Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh trung học phổ thông, thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 10 qua khảo sát một số trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện củ chi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.04 KB, 97 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------------

LÊ HỒNG CÚC

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG, THÔNG
QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI - TP
HỒ CHÍ MINH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 8/2012


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------------

LÊ HỒNG CÚC

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG, THÔNG
QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10


(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI- TP HỒ
CHÍ MINH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ mơn chính
trị
Mã số: 60.14.01.11

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ ĐÌNH LỤC


3

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ, ngoài sự nổ lực cố gắng của bản thân, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều Thầy, Cơ trong và ngồi nhà trường.
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS. Lê
Đình Lục - Người đã trực tiếp hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tơi hồn thành
luận văn.
Nhân đây, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cơ trong
khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh và Trường THPT Phú Hòa,
Huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tơi trong q
trình học tập, nghiên cứu .
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong
gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian qua.
Tp. Hồ Chí Minh, Tháng 08 năm 2012
Tác giả


Lê Hồng Cúc

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….01


4
B. NỘI DUNG
Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ
TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH THPT HIỆN
NAY……………………………………………………………………………….08
1.1. Vai trò của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh
THPT………………………………………………………………………………08
1.2. Yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh
THPT

thông

qua

dạy

học

môn

GDCD

lớp


10………………………………………..23
1.3. Thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống ở các trường THPT
trên

địa

bàn

huyện

Củ

Chi…………………………………………………………………….29

Chương 2: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM MỘT SỐ BÀI GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO
ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 (TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG THPT TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CỦ CHI - TP HỒ CHÍ MINH)……………………….40
2.1. Chuẩn bị thực nghiệm………………………………………………………..40
2.2. Nội dung thực nghiệm………………………………………………………..45
2.3. Kết quả thực nghiệm………………………………………………………….55
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰNÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH THPT Ở CỦ CHI
HIỆN
NAY………………………………………………………………………………60
3.1. Phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống cho học sinh các trường THPT ở Củ Chi hiện nay thông qua
day


hoc

môn

GDCD…………………………………………………………………………….60


5
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo
đức

truyền

thống

cho

học

sinh

THPT



huyện

Củ

Chi


hiện

nay………………………72
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………….88
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………...91


6

NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
-----------****----------ĐCSVN.................................................................Đảng Cộng sản Việt Nam
THPT..............................................................................trung học phổ thơng
XH.........................................................................................................xã hội
GĐ......................................................................................................gia đình
HS......................................................................................................học sinh
BCHTW.............................................................Ban Chấp hành Trung ương
GDCD................................................................................giáo dục cơng dân
XHCN..................................................................................xã hội chủ nghĩa
TP.HCM...................................................................thành phố Hồ Chí Minh


7

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ 21, thế kỷ của sự bùng
nổ về thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ trước đến nay. Những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong những năm gần đây làm thay đổi cuộc sống
của nhiều dân tộc trên thế giới.

Việt Nam là một quốc gia thuộc các nước đang phát triển về mặt kinh tế, lại
trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài. Song, dưới tác động của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, Việt Nam cũng đang từng ngày từng giờ thay đổi diện
mạo của mình.
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta chủ trương
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau gần 20 năm
đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu đáng tự hào. Về cơ bản, chúng ta đã
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã có sự tăng trưởng về kinh tế,
phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại, tình hình kinh tế chính trị
cơ bản là ổn định, quốc phịng an ninh được tăng cường, thế và lực ngày càng được
củng cố và phát triển.
Kinh tế thị trường đã đem lại cho ta những điều "kỳ diệu" trong sự phát triển
kinh tế - xã hội, tuy nhiên nó cũng là mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ
lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang từng ngày, từng giờ làm
băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của
văn hóa truyền thống. Mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra một bộ phận khơng nhỏ
lớp người trong xã hội nói chung, một bộ phận thanh niên, học sinh nói riêng có lối
sống chạy theo đồng tiền, bng thả, quay lưng với văn hóa, với truyền thống dân tộc.


8
Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường, đồng thời phải bảo
tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa VII, ngun Tổng Bí thư Đỗ Mười đã
khẳng định: Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ
tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị
truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái
bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về "Một số định hướng lớn trong công tác tư

tưởng hiện nay" tiếp tục khẳng định: Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái
mới tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách rời khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa
trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được cội nguồn.
Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là những giá trị luân lý đạo đức).
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần rất lớn
vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên và học sinh nói riêng. Liệu chúng ta có thể giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi thế hệ trẻ bị phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ
gìn những giá trị truyền thống dân tộc? Trong những điều kiện mới của đất nước, chúng
ta đã chuẩn bị "hành trang" gì cho họ? Điều tiên quyết và khơng thể thiếu đó là "truyền
thống dân tộc", những truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng
nước và giữ nước đã giúp chúng ta "hội nhập" mà khơng bị "hịa tan", phát triển mà
không bị "mất gốc", trọng truyền thống mà khơng bảo thủ, tất cả những điều đó đã và
đang giúp cho thế hệ trẻ nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình, đứng vững trước mọi
thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là vấn đề
hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn
chọn: "Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh THPT thông qua dạy học


9
môn Giáo dục công dân lớp 10 (qua khảo sát một số trường THPT trên địa bàn
huyện Củ Chi- TP Hồ Chí Minh)" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã đề cập đến
khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị tinh thần truyền
thống Việt Nam" do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980;
"Biện chứng của truyền thống" của Hà Văn Tấn, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Về
truyền thống dân tộc" của Trần Quốc Vượng, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Cái
truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta" của

Đỗ Huy, Tạp chí Thơng tin Khoa học xã hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại" của Lương Quỳnh Kh,
Tạp chí Triết học, số 4-1992; "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994; "Giá
trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" do Nguyễn Quang Uẩn chủ biên,
1995; "Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo
dục lối sống cho sinh viên", Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số B94-38-32 do Mạc
Văn Trang chủ biên (Viện nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo),
1995; "Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế
thị trường" của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học, số 5-1995; "Quan hệ kinh tế và
đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt,
Tạp chí Triết học, 6-1996; "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức
người cán bộ quản lý" của Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2-1997;
"Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước
ta hiện nay" của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của Hoàng


10
Trung, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục
tiêu phát triển" của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2, 1998; "Giáo dục đạo
đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán, 1999; "Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt
chú trọng đến vấn đề đạo đức?" của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 4, 2000; "Tình
cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay" của Nguyễn Văn
Phúc, Tạp chí Triết học, số 6, 2000; "Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ
Triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000; "Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời
sống xã hội" của Mai Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3, 2001; "Lý tưởng đạo đức và
việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay" của Đồn Văn

Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2, 2001; "Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng
đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo quản lý" của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Lý
luận chính trị, số 4, 2001; "Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn
nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của Trần Nguyên Việt, Tạp chí
Triết học, số 5, 2002; "Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi
mới ở Việt Nam hiện nay" của Lê Sĩ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Một số
biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002;
"Khoa học công nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường" của Nguyễn Đình
Hịa, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Từ "cái thiện" truyền thống đến "cái thiện" trong
cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số
8, 2002; "Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức
cho thanh niên Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh,
2002; "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay" của Trần
Văn Phịng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5, 2003 v.v...


11
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to lớn đối
với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nước ta.
Tuy nhiên, những cơng trình này chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh THPT trong giai đoạn cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học
sinh các trường THPT trên địa bàn huyện Củ Chi và nguyên nhân của nó, luận văn đề
xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống cho học sinh THPT nước ta nói chung, huyện Củ Chi nói
riêng trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống, từ đó xác định tầm quan
trọng và yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh THPT
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học THPT ở
huyện Củ Chi hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay
(qua khảo sát các trường trên địa bàn huyện Củ Chi).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


12
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
học sinh THPT thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 10 (Qua khảo sát một
số trường trên địa bàn huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh)
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung điều tra, phân tích tình hình giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho học sinh THPT thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 10 (Qua
khảo sát một số trường trên địa bàn huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Tác giả hực hiện luận văn này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống. Ngoài ra, tác giả
luận văn cịn kế thừa các thành tựu của các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố có
liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả luận văn sử dụng phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử lơgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học... nhằm thực
hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Giả thuyết khoa học
- Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục những
giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh THPT nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho học sinh các trường THPT ở huyện Củ Chi, bước đầu đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho


13
học sinh THPT trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập phần "Công dân với đạo đức" ở các trường THPT.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH THPT HIỆN NAY

Chương 2: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM MỘT SỐ BÀI GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO
ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 (TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG THPT TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CỦ CHI - TP HỒ CHÍ MINH)
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO
HỌC SINH THPT Ở CỦ CHI HIỆN NAY



14

B. NỘI DUNG
Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ
TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THƠNG HIỆN NAY
1.1. Vai trị của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh trung học
phổ thông
1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và
được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con
người với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo
sự biến đổi của đời sống xã hội.
Về khái niệm truyền thống, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau.
“Truyền thống” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là traditio - sự chuyển giao, lưu
truyền lại, nhường lại, phân phát - đó là các giá trị tinh hoa văn hóa được lưu truyền
từ những thế hệ trước và nó được gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay nhóm xã hội nhất
định. Trong cuốn Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hóa có
đoạn viết: “Từ đây, cái được gọi là truyền thống chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận
thiết yếu của cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ
khi nào nó có khả năng phát triển cuộc sống của chúng ta” [4; 23].
Theo GS. Trần Văn Giàu, “Truyền thống là những đức tính hay những thói tục
kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kì lịch sử có nhiều tác dụng, tác dụng đó có thể tích
cực, cũng có thể tiêu cực”; “Truyền thống có cái tốt, cái xấu, tốt như truyền thống
cưỡi ngựa cầm gươm, xuống ngựa cầm bút của các tướng sĩ Việt Nam, xấu như mê
đồng bóng như gió thiển cận trong lũy tre làng”.[18; 60]. Hồ Chí Minh cũng từng dạy:



15
“Khơi phục vốn cổ thì chỉ nên khơi phục cái gì tốt, cịn cái gì khơng tốt thì nên loại
dần ra”.
Truyền thống của một cộng đồng dân tộc bao gồm những đức tính, thói quen,
những phong tục tập qn xã hội của các thế hệ nối tiếp nhau, nó mang các đặc trưng:
cộng đồng, bình ổn, lưu truyền. “Nói đến truyền thống là nói đến phức hợp những tư
tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí...
của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định và được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” [3; 16-19].
Như vậy, những giá trị truyền thống tốt đẹp được lưu truyền từ đời này qua đời
khác là một bộ phận thiết yếu của đời sống con người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và
phát triển cuộc sống của chúng ta.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị tinh thần
của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được xác định là
những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con người
với con người, giữa con người với tự nhiên. Đặc điểm cơ bản của truyền thống nói
chung, giá trị đạo đức truyền thống nói riêng là sự kế thừa.
Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân tộc, chính là nói đến
truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó chính là những giá trị bình ổn, tốt
đẹp, có thể lưu truyền từ đời này qua đời khác, là những cái cần được giữ gìn, phát
huy và phát triển cho phù hợp với xã hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống
là một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó.
Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta là nói đến
những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo tồn trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta được cô
đúc, được thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo những bước thăng



16
trầm của lịch sử, nó chứa đựng một tiềm năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là
sức mạnh vốn có của dân tộc Việt Nam, giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát
triển. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta do chính cộng đồng người Việt Nam
tạo lập trong quá trình dựng nước và giữ nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc
thù riêng vốn có, đã tạo nên một bản sắc hết sức độc đáo.
Chúng ta luôn tự hào là dân tộc ta có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước. Trong q trình đó, con người việt Nam tuy đã phải trải qua biết bao nhiêu
biến cố nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống cho dân tộc mình. Và nét đẹp truyền
thống đó được kết tinh trong hình ảnh một con người, một danh nhân văn hoá thế
giới, vị cha già của dân tộc Việt Nam - lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong suốt cuộc đời
mình, Bác Hồ ln nêu một tấm gương sáng trong việc nâng niu, gìn giữ những gì mà
cha ơng ta để lại, Người đã từng nói: “Nhân dân ta sẵn có truyền thống tốt đẹp là lao
động cần cù, sinh hoạt giản dị, lại có tinh thần yêu nước nồng nàn. Chúng ta cần phát
huy truyền thống và tinh thần ấy”. Trân trọng những gì của cha ơng nhưng khơng phải
là khư khư giữ lại mọi di sản tư tưởng lỗi thời, Bác Hồ luôn biết “gạn đục khơi trong,
gạt bỏ mọi nhân tố tiêu cực của quá khứ để giữ lại và phát huy nhưng tinh hoa của
dân tộc và nhân loại trong mọi lĩnh vực của đời sống”. Vì vậy mà những tư tưởng đạo
đức của Người đã gắn liền với thực tiễn chiến đấu, lao động, tu dưỡng và học tập của
nhân dân ta, trở thành nền tảng đạo đức của xã hội. Và ngày nay, đạo đức của Người
là di sản vô cùng quý báu, đã và đang là động lực tinh thần cho toàn Đảng, toàn dân
trong sự nghiệp đổi mới nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh.
1.1.2. Những giá trị đạo đức truyền thống cần giáo dục cho học sinh THPT
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành và
phát triển qua mấy ngàn năm lao động sáng tạo cần cù, chiến đấu kiên cường của dân
tộc. Việt Nam là nước có điều kiện tự nhiên mưa nắng thất thường do nằm ở khu vực
gió mùa, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và đông nam, thường xuyên phải chịu



17
cảnh lũ lụt, hạn hán. Chính những đặc điểm tự nhiên này ảnh hưởng đến sự hình
thành giá trị dân tộc Việt Nam, tạo nên sự gắn bó cần cù trong lao động, yêu thương
đùm bọc lẫn nhau. Bên cạnh đó, do có nhiều tài nguyên thiên nhiên và là đầu mối
giao thông của nhiều nước nên Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của các đế quốc
hùng mạnh. Vì lẽ đó, để tồn tại và phát triển, người dân Việt Nam phải tập hợp lại
thành một khối đoàn kết, đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Ngoài những giá trị cốt lõi “tự thân” đó, giá trị đạo đức truyền thống của Việt
Nam còn được bồi đắp, bổ sung qua sự giao lưu và tiếp thu văn hóa nhân loại, đặc
biệt là từ các nền văn hóa lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, với cốt lõi là đạo Nho, đạo
Phật và Đạo giáo. Đây là những “đạo” đã xâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm.
Đạo Nho được truyền bá vào nước ta từ rất lâu đời. Đạo Nho là một học
thuyết chính trị - đạo đức - xã hội (mà Khổng Tử là người khởi xướng) lấy đức làm
trọng, là công cụ để quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc với rất nhiều
giáo lý phù hợp với Việt Nam. Đạo Nho nhanh chóng được giai cấp thống trị Việt
Nam tiếp nhận và sử dụng như công cụ để quản lý xã hội. Những nội dung của đạo
Nho như: nhân, lễ, chính danh, tam cương, ngũ thường . . . đã ăn sâu vào đời sống
người Việt Nam. Mặc dù có những quan niệm tiêu cực như trọng nam khinh nữ, xem
nhẹ lao động chân tay, . . . song đạo Nho đã có nhiều tác động tích cực tới nhân cách
con người Việt Nam.
Đạo giáo của Lão Tử cũng góp phần làm phong phú thêm truyền thống dân
tộc, nó góp phần làm mạnh mẽ thêm tinh thần đồn kết, thân ái, gắn bó và tinh thần
chống áp bức bóc lột của vua chúa. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực, Đạo
giáo cũng có yếu tố tiêu cực là mê tín dị đoan.
Với tư tưởng từ bi hỉ xả, đạo Phật của nền văn hóa Ấn Độ đã dễ dàng thâm
nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Phật giáo cho rằng có một thế giới vĩnh hằng đó là cõi
“niết bàn”, Phật giáo khuyến khích con người sống ở hiền gặp lành, tích đức để có
được cuộc sống tốt đẹp trong thế giới mai sau. Đương nhiên, tư tưởng này vừa có mặt



18
tích cực vừa có mặt tiêu cực, nhưng ít nhiều nó cũng ảnh hưởng truyền thống vốn có
của dân tộc ta, làm sâu thêm truyền thống nhân ái yêu thương con người của dân tộc
Việt Nam. Chính đặc điểm hình thành và phát triển của xã hội Việt Nam đã làm cho
giá trị đạo đức được bồi đắp thường xuyên trong suốt chiều dài lịch sử. Cùng với thời
gian, các giá trị này ngày càng ổn định và được lưu truyền từ đời này sang đời khác,
trở thành cội nguồn sức mạnh của con người Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam khơng chỉ giao lưu văn hóa phương Đơng mà cịn có sự
giao lưu văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Khi trào lưu văn hóa tơn giáo
du nhập vào Việt Nam đã được Việt Nam tiếp nhận có chọn lọc, kế thừa để hình
thành những nét đặc trưng riêng của mình để góp phần làm giàu thêm giá trị đạo đức
của dân tộc.
Cho đến nay, văn hóa Việt Nam tuy có nhiều thay đổi trên nhiều phương diện
nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc văn hóa riêng của mình, hội nhập mà khơng
hịa tan, khơng đánh mất mình và vẫn giữ được những giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp quý báu của dân tộc. Đặc điểm của nền văn hóa Việt Nam hiện nay, theo quan
điểm của Đảng ta, đó là nền văn hóa“tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn
diện, thống nhất trong đa dạng” [11; 75- 76]. Đây là nền văn hóa của thời kì đất nước
q độ lên chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa này chính là nền văn hóa của cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa này cùng với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa tạo thành một chỉnh thể hữu cơ của một thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nghị quyết "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc", Đảng đã đã chỉ rõ những thành tố cơ bản tạo nên bản sắc
dân tộc của văn hóa Việt Nam như sau:
“ Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn; lịng tự tơn, tự cường dân tộc; tinh thần



19
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung,
trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; là đức hy sinh cao
thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; là sự tế nhị trong cư xử,
tính giản dị trong lối sống” [ 8; 10-11].
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần
thứ IX cũng đã xác định: “Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện
nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước,
ý chí tự lực tự cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc”
Xung quanh việc xác định các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam, đã
có rất nhiều quan điểm của các học giả, các nhà khoa học bàn về vấn đề này.
Theo giáo sư Vũ Khiêu, truyền thống đạo đức dân tộc bao gồm: “Lịng u
nước, truyền thống đồn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh thần nhân đạo, trong đó
yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ giá trị đạo đức”[27; 74 – 86].
Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam bao gồm : yêu nước, cần cù, sáng tạo, lạc quan, thương người, vị nghĩa [xem:
18; 108]. Còn trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các giá trị đạo đức thường
đề cập đến và được coi là những giá trị nổi bật.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong cơng tác tư
tưởng hiện nay chỉ rõ: “Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt
Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý”, “thương người
như thể thương thân”, đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong lao động” [11; 19].
Nhìn chung từ các quan điểm của các nhà khoa học cũng như của Đảng ta đều
khẳng định dân tộc ta có một di sản giá trị đạo đức vơ cùng phong phú, trong đó điển
hình là tinh thần u nước, lịng thương người, tinh thần đồn kết, lao động cần cù
sáng tạo, tiết kiệm …
Mỗi một dân tộc trên thế giới đều có tình cảm u q hương đất nước. Nhưng
đối với dân tộc Việt Nam, tinh thần yêu nước là thứ tình cảm thiêng liêng xuất phát từ



20
tình cảm gắn bó keo sơn. u nước là đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, ln chăm
lo xây dựng và bảo vệ đất nước, ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc.
Tinh thần yêu nước bắt nguồn từ những cảm bình dị nhất, đơn sơ của mỗi
người. Tình cảm đó, trước hết là sự quan tâm đến những người thân trong gia đình
ơng, bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, bà con hàng xóm… sau đó phát triển
thành tình u Tổ quốc. Tình u đất nước khơng phải là tình cảm bẩm sinh mà là sản
phẩm của sự phát triển lịch sử gắn liền với một đất nước nhất định.
Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm. Vì vậy,
yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Dù ở
hồn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn ln kiên cường bất khuất “thà hy sinh tất cả
chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Già trẻ gái trai nhất trí để
đứng lên chống giặc “giặc tới nhà đàn bà cũng đánh”. Chính vì vậy mà hơn ngàn năm
Bắc thuộc, ông cha ta vẫn bám trụ, bám làng, giữ đất, gắn bó với mồ mả ông bà tổ
tiên, nơi chôn nhau, cắt rốn của mình, kiên quyết đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
khởi nghĩa để giành độc lập cho dân tộc. Khơng có dân tộc nào trên thế giới lại phải
chịu nhiều cuộc chiến tranh như vậy và với kẻ thù mạnh hơn rất nhiều như dân tộc
Việt Nam. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam
không hề giảm sút mà nó ln được hun đúc, cháy bỏng trong lòng người dân Việt.
Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện từ thời Vua Hùng dựng
nước cho đến cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với hơn 1000 năm Bắc thuộc từ khởi
nghĩa Hai Bà Trưng đến cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền (938) đã đánh tan quân Nam
Hán mở ra thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Từ 938 đến 1789, dân tộc ta liên tiếp đánh
tan quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh, Thanh,… Từ cuối thế kỷ XIX đến 1975,
nhân dân ta lại đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đúng như Bác Hồ đã từng
khẳng định: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền thống q báu của
dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần đó trở nên sơi


21

nổi, nó kết thành làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, nó bước qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm cả lũ bán nước và cướp nước.”
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, được thử thách và
được khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung và phát triển qua
từng thời kỳ, nó là một trong những giá trị truyền thống cao quý và bền vững nhất của
dân tộc ta. Ngày nay, truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam thể hiện trong
xây dựng đất nước, trước hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt kinh tế, chính
trị, văn hóa... Thể hiện ở sự nhất trí, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, vào
khả năng, sức mạnh tự lực tự cường của mình trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Có thể nói rằng, dưới thời đại
Hồ Chí Minh, truyền thống u nước được phát huy lên tầm cao mới thành lý tưởng:
sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc
của nhân dân...
Truyền thống nhân ái - yêu thương con người có nguồn gốc sâu xa trong sinh
hoạt làng xã nơng thôn, trong lao động sản xuất chung lưng, đấu cật khi chống thiên
tai và giữ gìn đất nước. Tấm lịng nhân nghĩa và triết lí sống của dân tộc Việt Nam, đó
là: “thương người như thể thương thân”, tình làng nghĩa xóm tối lửa tắt đèn có nhau,
hết lịng vì mọi người, đùm bọc, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn khó khăn khơng một
chút tính tốn so đo hơn thiệt.
Trong suốt chiều dài lịch sử, con người Việt Nam luôn gắn tình u q hương
đất nước với lịng nhân ái yêu thương con người, sẵn sàng xả thân vì đất nước. Với
lịch sử mấy ngàn năm luôn phải đối điện với nguy cơ bị xâm lược và đồng hoá, hơn ai
hết, chúng ta hiểu rõ quyền sống của mình là không thể tách rời với vận mệnh tổ quốc
và dân tộc.
Lòng nhân ái, nhân nghĩa của người Việt Nam còn thể hiện ở lịng vị tha cao
thượng, khơng cố chấp đối với những kẻ lầm đường lạc lối nhưng biết lập cơng chuộc
tội, trở về với chính nghĩa. Chính tư tưởng “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí


22

nhân để thay cường bạo” trong Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi là sự thể hiện đỉnh
cao của lòng nhân ái đó. Người Việt Nam lấy tình u thương làm cách xử thế ở đời,
đối với kẻ thù thậm chí cịn mở đường hiếu sinh khi thua trận. Vua Quang Trung sau
khi đánh bại quân Thanh còn cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn quân về
nước.
Hồ Chủ Tịch là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ lòng
thương yêu con người - người lao động, yêu quê hương đất nước, Bác đã bôn ba tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy sinh cho độc lập dân
tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đúng như nhà thơ Tố Hữu viết: “Bác ơi tim Bác mênh
mông thế, ôm cả non sơng mọi kiếp người”. Lịng nhân ái của Người đã trở thành sức
mạnh, có tác dụng cảm hóa hàng vạn con người lầm đường lạc lối, theo kẻ thù chống
lại nhân dân. Bác xem họ như là những đứa con “lạc bầy” cần được cưu mang. Bác
nói: “Giống như bàn tay cũng có ngón dài ngón ngắn, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi
bàn tay. Trong mấy chục triệu người, có người thế này, người thế khác, nhưng tất cả
đều là dòng dõi tổ tiên ta, đều là người Việt Nam, nên cần phải khoan dung đại lượng”.
Lồng nhân ái bao la đó của Bác đã thấm sâu vào chủ trương đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta. Hàng năm, Đảng và Nhà nước thường có những đợt giảm án
cho hàng trăm phạm nhân cải tạo tốt.
Lòng nhân ái của người Việt Nam cũng là lòng yêu chuộng hịa bình và tình
hữu nghị giữa các dân tộc. Trong quan hệ với các nước láng giềng, nhân dân ta bao
giờ cũng trọng tình hịa hiếu, cố gắng tránh xảy ra những xung đột. Truyền thống đó
được thể hiện trong đường lối đối ngoại của Đảng: “Việt Nam muốn làm bạn với tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào “uống nước nhớ
nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc bà Mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình
thương binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già cả neo đơn khơng nơi nương tựa. Phát
động phong trào xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc vùng sâu vùng xa, rút ngắn


23

khoảng cách thành thị - nông thôn, miền xuôi - miền ngược... Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V Đảng ta đã khẳng định: Người Việt Nam vốn có lịng u nước thiết
tha, có tinh thần dân chủ, bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. “Thương
nước - thương nhà, thương người - thương mình” là truyền thống đậm đà bản sắc của
nhân dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà trong suốt mấy ngàn năm
lịch sử, dân tộc ta đã làm nên nhiều chiến cơng oanh liệt. Từ ngày có Đảng, dưới ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân chủ của nhân
dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Truyền thống nhân nghĩa, nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta. Nó là cái gốc của đạo đức, truyền thống này chính là nguồn gốc sâu xa
nhất, bền chặt nhất của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo trong lao động cũng
là một giá trị đạo đức có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Nó hình thành và phát triển
trong điều kiện tự nhiên hết sức khắc nghiệt ngay từ khi dựng nước. Trải qua biết bao
thế hệ , nhờ được phát huy, dân tộc Việt Nam đã tạo ra nhiều giá trị vật chất lẫn giá trị
tinh thần vượt qua bao khó khăn để xây dựng và phát triển đất nước.
Về tự nhiên: đất nước liên tục xảy ra bão, lũ lụt, hạn hán, về mặt xã hội:
đất nước luôn bị chiến tranh kéo dài. Nhưng suốt trong q trình lịch sử nhân dân ta
ln bám đất bám làng, vừa sản xuất vừa đấu tranh chống giặc ngoại xâm, sống trong
hoàn cảnh gian khổ như vậy, nhưng nhờ đức tình cần cù tiết kiệm mà nhân dân ta
vượt qua mọi khó khăn thử thách để dân tộc phát triển mạnh mẽ.
Người Việt luôn nhắc nhở với nhau rằng “ năng nhặt chặt bị”, “ kiến tha
lâu đầy tổ” và ln phê phán thói “ ăn khơng ngồi rồi”. Với họ, lao động cần cù luôn
gắn với tiết kiệm bởi lẽ “ buôn tàu buôn bè không bằng ăn dè hà tiện”. Ông cha ta
cũng nhắc nhở các con cháu rằng “ được mùa chớ phụ ngô khoai, đến khi thất bát lấy
ai bạn cùng”. Hồ Chí Minh nêu rõ “ cần, kiệm, liêm, chính, nếu thiếu một đức tính thì


24
khơng làm người”. Người cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của

một dân tộc, là cốt lõi của đạo đức xã hội .
Ngày nay, cần cù sáng tạo được biểu hiện rõ trong lao động sản xuất,
trong khoa học kĩ thuật, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Cần cù, sáng tạo còn thể hiện
qua việc thi đua trên mọi lĩnh vực, ở mọi cơ quan, trường học, xí nghiệp … Đặc biệt
trong q trình cơng nghiệp hố hiện đại hố cần địi hỏi hơn nữa ở thế hệ trẻ tình yêu
lao động và ý thức học tập, phấn đấu vì lợi ích chung của xã hội .
Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo.
Hiếu học là truyền thống quý báu của người Việt Nam. Động cơ học để
làm người là nguyên nhân sâu xa và cơ bản nhất, chủ yếu nhất tạo nên sự hiếu học,
“tôn sư trọng đạo” của dân tộc ta. Người Việt Nam ngay từ thuở ấu thơ đã được sống
trong lời ru của mẹ : “Qua sông phải bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy
thầy”. Truyền thống hiếu học, “tơn sư trọng đạo” cịn bắt nguồn từ nhận thức sâu xa
coi tri thức là động lực cho sự phát triển xã hội. Từ xưa, ông cha ta đã biết chăm sóc,
bồi dưỡng và phát triển nhân tài cho đất nước. Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) là
trường đại học quốc lập đầu tiên ở Việt Nam được thành lập để đào tạo nhân tài.
Trong bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, hiệu Đại Bảo thứ ba năm 1442 ở Văn Miếu (Hà
Nội) có ghi: “Hiền tài là ngun khí của quốc gia, ngun khí vững thì thế nước mạnh
và thịnh, ngun khí kém thì thế nước yếu và suy”. Trong thực tế lịch sử các triều đại,
các đấng “thánh đế, minh quân” không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi
đắp nguyên khí.
Hồ Chí Minh - vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã luôn
dành cho công tác giáo dục sự quan tâm và chú trọng đặc biệt. Sau khi Cách mạng
tháng Tám thành công, nước nhà mới dành được độc lập, khi vận mệnh đất nước đang
như ngàn cân treo sợi tóc, Đảng và Bác Hồ đã chủ trương đồng thời chống cả ba thứ
giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong đó chống giặc dốt cũng rất quan
trọng cấp bách như chống giặc đói để nhân dân ấm no và chống giặc ngoại xâm bảo
vệ đất nước. Bác còn cảnh báo: “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.


25

Cũng từ sự hiếu học và nhân nghĩa, nghề thầy giáo thời nào cũng được tơn
trọng. Ơng cha ta có câu “nhất tự vi sư bán tự vi sư” (Một chữ cũng là thầy, nửa chữ
cũng là thầy ), “ khơng thầy đố mày làm nên”. Một triết lí của người Việt Nam là cây
phải có gốc, sơng phải có nguồn, muốn trở thành một con người đúng nghĩa phải có
thầy. Nhớ cơng ơn thầy là đạo lý, vừa là nét đẹp của truyền thống uống nước nhớ
nguồn ….
Những nhà giáo xuất chúng như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã trở thành tấm gương về tài trí, khí phách văn hoá của một dân tộc hiếu học,
giàu truyền thống tôn sư trọng đạo.
Hiện nay, ngọn lửa truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam lại tiếp tục
được thắp sáng trong tất cả mọi người dân yêu nước, nhất là thế hệ trẻ. Họ đang ngày
đêm rèn đức luyện tài vì ngày mai tươi sáng, vì sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước. Trong các đường lối, chủ trương và chính sách lãnh đạo, điều hành đất
nước, Đảng và Nhà nước cũng luôn thể hiện sự ưu tiên lớn cho giáo dục. Hội nghị lần
thứ II Ban chấp hành trung ương (khóa VIII) của Đảng đã nhấn mạnh: “Khâu then
chốt để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý giáo dục cả về mặt chính trị, tư
tưởng, đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Ưu tiên xây dựng các trường sư
phạm, phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”, sử dụng giáo viên đúng năng lực, đãi
ngộ theo tài năng và cống hiến với tinh thần ưu đãi tôn vinh nghề dạy học” [7; 13].
Trong những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý có phẩm chất đạo đức, năng lực chính trị và chun mơn nghiệp vụ cao. Đội
ngũ này cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”, góp phần tích cực vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Hòa vào dòng chảy chủ nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa
yêu nước, tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam cũng là một giá trị truyền thống bất



×