được bắt đầu từ gia


đình, từ thực tiễn cuộc sống xã hội, từ trong các nhà trường và đặc biệt những
kĩ năng tự học, tự nghiên cứu được bắt nguồn từ các thầy cô giáo.
Do đó kĩ năng tự học, tự nghiên cứu là rất quan trọng và cần thiết của
mỗi người giảng viên trong các cơ sở đào tạo. Trên cơ sở kĩ năng tự học, tự
nghiên cứu, người giảng viên truyền thụ, hướng dẫn cho sinh viên tự học, tự
rèn luyện mình trong q trình học tập, như vậy sẽ góp phần vào việc nâng
cao hiệu quả và chất lượng dạy học và đặc biệt là trong đào tạo theo hệ thống
tín chỉ của nhà trường.
Kĩ năng nghiên cứu khoa học
Để hiện thực hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ, các trường đại học phải tổ chức, huy động nhiều
lực lượng, trong đó đội ngũ giảng dạy trẻ được coi là đội ngũ nguồn kế cận,
tương lai, đây là lực lượng hội tụ đầy đủ tố chất về trình độ, phẩm chất và
năng lực, đặc biệt được đào tạo cơ bản, luôn phát huy tính năng động, sáng


tạo, nhiệt huyết của tuổi trẻ, đồng thời cũng là lực lượng quan trọng góp phần
đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và nghiên cứu phát triển khoa
học, công nghệ của các trường đại học. Thông qua hoạt động nghiên cứu
khoa học, người giảng viên cũng sẽ khơng ngừng được rèn luyện, nâng cao

trình độ chun mơn, bắt kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện
đại.
Trong các kĩ năng nói trên, theo quan điểm cá nhân, nhóm kỹ năng
giảng dạy và nghiên cứu là quan trọng nhất đối với người giảng viên. Nhiệm
vụ chính của người giảng viên là truyền đạt và giúp người học đạt các mục
tiêu kiến thức, kĩ năng và thái độ. Do đó, giảng viên có kĩ năng giảng dạy tốt
sẽ giúp người học có hứng thú, từ đó kích thích khả năng học tập của người
học. Bên cạnh cơng việc giảng dạy, giảng viên rất cần khả năng nghiên cứu,
sáng tạo ra tri thức mới. Kiến thức luôn thay đổi, nếu người giảng viên không
thường xuyên tự đổi mới mình sẽ bị tụt hậu. Kết quả của sự thiếu đổi mời là


trì trệ, lỗi thời, khơng đáp ứng được nhu cầu ln thay đổi của xã hội. Vì vậy,
bên cạnh khả năng truyền đạt kiến thức, người giảng viên cần là người tạo ra
tri thức mới.



×