Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Xay dung mo hinh va dinh huong phat trien du lich ben vung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.32 KB, 54 trang )

Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
PHẦN I:
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại
làm cho con người có nhiều thời gian nhàn rỗi đồng thời nó cũng đòi hỏi con người
hoạt động, làm việc trong môi trường căng thẳng, chịu nhiều áp lực. Do đó đi du lịch
đã thực sự trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hoá xã hội. Nó
không những mang lại những giây phút nghỉ ngơi, thư giãn thoải mái sau những giờ
làm việc căng thẳng mà còn là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để các dân
tộc trên thế giới hiểu biết nhau, góp phần không nhỏ vào việc phân phối thu nhập giữa
các quốc gia, đẩy mạnh phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia đó và tạo
công ăn việc làm cho hàng triệu người. Theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới
(WTO), mỗi năm trên trái đất có 3 tỷ người đi du lịch, trong đó có khoảng 612 triệu
người đi du lịch quốc tế, ngành kinh tế tổng hợp dịch vụ du lịch cũng phát triển theo
một cách nhanh chóng để đáp ứng được nhu cầu du lịch ngày càng phát triển đó.
Ở Việt Nam, ngành du lịch cũng có những bước phát triển đáng kể. Nếu như
năm 1990 ngành du lịch nước ta chỉ mới đón được 250.000 lượt khách quốc tế và 1
triệu lượt khách nội địa; đến năm 1994 chúng ta đã đón được hơn 1 triệu lượt khách
quốc tế và 3,5 triệu lượt khách nội địa. Trong những năm gần đây, ngành du lịch Việt
nam đã trải qua nhiều khó khăn. Trong đó đặc biệt là dịch SARS và dịch cúm gia cầm.
Tuy nhiên bằng sự nỗ lực của toàn ngành nên chúng ta đã khắc phục và vượt qua
những khó khăn đó đồng thời đạt được những thành tựu đáng kể. Năm 2004, Việt
Nam đón được 2,93 triệu lượt khách quốc tế và 14 triệu lượt khách nội địa, thu nhập
du lịch đạt khoảng 26.000 tỷ đồng thì đến năm 2007
Cùng với sự phát triển chung của toàn ngành, du lịch Thừa Thiên Huế trong
những năm qua đã có những bước tăng trưởng đáng kể. Nếu như năm 1990 Thừa
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 1
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc


Thiên Huế đón được 81.500 lượt khách du lịch, trong đó có 11.500 lượt khách quốc tế.
Năm 2004 đón được 760.000 lượt khách du lịch, trong đó có 260.000 lượt khách quốc
tế, thu nhập từ hoạt động du lịch đạt khoảng 368 tỷ đồng thì đến năm 2007, du lịch
Thừa Thiên Huế đã đón và phục vụ 1.301.000 lượt khách tăng 18,1% so với năm
2006. Trong đó có 649.600 lượt khách quốc tế,, tăng 30,9% so với năm 2006. Doanh
thu du lịch đạt 759,1 tỷ đồng tăng 31,2% so với năm 2006. Tổng doanh thu xã hội
phục vụ cho hoạt động du lịch năm 2007 ước đạt 2.246,4 tỷ đồng. Nhìn chung từ năm
1990 đến nay, du lịch Thừa Thiên Huế đã có những bước phát triển đáng kể. Số lượng
du khách quốc tế cũng như khách nội địa đến Huế. Từ năm 1990 đến năm 2007 đã
tăng từ 11.500 - 649.600 lượt đối với khách quốc tế và từ 70.000 - 633.100 lượt đối
với khách nội địa.
Năm 2010 mục tiêu chiến lược phát triển của du lịch Việt Nam phải đón được 6
- 7 triệu lượt khách quốc tế, tăng gấp 3 lần so với năm 2000 và 25 triệu lượt khách nội
địa tăng gấp 2 lần so với năm 2000, thu nhập xã hội từ du lịch đạt từ 4 - 4,5 tỷ USD.
Với du lịch Thừa Thiên Huế mục tiêu đến năm 2008 đón và phục vụ 1,7 triệu lượt
khách, tăng 30,7% so với năm 2007, trong đó có 632.000 lượt khách quốc tế. Doanh
thu trực tiếp từ du lịch đạt 990 tỷ đồng, tăng 30,4% so với cùng kỳ. Đứng trước yêu
cầu của sự phát triển du lịch, số lượng khách du lịch đến Huế ngày càng tăng, thì đi
đôi với việc khai thác thì phải bảo vệ giữ gìn và tôn tạo các giá trị vật chất lẫn giá trị
tinh thần để đáp ứng nhu cầu này thì việc phát triển du lịch theo hướng bền vững đang
được đặt lên hàng đầu.
Do đó, tôi lựa chọn đề tài “Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du
lịch theo hướng bền vững ở thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên
Huế” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trên cơ sở lý luận, đề tài đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng và tìm ra giải
pháp nhằm phát triển du lịch ở thị trấn Lăng Cô theo hướng bền vững.
* Mục tiêu cụ thể:
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 2
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững

ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
- Khái quát một số vấn đề về lý luận và thực tiễn.
- Đề tài sẽ nêu rõ những điểm yếu, điểm mạnh về tài nguyên du lịch cũng như
trình độ phục vụ của đội ngũ lao động.
- Thông qua số liệu điều tra thu thập được từ các bảng hỏi gửi đến cho khách
du lịch và người dân địa phương để phân tính và đánh giá xem mức độ tác động của
con người đến cảnh quan thiên nhiên, con người phục vụ khách du lịch như thế nào?
Đã làm họ hài lòng hay chưa? Cũng như sự phát triển của du lịch ảnh hưởng đến đời
sống của người dân như thế nào? Tác động theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực.
- Sau khi tổng hợp ý kiến của khách du lịch, luận văn sẽ đưa ra các giải pháp cơ
bản để.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Đề tài tập trung chủ yếu vào việc phân tích mức độ tác động của con người
vào TNTN, cũng như ảnh hưởng của việc phát triển du lịch đến đời sống của người
dân địa phương nhằm tiến đến phát triển du lịch theo hướng bền vững.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: các số liệu được thu thập chủ yếu từ năm 2005 - 2007.
- Phạm vi không gian: đề tài chủ yếu được nghiên cứu tại thị trấn Lăng Cô,
huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế và các số liệu của Sở du lịch Thừa Thiên Huế.
Các ý kiến thu thập từ các bảng hỏi.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp
KH.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Phương pháp phỏng vấn: dùng phỏng vấn khách du lịch và người dân địa
phương.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 3
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:
- Hình thành hệ thống CSLL về nội dung, các yếu tố cơ bản có liên quan đến
việc phát triển du lịch theo hướng bền vững.
- Phân tích đánh giá thực trạng để làm cơ sở định hướng cho việc phát triển bền
vững, phục vụ cho việc khai thác có hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch tại thị trấn
Lăng Cô.
- Dự báo lượng khách đến Huế trong
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiến tới phát triển du lịch theo hướng bền
vững.
6. HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Do th ời gian h
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 4
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. DU LỊCH:
1.1.1. Khái niệm
Ngày nay, du lịch đã trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội khá phổ biến diễn ra
ở nhiều quốc gia, nhiều vùng lãnh thổ. Nhưng cho đến nay chưa đi đến sự thống nhất
về địa nghĩa du lịch. Đứng trên các góc độ khác nhau, người ta đưa ra các định nghĩa
về du lịch theo những tiêu chí khác nhau.
- Tại hội nghị Liên hiệp quốc về du lịch họp ở Roma từ 21/08 đến 5/9/1963 đã
đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện
tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân
hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích
hòa bình.
- Theo tổ chức du lịch thế giới WTO: “Du lịch là toàn bộ hoạt động của con

người và ở lại tại những nơi ngoài môi trường hàng ngày của họ trong một thời gian
nhất định với mục đích giải trí, công vụ hay những mục đích khác.
- Ở Việt Nam theo luật Du lịch được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2006, du lịch được định nghĩa tại chương 1, điều 4, mục 1 như sau: “Du
lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một thời gian nhất định.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 5
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
Như vậy, cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch, thì khái niệm du lịch
cũng có nhiều thay đổi tuỳ theo từng góc độ nên khái niệm du lịch cũng mang những
nội dung khác nhau.
1.1.2. Các loại hình du lịch:
Cho đến ngày nay việc phân loại các loại hình du lịch dựa vào nhiều tiêu thức
khác nhau, ví dụ như căn cứ vào phạm vi lãnh thổ chuyến đi (du lịch quốc tế, du lịch
nội địa); căn cứ vào thời gian chuyến đi (du lịch ngắn ngày, du lịch dài ngày), căn cứ
vào hình thức tổ chức chuyến đi (du lịch theo đoàn, tự tổ chức)…
a. Theo mục đích chuyến đi:
- Du lịch tham quan hay còn gọi là du lịch văn hoá, với hình thức du lịch này
khách du lịch sẽ đến những vùng đất mới ngoài nơi cư trú của mình để tìm hiểu về lịch
sử, văn hoá, con người, đời sống xã hội cũng như thưởng ngoạn những cảnh đẹp thiên
nhiên.
- Du lịch giải trí, nghỉ dưỡng: mục đích của chuyến đi là nhằm thư giãn, giảm
bớt căng thẳng từ công việc thường ngày thông qua các hoạt động vui chơi, giải trí
nghỉ dưỡng. Cũng có thể là tham gia vào các hoạt động náo nhiệt bên cạnh đó cũng có
du khách thích tìm đến những nơi yên tĩnh, có không khí trong lành, khí hậu ôn hoà để
thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên như các bãi biển, các vùng cao nguyên… Tuy nhiên,
đôi khi đây chưa phải là toàn bộ hoạt động của khách. Du khách cũng có thể kết hợp

với đi tham quan.
- Du lịch thể thao: bao gồm các loại hình thức như: đua thuyền buồm, lướt
sóng, trượt tuyết, bơi lặn… thường được sử dụng kết hợp trong những chuyến du lịch
dài ngày. Khách du lịch tham gia loại hình du lịch này phải là những người thích mạo
hiểm. Để phát triển loại hình du lịch này cần có các điều kiện tự nhiên và trang thiết bị
thích hợp. Mặt khác nhân viên phải được huấn luyện kỹ để hướng dẫn và giúp cho
khách du lịch.
- Du lịch MICE (Meeting, Incentive, Conference/Conventton/Congress,
Exhibituon). Đây là loại hình du lịch kết hợp với hội nghị, hội thảo, nó còn khá mới
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 6
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
đối với du lịch Việt Nam, khả năng mang lại nguồn thu nhập lớn cho các điểm đến.
Khách du lịch loại này thường là những người cao cấp, khả năng chi tiêu cao, yêu cầu
rất khắt khe về chất lượng phục vụ cũng như trang thiết bị tiện nghi đảm bảo phục vụ.
- Du lịch lễ hội: khách du lịch tham gia vào các lễ hội địa phương góp phần
nâng cao hiểu biết về văn hoá và con người tại địa phương nơi khách du lịch đến
- Du lịch tôn giáo: đây là loại hình du lịch kết hợp với mục đích hành hương
trong các chuyến đi nhằm thoả mãn nhu cầu về tín ngưỡng tôn giáo cho du khách gồm
có 2 thành phần chính:
+ Những người theo tôn giáo: họ di chuyển và lưu trú ở những nơi gần các chùa
chiền, nhà thờ, đền đài, miếu mạo để tiện cho việc đi lại.
+ Những người không theo tôn giáo: đến những nơi có chùa chiền, nhà thờ, đền
đài, miếu mạo nhằm mục đích tham quan, tìm hiểu.
- Du lịch công vụ: là loại hình du lịch kết hợp với mục đích kinh doanh, tìm
kiếm cơ hội làm ăn. Khách du lịch thường là các doanh nhân.
- Du lịch thăm thân: mục đích chủ yếu là thăm người thân, bạn bè trong đó có
kết hợp các loại hình tham quan, giải trí.
- Du lịch khám phá, mạo hiểm: du khách thích đi đến những miền đất mới xa
xôi, hoặc những nơi thiên nhiên có địa hình cheo leo, hiểm trở, vượt thác và có nhiều

điều bất ngờ chờ đón họ. Mục đích của chuyến đi là khám phá thế giới xung quanh.
Loại hình du lịch này nhằm thoả mãn nhu cầu tìm hiểu những cái mới lạ từ môi trường
thiên nhiên, đồng thời thoả mãn tính tò mò của khách du lịch. Nó thích hợp cho giới
trẻ, thích cảm giác mạo hiểm.
- Du lịch hoài niệm: là loại hình du lịch mà khách du lịch là những người đã
từng sống và công tác trong một thời gian nhất định nào đó. Trong đó đặc biệt là lữ
hành DMZ rất thành công trong việc tổ chức tour: “về thăm chiến trường xưa”.
- Du lịch “homestay”: loại hình du lịch này còn khá mới ở Việt Nam nhưng rất
phát triển. Khách du lịch tham gia loại hình này thường ở tại nhà của người dân địa
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 7
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
phương, sinh hoạt cùng người dân để tìm hiểu về văn hoá, lối sống, phong tục truyền
thống hoặc tham gia các lễ hội truyền thống của người dân địa phương.
- Du lịch sinh thái: theo mục 19, điều 4, chương I của luật Du lịch Việt Nam
định nghĩa về du lịch sinh thái như sau: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào
thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm
phát triển bền vững. Mục đích của du lịch sinh thái nhằm thoả mãn nhu cầu về với
thiên nhiên của du khách, đó thường là những vùng thiên nhiên được bảo vệ tốt, chưa
bị tàn phá. Đây là phương pháp giáo dục tốt nhất về ý thức bảo vệ môi trường của mọi
người”.
1.2. NHU CẦU DU LỊCH
1.2.1. Khái niệm nhu cầu du lịch:
Người ta đi du lịch với mục đích “sử dụng” tài nguyên du lịch mà nơi ở thường
xuyên của mình không có. Trong sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội
thì du lịch là một đòi hỏi tất yếu của người lao động. Du lịch đã thực sự trở thành nhu
cầu của con người khi trình độ, kinh tế, xã hội và dân trí đã phát triển. Vậy thế nào là
nhu cầu du lịch.
Nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người nhu cầu
này được hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý (sự đi lại) và các

nhu cầu tinh thần (nhu cầu nghỉ ngơi, tự khẳng định, nhận thức, giao tiếp).
Nhu cầu du lịch phát sinh là kết quả tác động của lực lượng sản xuất trong xã
hội và trình độ sản xuất xã hội. Trình độ sản xuất xã hội càng cao, các mối quan hệ xã
hội càng hoàn thiện thì nhu cầu du lịch của con người ngày càng trở nên gay gắt. Nhu
cầu du lịch của con người một mặt phụ thuộc vào các điều kiện: thiên nhiên, chính trị,
kinh tế - xã hội trong một xã hội cụ thể, nhóm xã hội nào đó mà người ta sống, lao
động và giao tiếp. Mặt khác những điều kiện khách quan này luôn luôn bị “khúc xạ”
thông qua kinh nghiệm, đòi hỏi bên trong của mỗi con người cụ thể. Tuy nhiên đối với
số đông dân cư ở các nước đang phát triển nhu cầu đi du lịch còn xếp ở hạng thứ yếu.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 8
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
Như ở Pháp, một năm có 5 tuần nghỉ hè, bình quân có 59,1% số dân đi du lịch.
Ở Anh 59% đi du lịch, trong đó có 58% đi du lịch ở nước ngoài, 66,8% số dân Đức đi
du lịch, trong đó có 58% đi du lịch ở nước ngoài, 76,4% số dân Thuỵ Sĩ đi lao động
hàng năm, ở Thuỵ Điển là 75%, ở Nhật Bản 57,7% (nguồn OMT). Điều này cho thấy
rằng, đời sống càng phát triển thì nhu cầu đi du lịch của người dân rất lớn.
1.2.2. Đặc điểm nhu cầu du lịch:
Nhu cầu du lịch có các đặc điểm sau:
1.2.2.1. Tính phong phú, đa dạng:
Nhu cầu của con người rất đa dạng kéo theo nhu cầu du lịch cũng rất phong
phú tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế và tâm lý, sở thích của từng người. Do đó du
khách có thể lựa chọn các loại hình du lịch khác nhau cũng như lựa chọn phương tiện
vận chuyển khác nhau.
1.2.2.2. Tính thời vụ:
Nhu cầu du lịch thường phát sinh một vài lần trong năm nên tạo ra trong du lịch
có mùa cao điểm, mùa thấp điểm. Điều này phụ thuộc vào thời gian nhàn rỗi và nhu
cầu đi du lịch của khách.
1.2.2.3. Nhu cầu trong du lịch chủ yếu là cầu về dịch vụ:
Khi đi du lịch, chi phí về dịch vụ chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí.

Các chi phí đó chủ yếu bao gồm vận chuyển, lưu trú, ăn uống mua sắm… Trong đó
dịch vụ lưu trú và ăn uống nhìn chung là chiếm tỷ trọng cao nhất, dịch vụ mua hàng
chiếm vị trí thứ hai hoặc ngang bằng, cá biệt có nơi chiếm quá nửa so với các dịch vụ
khác như ở Singapo, ở Hồng Kông.
1.2.2.4. Tính dễ bị thay đổi:
Nhu cầu du lịch dễ bị thay đổi do nó chịu sự tác động của các yếu tố khách
quan và chủ quan. Vì rằng sự thoả mãn nhu cầu nào đó, phụ thuộc vào điều kiện thiên
nhiên, kinh tế xã hội, phương thức sinh hoạt trong gia đình, sự thoả mãn nhu cầu cá
nhân không thể tách rời khỏi lối sống, trào lưu, thị hiếu trong đời sống xã hội đương
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 9
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
thời, sự phát triển các nhu cầu cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào trình độ tiếp thu nền văn
minh đương thời của cá nhân. Tuy nhiên các nhu cầu cá nhân không bao giờ được thoả
mãn hoàn toàn. Khi đã được thoả mãn ở mức thấp thì không có nghĩa nó đã chấm dứt;
khi thoả mãn đến đỉnh cao thì lại cảm thấy chán nản mệt mỏi và lại đòi hỏi ở mức cao
hơn.
1.2.2.5. Tính xa cách về mặt không gian:
Trong du lịch, việc mua và tiêu dùng sản phẩm du lịch không diễn ra đồng thời
cùng một lúc. Sản phẩm du lịch thường ở quá xa khách hàng nên người mua phải mất
một thời gian khá dài kể từ ngày mua sản phẩm đến khi sử dụng nó.
1.2.3. Các loại nhu cầu cơ bản của khách du lịch:
Theo nhóm tác giả của bộ môn kinh tế du lịch trường Đại học Kinh tế quốc dân
Hà Nội thì các nhu cầu của khách du lịch bao gồm:
- Nhu cầu vận chuyển.
- Nhu cầu lưu trú và ăn uống.
- Nhu cầu cảm thụ cái đẹp và giải trí.
- Các nhu cầu khác.
Nhu cầu 1 và 2 là các nhu cầu thiết yếu là điều kiện tiền đề để thoả mãn nhu
cầu 3. Nhu cầu 3 là nhu cầu đặc trưng của du lịch. Nhu cầu 4 là nhu cầu phát sinh tuỳ

thuộc độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thói quen tiêu dùng, mục đích chuyến đi của
khách du lịch.
1.2.3.1. Dịch vụ vận chuyển:
Dịch vụ vận chuyển sinh ra là do nhu cầu vận chuyển của khách. Vì rằng thứ
nhất, hàng hoá dịch vụ du lịch không đến với người tiêu dùng giống như tiêu dùng
bình thường, mà muốn tiêu dùng du lịch theo đúng nghĩa của nó buộc người ta phải
rời chỗ ở thường xuyên của mình đến điểm du lịch, nơi tạo ra các sản phẩm và điều
kiện tiêu dùng du lịch. Thứ hai, từ nơi ở thường xuyên tới điểm du lịch thường có
khoảng cách xa vị trí và khoảng cách của các đối tượng du lịch. Bản chất của du lịch
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 10
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
là sự đi lại, do đó điều kiện tiên quyết của du lịch là phương tiện và sự tổ chức các
dịch vụ vận chuyển. Nhu cầu vận chuyển được thoả mãn là tiền đề cho sự phát triển
hàng loạt những nhu cầu mới. Nhu cầu vận chuyển này phụ thuộc vào các yếu tố:
- Khoảng cách.
- Mục đích của chuyến đi.
- Khả năng thanh toán.
- Thói quen tiêu dùng.
- Xác suất an toàn của phương tiện, uy tín, nhãn hiệu, chất lượng, sự thuận tiện
và tình trạng sức khoẻ của khách.
1.2.3.2. Dịch vụ lưu trí và ăn uống:
Dịch vụ lưu trú và ăn uống phát sinh là do nhu cầu lưu trú và ăn uống của
khách du lịch cũng là ngủ, là ăn uống nhưng nếu diễn ra ở nhà của mình thì theo một
nề nếp, khuôn mẫu trong các điều kiện và môi trường quen thuộc, còn ở nơi du lịch thì
có nhiều điều mới lạ, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt mà còn để thoả mãn các
nhu cầu tâm sinh lý khác. Nó chịu sự tác động và chi phối bởi các yếu tố sau.
- Khả năng thanh toán của khách du lịch.
- Hình thức đi du lịch (cá nhân hay tổ chức).
- Thời gian hành trình và lưu lại.

- Khẩu vị ăn uống.
- Lối sống.
- Các đặc điểm cá nhân của khách.
- Mục đích chính cần thoả mãn trong chuyến đi.
- Giá cả, chất lượng dịch vụ.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 11
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
1.2.3.3. Dịch vụ tham quan, giải trí:
Phát sinh do nhu cầu cảm thụ cái đẹp và giải trí của khách du lịch, nó là nhu
cầu đặc trưng trong du lịch về bản chất nó là nhu cầu thẩm mỹ của con người. Cảm
thụ các giá trị thẩm mỹ bằng các đơn vị tham quan, giải trí, tiêu khiển tạo nên cái gọi
là cảm tưởng du lịch trong con người. Nó được hình thành từ những rung động xúc
cảm do tác động của các sự vật hiện tượng ở nơi du lịch và biến thành những kỷ niệm
thường xuyên tái hiện trong trí nhớ của DK. Con người ai cũng hay tò mò, muốn biết
cái mới lạ, giật gân. Cảm nhận và đánh giá đối tượng phải được mắt thấy, tai nghe, tay
sờ, mũi ngửi mới cảm thấy thoả đáng.
Nhu cầu cảm thụ cái đẹp, giải trí và tiêu khiển được khơi dậy từ ảnh hưởng đặc
biệt của môi trường sống và làm việc trong nền văn minh công nghiệp. Stress đã làm
cho người ta cần thiết phải tìm kiếm sự nghỉ ngơi, tiêu khiển, gặp gỡ, lãng quên để trở
về với thiên nhiên. Nó phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Đặc điểm cá nhân của khách.
- Văn hoá và tiểu văn hoá.
- Giai cấp, nghề nghiệp.
- Mục đích chính của chuyến đi.
- Khả năng thanh toán.
- Thị hiếu thẩm mỹ.
1.2.3.4. Dịch vụ khác:
Các dịch vụ khác sinh ra là do các yêu cầu đòi hỏi rất đa dạng mà nó phát sinh
trong chuyến đi của du khách. Các dịch vụ đó tiêu biểu là:

- Bán hàng lưu niệm.
- Dịch vụ thông tin liên lạc, làm thủ tục Visa, đặt chỗ, mua vé.v..v…
- Dịch vụ giặt là.
- Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ làm đẹp.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 12
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
- Dịch vụ in ấn, giải trí, thể thao.
Phần lớn các dịch vụ này được tổ chức phục vụ cho khách du lịch ngay tại
khách sạn, nhà hàng. Ngoài ra còn có mạng lưới kinh doanh khác cũng tham gia vào
phục vụ khách du lịch. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, tổ chức phục vụ tốt không
chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, đầu tư ít, xuất khẩu tại chỗ hoặc tái xuất, quay vòng vốn
nhanh, ít rủi ro mà còn là điều kiện tốt để thu hút khách, giữ chân khách, hướng dẫn
các nhu cầu của họ để lưu lại lâu hơn và chi tiêu nhiều hơn.
1.3. PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
1.3.1. Khái niệm:
 Du lịch bền vững:
Khái niệm du lịch bền vững mới xuất hiện trên cơ sở cải tiến và nâng cấp khái
niệm du lịch mềm của những năm 90 và thực sự gây được chú ý rộng rãi trong những
năm gần đây.
Theo hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế (WTTC), 1996 thì: “Du lịch bền
vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm
bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”.
Theo mục 18, điều 4, chương I của Luật Du lịch thì du lịch bền vững được định
nghĩa như sau: “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch tương lai”.
 Phát triển du lịch bền vững:
Ngay từ thập kỷ 1980, nhận thức được nguy cơ suy thoái môi trường, mất cân
bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế, Hội nghị của Uỷ ban thế giới về phát
triển và môi trường (WCED) đã đưa ra khái niệm về “phát triển bền vững”. Khái niệm

này mới chỉ xem xét phát triển bền vững từ góc độ kinh tế nên tại Hội nghị thượng
đỉnh về Trái đất tại Rio, chương trình nghị sự 21 đã bổ sung khái niệm phát triển bền
vững. Theo đó, phát triển bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, xen cài và
thoả hiệp của 3 hệ thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ văn hoá - xã hội.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 13
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
Dựa trên những nguyên tắc phát triển bền vững, Hội đồng Lữ hành Du lịch thế
giới (WTTC), Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) và Hội đồng Trái đất (Earth
Council) xây dựng chương trình Nghị sự 21 với 10 nguyên tắc hướng tới “phát triển
du lịch bền vững”. Khái niệm phát triển du lịch bền vững trong du lịch được hiểu là
“hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thoả mãn các
nhu cầu đa dạng của khách du lịch, có quan tâm tới các lợi ích kinh tế trong dài hạn
trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn các nguồn tài nguyên du lịch, duy trì
được sự toàn vẹn về văn hoá để phát triển du lịch trong tương lai; cho công tác bảo vệ
môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư địa phương”.
Quan điểm bảo vệ môi trường trong luật Du lịch:
Trong luật Du lịch đã xác định môi trường bao gồm “môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội nhân văn nơi diễn ra các hoạt động du lịch” (khoản 21 điều 4). Đây
có thể coi là căn cứ quan trọng để thúc đẩy các nỗ lực về bảo vệ môi trường một cách
hiệu quả.
Điều 9 luật Du lịch đặt ra yêu cầu đối với công tác bảo vệ môi trường trong
lĩnh vực du lịch, đó là “môi trường tự nhiên, môi trường xã hội nhân văn cần được bảo
vệ tôn tạo và phát triển nhằm bảo đảm môi trường du lịch xanh, sạch, đẹp, an ninh, an
toàn, lành mạnh và văn minh”.
Về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước liên quan, trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình “ban hành các quy định nhằm bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi
trường du lịch”. Theo quy định này, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ ban hành những
quy định để bảo vệ môi trường du lịch ở khía cạnh tự nhiên, ngăn ngừa và khắc phục
các hiện tượng ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường trong lĩnh

vực du lịch, bảo vệ cảnh quan nơi diễn ra hoạt động du lịch; Bộ Công an có những quy
định nhằm đảm bảo an ninh, trật tự trong hoạt động du lịch; Bộ Văn hoá - Thông tin
quy định về việc giữ gìn nếp sống văn minh trong ứng xử đối với khách du lịch, bảo
vệ các thuần phong mỹ tục… Tuy nhiên, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
Bộ, ngành liên quan để bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch mới đạt được hiệu
quả như mong muốn.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 14
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
Đối với UBND các cấp, khoản 3, điều 9 luật Du lịch quy định “UBND cần có
biện pháp bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch phù hợp với thực tế của địa
phương”.
Đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, khoản 4 điều 9 quy định các tổ
chức, cá nhân này “có trách nhiệm thu gom, xử lý các loại chất thải phát sinh trong
quá trình hoạt động kinh doanh; khắc phục tác động tiêu cực do hoạt động của mình
gây ra đối với môi trường có biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội trong cơ sở kinh
doanh của mình. Với quy định này luật du lịch đã đề cao vai trò của các chủ thể kinh
doanh trong bảo vệ môi trường du lịch. Các chủ thể này phải có trách nhiệm thực hiện
các biện pháp bảo vệ môi trường trong phạm vi cơ sở kinh doanh của mình (thu gom,
xử lý các loại chất thải phát sinh), đồng thời chịu trách nhiệm về những hậu quả đối
với môi trường mà hoạt động kinh doanh du lịch gây ra.
Khoản 5, điều 9 luật Du lịch quy định về trách nhiệm bảo vệ môi trường của
khách du lịch, cộng đồng dân cư địa phương và các tổ chức, cá nhân khác: “bảo vệ và
giữ gìn cảnh quan, môi trường, bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc; có
thái độ ứng xử văn minh, lịch sự nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người và du
lịch Việt Nam”.
Nhiệm vụ bảo vệ môi trường của ngành du lịch:
Theo chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 - 2010 đã được Thứ trưởng
Chính phủ phê duyệt xác định: “Phát triển du lịch bền vững, theo định hướng du lịch
văn hoá - lịch sử và du lịch sinh thái, đảm bảo sự tăng trưởng liên tục, góp phần tích

cực trong việc giữ gìn, bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội, bản sắc văn hoá dân tộc,
xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh, trong
khu vực và thế giới”. Trong thời gian sắp tới, những hoạt động cần tiến hành:
Một là, tăng cường phổ biến thông tin về nâng cao nhận thức, ý thức, kiến thức
bảo vệ môi trường du lịch tại các điểm du lịch, cơ sở dịch vụ du lịch.
Hai là, giáo dục cộng đồng dân cư tại các điểm du lịch nâng cao nhận thức bảo
vệ môi trường du lịch từ đó hướng dẫn khách du lịch tham gia bảo vệ môi trường.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 15
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
Ba là, áp dụng những biện pháp, kinh nghiệm hay của quốc tế trong bảo vệ môi
trường du lịch.
Bốn là, tăng cường quản lý công tác bảo vệ môi trường thông qua kiểm tra, hỗ
trợ các doanh nghiệp.
Năm là, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Tổng cục Du lịch, UBND các cấp,
các bộ ngành hữu quan để thực hiện kế hoạch và quản lý môi trường du lịch; nâng cao
chất lượng môi trường nhằm phát triển du lịch bền vững.
Sáu là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm duy trì nề nếp trong công
tác bảo vệ môi trường, kịp thời động viên, khen thưởng những đơn vị thực hiện tốt để
khuyến khích, nhân rộng.
Như vậy, để phát triển du lịch bền vững cần phải có chiến lược và quy hoạch
phù hợp với kế hoạch và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, phù hợp
với xu hướng phát triển du lịch quốc tế, phát triển du lịch đi đôi với bảo vệ tài nguyên.
1.3.2. Các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững:
Hiện nay nhiều điều du lịch đang hướng theo các chiến lược phát triển du lịch
một cách thật nhạy bén. Rất nhiều trong số các chiến lược đó được dựa trên một cách
thể hiện chính thống các nguyên tắc của du lịch bền vững. Mọi người trong đó có các
chuyên gia quy hoạch có thể sử dụng những nguyên tắc này như những đường hướng
cơ bản để lồng ghép quan điểm tổng thể về sự bền vững vào các chính sách và hành
động cụ thể tại địa phương.

Các nguyên tắc được đưa ra dưới đây là rất quan trọng đối với các điểm du lịch
cũng như các tổ chức muốn áp dụng một cách đúng đắn du lịch bền vững và du lịch có
trách nhiệm.
- Thứ nhất, dân cư địa phương phải không ngừng kiểm soát được sự phát triển
du lịch bằng cách tham gia vào việc hình thành một quan điểm phát triển du lịch của
địa phương, xác định nguồn tài nguyên nào cần được bảo vệ và nâng cấp cũng như
đưa ra các mục tiêu và chiến lược phát triển và quản lý du lịch. Bên cạnh đó, dân cư
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 16
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
địa phương còn phải tham gia vào quá trình thực hiện các chiến lược đó cũng như quá
trình vận hành các cơ sở hạ tầng du lịch, dịch vụ và tiện nghi du lịch.
- Thứ hai, bất kỳ một sáng kiến nào về du lịch cũng phải được xây dựng trên cơ
sở có sự đóng góp rộng rãi của người tham gia vào hoạt động du lịch.
- Thứ ba, phát triển du lịch phải tạo ra việc làm có chất lượng. Đảm bảo công
ăn việc làm cần được xem xét như một phần không tách rời của phát triển du lịch. Một
khâu trong quá trình tạo ra các việc làm có chất lượng là đảm bảo hạ tầng du lịch
(khách sạn, nhà hàng, cửa hiệu…) được xây dựng và quản lý bởi người bản xứ càng
nhiều càng tốt. Kinh nghiệm cho thấy việc cung cấp các dịch vụ về giáo dục và đào
tạo cho người dân bản địa cũng như tín dụng cho các doanh nghiệp và thương gia địa
phương đóng vai trò trung tâm của thể loại chính sách này.
- Thứ tư, cần phân phối một cách rộng rãi các lợi ích mà du lịch mang lại cho
địa phương. Các liên kết trong phạm vi địa phương và sự tham gia của người dân bản
xứ vào quá trình lập quy hoạch, phát triển và vận hành các tài nguyên và dịch vụ du
lịch sẽ giúp đảm bảo phân phối công bằng hơn các lợi ích cho người dân, khách đến
tham quan du lịch và các nhà cung cấp dịch vụ khác.
- Thứ năm, phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các thế
hệ. Việc phân phối công bằng các tác hại và lợi ích của quá trình phát triển du lịch
phải được tiến hành đối với các thế hệ hiện tại và mai sau. Để đảm bảo sự công bằng
đối với các thế hệ khách du lịch và ngành du lịch mai sau, xã hội phải cố gắng giữ gìn

và chuyển giao các nguồn tài nguyên trong trạng thái không tồi hơn so với những gì
mà chúng ta đang được hưởng. Như vậy phát triển du lịch bền vững là phải tránh các
hành động khai thác tài nguyên mà nếu có vấn đề gì thì không thể thay đổi được.
- Thứ sáu, một quy hoạch du lịch dài hạn đòi hỏi phải được các doanh nghiệp
và các tổ chức du lịch tại điểm du lịch thông qua nhằm đảm bảo rằng các địa điểm như
vậy không chạy theo lợi ích trước mắt mà không quan tâm đến thị hiếu của khách du
lịch cũng như lợi ích của các doanh nghiệp. Quy hoạch du lịch dài hạn sẽ thúc đẩy
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 17
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
việc áp dụng mạnh mẽ các chiến lược đảm bảo sự bền vững cho điểm du lịch và hình
thành các liên kết lâu dài.
- Thứ bảy, cần có sự hài hoà giữa các nhu cầu của khách du lịch, điểm tham
quan và cộng đồng dân cư địa phương. Để đạt được sự hài hoà nêu trên đòi hỏi phải
có sự hỗ trợ sâu rộng của các đối tượng tham gia vào hoạt động du lịch, cân đối một
cách hợp lý các mục tiêu kinh tế, xã hội, văn hoá và con người, đồng thời phải nhận
thức được tầm quan trọng của việc hợp tác giữa chính phủ, cộng đồng dân cư địa
phương, ngành du lịch và các tổ chức phi lợi nhuận trong lĩnh vực phát triển cộng
đồng và bảo vệ môi trường.
- Thứ tám, các quy hoạch và chiến lược du lịch cần có sự liên kết sâu rộng với
các sáng kiến và kế hoạch phát triển kinh tế.
- Thứ chín, cần có sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các đơn vị tham gia hoạt động
du lịch cũng như các cơ quan quản lý ở mọi cấp độ cả trong lĩnh vực chính sách cũng
như các hoạt động cụ thể. Đây là vấn đề liên quan đặc biệt đến các chính sách về du
lịch và môi trường. Việc cung cấp các dịch vụ vận chuyển, bến bãi, cấp thoát nước
cũng cần được xem xét trong mối quan hệ với các quy hoạch phát triển du lịch.
- Thứ mười, việc hợp tác giữa các điểm du lịch, các doanh nghiệp và hãng điều
hành du lịch là rất cần thiết vì hoạt động kinh doanh hoặc việc vận hành của một đơn
vị này có thể chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi hoạt động hoặc chất lượng dịch vụ của một
đơn vị khác.

- Thứ mười một, phải có đánh giá tác động của các quy hoạch phát triển du
lịch. Phải nghiên cứu kỹ lưỡng sức chứa của các điểm du lịch, trong đó đặc biệt quan
tâm đến các giới hạn về mặt cơ học, điều kiện tự nhiên, văn hoá, xã hội đồng thời sự
phát triển phải tương thích với các giới hạn của địa phương và môi trường. Các quy
hoạch và các hoạt động triển khai cần được đánh giá thường xuyên để điều chỉnh nếu
cần thiết.
Thứ mười hai, phải đưa ra các chỉ dẫn cho hoạt động du lịch, trong đó có cả
những yêu cầu về việc đánh giá tác động. Phải có các bộ quy tắc hoạt động, trong du
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 18
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
lịch ở mọi cấp độ, từ quốc gia đến từng khu vực và địa phương. Ngoài ra cũng phải
xây dựng các chỉ số và giới hạn để định hướng mức độ ảnh hưởng và thành công của
các doanh nghiệp du lịch địa phương. Việc đưa ra các chiến lược bảo vệ và giám sát là
rất cần thiết nếu như cộng đồng dân cư muốn bảo vệ các nguồn tài nguyên vốn là nền
tảng để tạo nên các sản phẩm du lịch của họ.
- Thứ mười ba, cần tránh mô hình truyền thống là chỉ hướng tới tăng trưởng mà
nên tập trung vào các cơ hội tạo việc làm, thu nhập và cải thiện cuộc sống cho người
dân địa phương trong khi vẫn đảm bảo rằng các quyết định cho phát triển sẽ phản ánh
toàn bộ giá trị của môi trường tự nhiên và văn hoá. Việc quản lý và sử dụng các tài sản
công cộng như nước, không khí và đất công hữu cần được người sử dụng giải trình rõ
ràng nhằm đảm bảo rằng các tài nguyên đó không bị lạm dụng.
- Nguyên tắc mười bốn, phát triển du lịch bền vững, đòi hỏi phải xây dựng các
chương trình giáo dục và đào tạo để nâng cao sự hiểu biết của công chúng và nâng cao
các nghiệp vụ về chuyên môn, kinh doanh và hướng nghiệp.
- Nguyên tắc mười lăm, phát triển du lịch bao gồm cả vấn đề khuyến khích sử
dụng hợp lý và đẩy mạnh các hoạt động nhằm phát huy và củng cố các lợi thế về cảnh
quan, vị trí, bản sắc cộng đồng và tiềm năng của điểm du lịch. Trên cơ sở đó mang lại
các chuyến du lịch chất lượng cao có thể làm hài lòng du khách đồng thời vẫn tuân thủ
các nguyên tắc khác của du lịch bền vững.

- Nguyên tắc mười sáu, quy mô và kiểu dáng của tiện nghi du lịch phải phù hợp
với các giới hạn sử dụng cho phép của tài nguyên du lịch. Các tiện nghi và dịch vụ quy
mô nhỏ, ít gây tác động cần được khuyến khích, ví dụ thông qua việc ưu tiên về tài
chính hoặc các hình thức ưu tiên khác.
- Nguyên tắc mười bảy, quá trình phát triển du lịch cũng phải đảm bảo rằng các
tài nguyên thiên nhiên và di sản văn hoá sẽ được duy trì và tôn tạo thông qua việc áp
dụng các tiêu chuẩn và chỉ tiêu được thế giới công nhận.
- Nguyên tắc mười tám, tiếp thị du lịch bền vững phải đảm bảo mang lại một
chuyến đi chất lượng cao đồng thời thoả mãn các nguyên tắc khác đã được đề cập.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 19
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
Mọi hoạt động xúc tiến quảng bá đều phải có trách nhiệm và thể hiện đúng mức sức
hấp dẫn và chất lượng dịch vụ tại điểm tham quan du lịch.
1.3.3. Mục đích phát triển du lịch bền vững:
- Phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lịch vào kinh tế và môi trường.
- Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển.
- Cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa.
- Đáp ứng cao độ nhu cầu của du khách.
- Duy trì chất lượng môi trường.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TIỀM NĂNG DU LỊCH THỪA THIÊN HUẾ
2.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên:
Tài nguyên du lịch Thừa Thiên Huế tương đối phong phú và đa dạng với nhiều
địa danh nổi tiếng, có sức hấp dẫn và khả năng thu hút lớn đối với bạn bè và du khách
quốc tế cũng như người dân trong nước, bao gồm núi, hồ, rừng, bãi biển, hệ thống
đầm phá, các di tích văn hoá, lịch sử… Đây là một lợi thế hết sức quan trọng trong
việc tạp nên tiền đề phát triển một số loại hình du lịch thích hợp như du lịch văn hoá,
tham quan, sinh thái, nghỉ dưỡng, góp phần đẩy mạnh ngành du lịch phát triển với
nhịp độ nhanh hơn.

Tài nguyên du lịch Thừa Thiên Huế được phân bố tương đối tập trung ở một số
khu vực chính như thành phố Huế và vùng phụ cận (bao gồm cửa biển Thuận An), khu
vực Bạch Mã, Cảnh Dương, Lăng Cô, Hải Vân, A Lưới, đường mòn Hồ Chí Minh.
Các khu vực này đều nằm trên quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt, có cảng nước sâu
Chân Mây trên trục của địa bàn kinh tế trọng điểm miền Trung, nâng cấp sân bay Phú
Bài trở thành sân bay quốc tế. Đó là một lợi thế trong việc hình thành các khu du lịch
có sức thu hút khách, có khả năng cạnh tranh được với các trung tâm du lịch khác.
Mỗi khu vực có những thế mạnh riêng về tài nguyên, có khả năng tạo ra những bản
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 20
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
sắc riêng. Nếu như Huế và vùng phụ cận nổi bật về sản phẩm du lịch về tài nguyên
lịch sử, văn hoá, kiến trúc gắn với những danh lam thắng cảnh nổi tiếng thì Cảnh
Dương, Bạch Mã, Lăng Cô, Hải Vân lại có nhiều ưu thế về tài nguyên du lịch tự
nhiên, những bãi biển đẹp kết hợp với địa hình đồi núi ngoạn mục cùng với sự phong
phú của hệ sinh thái rừng quốc gia Bạch Mã thích hợp cho các loại hình du lịch sinh
thái, du lịch nghỉ dưỡng. Từ đó làm cho du lịch Thừa Thiên Huế có triển vọng phát
triển theo chiều hướng bền vững.
Sông Hương, một trong những thắng cảnh nổi tiếng và biểu tượng cho tự hào
của Cố đô Huế đang được khai thác để trở thành một nơi giải trí văn hoá trên sông và
là tuyến du lịch đầy thú vị với du khách.
2.1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn:
Tiềm năng nhân văn được coi là sản phẩm chủ yếu của du lịch Huế. Nằm ở
vùng duyên hải miền Trung, với diện tích chiếm phần lớn là đồi núi nên Huế đã tạo
cho mình những nét riêng biệt trong du lịch. Bên cạnh đó, Huế cũng đã giữ gìn và bảo
tồn di tích lịch sử, văn hoá còn khá nguyên vẹn. Đó là quần thể di tích cố đô Huế đã
được UNESCO công nhân là di sản văn hoá thế giới, một bộ phận hợp thành tài sản
văn hoá vô giá của nhân loại. Cùng với di tích lịch sử văn hoá liên quan đến triều đại
phong kiến nhà Nguyễn như: hệ thống đền đài, cung điện, lăng tẩm, thành quách thì
còn nhiều giá trị văn hoá phi vật thể khác như: ca múa cung đình, lễ hội dân gian, lễ

hội truyền thống… Trong đó đặc biệt năm 2004, Nhã Nhạc cung đình Huế cũng được
UNESCO công nhận là di sản phi vật thể và truyền khẩu nhân loại.
Huế từng là kinh đô Phật giáo của đất nước, do đó trên địa bàn tỉnh cho đến nay
có hàng chục ngôi chùa cổ kính, uy nghi như Thiên Mụ, Từ Đàm… đã tạo ra một nét
rất riêng trong đời sống tinh thần của con người xứ Huế. Đây là một điều kiện thuận
lợi để phát triển loại hình du lịch tôn giáo.
Thừa Thiên Huế còn là địa bàn cư trú của dân tộc ít người như Pa Cô, Tà Ôi,
Vân Kiều với những tập quán sinh hoạt khá độc đáo và các lễ hội mang đậm bản sắc
văn hoá của dân tộc mình.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 21
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
Huế từng là kinh đô của cả nước, ngoài quần thể di tích Cố đô Huế và nhã nhạc
cung đình đã được UNESCO công nhân thì đến với Huế là đến với các lễ hội dân gian
truyền thống như thả diều… các làng nghề và sản phẩm thủ công: đúc đồng, nón, sự
phong phú của nghệ thuật âm nhạc và ca múa, nét tinh tế và độc đáo trong nghệ thuật
ẩm thực và giao tiếp.
2.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH THỪA THIÊN
HUẾ QUA CÁC NĂM 2005 - 2007
2.2.1. Tình hình hoạt động và phát triển du lịch Thừa Thiên Huế qua các
năm 2005 - 2007:
2.2.1.1. Dịch vụ lưu trú:
Theo số liệu của Sở Du lịch Thừa Thiên Huế, ước tính đến cuối năm 2005 tổng
số cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh là 135 cơ sở với 4000 phòng và 7800 giường), tăng
13 cơ sở, 466 phòng tăng 13,1% so với năm 2004. Tính đến thời điểm cuối năm 2005
đã có 33 cơ sở lưu trú được xếp hàng từ 1 đến 4 sao chiếm tỷ lệ 24,4% so với tổng số
cơ sở lưu trú và 44,9% số phòng hiện có, 45 cơ sở được công nhận đạt tiêu chuẩn tối
thiểu, chiếm 33,3% số cơ sở, như vậy đã có 78,2% số cơ sở đủ tiêu chuẩn đón khách
quốc tế.
Trong năm 2005, số lượng cơ sở lưu trú phát triển không nhiều, các doanh

nghiệp chú trọng đến việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng. Đến cuối năm
2005 có một số cơ sở chất lượng cao đưa vào hoạt động như khách sạn Kinh Thành,
khách sạn Tân Hoàng Cung,… và một số công trình đang được đẩy nhanh tiến độ thi
công như khách sạn Hùng Vương, khách sạn Xanh Huế…
Năm 2005 là năm lễ hội của ngành du lịch với nhiều chương trình lễ hội đặc
sắc như lễ hội từ làng Sen đến Dương Nỗ nhân kỷ niệm 115 sinh nhật Bác Hồ, kỷ
niệm ngày Du lịch Việt Nam, Festival Nghề truyền thống Huế, Lăng Cô - huyền thoại
biển… đã thu hút lượng lớn khách du lịch đến tham dự đưa tổng khách của toàn ngành
du lịch Thừa Thiên Huế tăng cao. Năm 2005 ngành đã đón và phục vụ 1.050.000 lượt
khác (bằng 111% so với kế hoạch, tăng 38% so với cùng kỳ, đem lại doanh thu 543,4
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 22
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
tỷ đồng (bằng 121% so với kế hoạch đặt ra, tăng 48% so với năm trước), trong đó có
369.000 lượt khách quốc tế (bằng 114% kế hoạch năm tăng 42% so với cùng kỳ);
ngày khách lưu trú bình quân đạt 1,98 ngày, tổng ngày khách là 2.080.000 ngày khách
(bằng 111% kế hoạch năm, tăng 41% so với cùng kỳ), trong đó 729.000 ngày khách
quốc tế (bằng 114% kế hoạch năm và tăng 43% so với cùng kỳ).
Mặc dù năm 2005 tình hình kinh tế chính trị trên thế giới diễn biến phức tạp,
chiến tranh, nạn khủng bố, thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng đã ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng.
Chất lượng dịch vụ mặc dù đã được cải thiện song vẫn còn thấp, sản phẩm du
lịch đơn điệu, nghèo nàn, chưa có sức cạnh tranh cao. Cơ chế chính sách khuyến khích
đầu tư phát triển du lịch chưa thực sự thông thoáng, hấp dẫn nên chưa có tác dụng huy
động các nguồn lực.
Môi trường du lịch còn nhiều bất cập, đặc biệt là môi trường xã hội nhân văn,
môi trường đô thị. Tình trạng lộn xộn trong kinh doanh tại các điểm du lịch vẫn còn,
nạn cò mồi, cạnh tranh phá giá, lang thang cơ nhỡ... hệ thống cơ sở hạ tầng chưa được
quan tâm đúng mức đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý du khách. Tuy vậy ngành
du lịch Thừa Thiên Huế đã từng bước khắc phục khó khăn để vươn lên và đạt được

những thành tựu đáng kể.
Bước sang năm 2006 đã nâng tổng số cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh lên 144 cơ
sở với 4550 phòng, tăng gần 10 cơ sở với gần 550 phòng so với năm 2005. Đã có 34
cơ sở được công nhận hạng trừ 1 đến 5 sao chiếm tỷ lệ 23,6% so với tổng số cơ sở và
49,34% số phòng hiện có; 50 cơ sở được công nhận đạt tiêu chuẩn tối thiểu, chiếm
34,7% số cơ sở như vậy đã có 58,3% số cơ sở đủ tiêu chuẩn đón khách quốc tế.
Trong năm 2006, số lượng cơ sở lưu trú phát triển thêm không nhiều, các
doanh nghiệp chú trọng hơn đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng. Một số cơ sở
chất lượng cao đã hoàn thiện đưa vào hoạt động phục vụ như khách sạn Hoàng Cung,
khách sạn Queen, khách sạn Xanh và một số công trình đang được đẩy nhanh tiến độ
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 23
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
thi công như khách sạn Hùng Vương, khách sạn Bến Thành Phú Xuân... cải tạo nâng
cấp và mở rộng khách sạn Hương Giang, khách sạn Century, làng Hành Hương...
Các cơ sở lưu trú có quy mô lớn, vị trí thuận tiện, mối quan hệ khách hàng rộng
rãi trong và ngoài nước, đã thu hút phần lớn khách du lịch quốc tế và nội địa trên toàn
tỉnh. Trong đó có một số doanh nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật tiên tiến, chất lượng
dịch vụ tốt, nguồn khách ổn định, công suất phòng bình quân năm tương đối cao
(>60%) hiệu quả kinh doanh tốt, thu nhập của người lao động cao hơn so với các loại
hình doanh nghiệp khác (khách sạn Morin, khách sạn Hương Giang, khách sạn La
Résidence, làng Hành Hương...) đáp ứng được phục vụ các đối tượng khách quan tọng
của chính phủ... tổ chức các hội nghị, hội thảo lớn trong nước và quốc tế; các đối
tượng khách có thu nhập cao... Bên cạnh đó vẫn còn một số doanh nghiệp khác do có
cơ sở vật chất kỹ thuật, chất lượng các dịch vụ còn hạn chế nên hoạt động kinh doanh
kém hiệu quả, khó có khả năng để phát triển, một số doanh nghiệp chưa có chính sách
tuyên truyền, quảng bá phù hợp nên lượng khách đến không nhiều dẫn đến việc trả
lương cho nhân viên thấp, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn.
Các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú quy mô nhỏ (10 - 30 phòng) trong thời
gian qua đã phát triển nhanh, đến nay đã có 89 cơ sở chiếm một lượng phòng tương

đối lớn, giải quyết cơ bản nhu cầu lưu trú của khách bình dân. Công suất sử dụng
phòng khoảng 50 - 55%, giá phòng thấp nhưng tỷ trọng đóng góp về lượng khách, về
doanh thu cũng tương đối.
Trong thời gian này đa số các doanh nghiệp có sự chuyển biến nhận thức về
chất lượng của cơ sở lưu trú nên đã có nhiều động thái tích cực (như nâng cấp cơ sở
vật chất, kỹ thuật, đầu tư thêm dịch vụ: xe vận chuyển, massage, nhà hàng...) đầu tư
xây dựng mới, nâng cấp và bổ sung các trang thiết bị, cơ sở vật chất trong khách sạn,
đảm bảo an ninh, an toàn để phục vụ ngày càng tốt hơn. Các khách sạn đã được công
nhận tiêu chuẩn chất lượng, thường xuyên nâng cấp bổ sung các loại dịch vụ và thiết
bị trong phòng ngủ. Một số khách sạn mới xây dựng đều chú ý đầu tư trang thiết bị
hiện đại, đặc biệt rất chú trọng đến vấn đề trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ
cán bộ nhân viên.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 24
Luận văn tốt nghiệp Xây dựng mô hình và định hướng phát triển du lịch bền vững
ở Thị trấn Lăng Cô - huyện Phú Lộc
Đến năm 2007, tổng số cơ sở lưu trú trên địa bàn đến nay là 145 cơ sở, chỉ tăng
1 cơ sở so với cùng kỳ năm 2006 vì có một số đơn vị đang ngừng hoạt động để nâng
cấp cơ sở vật chất. Trong khi có một số cơ sở mới đi vào hoạt động nên đã nâng số
phòng trên toàn tỉnh lên thành 4674 phòng, 9046 giường, tăng 124 phòng so với cuối
năm 2006. Cuối năm 2007 đã có 36 khách sạn được công nhận hạng sao (1 khách sạn
5 sao, 6 khách sạn 4 sao, 6 khách sạn 3 sao và 23 khách sạn từ 1 - 2 sao với 2516
phòng tăng 2 cơ sở so với cuối năm 2006. Ngoài ra còn 52 khách sạn đạt tiêu chuẩn
nâng tổng số phòng khách sạn từ đạt chuẩn trở lên chiếm hơn 70,3% so với tổng số
phòng trên địa bàn. Một số khách sạn đang trong quá trình xây dựng và dự kiến.
Ngoài ra còn phối hợp triển khai dịch vụ homestay với Bỉ, mô hình thí điểm
“Nhà dân có phòng cho khách du lịch thuê” từng bước được khách du lịch biết đến.
Trong năm 2007, có 22 khách Pháp và hơn 1500 khách nội địa đăng ký lưu trú. Đây là
mô hình khách cùng sinh hoạt với chủ nhà, có cơ hội tìm hiểu nền văn hoá bản địa nên
rất thu hút khách, nhất là khách quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay loại hình này mới là
những mô hình thí điểm nên số lượng nhà dân và số lượng phòng đạt tiêu chuẩn còn

hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu của khách. Các cơ sở lưu trú nói chung trên địa
bàn có quy mô vừa và nhỏ, trang thiết bị khá tốt tuy nhiên trình độ nguồn nhân lực du
lịch vẫn là một vấn đề đáng quan tâm nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay, nguyên
nhân chủ yếu là do sự phát triển nguồn nhân lực không đáp ứng được tốc độ phát triển
của các cơ sở lưu trú, đặc biệt là các cơ sở lưu trú chất lượng cao, điều này đang tạo ra
tình trạng dịch chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các khách sạn.
Nhìn chung, các khách sạn rất quan tâm đến việc đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị và quan tâm đến việc tuyển chọn nhân viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
từ các trường đại học, trường nghiệp vụ du lịch, nhân viên có kinh nghiệm lâu năm,
tiếp tục đào tạo lại nên phần nào đảm bảo được yêu cầu về tiêu chuẩn khách sạn, đảm
bảo an toàn cho khách du lịch, an ninh trong cơ sở lưu trú được tăng cường, chất
lượng các dịch vụ bổ sung (Internet miễn phí, WIFI tại phòng...) và công tác vệ sinh
được quan tâm nhiều hơn nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch.
SVTH: Lê Thị Như Hiền Trang 25

×