Lời nói đầu :
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và chủ tịch Hồ Chí Minh;
dân tộc Việt Nam đã làm nên những chiến công hiển hách và những thắng lợi có
ý nghĩa lịch sử cũng như thời đại. Đảng ra đời đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo của
cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Trong những thời gian đầu mới
thành lập cơ sở đảng tuy chưa nhiều, song đã trở thành hạt nhân của phong trào
cách mạng. Những tổ chức quần chúng cách mạng được thành lập ở nhiều nơi.
Đưòng lối của đảng đã phản ánh đúng nguyện vọng của quần chúng, được tuyên
trưyền rộng rãi, làm cho ý thức giác ngộ của quần chúng ngày càng được nâng
cao.
Dưới sự lãnh đạo của đảng phong trào đấu tranh của quần chúng bùng lên một
cách mạnh mẽ.Đảng đã vạch ra những đường lối,chính sách để đưa dân tộc ta đi hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác,điều này thể hiện rõ ở đường lối kháng chiến
chống thực dân pháp xâm lược của đảng cộng sản Đông Dương những năm đầu
kháng chiến 1946-1950
Chương 1 :Hoàn cảnh lịch sử của đất nước ta sau cách mạng tháng tám
1945
1) Những thuận lợi
Cách mạng tháng 8 thắng lợi đem lại cho Việt Nam thế và lực mới. Đảng ta từ
một Đảng hoạt động bất hợp pháp trở thành Đảng cầm quyền, nhân dân ta được giải
phóng khỏi cuộc đời nô lệ trở thành người chủ đất nước mình
Cách mạng Tháng Tám đã sau 15 năm Đảng đã rút ra được những bài học kinh
nghiệm:
Một là: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và kháng chiến chống phong kiến
Hai là: toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công – nông
Ba là: lợi dụng mâu thuẫn trong kho hàng ngũ kẻ thù
Bốn là: kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng cách mạng một cách
thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân
Năm là: nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo khởi nghĩa giành chính
quyền
2) Những khó khăn
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã
phải đương đầu với khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thể lực
thù địch chống phá quyết liệt
a) Chính trị: có nhiều kẻ thù xâm lược
Cuối tháng 8 – 1945 có gần 20 vạn quân Tưởng ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ tuyến
16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật.Vào Việt Nam, quân Tưởng ráo riết
thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan VIệt Minh, đánh đổ chính quyền cách
mạng, lập chính quyền phản động tay sai của chúng. Đằng sau quân Tưởng là đê
quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đôngg Dương dưới chế độ “ uỷ trị”, một trá hình
của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Phía nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh gnhĩa quân đồng minh giải giáp
quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương.
Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn, mở đầu cho cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trên đất nước ta lúc này còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh
dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở Miền Nam
Trong nước thì các tổ chức phản động “Việt Quốc”, “ Việt Cách”, Đại Việt ráo
riết hoạt động.Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá cách mạng. Chúng
quấy nhiễu, phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi
theo chúng chống lại chính quyền cách mạng và đòi cải tổ Chính phủ lâm thời và
các bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản
động ở Móng Cái,Vĩnh Yên, Yên Bái, Chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều
thù trong giặc ngoài như lúc này.
b) Kinh tế xã hội
Nạn đói ở Miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị
bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn. Hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại
thương đình trệ. Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có khoảng 1.2 triệu
đồng, trong đó quả nửa là tiền rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư
bản Pháp. Quân tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim gây ra rối loạn thị trường. 95%
dân sốmù chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Trong những năm đầu Cách Mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà chưa có nước nào công nhận và đặt mối quan hệ ngoại giao với Chính Phủ ta.
Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như “ ngàn cân treo sợi tóc”. Tổ
quốc lâm nguy!
Chương 2 : Nội dung chính của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược của ĐCS Đông Dương những năm đầu kháng chiến 1946-1950
Thực hiện chính sách hòa hoãn, Đảng và chính phủ ta đã nhân nhượng, tỏ thiện
chí, cố gắng trì hoãn chiến tranh, nhưng với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực
dân Pháp đã tăng cường khiêu khích và lấn chiếm. Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở
cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà
Nẵng. Ngày 16-12-1946, những tên trùm thực dân Pháp ở Đông Dương đã họp tại
Hải Phòng bàn triển khai kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến 16.
Ngày 17 và 18-12-1946 tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta ở các
phố Yên Ninh, Hàng Bún. Chúng ngang ngược đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội,
đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng
và Chính phủ ta trước một tình thế không thể nhân nhượng thêm với chúng được
nữa, vì tiếp tục nhân nhượng sẽ dẫn đến họa mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời
nô lệ.
Chúng đã công khai tuyên bố sẽ hành động sáng ngày 20 - 12 nếu Chính phủ ta
khước từ những điểm nêu trong tối hậu thư của chúng. Trong thời điểm lịch sử đó,
Trung ương Đảng đã kịp thời hạ quyết tâm phát động toàn dân kháng chiến và chủ
động mở cuộc tổng giao chiến lịch sử trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch
đảo chính quân sự ở Hà Nội vào ngày 20-12-1946 như chúng đã nêu lên trong tối
hậu thư gửi cho Chính phủ ta trong những ngày 18, 19. Mệnh lệnh đã được phát đi.
Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đồng loạt nổ
súng. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Với lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ thị của Ban Thường vụ Trung
ương Đảng và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường
Chinh đã vạch rõ mục đích của kháng chiến là: Đánh phản động thực dân Pháp xâm
lược, giành thống nhất độc lập; tính chất: Là cuộc kháng chiến giành độc lập dân
tộc; các chính sách của cuộc kháng chiến là đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực về
mọi mặt, đoàn kết quốc tế (cả với nhân dân Pháp) để chống bọn thực dân Pháp phản
động. Cuộc kháng chiến này chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, củng cố
và mở rộng chế độ cộng hoà dân chủ. Nó không tịch thu ruộng đất của địa chủ
phong kiến chia cho dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất và các hạng tài sản khác của
Việt gian phản quốc để bổ sung ngân quỹ kháng chiến hay ủng hộ gia đình các
chiến sĩ hy sinh.
Cuộc kháng chiến của chúng ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc
là nội dung cơ bản của đường lối quân sự của Đảng. Đoàn kết toàn dân, thực hiện
quân, chính, dân nhất trí, động viên nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước cho chiến
đấu và để chiến thắng.
Chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến, đồng thời để
phát huy mặt mạnh của cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc ta, nên chúng ta
phải đánh địch trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, trong đó
quân sự là mặt trận hàng đầu, nhằm tiêu diệt lực lượng của địch trên đất nước ta, đè
bẹp ý chí xâm lược của chúng, lấy lại toàn bộ đất nước.
Do tương quan lực lượng giữa ta và địch chi phối, phương châm chiến lược của
ta là đánh lâu dài. Đó là một quá trình vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực
lượng của ta, từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, đánh bại từng
âm mưu và kế hoạch quân sự của địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đồng chí
Trường Chinh dự đoán về đại thể cuộc kháng chiến sẽ phát triển qua ba giai đoạn:
phòng ngự, cầm cự và tổng phản công; ba giai đoạn đó có quan hệ chặt chẽ, kế tiếp
và đan xen với nhau trong kháng chiến.
Để đánh lâu dài, ta phải tự lực cánh sinh, không ngừng phát huy sức mạnh của
cả dân tộc đấu tranh vì độc lập tự do, đồng thời hết sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ
quốc tế để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính
là "thầy chiến lược", là "bí quyết của sự thắng lợi" của ta.
Những chủ trương, sách lược kháng chiến trong"Kháng chiến nhất định− thắng
lợi" đã vạch ra 1 phương châm "tử chiến"(quyết chiến) với TD phản động Pháp để
dành độc lập, thống nhất thực sự cho đất nước. Đây vừa là niềm tin, là động lực và
cũng là sức mạnh kháng chiến của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch HCM chỉ thị của ban thường vụ
TW Đảng và tác phẩm của Trường Chinh...tất cả tập hợp lại và được xem la cương
lĩnh kháng chiến của Đảng ta. Trên cơ sở của cương lĩnh đường lối này, Đảng ta đã
dẫn dắt và tổ chức nhân dân ta đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến lâu
dài,gian khổ anh dũng và nhất định thắng lợi. Cả dân tộc ta đã tiến hành kháng
chiến toàn dân,toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính với tinh thần quyết
tâm, dũng cảm và mưu trí,sang tạo. Bởi vậy, chúng ta đã từng bước giành thắng lợi
về mọi mặt và đưa cuộc kháng chiến ngày càng phát triển về thế và lực, khẳng định
rõ vị thế của dân tộc ta trên trường quốc tế cũng như năng lực lãnh đạo sáng suốt,
tài tình,linh hoạt và sáng tạo của Đảng ta trong mọi hoàn cảnh lịch sử đầy biến động
và phức tạp của đất nước,tạo tiền đề cho sự phát triển và thành công cho phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc ở những giai đoạn sau.Với việc xác định một cách
đúng đắn mục tiêu, đường lối của cuộc kháng chiến, ta đã đập tan âm mưu đánh
nhanh thắng nhanh của địch, bảo vệ được thành quả cách mạng, thu được những
thắng lợi bước đầu, cũng qua đó quân đội non trẻ nước nhà có sự trưởng thành vượt
bậc về trình độ tác chiến và nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch, giành thế chủ động chiến
lược trên chiến trường bắc bộ, chủ động tiến công và phản công ngày càng lớn
Chương 3 : Cơ sở khoa học của đường lối kháng chiến chống thực dân
pháp xâm lược của đảng cộng sản Đông Dương những năm đầu kháng chiến
1946-1950
3.1 chỉ thị ‘Kháng chiến kiến quốc’ngày 25/11/1945 của ban chấp hành trung
ương
Sau thắng lợi vĩ đại của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ 2, lực lượng cách
mạng thế giới phát triển mạnh, phong trào giả phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở
châu á – phi và mĩ la tinh, phong trào đấu tranh của gia cấp công nhân trong các
nước tư bản phát triển cao
Thắng lợi của cách mạng tháng 8 đã đem lại cho việt nam thế và lực mới, đảng ta
từ 1 đảng hoạt động bất hợp pháp thành đảng cầm quyền, nhân ta được giải phóng
khỏi cuộc đời nô lệ trở thành người chủ đất nước.
Đất nước đang đứng trước những khó khăn thử thách nghiêm trọng đe doạ trực tiếp
đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Về chính trị, chính quyền cách mạng vưa mới thành lập đang bị các nước đế quốc
và các thế lực phản động trong nước câu kết với nhau chống phá quyết liệt. Ở miền
Bắc, 20 vạn quân Tưởng dưới danh nghĩa đồng minh vào tước vũ khí quân Nhật
tràn vào nước ta chiếm đóng hầu hết các thành phố, thị trấn lớn. Ở miền Nam,
khoảng 6 vạn quân Anh cũng dưới danh nghĩa đồng minh vào tước vũ khí quân
Nhật đã giúp cho Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Ngày 23 - 9 -1945, thực dân
Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Kinh tế tài chính kiệt quệ, xơ xác; nạn đói năm 1945 chưa khắc phục hết, nhân dân
đang đứng trước nguy cơ có thể xẩy ra nạn đói mới vào năm 1946;
Trong khi đó, tệ nạn xã hội cũ để lại hết sức nặng nề, hơn 90% nhân dân mù chữ.
Thật là khó khăn chồng chất khó khăn, chính quyền cách mạng đang ở vào tình thế
như "nghìn cân treo sợi tóc".
Đứng trước tình hình đó, Ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị phân tích những thay đổi căn bản về tình
hình quốc tế và trong nước sau chiến tranh, nhận định lực lượng hoà bình, dân chủ
thế giới đã mạnh hơn lực lượng chiến tranh. Bốn mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn
còn và ngày càng sâu sắc, nhưng mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa đế quốc gay go hơn hết ở Đông Nam Á. Về tình hình trong nước, Chỉ thị
nhận định: chính quyền nhân dân đã được thành lập trên khắp đất nước nhưng đang
ở trong tình thế vô cùng gay go, phức tạp, không những phải đối phó với thực dân
Pháp xâm lược mà còn phải đối phó với quân Anh, quân Tưởng, với bọn phản cách
mạng, với nạn đói và các khó khăn về kinh tế, tài chính.
Để có đối sách thích hợp với từng kẻ thù cụ thể, Chỉ thị đánh giá âm mưu, ý đồ của
từng đế quốc. Mỗi kẻ thù ấp ủ những mưu đồ riêng, nhưng đều có chung dã tâm
tiêu diệt Đảng Cộng sản, thủ tiêu nền độc lập non trẻ của nhân dân ta. Chỉ thị xác
định: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được
hoàn toàn độc lập… Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong. Giai cấp vô
sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy… Kẻ thù
chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải tập trung ngọn lửa đấu tranh
vào chúng”1.
Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của nhân dân lúc này là củng cố chính quyền, chống
thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Trong
những nhiệm vụ đó, nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính quyền. Để củng cố chính
quyền cách mạng, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ "kháng chiến" và "kiến quốc",
Chỉ thị vạch ra những biện pháp toàn diện và cơ bản để thực hiện:
Về chính trị, tăng cường khối đoàn kết toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược và
xây dựng đất nước, củng cố chính quyền nhân dân bằng cách kiên quyết trừng trị
bọn phản quốc, tiến hành tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, lập Chính phủ chính thức
và ban hành Hiến pháp; có thể cải tổ chính phủ trước khi bầu cử; sửa đổi cách làm
việc của chính quyền nhân dân địa phương.
Về quân sự, động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc
kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích cùng với phương pháp bất hợp tác triệt
để của nhân dân ở vùng địch chiếm đóng, mở rộng chiến tranh du kích ở
Campuchia và phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào.
Về ngoại giao,kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc "bình
đẳng, tương trợ". Phương châm là "làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng
minh hơn hết"1 và "muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực"2.
Đối với Tưởng thì chủ trương Hoa - Việt thân thiện; đối với Pháp, độc lập về chính
trị, nhân nhượng về kinh tế.
Về kinh tế và tài chính, mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho tư
nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích các
giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước
nhà. Thực hiện khuyến nông, sửa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc,
định lại ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh. Đẩy mạnh tăng gia
sản xuất, chống nạn đói theo khẩu hiệu "Tấc đất tấc vàng", "Sẻ cơm nhường áo",
"Công việc cứu đói cũng cần như việc đánh giặc".
Về văn hoá, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường
đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy nhồi
nhét, cổ động văn hoá cứu quốc, kiến thiết nền văn hoá mới theo nguyên tắc: khoa
học hoá, đại chúng hoá, dân tộc hoá.
Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương ngày 25-11-1945 đã hoạch định chủ
trương, sách lược đúng đắn của Đảng sau Cách mạng Tháng Tám, khi đất nước ở
trong tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Nhờ có chủ trương đúng đắn, sáng suốt và
nhiều quyết sách kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua những thách thức hiểm nghèo, tranh thủ
từng thời gian hoà bình quý báu để xây dựng thực lực, chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến lâu dài.
3.2 Lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh 19/12/1946
Thực dân Pháp đã bội ước Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, Tạm ước ngày 14-
9-1946, tấn công nhiều nơi ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, khiêu khích nhiều nơi ở
miền Bắc, từng bước leo thang chuẩn bị chiến tranh. Quân Pháp tổ chức tấn công
Hải Phòng, Lạng Sơn, gây hấn ở Hà Nội, gây ra vụ tàn sát ở phố Hàng Bún, phố
Yên Ninh ngày 17-12-1946. Chúng liên tiếp gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt
Nam đòi được làm nhiệm vụ trị an ở Hà Nội, nếu không chấp nhận thì ngày 20-12-
1946, chúng sẽ chuyển sang hành động.
Đứng trước tình hình thực dân Pháp đang mở rộng chiến tranh ra Thủ đô Hà
Nội hòng lật đổ Chính phủ kháng chiến, tiêu diệt chính quyền dân chủ nhân dân,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng tình hình và quyết định phát
động chiến tranh cách mạng trên toàn quốc chống lại cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp - một quyết định chiến lược để xoay chuyển tình thế khi Tổ
quốc lâm nguy.
Đêm 19-12-1946, quân và dân Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc
với tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Đêm 19 rạng sáng ngày 20-12-1946, thay mặt Đảng và Chính phủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến".
Hai khổ đầu trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói lên được lòng yêu hòa bình, sự nhân nhượng để đổi lấy hòa bình,
nhưng kiên quyết đứng lên thà hy sinh tất cả để bảo vệ tự do và độc lập: "Chúng ta
muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ".
Hà Nội, với tiếng súng từ pháo đài Láng đã mở đầu cho cuộc kháng chiến
toàn quốc của nhân dân ta. Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của quân và dân Hà Nội
không chỉ đã tiêu diệt, tiêu hao một phần sinh lực địch, mà còn kìm chân địch
trong thành phố để hậu phương tổ chức triển khai thế trận kháng chiến lâu dài, để
bảo vệ cuộc tổng di chuyển các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ và các bộ,
ngành về căn cứ an toàn, tiếp tục cuộc kháng chiến thần thánh, trường kỳ nhưng
kết thúc thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta.
Lời kêu gọi Người viết đã vạch trần dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, trình bày
lập trường và nguyện vọng thiết tha với hòa bình của dân tộc ta, biểu lộ rõ càng
thiết tha với hòa bình, càng kiên quyết đập tan mọi âm mưu quỷ kế của bọn phá
hoại hòa bình. Người cũng đã vạch ra chiến lược chiến tranh nhân dân, huy động
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đồng thời khẳng định cuộc kháng chiến sẽ
nhất định đi đến thắng lợi vẻ vang.
Hội nghị đã nghiên cứu và thông qua văn kiện "Toàn dân kháng chiến" do đồng
chí Tổng Bí thư Trường Chinh dự thảo. Ðây là bản chỉ thị nêu rõ đường lối, chính
sách và cách tiến hành cũng như lực lượng của cuộc kháng chiến. Chỉ thị của Ðảng
cũng đã khẳng định cuộc kháng chiến tuy lâu dài, gian khổ nhưng nhất định sẽ
thắng lợi vẻ vang. Ðặc biệt, Hội nghị Thường vụ Trung ương đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh đề nghị góp ý kiến cho lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do Người soạn
thảo. Các đồng chí đã thảo luận và được Người đồng ý cho sửa thêm một số chữ
vào lời kêu gọi. Ðây là một cách làm việc dân chủ và là nền nếp thường xuyên của
Người.
3.3 Chỉ thị toàn dân kháng chiến của ban chỉ huy trung ương 22/12/1946
Cùng với chỉ thị “toàn quốc kháng chiến” ngày 19 /12/1946 thì 22/12/1946 trung
ương đảng ra chỉ thị “toàn dân kháng chiến”. hai văn kiện đã khái quát được nội
dung của đường lối kháng chiến. Bản chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" ngày 22-12-
1946 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nêu rõ cơ quan lãnh đạo kháng chiến
là Đảng và Chính phủ. Về chính quyền, ở bên trên có Chính phủ kháng chiến, Ban
Thường vụ Quốc hội, ở dưới có Uỷ ban kháng chiến các khu, các tỉnh, v.v. gồm đại
biểu quân, dân, chính hợp thành.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam là một
cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, quyết liệt trên các mặt trận quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hoá... Để sự lãnh đạo và điều hành chiến tranh được tập trung
thống nhất, Quốc hội đã giao quyền bính tập trung vào Chính phủ. Ban Thường trực
Quốc hội luôn ở bên cạnh Chính phủ để bàn bạc, tham gia ý kiến về các chủ trương,
chính sách lớn và giám sát, phê bình Chính phủ về mọi công việc kháng chiến.
Song, do chiến tranh diễn ra quyết liệt nên việc triệu tập toàn Ban Thường trực
Quốc hội sẽ rất khó khăn. Vì thế cuối tháng 12-1946, Ban thường trực Quốc hội họp
ở một địa điểm tại Hà Đông đã quyết định:
a. Trong thời kỳ kháng chiến vì tình thế khó khăn nên chỉ có Trưởng ban Thường
trực Quốc hội ở cùng với Chính phủ để giúp và theo dõi đường lối chính trị, cùng
với Chính phủ chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện;
b. Các đại biểu Quốc hội sẽ tuỳ năng lực và địa vị mà tham gia vào mọi công tác
kháng chiến
c. Ban Thường trực thay mặt toàn thể Quốc hội hiệu triệu và nhận các ý nguyện của
nhân dân, sửa soạn triệu tập Quốc hội .
Bản chỉ thị vạch rõ:
Mục đích: đánh phản động thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập;
Tính chất: trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến;
Chính sách: đòan kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến, đòan kết
với Miên, Lào và thân thiện với các dân tộc yêu chuộng hòa bình, liên hợp với nhân
dân Pháp chống phản động thực dân Pháp;
Cách đánh: triệt để dùng du kích, vận động chiến, bảo toàn thực lực, kháng chiến
lâu dài, phá hoại nhiều hơn bắn, triệt để làm cho địch đói khác, què, mù, điếc, câm,
tiêu hao, mỏi mệt, chán nản. Vừa đánh vừa vũ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo
thêm cán bộ”.
3.4 Tác phẩm ‘Kháng chiến nhất định thắng lợi’ của đồng chí Trường Chinh năm
1947
Cuối năm 1946, sau một thời gian hòa hoãn tạm thời, thực dân Pháp bắt đầu tỏ ra
khiêu khích chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa một cách không che đậy. Sự
nhẫn nhịn của chính phủ và nhân dân ta trước hàng loạt những vụ nổ súng vô cớ của
quân Pháp càng làm chúng thêm hung hăng hơn. Đến cao trào là ngày 18, 19 tháng
12 năm 1946, chúng gửi tối hậu thư cho chính phủ ta đe dọa đảo chính thì chúng ta
không thể nhân nhượng thêm nữa.
Đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn
quốc bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Và ngay trong
những ngày đầu, đường lối kháng chiến đã được vạch ra cụ thể và kịp thời qua 3
văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Chỉ thị toàn dân kháng chiến” và
tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”.
Nội dung chủ đạo của đường lối kháng chiến:
- Xác định rõ đối tượng, tính chất và mục đích của cuộc kháng chiến:
+ Đối tượng: “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược” (“Chỉ thị …”)
+ Mục tiêu: giành độc lập và thống nhất cho dân tộc.
+ Tính chất: tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
- Kháng chiến toàn dân: chiến tranh nhân dân, toàn dân dánh giặc
+ “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc.” (“Lời kêu gọi …”)
+ Khơi dậy lòng tự hào dân tộc, truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất của dân
tộc ta qua 4000 năm dựng nước và giữ nước.
+ Tạo nên thế trận “cả nước đánh giặc”, huy động được sức mạnh tối đa của cả dân
tộc. Đó là điểm cốt yếu trong nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Để đánh thắng
những đạo quân xâm lược mạnh của chủ nghĩa đế quốc, ta áp dụng chiến thuật du
kích kết hợp với rèn luyện quân chính quy và công tác binh vận. Kẻ địch đi đến đâu
cũng bị công kích, khi chúng trở nên hoang mang thì ta thực hiện binh vận. Khi có
đủ thời cơ thì ta thực hiện tổng tiến công.
“Tích cực tiến công, giải quyết mau từng trận; sử dụng du kích chiến và vận động
chiến; kết hợp tác chiến và địch vận; phát động phong trào dân quân, động viên toàn
dân đánh giặc”. (“Kháng chiến nhất định thắng lợi”)
Đó là đường lối quân sự sáng tạo và hoàn toàn phù hợp với điều kiện nước ta.
Để tạo được cục diện kháng chiến toàn dân như vậy, Đảng ta đã sáng suốt chỉ ra
đúng đối tượng và mục đích của cuộc kháng chiến. Lúc này, độc lập dân tộc phải
đặt lên hàng đầu. Mâu thuẫn giai cấp có thể tạm thời gác lại. Mọi người dân Việt
Nam không phân chia đảng phái, giai cấp phải sát cánh bên nhau vì sự tồn vong của
cả dân tộc. Hơn nữa, trong thời kỳ kháng chiến, Đảng cũng có nhiều chủ trương cải
cách dân chủ, chăm lo cho đời sống nhân dân. Điều đó cành làm cho nhân dân càng
phấn khởi, tin tưởng và ủng hộ nhiều hơn cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
- Kháng chiến toàn diện: chiến tranh là cuộc đọ sức giữa hai phe trên mọi phương
diện: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao … trong đó mặt trận quân sự
quan trọng hàng đầu
+ Về chính trị: nhấn mạnh vấn đề xây dựng khối toàn dân đoàn kết trên nền tảng
củng cố khối liên minh công – nông, không ngừng mở rộng mặt trận đoàn kết dân
tộc.
+Về quân sự: dần dần xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xác định đánh lâu dài
làm phương châm chiến lược, quán triệt tư tưởng tích cực tiến công, kết hợp đánh
địch cả bằng chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, cả bằng quân sự, chính
trị và binh vận. Xây dựng ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc: bộ đội
chủ lực, bọ đội địa phương và dân quân tự vệ. Tiến công địch ở cả ba vùng chiến
lược: nông thôn, đô thị và miền núi.
+ Về kinh tế: cải cách ruộng đất, xây dựng nền kinh tế của ta trong thời chiến, tự
chủ, bảo đảm nhu cầu của kháng chiến. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ kháng chiến với
kiến quốc.
+ Về văn hóa: chống lại văn hóa nô dịch của địch, tăng cường bình dân học vụ, giải
quyết giặc dốt, bài trừ mê tín dị đoan, tuyên truyền đường lối kháng chiến, tư tưởng
cách mạng làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự thắng lợi
của cuộc kháng chiến. …
+Về ngoại giao: mở rộng quan hệ quốc tế nhằm tranh thủ thêm nhiều bạn, làm cho
nhân dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân
dân ta, tranh thủ kết thúc chiến tranh bằng con đường ngoại giao khi có thể .
- Kháng chiến trường kỳ dựa vào sức mình là chính: Nghệ thuật quân sự: hạn chế
điểm mạnh của Pháp. Thực dân Pháp bản chất là xâm lược, với đội quân trang bị vũ
khí hiện đại. Chúng luôn có âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” để tiết kiệm chi phí
chiến tranh và tránh những rắc rối từ dư luận quốc tế. Ngược lại, quân đội ta vừa
mới thành lập, nhân lực vật lực chưa dồi dào, kinh nghiệm chiến đấu chưa phong
phú. Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” nêu ra ba giai đoạn: cầm cự,
phòng ngự và phản công với ý đồ đánh lâu dài. Với thế trận chiến tranh nhân dân,
quân địch càng đánh càng yếu, quân ta càng đánh càng mạnh.
Sự lãnh đạo của đảng thể hiện đường lối kháng chiến đúng đắn: độc lập, tự chủ và
sáng tạo. Đường lối đó là sự kết tinh những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-
Lênin về cách mạng bạo lực, về chiến tranh nhân dân được vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của nước ta. Đường lối kháng chiến trải qua thực tiễn chiến đấu
được phát triển và hoàn chỉnh, là nguyên nhân đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Lời kêu gọi TQKC của Người là một trong những văn kiện lịch sử vĩ đại của dân
tộc Việt Nam. Điều kỳ tuyệt là cho đến tận bây giờ, âm vang của những ngôn từ
ngắn nhưng có sức sống mãnh liệt của nó vẫn làm xúc động trái tim của hàng triệu
con người.
198 chữ của Lời kêu gọi TQKC là một kỳ văn của sức mạnh, một tuyệt bút bất tử
với thời gian. Đó thực sự là bản tuyên ngôn thứ hai của nền độc lập. Hơn ai hết,
Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ sự đắng cay, tủi nhục của kiếp sống nô lệ, chính vì
vậy, Người đã đoan quyết bằng ý chí và tâm huyết của 20 triệu con người rằng:
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ.
Đó là thông điệp của trái tim, xuất phát từ lẽ sống còn mà không một người dân
Việt Nam nào không hiểu rõ: Độc lập, tự do còn quý hơn cả máu của chính mình.
Lời kêu gọi TQKC đã truyền máu, tiếp lửa cho tinh thần bất khuất của dân tộc.
Lời kêu gọi TQKC, chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của Ban Thường vụ Trung ương
Đảng ngày 22.12.1946 và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của Tổng Bí
thư Trường Chinh, là 3 văn kiện xác định đường lối kháng chiến chống Pháp của
Đảng ta.
Điều làm cho không ít nhà lịch sử quân sự phải bất ngờ là trong một văn kiện ngắn
như Lời kêu gọi, Hồ Chủ tịch vẫn trình bày một cách vừa đầy đủ, vừa sáng rõ toàn
bộ đường lối kháng chiến của Đảng ta. Tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập, tự chủ là
nguyên tắc thứ nhất: Ai cũng phải ra sức cứu nước.
Xuất phát từ so sánh lực lượng mà phần bất lợi là thuộc về ta, Hồ Chủ tịch kêu gọi
cuộc kháng chiến của ta nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc thứ hai, đó là kháng
chiến toàn dân. Nguyên tắc thứ ba là kháng chiến toàn diện: "Ai có súng dùng súng.
Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc".
Hồ Chủ tịch đã tiên định cuộc kháng chiến sẽ lâu dài, nhưng chắc chắn sẽ thành
công. Đây cũng là nguyên tắc thứ tư, kháng chiến trường kỳ: "Dù phải gian lao
kháng chiến..., thắng lợi nhất định về dân tộc ta".
Những lời kêu gọi đặc biệt ấy đã vang lên trong một quá khứ rất xa, nhưng cho
đến nay vẫn còn vẹn nguyên tinh thần và mong ước, chứng tỏ sức sống thực tiễn
chân lý bất hủ của nó.
Kết luận :
Đảng cộng sản Đông Dương ra đời đã ngày càng thể hiện được vai trò của mình
đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,đã vạch ra đường lối và lãnh đạo nhân
dân đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.Qua thời gian Đảng đã thể hiện được vai
trò của mình và tạo được lòng tin từ nhân dân và cho thấy vai trò của Đảng là không
thể thiếu trong công cuộc giải phóng dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Sách giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (Nhà xuất bản chính trị quốc gia
- 2006).
1.Giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (Nhà xuất bản giáo dục-2005).
2.Bách khoa toàn thư mở wikipedia: vi.wikipedia.org
3.Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam: www.dangcongsan.vn
4.Bách khoa toàn thư Việt Nam: www.bachkhoatoanthu.gov.vn
5.Website lịch sử Việt Nam: www.lichsuvietnam.vn