Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 100 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG 
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH 
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN 
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC


BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG 
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH 
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN 
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

CHUN NGÀNH

: QUẢN LÝ GIÁO DỤC

MàSỐ


: 60 14 01 14

NG ƯỜI HƯỚNG  D ẪN  KHOA  HỌC:  PGS. TS. TRỊNH QUANG 
TỪ


MỤC LỤC
MỞ 
ĐẦU
Chương  CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG 
1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG 

Trang
3

HỌC   PHỔ   THÔNG   TRÊN   ĐỊA   BÀN   QUẬN 
BÌNH TÂN
1.1 Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo 
đức
1.2 Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh  
trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân
Chương  THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO 
2
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC 
PHỔ   THƠNG   TRÊN   ĐỊA   BÀN  QUẬN   BÌNH 
TÂN 
2.1 Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội và giáo dục tại địa 
bàn quận Bình Tân
2.2 Thực trạng hoạt  động giáo  dục  đạo  đức cho  học 

sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân
2.3 Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho 
học sinh trung học phổ thơng
Chương  BIỆN   PHÁP   QUẢN   LÝ   HOẠT   ĐỘNG   GIÁO 
3
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC  

17

PHỔ THƠNG QUẬN BÌNH TÂN
u cầu đối với biện pháp quản lý hoạt động giáo 
dục đạo đức cho học sinh
Một số biện pháp cơ bản quản lý giáo dục đạo đức 
cho học sinh trung học phổ  thơng trên địa bàn quận  
Bình Tân hiện nay
Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả  thi của các 
biện pháp

45

3.1
3.2

3.3

17
25

31
31

34
37

45

47
67


KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
PHỤ LỤC

73
75
77


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một trong những phạm trù cơ bản của lý luận giáo dục, là  
nội dung quan trọng trong rèn luyện phát triển nhân cách của mỗi người  
Việt Nam. Đạo đức của người Việt Nam rất giản dị, tự nhiên, trong sáng, đã 
trở thành một nhân tố không thể thiếu được trong đời sống tinh thần, là một 
tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá, xem xét về phẩm chất nhân cách của 
mỗi người.
Công   cuộc   công   nghiệp   hóa,   hiện   đại   hóa   đất   nước   đang   đặt   ra  
những u cầu to lớn về  chất lượng nguồn lực con người. Đó là sự  phát 
triển tồn diện về  đạo đức, trí tuệ, thể  chất, thẩm mỹ  và nhân cách nói 

chung của con người Việt Nam, mà trước hết là của thế hệ trẻ.
Coi giáo dục ­ đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta địi hỏi phải  
"tăng cường giáo dục cơng dân, giáo dục lịng u nước, chủ  nghĩa Mác­
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân 
tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và 
tiền đồ  của đất nước". Từ  đó cho thấy, giáo dục đạo đức là một trong 
những điểm chủ yếu, cốt lõi xun suốt và giữ vị trí chủ đạo trong tồn bộ 
q trình giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong nhà trường  ở  nước 
ta, đặc biệt là đối với học sinh  ở lứa tuổi thiếu niên trong nhà trường phổ 
thơng.
Sự  nghiệp đổi mới  ở  nước ta đang đi vào chiều sâu và được triển  
khai trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế thị trường, nền kinh tế 
hàng hóa nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát  
triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Nhưng, 
kinh tế thị trường cũng  bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới 


4
đời sống tinh thần, sự cảm thụ văn hóa ­ nghệ thuật cũng như trong tâm lý  
­ đạo đức của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Những ảnh hưởng tiêu cực  
đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực  
giá trị, dẫn tới sự suy thối về đạo đức ở  một bộ phận xã hội, ảnh hưởng  
xấu tới thế hệ trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh phổ thơng. Điều đó có thể 
do nhiều ngun nhân chủ  quan và khách quan, nhưng quản lý hoạt động 
giáo dục đạo đức là vấn đề  trọng tâm để  tạo ra sức mạnh tổng hợp cải  
thiện tình hình. Vì vậy, tăng cường quản lý trong hoạt động giáo dục đạo 
đức là địi hỏi khách quan trong giáo dục phổ thơng hiện nay.
Thành phố  Hồ  Chí Minh có lịch sử  trên 300 năm, nơi đang dẫn đầu  
cả  nước về  tốc độ, quy mơ phát triển kinh tế. Trên địa bàn này, sự  hội tụ 
những đặc điểm, những biểu hiện đạo đức của lớp trẻ, đồng thời thực  

trạng giáo dục đạo đức cho học sinh phổ  thơng đang đặt ra nhiều vấn đề 
bức xúc cần phải nghiên cứu và giải quyết. Việc đánh giá đúng tình hình, 
nhận diện đúng các vấn đề  và tình huống, phát hiện được những trở  ngại 
và vướng mắc trong quản lý giáo dục để tìm ra các ngun nhân và đề xuất  
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong các trường 
trung học phổ thơng ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ góp phần tạo nên những 
chuyển biến tích cực của đời sống đạo đức và giáo dục đạo đức hiện nay.  
Đó là một việc làm cần thiết để  đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao 
cho thành phố và cho đất nước.
Những lý do trên đã thơi thúc tác giả  lựa chọn vấn đề: "Biện pháp 
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên  
địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay" làm đề tài nghiên 
cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


5
Các nghiên cứu ở nước ngồi
Trong đời sống xã hội, giai đoạn lịch sử  nào cũng coi trọng vấn đề 
đạo đức và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Điều đó xuất phát từ nhu cầu 
phân biệt cái tốt, cái xấu; cái thiện, cái ác trong hành vi  ứng xử  giữa con  
người với con người; giữa con người với thế  giới xung quanh. Vì thế,  
phạm trù đạo đức và giáo dục đạo đức ln được các nhà giáo và các nhà  
khoa học giáo dục quan tâm nghiên cứu.
Ngay từ thời cổ đại Khổng Tử đã nhận thức được vai trị quan trọng  
của đạo đức đối với sự  phát triển của xã hội và của từng con người cụ 
thể. Ơng chủ trương dùng đức trị để xây dựng và ổn định xã hội. Đó là một 
xã hội có các chuẩn mực đạo đức rõ ràng, vua có đức của vua, tơi có đức 
của tơi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ  ra vợ, mọi người đều  
sống và làm việc đúng theo chính danh của mình. Cốt lõi trong quan điểm  

của Khổng Tử  về  đạo đức là “nhân”, “nghĩa”. Nhân nghĩa là cái tốt đẹp 
của con người thể hiện ở ngun tắc xây dựng, cai trị quốc gia, ở việc trau  
dồi ý chí, tình cảm, hành vi trong các mối quan hệ xã hội.
Quan điểm của Khổng Tử về đạo đức và giáo dục đạo đức lúc bấy 
giờ  là một tiến bộ  xã hội. Nó khơng chỉ  góp phần bổ  sung, phát triển lý  
luận giáo dục nhân cách mà cịn là một giải pháp cho sự  phát triển của xã 
hội Trung Hoa cổ  đại. Những quan điểm của Khổng Tử về  giáo dục đạo  
đức đã trở  thành quan điểm chính thống của nền giáo dục nho học trong  
suốt cả thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, do hạn  
chế của hồn cảnh lịch sử nên quan điểm của Khổng Tử  về đạo đức vẫn  
mang tính đẳng cấp, phân biệt đạo đức của qn tử và tiểu nhân, giữa nam  
và nữ. Về phương pháp giáo dục đạo đức, Khổng Tử chưa nhìn thấy mối 
quan hệ  biện chứng giữa con người với xã hội, chưa kết hợp cải tạo con  


6
người với cải tạo xã hội. Ơng coi đạo đức là sản phẩm của một cá nhân 
riêng biệt, được hình thành chủ yếu bằng con đường tu thân.
Ở  phương Tây, thời kỳ  cổ   đại cũng xuất hiện nhiều quan  điểm, 
nhiều học thuyết lớn về giáo dục đạo đức. Mặc dù các quan điểm và các 
học thuyết đó chưa ảnh hưởng trực tiếp đến nền giáo dục nho học ở nước 
ta trong thời kỳ phong kiến nhưng nó là cơ  sở  cho sự  hình thành các quan  
điểm giáo dục thời kỳ văn hóa phục hưng tỏa sáng khắp thế giới sau này.
Thời kỳ  văn hóa phục hưng, giáo dục được xem như  một lĩnh vực  
tiên phong trong cuộc đấu tranh chống lại ý thức hệ phong kiến, chống lại  
sự  câu kết, lũng đoạn của vương quyền và thần quyền trong trường học. 
Trong bối cảnh đó, nhiều học thuyết, nhiều tư  tưởng giáo dục tiến bộ  đã 
được xuất hiện.
Nhìn chung, các tư tưởng giáo dục thời kỳ này vẫn đề cao việc giáo 
dục đạo đức, nhưng đã có sự phát triển mới về chuẩn mực giá trị đạo đức 

của con người và xã hội. Về  phương pháp giáo dục, bước đầu đã có sự 
gắn kết đức dục với trí dục, gắn giáo dục đạo đức với lao động sản xuất  
và các hoạt động khác. Tuy nhiên, các tư  tưởng tiến bộ  đó phần lớn chỉ 
mới dừng lại ở ý tưởng, việc tổ chức thực hiện hầu như chưa đem lại kết 
quả mong muốn. Chỉ từ khi chủ nghĩa Mác ­ Lênin ra đời, thì những vấn đề 
lý luận về  giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng mới được 
nghiên cứu một cách đầy đủ trên cơ sở khoa học thực sự.
Trên cơ  sở  thế  giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, C. 
Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục những hạn chế của một số  quan điểm 
về đạo đức và giáo dục đạo đức trước đây, kế thừa có chọn lọc những giá 
trị đạo đức tiến bộ  của các chế  độ  xã hội trước. Hai ơng đã đưa ra những 
quan điểm của mình về  đạo đức. Đạo đức khơng thể  tách rời cuộc sống  


7
của con người. Đạo đức trước hết phải là sự phản ánh giá trị  cao đẹp của 
đời sống con người trong mối tương quan giữa người và người, giữa cá 
nhân và xã hội. Con người bằng hành động thực tế, quan hệ xã hội và kinh  
nghiệm lịch sử của mình để  xây dựng nên những tiêu chuẩn, những giá trị 
đạo đức.
C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ  rõ bản chất của đạo đức khơng phải là 
cái gì có sẵn hoặc thiên định. Đạo đức được hình thành từ con người và xã 
hội lồi người. Ph. Ăngghen viết: “Chúng ta khẳng định rằng, chung quy lại 
thì mọi thuyết đạo đức đã có từ  trước đến nay đều là sản phẩm của tình 
hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [01, tr. 157].
Như  vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành 
trên cơ sở tồn tại xã hội, tác động tới xã hội thơng qua hoạt động thực tiễn  
của con người trong các thời kỳ  lịch sử  khác nhau. Trong mỗi chế  độ  xã 
hội, những giá trị  đạo đức; những quy tắc, ngun tắc và chuẩn mực đạo 
đức đều được định ra trên cơ  sở  điều kiện kinh tế, chính trị  của chính xã 

hội ấy.
Những tư  tưởng về  đạo đức của C. Mác và Ph. Ăngghen đã được 
V.I.Lênin kế  thừa, bổ  sung, phát triển hồn chỉnh thành học thuyết mácxít 
về đạo đức cộng sản và hiện thực hóa trong cách mạng tháng Mười Nga.
V.I.Lênin khẳng định giáo dục cộng sản chính là giáo dục đạo đức 
cộng sản chủ nghĩa mà trước hết là giáo dục tính kỷ luật trong lao động và  
trong tập thể; giáo dục lịng u Tổ  quốc xã hội chủ  nghĩa và tinh thần  
quốc tế vơ sản là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách 
con người xã hội chủ nghĩa.
Con đường phấn đấu trở thành người có đạo đức cộng sản đó là mỗi 
người phải tích cực tự giác tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng nhân 


8
loại cần lao và tham gia lao động xây dựng chủ  nghĩa xã hội cùng cơng  
nhân và nơng dân. Đạo đức cộng sản là “cuộc đấu tranh để  củng cố  và 
hồn thiện chủ  nghĩa cộng sản”. “Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ 
cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đồn kết những người lao động chống 
lại mọi sự bóc lột, mọi chế độ tư hữu...” [17, tr. 369].
Đạo đức cộng sản cịn là khả năng tổ chức, tính tổ chức, ý thức làm  
chủ, lịng dũng cảm, khơng sợ gian khổ hy sinh, trung thực, bình tĩnh, tự tin  
và kiên quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước hành động của mình. 
Đặc biệt, đạo đức cộng sản là phải có khả  năng tự  đánh giá, rút ra mạnh,  
yếu, tìm rõ ngun nhân để  khơng ngừng rèn luyện, tự  hồn thiện về mọi  
mặt để trở thành con người phát triển tồn diện.
V.I.Lênin cũng chỉ  rõ trách nhiệm của việc giáo dục đạo đức cộng 
sản là của tồn xã hội và của tất cả mọi người; trước hết đó là trách nhiệm 
của nhà trường Xơ Viết, của Đồn thanh niên tiền phong, của các tổ  chức 
đảng, đồn, cán bộ  đảng, đồn và các thế  hệ  cách mạng lớn tuổi, các lão 
thành cách mạng, của đội ngũ thầy, cơ giáo. Muốn giáo dục đạo đức cộng 

sản cho thế  hệ  trẻ  có kết quả  tốt thì bản thân những người làm cơng tác  
giáo dục phải là người gương mẫu, trong sáng, phải là người tiêu biểu để 
thế hệ trẻ noi theo, nhìn vào và học tập; làm được như vậy, đạo đức cộng 
sản mới thực sự  trở  thành đời sống tinh thần, mang tính giáo dục cao cho 
mỗi cá nhân và tồn xã hội.
Các nghiên cứu ở trong nước
Dân tộc Việt Nam   đã trải qua hàng nghìn năm Lịch sử  oai hùng. 
Trong q trình đó đã hình thành và phát triển giá trị đạo đức truyền thống 
Việt Nam trên nền tảng của truyền thống q trình đấu tranh dựng nước và 
bảo vệ, phát triển đất nước. Theo Nguyễn Thế Kiệt, vai trị của các hệ tư 


9
tưởng Phật giáo, Đạo giáo, đặc biệt là Nho giáo đã  ảnh hưởng đến đời 
sống văn hóa tinh thần Việt Nam. Mỗi học thuyết tơn giáo đã giải thích  
được một khía cạnh của cuộc sống. Do đó, tư  tưởng triết học đạo đức  
Việt Nam, giá trị đạo đức ưu trội, cốt lõi trong các giá trị truyền thống dân  
tộc trở thành phẩm chất nhân cách đặc trưng con người Việt Nam.
Cuối thế  kỷ  XIX thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, nền giáo dục  
phong kiến bị  thay đổi tồn bộ. Hệ  thống giáo dục nhà trường chú trọng  
đến nội dung giảng dạy kiến thức khoa học thực nghiệm, thực dụng nhằm  
đào tạo lớp người phục vụ cho lợi ích thực dân Pháp cho việc chinh phục  
thuộc địa.
Sau cách mạng tháng tám (1945) và trong suốt hai cuộc kháng chiến 
chống Pháp, nền giáo dục Việt nam với mục đích giáo dục con người phục  
vụ  “Kháng chiến, kiến quốc” đã ln gắn chặt hai mặt đức và tài trong 
mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, trong đó lấy Đức làm gốc.
Chủ  tịch Hồ  Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn  
hóa lớn của nhân loại đã để  lại cho chúng ta một di sản văn hóa vơ cùng 
q báu trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Đặc biệt là vấn đề đạo đức và giáo  

dục đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ  Hồ 
Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho  
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để  lại 
có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức  
là một trong những vấn đề  quan tâm hàng đầu của Hồ  Chí Minh trong sự 
nghiệp cách mạng.
Hồ  Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của  
người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền 
tảng thì mới hồn thành được nhiệm vụ  cách mạng vẻ  vang vì sự  nghiệp  


10
độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như  sơng thì có  
nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng 
có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức  
thì dù có tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân” [19, tr. 283].  
Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố  quyết định sự  thắng  
lợi của mọi cơng việc: “Mn việc thành cơng hoặc thất bại, đều do cán 
bộ tốt hay kém” [19, tr. 452]; Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh  
khơng có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng  
có tài mà khơng có đức là người vơ dụng. Đức và tài phải thống nhất với 
nhau để hồn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người 
Việt Nam trong thời đại mới bao gồm:
Một là, trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng 
nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ  khái niệm cũ 
“trung với vua, hiếu với  cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội 
phong kiến phương Đơng, Hồ  Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới,  
phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước, hiếu với  
dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.

Hai là, u thương con người. Đây là một trong những phẩm chất 
đẹp nhất của con người Việt Nam. Tình thương u con người được hình 
thành trong lịch sử và đã trở thành truyền thống của dân tộc.
Tình u thương con người của Hồ Chí Minh là tình u thương của  
người cộng sản. Khơng phải thuần túy là sự đồng cảm tâm lý, khơng phải 
sự  thương hại, sự xót xa của tình thương tơn giáo. Tình u thương ở đây 
là phải giải phóng con người, tạo cơ  hội cho con người được phát triển 
hồn tồn.


11
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Đây là phẩm chất chung 
của con người, là phẩm chất đạo đức mới, thể hiện mối quan hệ rộng lớn 
vượt qua khn khổ  quốc gia, dân tộc. Bồi dưỡng đạo đức cho con người  
Việt Nam là phải bồi dưỡng tinh thần quốc tế trong sáng ở mỗi người.
Theo Hồ Chí Minh: đạo đức cách mạng khơng phải điều gì xa lạ mà 
thực chất đạo đức cách mạng được hình thành từ  thực tiễn hoạt động rèn 
luyện hàng ngày trong cơng tác, chiến đấu của mỗi người.
Thực chất của giáo dục đạo đức chính là hình thành ở con người đức 
tính tốt, lịng nhân ái, nổi trội  ở đó là tinh thần u nước, lịng trung thành 
đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.
Mục tiêu của giáo dục đạo đức là nhằm loại bỏ  những thói hư, tật  
xấu, tư tưởng lạc hậu, trì trệ, sự  ích kỷ cá nhân, tính vơ nhân đạo. Vì theo  
Hồ Chí Minh: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng. Ta phải biết  
làm cho lịng tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xn và phần  
xấu bị mất dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng” [15, tr. 558].
Từ việc xác định rõ thực chất của vấn đề giáo dục đạo đức, xác định 
rõ mục tiêu của giáo dục đạo đức, Hồ  Chí Minh đã nêu lên những ngun  
tắc xây dựng đạo đức mới:
Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về  đạo đức. Đây là ngun tắc 

rèn để  rèn luyện, là cơ  sở  để  phân biệt đạo đức cách mạng với đạo đức 
khơng cách mạng.
Xây đi đơi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. 
Đây là ngun tắc có tính quy luật trong giáo dục đạo đức mới. Muốn xây  
dựng đạo đức mới thì nhất thiết phải chống lại các tệ  nạn, tiêu cực, thối 
hóa biến chất, chống là nhằm mục đích để xây và lấy xây làm chính.


12
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Đạo đức khơng phải là từ  trên trời  
rơi xuống mà được đào tạo, rèn luyện bền bỉ  hàng ngày để  phát triển và 
củng cố: “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức 
khơng thường xun tu dưỡng sẽ bị hoen ố.
Tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  đạo đức và giáo dục đạo đức là một cơ 
sở  lý luận xun suốt, ln hướng dẫn, chỉ  đường cho Đảng, qn đội, 
nhân dân ta học tập, rèn luyện, phấn đấu trong sự  nghiệp xây dựng đất 
nước thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đến năm 1979 Bộ chính trị và Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam 
đã ra nghị  quyết vế  cải cách giáo dục và  Ủy ban cải cách giáo dục Trung  
ương đã ra quyết định số 01 về cuộc vận động tăng cường giáo dục đạo đức 
cách mạng trong trường học, đã ghi rõ: “Nội dung đạo đức cần được giáo 
dục cho học sinh từ mẫu giáo đến đại học, nội dung chủ yếu dựa vào 5 điều 
bác Hồ dạy”.
Tiếp sau đó đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức 
như:
Thứ  trưởng Vũ Đình Nho “Một số  vấn đề  lý luận và tư  tưởng về 
giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học” (Báo Nghiên cứu giáo dục  
số 6/ 1980).
Tác giả  Trần Quang “Dạy đạo đức trong trường học” (Báo giáo 
dục thời đại số 18/1999).

Tác giả  Lê Châu “Cần xác định đúng mơn Giáo Dục Cơng Dân 
trong trường trung học phổ thơng” (Báo Giáo dục thời đại ngày 25/5/2001).
Giáo sư Đặng Vũ Hoạt “Đổi mới cơng tác giáo viên chủ nhiệm với 
việc giáo dục  đạo  đức cho học sinh” Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 
8/1992.


13
PGS­ TS Hà Nhật Thăng “Thực trạng đạo đức, tư  tưởng chính trị, 
lối sống của thanh niên­ học sinh­ sinh viên” (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục 
số 39/2002).
Về cơng tác quản lý giáo dục đạo đức trong những năm qua cũng có 
nhiều tác giả nghiên cứu như:
PGS­TS Đặng Quốc Bảo có bài “Những vấn  đề cơ bản về quản lý  
giáo dục” 1998.
Tác giả  Nguyễn Thị  Mỹ  Lộc “Quản lý nhà nước về  giáo dục đào 
tạo” 1998.
Nghị quyết của hội nghị lần II của Ban Chấp hành Trung ương Đảng  
khố VII (1996) có nêu: “Mục tiêu chủ  yếu là giáo dục tồn diện đức, trí,  
thể, mỹ ở tất cả các bậc học, hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, 
nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành” .
Với tư  tưởng này Đảng và Nhà nước ta đã đặt con người vào vị  trí 
trung tâm: Con người là mục tiêu và là động lực của sự phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay đất nước đang trong q trình hội nhập với  
quốc tế và khu vực, việc giáo dục nhân cách mới cho học sinh là nhiệm vụ 
và là mục tiêu cơ bản của sự nghiệp giáo dục đào tạo. Giáo dục nhân cách 
mới mà thời đại mới u cầu là “Giáo dục cho học sinh, sinh viên lịng u  
nước, u chủ  nghĩa xã hội, có bản lĩnh vững vàng, tư  duy sáng tạo, có 
năng lực thực hành, có khả  năng thích  ứng với nền kinh tế  nhiều thành 
phần”. Đặc biệt là, ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 06­

CT/TW về tổ  chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo  
đức Hồ  Chí Minh”. Sau 5 năm thực hiện cuộc vận động đã tạo ra phong 
trào phấn đấu tu dưỡng đạo đức trong mọi tầng lớp xã hội, mang lại hiệu 
quả  tốt. Do đó,   Bộ  Chính trị  khóa XI   tiếp tục có  Chỉ  thị  số  03­CT/TW, 


14
ngày 14 tháng 5 năm 2011 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo  
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Những văn kiện này là tài liệu đặc biệt 
quan trọng và có giá trị cao đối với giáo dục đạo đức xã hội nói chung, tổ 
chức quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng.
Ở  thành phố  Hồ  Chí Minh, ngành giáo dục­ đào tạo đã quan tâm và 
có nhiều văn bản chỉ đạo giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh trong 
nhà trường và đã tổ chức nhiều chương trình hội thảo, tọa đàm về cơng tác  
phịng chống tệ nạn xã hội và ma túy xâm nhập học đường.
Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức cho các đối tượng, cho học sinh 
đã được nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều tài liệu trình bày. Nhưng vấn  
đề  quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cịn ít tài liệu, cơng trình đề  cập. 
Do đó, nghiên cứu về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là vấn đề  mới 
mẻ  và cần thiết. Đặc biệt là,  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh nói chung và  ở 
quận Bình Tân nói riêng, nghiên cứu lý luận và thực tiễn về  vấn đề  giáo  
dục cũng như quản lý giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thơng chưa 
được thực hiện một cách có hệ thống.
Vì vậy chúng tơi hy vọng đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo 
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân, 
thành phố  Hồ  Chí Minh hiện nay” sẽ  góp phần giúp cho các trường trung  
học phổ  thơng trên địa bàn quận Bình Tân có thể  nâng cao hiệu quả  giáo 
dục đạo đức cho học sinh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn của giáo dục và 
quản lý giáo dục đạo đức đối với sự  hình thành và phát triển nhân cách của 
học sinh trung học phổ thơng, đề tài đề xuất một số biện pháp cơ bản quản 


15
lý hoạt động giáo dục đạo đức trong trường trung học phổ thơng trên địa bàn 
quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục 
đáp ứng u cầu phát triển mới của đất nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đã thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
­ Khái qt một số  vấn đề  lý luận cơ  bản về  giáo dục đạo đức và  
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận Bình 
Tân;
­ Nghiên cứu thực trạng về  tình hình giáo dục đạo đức và quản lý 
hoạt động giáo dục đạo đức  ở  5 trường trung học phổ  thơng trên địa bàn 
quận Bình Tân (An Lạc, Vĩnh Lộc, Nguyễn Hữu Cảnh, Bình Hưng Hồ, 
Bình Tân);
­   Đề  xuất một số  biện pháp chủ  yếu quản lý hoạt động giáo dục 
đạo đức cho học sinh trung học phổ  thơng trên địa bàn quận Bình Tân, 
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể  nghiên cứu:  Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học 
sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân.
Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo 
đức cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân.
Phạm vi nghiên cứu:   Đề  tài tập trung nghiên cứu các biện pháp 
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên  
địa bàn quận Bình Tân.
Số liệu khảo sát được thực hiện trên đội ngũ cán bộ quản lý, các lực 

lượng tham gia giáo dục đạo đức, giáo viên và học sinh từ  năm 2008 đến 
nay.


16
5. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học  
phổ  thơng là nội dung cơ bản của quản lý giáo dục trong nhà trường, ảnh 
hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong sự  nghiệp cơng nghiệp hóa,  
hiện đại hóa. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trên địa bàn quận Bình 
Tân cịn nhiều hạn chế, chưa đáp  ứng được u cầu phát triển kinh tế  xã 
hội hiện nay. Nếu phát huy được vai trị chỉ  đạo, điều hành; tổ  chức tốt 
nâng cao nhận thức về giáo dục đạo đức cho cán bộ giáo viên và học sinh; 
tạo điều kiện cho giáo viên sử  dụng hiệu quả các hình thức, phương pháp 
giáo dục, đồng thời phát huy vai trị của nhà trường trong phối hợp với các 
lực lượng giáo dục trên địa bàn thì quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho  
học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí  
Minh sẽ đáp ứng được u cầu giáo dục hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu
Q trình thực hiện luận văn, chúng tơi đã dựa trên cơ sở những quan 
điểm cơ  bản của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử  của Chủ 
nghĩa Mác­Lênin; qn triệt những tư  tưởng cơ bản của tư tưởng Hồ Chí 
Minh, quan điểm đường lối của Đảng về  giáo dục, nhất là các quan điểm 
trong các văn kiện nghị  quyết của Ban Chấp hành Trung  ương Đảng các 
khố IX, X, XI. Sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống cấu trúc trong  
xem xét, phân tích các đối tượng nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ đề 
ra.
Các phương pháp cụ thể



17
­   Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:  khái qt các tài liệu lý luận 
và thực tiễn để  xây dựng những quan niệm, khái niệm, xây dựng những  
quy trình, những ngun tắc nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức và 
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên  
địa bàn quận Bình Tân.
­   Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:  sử  dụng những phương 
pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn, đàm thoại...để  thu thập các tài liệu về 
thực trạng giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho 
học sinh trung học phổ thơng.
­  Phương pháp chun gia: Chúng tơi sẽ hỏi ý kiến các chun gia 
am hiểu về  giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức về 
thực trạng và các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động giáo 
dục đạo đức của học sinh trên địa bàn quận Bình Tân.
­  Phương pháp tốn thống kê: Sử  dụng để  tính tốn và xử  lý các 
số liệu điều tra thực trạng đã thu được từ đó rút ra nhận xét cần thiết cho 
đề tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
­ Kết quả nghiên cứu về  cơ  sở  lý luận và thực tiễn của đề  tài là tài  
liệu tham khảo cho cơng tác quản lý và nghiên cứu giáo dục đạo đức của 
các trường trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân.
­ Nội dung các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho 
học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân do đề tài đề xuất 
có thể   ứng dụng nâng cao chất lượng giáo dục và quản lý giáo dục đạo 
đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình 
Tân.


18

8. Cấu trúc luận văn:
Ngồi phần mở  đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và trích 
dẫn, các phụ lục, luận văn có 3 chương:


19
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO 
ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN 
QUẬN BÌNH TÂN
1.1. Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
1.1.1. Hoạt động giáo dục đạo đức
Đạo đức là khái niệm ln thường đạo lý của con người được sử 
dụng để phân biệt tốt­ xấu, đúng ­ sai, cái thiện – cái ác ... trong cuộc sống,  
được sử  dụng trong ba phạm vi: lương tâm con người, hệ  thống phép tắc 
đạo đức và sự  trừng phạt. Trong đời sống xã hội, nói đến đạo đức là nói 
đến các giá trị, các chuẩn mực đạo đức. Những quan niệm về các giá trị và 
chuẩn mực đạo đức có tính lịch sử ­ xã hội và gắn liền với các tư tưởng về 
triết học, về văn hóa trong mỗi thời kỳ lịch sử; chịu sự chi phối của các tư 
tưởng tơn giáo, chủ nghĩa nhân văn, và những luật lệ của một xã hội, phản 
ánh trong cách đối xử của con người với mơi trường xung quanh, với cộng  
đồng với người khác và với bản thân mình.
Theo quan niệm trước đây, đạo đức được hiểu đồng nghĩa với ln 
lý, đó là những chuẩn mực, hành vi được xã hội quy định, được nhiều  
người thừa nhận và tự giác thực hiện. Đó là những quy ước cộng đồng xã  
hội qua thời gian được thừa nhận và trở  thành truyền thống đạo lý trong  
ứng xử giữa người với người, người với tự nhiên, xã hội.
Ngày nay, trong hồn cảnh xã hội ln vận động, phát triển, quan  
niệm về  đạo đức được mở  rộng phạm vi. Đạo đức khơng chỉ  là phạm trù 
ln lý, những quy định đối nhân xử  thế  giữa người với người trong mọi  

phạm vi từ  nhỏ  đến lớn. Đạo đức cịn được mở  rộng đến vấn đề  ý thức,  


20
trách nhiệm giữ  gìn, bảo vệ  hịa bình, biết hợp tác phát triển cùng với các 
dân tộc khác, giáo dục trách nhiệm, xã hội lành mạnh, giáo dục việc thực 
hiện nghĩa vụ cơng dân trong sự  nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, 
thực hiện các mục tiêu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và tinh thần cảnh 
giác cách mạng trong xây dựng và bảo vệ  tổ  quốc. Với ý nghĩ đó, có thể 
hiểu đạo đức một là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc,  
ngun tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi 
của mình sao cho phù hợp với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người 
với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Giáo dục đạo đức là một nội dung quan trọng của q trình giáo dục 
theo nghĩa hẹp nhằm hình thành cho con người những quan điểm cơ  bản 
nhất, những ngun tắc, chuẩn mực quan trọng nhất làm cơ  sở  để  con 
người có thể lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội;  
biết tự  đánh giá, tự  suy ngẫm về  hành vi, cách  ứng xử  của mình. Vì thế,  
giáo dục đạo đức là thực hiện hình thành và phát triển nhân cách cho con 
người tương ứng với từng giai đoạn phát triển trong cuộc sống.
Giáo sư  Hà Thế  Ngữ  và Đặng Vũ Hoạt viết: “Giáo dục đạo đức là 
q trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ  những địi hỏi bên ngồi của xã 
hội đối với cá nhân thành những địi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm 
tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”. Đó là q trình tác động  
tới học sinh của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành cho học 
sinh ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức và cuối cùng quan trọng nhất là  
hình thành cho họ  thói quen, hành vi đạo đức trong đời sống xã hội. Song  
giáo dục trong nhà trường giữ  vai trị chủ  đạo định hướng “ Giáo dục đạo 
đức cho học sinh là bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục 
trong nhà trường xã hội chủ nghĩa” [07, tr. 128].



21
Giáo dục đạo đức là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách 
có mục đích, có tổ  chức thơng qua các hoạt động và các quan hệ  giữa nhà 
Giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm  
lĩnh những kinh nghiệm xã hội của lồi người.
Trong bất kỳ  xã hội nào, vấn đề  giáo dục đạo đức cho con người 
theo chuẩn mực giá trị  đạo đức của xã hội vẫn giữ  vai trị hết sức quan  
trọng. Giáo dục đạo đức là con đường chủ  yếu để  hình thành cho con  
người những quan điểm, những ngun tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức 
cơ bản nhất. Cùng với q trình giáo dục và hoạt động tích cực của mình, 
con người càng hiểu rõ vai trị to lớn của lương tâm, ý thức, danh dự và các  
phẩm chất đạo đức của cá nhân đối với bản thân mình trong đời sống cộng 
đồng, từ đó tham gia có ý thức, có trách nhiệm vào thúc đẩy tiến bộ xã hội
Nói đến hoạt động giáo dục đạo đức là nhấn mạnh xem xét giáo dục  
đạo đức theo cấu trúc hoạt động, tức là phải xem xét động cơ, mục đích, 
phương tiện cũng như  hệ  thống các hành động, thao tác tương  ứng của  
hoạt động đó. Mặt khác, quản lý được thực hiện bằng những cơng việc cụ 
thể  như  xác định mục tiêu; xác định quyết tâm và xây dựng kế  hoạch; tổ 
chức lực lượng, điều kiện và phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện kế 
hoạch; tổ  chức thực hiện theo kế  hoạch đã đề  ra; kiểm tra, đánh giá kết  
quả  đạt được, điều chỉnh việc thực hiện để  kết quả  đạt được như  mong  
muốn. Đây là những tư  tưởng cơ  bản để  làm rõ khái niệm quản lý hoạt  
động giáo dục đạo đức cho học sinh.
1.1.2. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Quản lý là sự  tác động liên tục, có tổ  chức, có định hướng của chủ 
thể  quản lý lên đối tượng quản lý về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã 
hội... thơng qua các luật lệ, các chính sách, các quy định theo những ngun 



22
tắc, phương pháp nhằm tạo ra mơi trường và điều kiện cho sự vận động của 
đối tượng theo đúng u cầu của chủ thể quản lý, đạt được mục tiêu quản lý  
đã đề ra.
Mọi người trong xã hội đều hoạt động trong những tổ  chức xã hội, 
những nhóm và cộng đồng. Trong khi đó, mỗi người là một nhân cách độc 
đáo, khơng lặp lại. Vì thế, khi cần hướng đến một mục tiêu chung, mong  
muốn đạt được kết quả chung thì phải có sự phối hợp thống nhất trong suy 
nghĩ, trong hành động của tất cả  các thành viên trong tổ  chức, nhóm hay 
cộng đồng đó. Đúng như một nhà tư tưởng đã nói: “Một người độc tấu thì 
tự điều khiển lấy mình, cịn một giàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
Có thể  khái qt, quản lý là q trình tác động có tổ  chức, có mục 
đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương tiện quản 
lý làm cho đối tượng quản lý nỗ lực tự  giác thực hiện các hành vi và hoạt 
động theo ý định của nhà quản lý để đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong 
điều kiện hồn cảnh cụ thể.
Xét về lịch sử thì khoa học Quản lý giáo dục xuất hiện sau khoa học 
quản lý kinh tế. Hiện nay, quản lý giáo dục là bộ  phận quan trọng của hệ 
thống quản lý xã hội. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa 
học đã đưa ra những cách định nghĩa khác nhau, tương  ứng là các quan 
điểm khác nhau về  quản lý giáo dục. Có thể  nêu một số  quan niệm tiêu 
biểu:
­ Theo M.I. Kondacop thì “Quản lý giáo dục là tác động có hệ  thống, 

có kế  hoạch, có ý thức và mục đích của chủ  thể  quản lý  ở  các cấp khác 
nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích bảo đảm cho sự hình 
thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy  
luật chung của xã hội cũng như  những quy luật của q trình giáo dục vào 



23
sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em” [29, tr. 17]. Quan niệm này chỉ rõ nơi  
tác động là tất cả các khâu của hệ thống; xác định rõ cách tác động của chủ 
thể quản lý là vận dụng nhưng quy luật xã hội và quy luật giáo dục; mơ tả 
rõ mục tiêu hướng tới của tác động quản lý là sự phát triển thể lực và tâm lý 
trẻ  em. Nhưng quan niệm này chưa tính đến sự  chi phối của các yếu tố 
chính trị xã hội đối với quản lý, do đó quản lý giáo dục khơng có định hướng 
chính trị rõ rệt.
­ Tác giả  Phạm Minh Hạc khái qt: “Quản lý giáo dục là quản lý 

trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách 
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo ngun lý giáo dục 
để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với 
thế  hệ  trẻ  và với từng học sinh”.  Ở  đây, tác giả  nhấn mạnh đường lối 
chính trị  mà cơng tác quản lý phải qn triệt khi tác động vào đối tượng 
quản lý. Tuy nhiên, cách thức, phương tiện tác động chưa được đề cập.
Một số  tác giả  khác cũng có những cách định nghĩa riêng. Mỗi cách 
định nghĩa quản lý giáo dục đều quan tâm làm nổi bật những khía cạnh  
nhất định liên quan đến mục đích và nhiệm vụ  nghiên cứu của mình. Tuy  
nhiên, chúng tơi thấy, bản chất của quản lý giáo dục là q trình tác động 
có ý thức của chủ thể quản lý và các thành tố khác trong hệ thống quản lý 
bằng những cơng cụ, phương tiện nhất định, nhằm làm cho kết quả  q 
trình giáo dục đạt mục tiêu đã định, phù hợp với đường lối quan điểm của  
Đảng và nhà nước về giáo dục. Đây là một cơng việc rất quan trọng trong 
đào tạo nguồn nhân lực nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ có đầy đủ kiến thức 
và kỹ năng, phẩm chất để đảm nhận các chức năng xã hội.
Chủ thể quản lý giáo dục là nhà quản lý, tập thể các nhà quản lý hay  
bộ  máy quản lý giáo dục. Trong trường đó là Hiệu trưởng (cùng với bộ 



×