BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
CHUN NGÀNH
: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ
: 60 14 01 14
NG ƯỜI HƯỚNG D ẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRỊNH QUANG
TỪ
MỤC LỤC
MỞ
ĐẦU
Chương CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
Trang
3
HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
BÌNH TÂN
1.1 Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức
1.2 Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân
Chương THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
2
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH
TÂN
2.1 Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội và giáo dục tại địa
bàn quận Bình Tân
2.2 Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân
2.3 Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thơng
Chương BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
3
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
17
PHỔ THƠNG QUẬN BÌNH TÂN
u cầu đối với biện pháp quản lý hoạt động giáo
dục đạo đức cho học sinh
Một số biện pháp cơ bản quản lý giáo dục đạo đức
cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận
Bình Tân hiện nay
Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp
45
3.1
3.2
3.3
17
25
31
31
34
37
45
47
67
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
73
75
77
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một trong những phạm trù cơ bản của lý luận giáo dục, là
nội dung quan trọng trong rèn luyện phát triển nhân cách của mỗi người
Việt Nam. Đạo đức của người Việt Nam rất giản dị, tự nhiên, trong sáng, đã
trở thành một nhân tố không thể thiếu được trong đời sống tinh thần, là một
tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá, xem xét về phẩm chất nhân cách của
mỗi người.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra
những u cầu to lớn về chất lượng nguồn lực con người. Đó là sự phát
triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và nhân cách nói
chung của con người Việt Nam, mà trước hết là của thế hệ trẻ.
Coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta địi hỏi phải
"tăng cường giáo dục cơng dân, giáo dục lịng u nước, chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân
tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và
tiền đồ của đất nước". Từ đó cho thấy, giáo dục đạo đức là một trong
những điểm chủ yếu, cốt lõi xun suốt và giữ vị trí chủ đạo trong tồn bộ
q trình giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong nhà trường ở nước
ta, đặc biệt là đối với học sinh ở lứa tuổi thiếu niên trong nhà trường phổ
thơng.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và được triển
khai trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế thị trường, nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát
triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Nhưng,
kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới
4
đời sống tinh thần, sự cảm thụ văn hóa nghệ thuật cũng như trong tâm lý
đạo đức của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Những ảnh hưởng tiêu cực
đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực
giá trị, dẫn tới sự suy thối về đạo đức ở một bộ phận xã hội, ảnh hưởng
xấu tới thế hệ trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh phổ thơng. Điều đó có thể
do nhiều ngun nhân chủ quan và khách quan, nhưng quản lý hoạt động
giáo dục đạo đức là vấn đề trọng tâm để tạo ra sức mạnh tổng hợp cải
thiện tình hình. Vì vậy, tăng cường quản lý trong hoạt động giáo dục đạo
đức là địi hỏi khách quan trong giáo dục phổ thơng hiện nay.
Thành phố Hồ Chí Minh có lịch sử trên 300 năm, nơi đang dẫn đầu
cả nước về tốc độ, quy mơ phát triển kinh tế. Trên địa bàn này, sự hội tụ
những đặc điểm, những biểu hiện đạo đức của lớp trẻ, đồng thời thực
trạng giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thơng đang đặt ra nhiều vấn đề
bức xúc cần phải nghiên cứu và giải quyết. Việc đánh giá đúng tình hình,
nhận diện đúng các vấn đề và tình huống, phát hiện được những trở ngại
và vướng mắc trong quản lý giáo dục để tìm ra các ngun nhân và đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong các trường
trung học phổ thơng ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ góp phần tạo nên những
chuyển biến tích cực của đời sống đạo đức và giáo dục đạo đức hiện nay.
Đó là một việc làm cần thiết để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cho thành phố và cho đất nước.
Những lý do trên đã thơi thúc tác giả lựa chọn vấn đề: "Biện pháp
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên
địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay" làm đề tài nghiên
cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
5
Các nghiên cứu ở nước ngồi
Trong đời sống xã hội, giai đoạn lịch sử nào cũng coi trọng vấn đề
đạo đức và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Điều đó xuất phát từ nhu cầu
phân biệt cái tốt, cái xấu; cái thiện, cái ác trong hành vi ứng xử giữa con
người với con người; giữa con người với thế giới xung quanh. Vì thế,
phạm trù đạo đức và giáo dục đạo đức ln được các nhà giáo và các nhà
khoa học giáo dục quan tâm nghiên cứu.
Ngay từ thời cổ đại Khổng Tử đã nhận thức được vai trị quan trọng
của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội và của từng con người cụ
thể. Ơng chủ trương dùng đức trị để xây dựng và ổn định xã hội. Đó là một
xã hội có các chuẩn mực đạo đức rõ ràng, vua có đức của vua, tơi có đức
của tơi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ, mọi người đều
sống và làm việc đúng theo chính danh của mình. Cốt lõi trong quan điểm
của Khổng Tử về đạo đức là “nhân”, “nghĩa”. Nhân nghĩa là cái tốt đẹp
của con người thể hiện ở ngun tắc xây dựng, cai trị quốc gia, ở việc trau
dồi ý chí, tình cảm, hành vi trong các mối quan hệ xã hội.
Quan điểm của Khổng Tử về đạo đức và giáo dục đạo đức lúc bấy
giờ là một tiến bộ xã hội. Nó khơng chỉ góp phần bổ sung, phát triển lý
luận giáo dục nhân cách mà cịn là một giải pháp cho sự phát triển của xã
hội Trung Hoa cổ đại. Những quan điểm của Khổng Tử về giáo dục đạo
đức đã trở thành quan điểm chính thống của nền giáo dục nho học trong
suốt cả thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, do hạn
chế của hồn cảnh lịch sử nên quan điểm của Khổng Tử về đạo đức vẫn
mang tính đẳng cấp, phân biệt đạo đức của qn tử và tiểu nhân, giữa nam
và nữ. Về phương pháp giáo dục đạo đức, Khổng Tử chưa nhìn thấy mối
quan hệ biện chứng giữa con người với xã hội, chưa kết hợp cải tạo con
6
người với cải tạo xã hội. Ơng coi đạo đức là sản phẩm của một cá nhân
riêng biệt, được hình thành chủ yếu bằng con đường tu thân.
Ở phương Tây, thời kỳ cổ đại cũng xuất hiện nhiều quan điểm,
nhiều học thuyết lớn về giáo dục đạo đức. Mặc dù các quan điểm và các
học thuyết đó chưa ảnh hưởng trực tiếp đến nền giáo dục nho học ở nước
ta trong thời kỳ phong kiến nhưng nó là cơ sở cho sự hình thành các quan
điểm giáo dục thời kỳ văn hóa phục hưng tỏa sáng khắp thế giới sau này.
Thời kỳ văn hóa phục hưng, giáo dục được xem như một lĩnh vực
tiên phong trong cuộc đấu tranh chống lại ý thức hệ phong kiến, chống lại
sự câu kết, lũng đoạn của vương quyền và thần quyền trong trường học.
Trong bối cảnh đó, nhiều học thuyết, nhiều tư tưởng giáo dục tiến bộ đã
được xuất hiện.
Nhìn chung, các tư tưởng giáo dục thời kỳ này vẫn đề cao việc giáo
dục đạo đức, nhưng đã có sự phát triển mới về chuẩn mực giá trị đạo đức
của con người và xã hội. Về phương pháp giáo dục, bước đầu đã có sự
gắn kết đức dục với trí dục, gắn giáo dục đạo đức với lao động sản xuất
và các hoạt động khác. Tuy nhiên, các tư tưởng tiến bộ đó phần lớn chỉ
mới dừng lại ở ý tưởng, việc tổ chức thực hiện hầu như chưa đem lại kết
quả mong muốn. Chỉ từ khi chủ nghĩa Mác Lênin ra đời, thì những vấn đề
lý luận về giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng mới được
nghiên cứu một cách đầy đủ trên cơ sở khoa học thực sự.
Trên cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, C.
Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục những hạn chế của một số quan điểm
về đạo đức và giáo dục đạo đức trước đây, kế thừa có chọn lọc những giá
trị đạo đức tiến bộ của các chế độ xã hội trước. Hai ơng đã đưa ra những
quan điểm của mình về đạo đức. Đạo đức khơng thể tách rời cuộc sống
7
của con người. Đạo đức trước hết phải là sự phản ánh giá trị cao đẹp của
đời sống con người trong mối tương quan giữa người và người, giữa cá
nhân và xã hội. Con người bằng hành động thực tế, quan hệ xã hội và kinh
nghiệm lịch sử của mình để xây dựng nên những tiêu chuẩn, những giá trị
đạo đức.
C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ bản chất của đạo đức khơng phải là
cái gì có sẵn hoặc thiên định. Đạo đức được hình thành từ con người và xã
hội lồi người. Ph. Ăngghen viết: “Chúng ta khẳng định rằng, chung quy lại
thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình
hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [01, tr. 157].
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành
trên cơ sở tồn tại xã hội, tác động tới xã hội thơng qua hoạt động thực tiễn
của con người trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Trong mỗi chế độ xã
hội, những giá trị đạo đức; những quy tắc, ngun tắc và chuẩn mực đạo
đức đều được định ra trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị của chính xã
hội ấy.
Những tư tưởng về đạo đức của C. Mác và Ph. Ăngghen đã được
V.I.Lênin kế thừa, bổ sung, phát triển hồn chỉnh thành học thuyết mácxít
về đạo đức cộng sản và hiện thực hóa trong cách mạng tháng Mười Nga.
V.I.Lênin khẳng định giáo dục cộng sản chính là giáo dục đạo đức
cộng sản chủ nghĩa mà trước hết là giáo dục tính kỷ luật trong lao động và
trong tập thể; giáo dục lịng u Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tinh thần
quốc tế vơ sản là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách
con người xã hội chủ nghĩa.
Con đường phấn đấu trở thành người có đạo đức cộng sản đó là mỗi
người phải tích cực tự giác tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng nhân
8
loại cần lao và tham gia lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng cơng
nhân và nơng dân. Đạo đức cộng sản là “cuộc đấu tranh để củng cố và
hồn thiện chủ nghĩa cộng sản”. “Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ
cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đồn kết những người lao động chống
lại mọi sự bóc lột, mọi chế độ tư hữu...” [17, tr. 369].
Đạo đức cộng sản cịn là khả năng tổ chức, tính tổ chức, ý thức làm
chủ, lịng dũng cảm, khơng sợ gian khổ hy sinh, trung thực, bình tĩnh, tự tin
và kiên quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước hành động của mình.
Đặc biệt, đạo đức cộng sản là phải có khả năng tự đánh giá, rút ra mạnh,
yếu, tìm rõ ngun nhân để khơng ngừng rèn luyện, tự hồn thiện về mọi
mặt để trở thành con người phát triển tồn diện.
V.I.Lênin cũng chỉ rõ trách nhiệm của việc giáo dục đạo đức cộng
sản là của tồn xã hội và của tất cả mọi người; trước hết đó là trách nhiệm
của nhà trường Xơ Viết, của Đồn thanh niên tiền phong, của các tổ chức
đảng, đồn, cán bộ đảng, đồn và các thế hệ cách mạng lớn tuổi, các lão
thành cách mạng, của đội ngũ thầy, cơ giáo. Muốn giáo dục đạo đức cộng
sản cho thế hệ trẻ có kết quả tốt thì bản thân những người làm cơng tác
giáo dục phải là người gương mẫu, trong sáng, phải là người tiêu biểu để
thế hệ trẻ noi theo, nhìn vào và học tập; làm được như vậy, đạo đức cộng
sản mới thực sự trở thành đời sống tinh thần, mang tính giáo dục cao cho
mỗi cá nhân và tồn xã hội.
Các nghiên cứu ở trong nước
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm Lịch sử oai hùng.
Trong q trình đó đã hình thành và phát triển giá trị đạo đức truyền thống
Việt Nam trên nền tảng của truyền thống q trình đấu tranh dựng nước và
bảo vệ, phát triển đất nước. Theo Nguyễn Thế Kiệt, vai trị của các hệ tư
9
tưởng Phật giáo, Đạo giáo, đặc biệt là Nho giáo đã ảnh hưởng đến đời
sống văn hóa tinh thần Việt Nam. Mỗi học thuyết tơn giáo đã giải thích
được một khía cạnh của cuộc sống. Do đó, tư tưởng triết học đạo đức
Việt Nam, giá trị đạo đức ưu trội, cốt lõi trong các giá trị truyền thống dân
tộc trở thành phẩm chất nhân cách đặc trưng con người Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, nền giáo dục
phong kiến bị thay đổi tồn bộ. Hệ thống giáo dục nhà trường chú trọng
đến nội dung giảng dạy kiến thức khoa học thực nghiệm, thực dụng nhằm
đào tạo lớp người phục vụ cho lợi ích thực dân Pháp cho việc chinh phục
thuộc địa.
Sau cách mạng tháng tám (1945) và trong suốt hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, nền giáo dục Việt nam với mục đích giáo dục con người phục
vụ “Kháng chiến, kiến quốc” đã ln gắn chặt hai mặt đức và tài trong
mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, trong đó lấy Đức làm gốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn
hóa lớn của nhân loại đã để lại cho chúng ta một di sản văn hóa vơ cùng
q báu trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Đặc biệt là vấn đề đạo đức và giáo
dục đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại
có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức
là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của
người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng thì mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp
10
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sơng thì có
nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng
có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì dù có tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân” [19, tr. 283].
Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng
lợi của mọi cơng việc: “Mn việc thành cơng hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hay kém” [19, tr. 452]; Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh
khơng có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng
có tài mà khơng có đức là người vơ dụng. Đức và tài phải thống nhất với
nhau để hồn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người
Việt Nam trong thời đại mới bao gồm:
Một là, trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng
nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ
“trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội
phong kiến phương Đơng, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới,
phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước, hiếu với
dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
Hai là, u thương con người. Đây là một trong những phẩm chất
đẹp nhất của con người Việt Nam. Tình thương u con người được hình
thành trong lịch sử và đã trở thành truyền thống của dân tộc.
Tình u thương con người của Hồ Chí Minh là tình u thương của
người cộng sản. Khơng phải thuần túy là sự đồng cảm tâm lý, khơng phải
sự thương hại, sự xót xa của tình thương tơn giáo. Tình u thương ở đây
là phải giải phóng con người, tạo cơ hội cho con người được phát triển
hồn tồn.
11
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Đây là phẩm chất chung
của con người, là phẩm chất đạo đức mới, thể hiện mối quan hệ rộng lớn
vượt qua khn khổ quốc gia, dân tộc. Bồi dưỡng đạo đức cho con người
Việt Nam là phải bồi dưỡng tinh thần quốc tế trong sáng ở mỗi người.
Theo Hồ Chí Minh: đạo đức cách mạng khơng phải điều gì xa lạ mà
thực chất đạo đức cách mạng được hình thành từ thực tiễn hoạt động rèn
luyện hàng ngày trong cơng tác, chiến đấu của mỗi người.
Thực chất của giáo dục đạo đức chính là hình thành ở con người đức
tính tốt, lịng nhân ái, nổi trội ở đó là tinh thần u nước, lịng trung thành
đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.
Mục tiêu của giáo dục đạo đức là nhằm loại bỏ những thói hư, tật
xấu, tư tưởng lạc hậu, trì trệ, sự ích kỷ cá nhân, tính vơ nhân đạo. Vì theo
Hồ Chí Minh: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng. Ta phải biết
làm cho lịng tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xn và phần
xấu bị mất dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng” [15, tr. 558].
Từ việc xác định rõ thực chất của vấn đề giáo dục đạo đức, xác định
rõ mục tiêu của giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh đã nêu lên những ngun
tắc xây dựng đạo đức mới:
Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Đây là ngun tắc
rèn để rèn luyện, là cơ sở để phân biệt đạo đức cách mạng với đạo đức
khơng cách mạng.
Xây đi đơi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Đây là ngun tắc có tính quy luật trong giáo dục đạo đức mới. Muốn xây
dựng đạo đức mới thì nhất thiết phải chống lại các tệ nạn, tiêu cực, thối
hóa biến chất, chống là nhằm mục đích để xây và lấy xây làm chính.
12
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Đạo đức khơng phải là từ trên trời
rơi xuống mà được đào tạo, rèn luyện bền bỉ hàng ngày để phát triển và
củng cố: “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức
khơng thường xun tu dưỡng sẽ bị hoen ố.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức là một cơ
sở lý luận xun suốt, ln hướng dẫn, chỉ đường cho Đảng, qn đội,
nhân dân ta học tập, rèn luyện, phấn đấu trong sự nghiệp xây dựng đất
nước thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đến năm 1979 Bộ chính trị và Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam
đã ra nghị quyết vế cải cách giáo dục và Ủy ban cải cách giáo dục Trung
ương đã ra quyết định số 01 về cuộc vận động tăng cường giáo dục đạo đức
cách mạng trong trường học, đã ghi rõ: “Nội dung đạo đức cần được giáo
dục cho học sinh từ mẫu giáo đến đại học, nội dung chủ yếu dựa vào 5 điều
bác Hồ dạy”.
Tiếp sau đó đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức
như:
Thứ trưởng Vũ Đình Nho “Một số vấn đề lý luận và tư tưởng về
giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học” (Báo Nghiên cứu giáo dục
số 6/ 1980).
Tác giả Trần Quang “Dạy đạo đức trong trường học” (Báo giáo
dục thời đại số 18/1999).
Tác giả Lê Châu “Cần xác định đúng mơn Giáo Dục Cơng Dân
trong trường trung học phổ thơng” (Báo Giáo dục thời đại ngày 25/5/2001).
Giáo sư Đặng Vũ Hoạt “Đổi mới cơng tác giáo viên chủ nhiệm với
việc giáo dục đạo đức cho học sinh” Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số
8/1992.
13
PGS TS Hà Nhật Thăng “Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị,
lối sống của thanh niên học sinh sinh viên” (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục
số 39/2002).
Về cơng tác quản lý giáo dục đạo đức trong những năm qua cũng có
nhiều tác giả nghiên cứu như:
PGSTS Đặng Quốc Bảo có bài “Những vấn đề cơ bản về quản lý
giáo dục” 1998.
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Quản lý nhà nước về giáo dục đào
tạo” 1998.
Nghị quyết của hội nghị lần II của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khố VII (1996) có nêu: “Mục tiêu chủ yếu là giáo dục tồn diện đức, trí,
thể, mỹ ở tất cả các bậc học, hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng,
nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành” .
Với tư tưởng này Đảng và Nhà nước ta đã đặt con người vào vị trí
trung tâm: Con người là mục tiêu và là động lực của sự phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay đất nước đang trong q trình hội nhập với
quốc tế và khu vực, việc giáo dục nhân cách mới cho học sinh là nhiệm vụ
và là mục tiêu cơ bản của sự nghiệp giáo dục đào tạo. Giáo dục nhân cách
mới mà thời đại mới u cầu là “Giáo dục cho học sinh, sinh viên lịng u
nước, u chủ nghĩa xã hội, có bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo, có
năng lực thực hành, có khả năng thích ứng với nền kinh tế nhiều thành
phần”. Đặc biệt là, ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 06
CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”. Sau 5 năm thực hiện cuộc vận động đã tạo ra phong
trào phấn đấu tu dưỡng đạo đức trong mọi tầng lớp xã hội, mang lại hiệu
quả tốt. Do đó, Bộ Chính trị khóa XI tiếp tục có Chỉ thị số 03CT/TW,
14
ngày 14 tháng 5 năm 2011 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Những văn kiện này là tài liệu đặc biệt
quan trọng và có giá trị cao đối với giáo dục đạo đức xã hội nói chung, tổ
chức quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, ngành giáo dục đào tạo đã quan tâm và
có nhiều văn bản chỉ đạo giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh trong
nhà trường và đã tổ chức nhiều chương trình hội thảo, tọa đàm về cơng tác
phịng chống tệ nạn xã hội và ma túy xâm nhập học đường.
Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức cho các đối tượng, cho học sinh
đã được nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều tài liệu trình bày. Nhưng vấn
đề quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cịn ít tài liệu, cơng trình đề cập.
Do đó, nghiên cứu về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là vấn đề mới
mẻ và cần thiết. Đặc biệt là, ở thành phố Hồ Chí Minh nói chung và ở
quận Bình Tân nói riêng, nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo
dục cũng như quản lý giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thơng chưa
được thực hiện một cách có hệ thống.
Vì vậy chúng tơi hy vọng đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân,
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” sẽ góp phần giúp cho các trường trung
học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân có thể nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho học sinh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn của giáo dục và
quản lý giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh trung học phổ thơng, đề tài đề xuất một số biện pháp cơ bản quản
15
lý hoạt động giáo dục đạo đức trong trường trung học phổ thơng trên địa bàn
quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đáp ứng u cầu phát triển mới của đất nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đã thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Khái qt một số vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục đạo đức và
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận Bình
Tân;
Nghiên cứu thực trạng về tình hình giáo dục đạo đức và quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức ở 5 trường trung học phổ thơng trên địa bàn
quận Bình Tân (An Lạc, Vĩnh Lộc, Nguyễn Hữu Cảnh, Bình Hưng Hồ,
Bình Tân);
Đề xuất một số biện pháp chủ yếu quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân,
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học
sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân.
Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên
địa bàn quận Bình Tân.
Số liệu khảo sát được thực hiện trên đội ngũ cán bộ quản lý, các lực
lượng tham gia giáo dục đạo đức, giáo viên và học sinh từ năm 2008 đến
nay.
16
5. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thơng là nội dung cơ bản của quản lý giáo dục trong nhà trường, ảnh
hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trên địa bàn quận Bình
Tân cịn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được u cầu phát triển kinh tế xã
hội hiện nay. Nếu phát huy được vai trị chỉ đạo, điều hành; tổ chức tốt
nâng cao nhận thức về giáo dục đạo đức cho cán bộ giáo viên và học sinh;
tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng hiệu quả các hình thức, phương pháp
giáo dục, đồng thời phát huy vai trị của nhà trường trong phối hợp với các
lực lượng giáo dục trên địa bàn thì quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí
Minh sẽ đáp ứng được u cầu giáo dục hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu
Q trình thực hiện luận văn, chúng tơi đã dựa trên cơ sở những quan
điểm cơ bản của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa MácLênin; qn triệt những tư tưởng cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng về giáo dục, nhất là các quan điểm
trong các văn kiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng các
khố IX, X, XI. Sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống cấu trúc trong
xem xét, phân tích các đối tượng nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ đề
ra.
Các phương pháp cụ thể
17
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: khái qt các tài liệu lý luận
và thực tiễn để xây dựng những quan niệm, khái niệm, xây dựng những
quy trình, những ngun tắc nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức và
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên
địa bàn quận Bình Tân.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sử dụng những phương
pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn, đàm thoại...để thu thập các tài liệu về
thực trạng giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thơng.
Phương pháp chun gia: Chúng tơi sẽ hỏi ý kiến các chun gia
am hiểu về giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức về
thực trạng và các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động giáo
dục đạo đức của học sinh trên địa bàn quận Bình Tân.
Phương pháp tốn thống kê: Sử dụng để tính tốn và xử lý các
số liệu điều tra thực trạng đã thu được từ đó rút ra nhận xét cần thiết cho
đề tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài là tài
liệu tham khảo cho cơng tác quản lý và nghiên cứu giáo dục đạo đức của
các trường trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân.
Nội dung các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân do đề tài đề xuất
có thể ứng dụng nâng cao chất lượng giáo dục và quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình
Tân.
18
8. Cấu trúc luận văn:
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và trích
dẫn, các phụ lục, luận văn có 3 chương:
19
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN BÌNH TÂN
1.1. Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
1.1.1. Hoạt động giáo dục đạo đức
Đạo đức là khái niệm ln thường đạo lý của con người được sử
dụng để phân biệt tốt xấu, đúng sai, cái thiện – cái ác ... trong cuộc sống,
được sử dụng trong ba phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc
đạo đức và sự trừng phạt. Trong đời sống xã hội, nói đến đạo đức là nói
đến các giá trị, các chuẩn mực đạo đức. Những quan niệm về các giá trị và
chuẩn mực đạo đức có tính lịch sử xã hội và gắn liền với các tư tưởng về
triết học, về văn hóa trong mỗi thời kỳ lịch sử; chịu sự chi phối của các tư
tưởng tơn giáo, chủ nghĩa nhân văn, và những luật lệ của một xã hội, phản
ánh trong cách đối xử của con người với mơi trường xung quanh, với cộng
đồng với người khác và với bản thân mình.
Theo quan niệm trước đây, đạo đức được hiểu đồng nghĩa với ln
lý, đó là những chuẩn mực, hành vi được xã hội quy định, được nhiều
người thừa nhận và tự giác thực hiện. Đó là những quy ước cộng đồng xã
hội qua thời gian được thừa nhận và trở thành truyền thống đạo lý trong
ứng xử giữa người với người, người với tự nhiên, xã hội.
Ngày nay, trong hồn cảnh xã hội ln vận động, phát triển, quan
niệm về đạo đức được mở rộng phạm vi. Đạo đức khơng chỉ là phạm trù
ln lý, những quy định đối nhân xử thế giữa người với người trong mọi
phạm vi từ nhỏ đến lớn. Đạo đức cịn được mở rộng đến vấn đề ý thức,
20
trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ hịa bình, biết hợp tác phát triển cùng với các
dân tộc khác, giáo dục trách nhiệm, xã hội lành mạnh, giáo dục việc thực
hiện nghĩa vụ cơng dân trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
thực hiện các mục tiêu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và tinh thần cảnh
giác cách mạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Với ý nghĩ đó, có thể
hiểu đạo đức một là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc,
ngun tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình sao cho phù hợp với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người
với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Giáo dục đạo đức là một nội dung quan trọng của q trình giáo dục
theo nghĩa hẹp nhằm hình thành cho con người những quan điểm cơ bản
nhất, những ngun tắc, chuẩn mực quan trọng nhất làm cơ sở để con
người có thể lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội;
biết tự đánh giá, tự suy ngẫm về hành vi, cách ứng xử của mình. Vì thế,
giáo dục đạo đức là thực hiện hình thành và phát triển nhân cách cho con
người tương ứng với từng giai đoạn phát triển trong cuộc sống.
Giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt viết: “Giáo dục đạo đức là
q trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những địi hỏi bên ngồi của xã
hội đối với cá nhân thành những địi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm
tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”. Đó là q trình tác động
tới học sinh của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành cho học
sinh ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức và cuối cùng quan trọng nhất là
hình thành cho họ thói quen, hành vi đạo đức trong đời sống xã hội. Song
giáo dục trong nhà trường giữ vai trị chủ đạo định hướng “ Giáo dục đạo
đức cho học sinh là bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục
trong nhà trường xã hội chủ nghĩa” [07, tr. 128].
21
Giáo dục đạo đức là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách
có mục đích, có tổ chức thơng qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà
Giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm
lĩnh những kinh nghiệm xã hội của lồi người.
Trong bất kỳ xã hội nào, vấn đề giáo dục đạo đức cho con người
theo chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội vẫn giữ vai trị hết sức quan
trọng. Giáo dục đạo đức là con đường chủ yếu để hình thành cho con
người những quan điểm, những ngun tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức
cơ bản nhất. Cùng với q trình giáo dục và hoạt động tích cực của mình,
con người càng hiểu rõ vai trị to lớn của lương tâm, ý thức, danh dự và các
phẩm chất đạo đức của cá nhân đối với bản thân mình trong đời sống cộng
đồng, từ đó tham gia có ý thức, có trách nhiệm vào thúc đẩy tiến bộ xã hội
Nói đến hoạt động giáo dục đạo đức là nhấn mạnh xem xét giáo dục
đạo đức theo cấu trúc hoạt động, tức là phải xem xét động cơ, mục đích,
phương tiện cũng như hệ thống các hành động, thao tác tương ứng của
hoạt động đó. Mặt khác, quản lý được thực hiện bằng những cơng việc cụ
thể như xác định mục tiêu; xác định quyết tâm và xây dựng kế hoạch; tổ
chức lực lượng, điều kiện và phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện kế
hoạch; tổ chức thực hiện theo kế hoạch đã đề ra; kiểm tra, đánh giá kết
quả đạt được, điều chỉnh việc thực hiện để kết quả đạt được như mong
muốn. Đây là những tư tưởng cơ bản để làm rõ khái niệm quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh.
1.1.2. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội... thơng qua các luật lệ, các chính sách, các quy định theo những ngun
22
tắc, phương pháp nhằm tạo ra mơi trường và điều kiện cho sự vận động của
đối tượng theo đúng u cầu của chủ thể quản lý, đạt được mục tiêu quản lý
đã đề ra.
Mọi người trong xã hội đều hoạt động trong những tổ chức xã hội,
những nhóm và cộng đồng. Trong khi đó, mỗi người là một nhân cách độc
đáo, khơng lặp lại. Vì thế, khi cần hướng đến một mục tiêu chung, mong
muốn đạt được kết quả chung thì phải có sự phối hợp thống nhất trong suy
nghĩ, trong hành động của tất cả các thành viên trong tổ chức, nhóm hay
cộng đồng đó. Đúng như một nhà tư tưởng đã nói: “Một người độc tấu thì
tự điều khiển lấy mình, cịn một giàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
Có thể khái qt, quản lý là q trình tác động có tổ chức, có mục
đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương tiện quản
lý làm cho đối tượng quản lý nỗ lực tự giác thực hiện các hành vi và hoạt
động theo ý định của nhà quản lý để đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong
điều kiện hồn cảnh cụ thể.
Xét về lịch sử thì khoa học Quản lý giáo dục xuất hiện sau khoa học
quản lý kinh tế. Hiện nay, quản lý giáo dục là bộ phận quan trọng của hệ
thống quản lý xã hội. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa
học đã đưa ra những cách định nghĩa khác nhau, tương ứng là các quan
điểm khác nhau về quản lý giáo dục. Có thể nêu một số quan niệm tiêu
biểu:
Theo M.I. Kondacop thì “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống,
có kế hoạch, có ý thức và mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích bảo đảm cho sự hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy
luật chung của xã hội cũng như những quy luật của q trình giáo dục vào
23
sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em” [29, tr. 17]. Quan niệm này chỉ rõ nơi
tác động là tất cả các khâu của hệ thống; xác định rõ cách tác động của chủ
thể quản lý là vận dụng nhưng quy luật xã hội và quy luật giáo dục; mơ tả
rõ mục tiêu hướng tới của tác động quản lý là sự phát triển thể lực và tâm lý
trẻ em. Nhưng quan niệm này chưa tính đến sự chi phối của các yếu tố
chính trị xã hội đối với quản lý, do đó quản lý giáo dục khơng có định hướng
chính trị rõ rệt.
Tác giả Phạm Minh Hạc khái qt: “Quản lý giáo dục là quản lý
trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo ngun lý giáo dục
để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với
thế hệ trẻ và với từng học sinh”. Ở đây, tác giả nhấn mạnh đường lối
chính trị mà cơng tác quản lý phải qn triệt khi tác động vào đối tượng
quản lý. Tuy nhiên, cách thức, phương tiện tác động chưa được đề cập.
Một số tác giả khác cũng có những cách định nghĩa riêng. Mỗi cách
định nghĩa quản lý giáo dục đều quan tâm làm nổi bật những khía cạnh
nhất định liên quan đến mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Tuy
nhiên, chúng tơi thấy, bản chất của quản lý giáo dục là q trình tác động
có ý thức của chủ thể quản lý và các thành tố khác trong hệ thống quản lý
bằng những cơng cụ, phương tiện nhất định, nhằm làm cho kết quả q
trình giáo dục đạt mục tiêu đã định, phù hợp với đường lối quan điểm của
Đảng và nhà nước về giáo dục. Đây là một cơng việc rất quan trọng trong
đào tạo nguồn nhân lực nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ có đầy đủ kiến thức
và kỹ năng, phẩm chất để đảm nhận các chức năng xã hội.
Chủ thể quản lý giáo dục là nhà quản lý, tập thể các nhà quản lý hay
bộ máy quản lý giáo dục. Trong trường đó là Hiệu trưởng (cùng với bộ