BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN QN Y
HỒNG THANH TÙNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM THƯƠNG TỔN
GIẢI PHẪU VÀ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ GÃY
CỘT SỐNG NGỰC THẤP VÀ THẮT LƯNG KHƠNG VỮNG
DO CHẤN THƯƠNG BẰNG NẸP VÍT
Chun ngành
: Ngoại khoa
Mã số
: 9720104
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1.
PGS.TS. VÕ VĂN NHO
2.
PGS.TS. NGUYỄN HÙNG MINH
2
HÀ NỘI 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tơi
với sự hướng dẫn khoa học của tập thể cán bộ hướng dẫn.
Các kết quả nêu trong luận án là trung thực và được
cơng bố một phần trong các bài báo khoa học. Luận án chưa
từng được cơng bố. Nếu có điều gì sai tơi xin hồn tồn chịu
trách nhiệm.
Tác giả
Hồng Thanh Tùng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Chữ viết tắt
Danh muc cac bang
̣
́ ̉
Danh muc cac biêu đơ
̣
́
̉
̀
Danh muc cac hình
̣
́
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
Phần viết
Phần viết đầy đủ
tắt
1.
2.
3.
4.
5.
A
Anterior body vertebral height (Chiều cao cột trước
a
ALL
AO
thân đốt)
Đường kính ống sống chỗ hẹp nhất
Anterior Longitudinal Ligament (Dây chằng dọc trước)
Arbeitsgemeinschaft fur Osteosynthesefragen
ASIA
(Hiệp hội kết hợp xương)
American Spinal Injury Association Scale
(Thang điểm Hiệp hội chấn thương cột sống Hoa
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
b
BL
BL GT
BL TT
C arm
CL
CLVT
D
D IARTBF
Kỳ)
Đường kính ống sống bình thường
Bản lề
Bản lề gián tiếp
Bản lề trực tiếp
X quang cánh tay C
Capsular Ligament (Dây chằng bao khớp)
Cắt lớp vi tính
Distance (Khoảng cách)
The perpendicular distance from the IAR to the tension
band fixation appliedforce vector (Khoảng cách từ trục
quay tức thời đến véc tơ lực tác động lên hệ thống cố
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
F
FTBF
GT
IAR
ISL
KTTDC
KTTTK
L
LCGE
định)
Force (Lực)
The compression force (Lực nén ép)
Gián tiếp
Instantaneous Axis of Rotation (Trục quay tức thời)
InterSpinous Ligament (Dây chằng trên gai)
Khơng tổn thương dây chằng
Khơng tổn thương thần kinh
Lumbar (Thắt lưng)
Lựa chọn giải ép
TT
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
Phần viết
tắt
LF
LSC
M
M3PB
MDHOS
MTBF
Nhóm 1
Nhóm 2
NNHOS
PLL
PL
T
TL
TL GT
TL TT
TLICS
Phần viết đầy đủ
Ligament Flavum (Dây chằng vàng)
Loading sharing classification (Bảng phân loại dồn trục)
Moment (Mơ men lực)
Moment three Point Bending (Lực uốn tại 3 điểm)
Mức độ hẹp ống sống
The bending moment (Lực uốn)
Giải ép trực tiếp hoặc tổn thương dây chằng
Giải ép gián tiếp
Ngun nhân hẹp ống sống
Posterior Longitudinal Ligament (Dây chằng dọc sau)
Phẫu thuật
Thoracic (Ngực)
Thắt lưng
Thắt lưng gián tiếp
Thắt lưng trực tiếp
ThoracoLumbar Injury Classification and Severity
Score (Bảng phân loại chấn thương cột sống lưng
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
TT
TTDC
TTTD
TTTK
VTCE
α
β
thắt lưng và điểm mức độ nặng)
Trực tiếp
Tổn thương dây chằng
Tổn thương thân đốt
Tổn thương thần kinh
Vị trí chèn ép
Góc gù vùng
Giảm chiều cao cột trước thân đốt
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Tên bảng
Trang
6
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình
Tên hình
Trang
8
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương cột sống chiếm khoảng 6% trong tổng số chấn thương
nói chung với tỷ lệ chấn thương cột sống vùng ngực và thắt lưng chiếm đa
số, khoảng 90% [1]. Trong đó chấn thương chủ yếu tại đoạn bản lề cột
sống ngực thắt lưng (T11 L2) và đoạn thắt lưng thấp (L3 L5) chiếm tỷ
lệ khoảng 84%, với cơ chế chấn thương gián tiếp là chủ đạo [2], [3], [4].
Đoạn ngực cao (T1 T10) ít khi xảy ra chấn thương hoặc nếu có thường là
gãy vững, tỷ lệ phải phẫu thuật thấp do đặc điểm cấu trúc có khung sườn
kết hợp tạo nên khung đỡ vững chắc. Vì vậy chúng tôi chỉ thực hiện
nghiên cứu tổn thương trên đoạn bản lề cột sống ngực thắt lưng và đoạn
thắt lưng thấp.
Trong phân loại tổn thương các tác giả ngày càng đề cập và nhấn
mạnh đến các yếu tố: tổn thương thân đốt, sự biến dạng, tính tồn vẹn của
phức hệ dây chằng phía sau và tổn thương thần kinh với vai trị là các tiêu
chuẩn quan trọng có tính chất quyết định trong đánh giá mức độ tổn
thương, chỉ định điều trị và lựa chọn phương thức phẫu thuật [2], [3], [5].
Vai trị của hệ thống dây chằng phía sau trong cấu trúc vững của cột
sống ngày càng được nhiều tác giả khẳng định và đề cao trong chỉ định
phẫu thuật [5]. Đây là vấn đề cần nhận được sự quan tâm hơn nữa trong
chẩn đốn và phẫu thuật chấn thương cột sống tại Việt Nam. Đặc biệt là
vấn đề nghiên cứu đặc điểm tổn thương đốt sống, biến dạng và khơi phục,
bảo tồn phức hệ dây chằng phía sau trong khơi phục và duy trì cấu trúc
vững của cột sống. Điều mà tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào trước
đây đề cập cụ thể và đầy đủ [6], [7].
9
Về chỉ định phẫu thuật các tác giả căn cứ vào sự đánh giá mất vững
của đoạn cột sống tổn thương dựa trên các yếu tố hình thái tổn thương,
thần kinh và phức hệ dây chằng phía sau. Hiện nay, các chỉ định đượ c áp
dụng phổ biến như: Vaccaro A.R (TLICS), McCormack (LSC), Greenberg
M.S, Miles M.R, Wood K.B. Tuy nhiên, mỗi chỉ định trên đều có những
ưu nhược điểm riêng. Gần đây đã có những nghiên cứu về giá trị bảng
điểm TLICS của Vaccaro A.R và chỉ ra những trường hợp có điểm từ 1
4 phải phẫu thuật muộn sau m ột thời gian điều trị bảo tồn [8], [9], hay
phạm vi áp dụng hẹp trong nhóm gãy vỡ thân đốt nhiều mảnh với chỉ
định của McCormack và Wood K.B, [10], [11]. Ph ương pháp phẫu thuật
đường vào lối sau ngày càng trở lên phổ biến, hiệu quả và chiếm ưu thế
nhờ vào sự phát triển kỹ thuật vít chân cung, kỹ thuật giải ép lối sau, sự
dễ liền xương trong gãy vỡ thân sống nhiều mảnh, hậu phẫu nh ẹ nhàng,
thời gian điều trị ngắn và chi phí điều trị thấp [12]. Tính hiệu quả trong
phẫu thuật loại gãy vỡ thân đốt nhiều mảnh đã đượ c khắc phục và nâng
cao. Điều này đã đượ c minh chứng trong các nghiên cứu của Smith J. S.
[13], Ataka H. [14], Kaminski A. [15] và cộng sự. Sự phát hiện của
Greenberg M. S. v ề thối hố điểm nối phải phẫu thuật sớm sau 3 năm
trong các cố định dài tầng (≥ 4 tầng) so với sau 8 đến 9 năm trong các cố
định ngắn tầng (2 đến 3 tầng) [2]. Vì vậy để góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề này chúng tơi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm thương tổn
giải phẫu và kết quả phẫu thuật điều trị gãy cột sống ngực thấp và
thắt lưng khơng vững do chấn thương bằng nẹp vít” với hai mục tiêu:
1.
Mơ tả đặc điểm tổn thương giải phẫu và biến dạng trên chẩn đốn
hình ảnh, khảo sát giá trị bảng điểm TLICS và LSC trong chấn
thương cột sống ngực thấp và thắt lưng.
10
2.
Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị gãy cột sống ngực thấp và thắt
lưng bằng nẹp vít đường vào lối sau.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu
Hình 1.1. Giải phẫu cột sống.
* Nguồn: theo Netter F.H. (2014) [16].
Cột sống ngực và thắt lưng là đoạn cột sống trải dài từ T1 đến L5
với hai đoạn cong sinh lý ngược chiều nhau: mở ra trước (đoạn ngực: T1
T12) và mở ra sau (đoạn thắt lưng: L1 L5). Trên lâm sàng vùng cột sống
ngực và thắt lưng được phân chia ra thành ba đoạn [3]. Gồm:
Đoạn cột sống ngực cao (T1 T10) với đặc điểm có khung sườn,
xương ức và khối cơ lưng bao bọc tạo nên một khối vững chắc bảo vệ
khỏi yếu tố nguy cơ chấn thương. Tuy nhiên, đoạn cột sống này có ống
sống hẹp nên nguy cơ tổn thương thần kinh cao khi có chấn thương xảy ra
[17]. Đoạn cột sống bản lề là đoạn chuyển tiếp giữa một đoạn cột sống cố
định “ ngực cao” và đoạn cột sống động “ thắt lưng thấp” với đặc điểm giải
phẫu tương đồng với đoạn thắt lưng nhiều hơn. Đồng thời, là đoạn chuyển
11
tiếp của sự thay đổi đường cong sinh lý cột sống giữa hai đoạn cột sống có
đường cong sinh lý ngược nhau do vậy đoạn này tương đối thẳng với góc
gù vùng từ 00 100. Cộng với đặc điểm giải phẫu khơng cịn có sự hỗ trợ
của lồng ngực, thân đốt sống chưa đạt đến kích thước to lớn như đoạn
thắt lưng thấp nên giảm khả năng chống lại biến dạng dẫn đến tăng khả
năng chấn thương [17]. Do vậy, dễ tổn thương khi lực tác động theo kiểu
nén ép dồn trục dọc do tác động trực tiếp vào thân đốt sống [18]. Đoạn cột
sống thắt lưng thấp (L3 L5) với góc gù vùng trong khoảng 31º 79º tạo
đường cong sinh lý ra sau [19]. Do vậy, khi lực chấn thương tác động nén
ép theo trục dọc cơ thể thì đoạn cột sống thắt lưng hấp thu lực loại bỏ
thành phần mơ men uốn nên ít tổn thương hơn và thường là gãy vỡ thân đốt
nhiều mảnh [17].
Hình 1.2. Giải phẫu đốt sống.
* Nguồn: theo Netter F.H. (2014) [16].
Thân đốt cấu tạo gồm một vỏ xương cứng bên ngồi bao bọc hai hệ bè
xương xốp bên trong với đặc điểm hệ bè xương đứng thưa ở phía trước mau ở
phía sau, hệ bè xương chéo đan dày ở nửa sau thân đốt và chân cung. Với đặc
điểm sắp xếp này của các bè xương tạo nên một cấu trúc của thân đốt sống
yếu ở cột trước, vững ở cột giữa và cột sau. Do vậy khi chấn thương theo kiểu
nén ép trục dọc hay gặp tổn thương cột trước. Cuống sống bám vào 1/3 sau
trên thân sống ở T11, T12 và 2/3 sau trên ở L1 L5 với góc chếch vào giảm
12
dần từ T11 (10 ) đến T12 (0 5 ) và tăng dần từ L1 L5 (5 15 ) [20], [21],
[22]. Đường kính ngang cuống sống nhỏ hơn, quan trọng hơn đường kính dọc
và tăng dần từ T11 đến L5 [20]. Đây là đặc điểm giải phẫu quan trọng trong
xác định điểm và đường vào của phương pháp cố định vít chân cung tạo sự
vững chắc cho cả 3 cột. Theo Benzel E.C. [17] tỷ trọng giữa vỏ xương và tủy
xương ảnh hưởng đến khả năng chịu lực và độ chắc chống tụt vít. Tỷ lệ này ở
cuống sống lớn hơn thân đốt và cuống sống đoạn cột sống bản lề cột sống
lưng thắt lưng lớn hơn đoạn thắt lưng thấp. Do vậy cuống sống khỏe và
vững chắc hơn thân đốt và là phần vững chắc nhất của đốt sống chịu được
lực xoay, duỗi và nghiêng sang bên của cột sống . Đồng thời cuống sống đoạn
T11 L2 khỏe hơn đoạn L3 L5. Theo Patricia B. Raskin [23] ống sống đoạn
này hình tam giác cân có đường kính trước sau tại T12 là 20 mm tăng lên 22 23
mm tại L3 cho đến 26 mm tại L5 và chứa tuỷ sống, nón cùng, chùm đi ngựa.
Như vậy ống sống vùng này tương đối rộng rãi nên khi chấn thương ít bị tổn
thương thần kinh hơn vùng cổ và lưng cao.
Hệ liên kết giữa các đốt sống gồm 2 loại khớp chính là khớp động và
khớp bán động. Khớp động là khớp hoạt dịch giữa các mỏm khớp, đóng vai trị
quan trọng trong độ vững và linh hoạt của cột sống. Khớp bán động khơng
phải là khớp hoạt dịch, nối các thành phần của khớp với nhau và chia làm 2
loại: tổ chức sụn sợi, đĩa đệm giữa các thân đốt và khớp dây chằng, có tác
dụng làm tăng độ vững cũng như độ mềm dẻo của cột sống. Khớp dây chằng
chính là hệ thống dây chằng phía trước và phía sau, mặc dù trên thực tế hệ
thống dây chằng phía sau đặc biệt là dây chằng liên gai và trên gai có cấu trúc
mảnh yếu, nhất là ở đoạn thắt lưng thấp nhưng lại có vai trị đặc biệt quan
trọng trong duy trì cấu trúc vững cột sống bởi vì nó là cầu nối duy trì và tăng
cường sự liên kết giữa các thành phần của cột sống với nhau. Đồng thời là dây
13
chằng có cánh tay địn dài nhất so với trục cột sống nên chịu tác động của lực
lớn nhất khi cột sống chuyển động vì vậy có vai trị quan trọng trong duy trì
biên độ vận động của cột sống [17], [20], [23], [24]. Hệ thống dây chằng có
chức năng chống lại các lực kéo căng, lực xoay và lực trượt ngang. Sức chịu
lực của các dây chằng là khác nhau, trong đó dây chằng dọc trước có thể bị kéo
dãn đến khoảng 45% chiều dài của nó trước khi bị đứt. Tương tự, với dây
chằng dọc sau là khoảng 34%; dây chằng liên gai và trên gai là khoảng gần
30%. Dây chằng bao khớp bao bọc, duy trì tạo sự liên kết vững chắc giữa diện
khớp trên và diện khớp dưới của các đốt sống liền kề góp phần quan trọng
trong cấu trúc vững của khối khớp (facet joint). Do vậy trong chấn thương cột
sống chúng ta cần khảo sát, đánh giá tính ngun vẹn của phức hệ dây chằng
phía sau cũng như khơi phục và bảo tồn nó trong phẫu thuật.
A
Hình 1.3. Hệ dây chằng cột sống.
*Nguồn: theo Netter F.H. (2014) [16].
B
Hình 1.4. Sơ đồ cánh tay địn hệ dây
chằng.
* Nguồn: theo Benzel E.C. (2010) [17].
Tuỷ sống đoạn này chứa phình tuỷ thắt lưng hay cịn gọi là nón cùng
thường nằm ngang thân đốt L1 hoặc đĩa đệm L1 L2 và chùm đi ngựa nên khi
tổn thương tuỷ có thể gây liệt hỗn hợp cả trung ương và ngoại vi. Rễ thần kinh
đi từ trong ống sống phía dưới cuống sống đốt tương ứng ra ngồi qua lỗ tiếp
hợp và ở gần phía trên cuống sống đốt ngay dưới [20], [24]. Khi tổn thương sẽ
14
có khả năng phục hồi nếu bao thần kinh cịn liên tục vì rễ thần kinh giống như
dây thần kinh ngoại biên. Hệ mạch máu ni dưỡng đoạn tuỷ lưng và thắt lưng
phong phú gồm 3 hệ thống chính là hệ mạch rễ, hệ mạch tuỷ sống và mạng
lưới vành. Trong đó, đoạn phình thắt lưng được ni dưỡng tốt nhất. Hệ mạch
máu ni tuỷ khi phẫu thuật cần chú ý động mạch Adam kiewicz thường 85%
xuất phát từ T9 L2 và đi bên trái trong 80% trường hợp. Đây là động mạch rễ
lớn nhất cung cấp chính cho 4/5 tuỷ theo diện cắt ngang từ T8 đến nón cùng
[20], [25]. Do vậy khi tổn thương động mạch này dễ dẫn đến nhuyễn tuỷ. Điều
này có thể lý giải cho một số trường hợp chấn thương dù đã được phẫu thuật
nắn chỉnh cố định giải ép tốt nhưng hồi phục lại kém hoặc tổn thương tuỷ ban
đầu khơng phù hợp với mức độ tổn thương thần kinh sau này. Khi tuỷ sống bị
chèn ép phía trước (chèn ép động mạch rễ tuỷ trước) hoặc lỗ ghép (chèn ép
động mạch rễ tuỷ sau) cần phải phẫu thuật sớm để giải phóng chèn ép nhằm
đảm bảo máu ni dưỡng giúp tuỷ hồi phục sớm [26], [8]. Nón cùng khơng có
động mạch riêng, chỉ có 4% có động mạch rễ đi theo rễ L5 gọi là động mạch
Depzoz Gotteron (theo Mikheev 1974) [27].
Hình 1.5. Hệ mạch máu tủy sống.
* Nguồn: theo Netter F.H. (2014) [16].
1.2. Cơ sinh học chấn thương và tổn thương thần kinh trong chấn
thương cột sống
1.2.1. Cơ sinh học chấn thương
15
Xét trên lý thuyết về các ngun tắc vật lý và động lực học trong hệ
tọa độ khơng gian ba chiều với các trục tọa độ trên dưới, trước sau và
trái phải. Khi đó theo Benzel E.C. [28] lực tác động lên cột sống có thể
chia thành các thành phần véc tơ có hướng, độ lớn xác định trong hệ tọa độ
ba chiều, tn theo định luật cánh tay địn và tạo ra mơ men uốn khi tác
động. Mơ men uốn này tạo ra chuyển động xoay và hướng của nó nằm trên
trục xoay tức thời (IAR) khi tác động tại một điểm trong khơng gian ba
chiều. Như vậy trên mỗi trục tọa độ có hai chuyển động trượt dọc trục
ngược chiều nhau và hai chuyển động xoay ngược chiều nhau và kết quả
là có 12 chuyển động quanh trục IAR. Những chuyển động này được xem
xét trên mức độ tự do, cho nên sẽ tồn tại sáu mức độ chuyển động tự do
quanh trục IAR phối hợp với nhau tạo ra các lực: nén ép, xén cắt, xoắn
vặn, căng xé dẫn đến các hình thái tổn thương khác nhau trong chấn
thương.
( mơ men uốn M, →lực F)
Hình 1.6. Hệ đồng hành ba chiều với trục xoay tức thời làm trung tâm.
* Nguồn: theo Benzel E.C. (2010) [28].
Theo Benzel E.C. và DiRisio D. trục xoay tức thời là điểm tưởng
tượng ở trong hoặc xung quanh đốt sống tại đó đoạn cột sống xoay quanh
khi chịu lực tác động. Nhìn chung vị trí trục xoay tức thời thường nằm trên
thân đốt và hay ở vùng rìa, đặc biệt là thành sau.
16
Hình 1.7. Vị trí trục xoay tức thời IAR.
* Nguồn: theo DiRisio D., Benzel E.C. (2006) [18].
Khi lực tác động nằm trên cùng một đường thẳng với trục xoay tức
thời sẽ khơng tạo ra một chuyển động quay của đoạn cột sống đó. Ngược
lại khi lực tác động khơng đồng trục với trục xoay tức thời sẽ tạo ra một
mơ men uốn (M) có độ lớn bằng tích độ lớn của lực (F) với khoảng cách từ
vị trí tác động đến trục xoay tức thời (D): M = F x D. Khi đó tại phần cột
sống khơng chuyển động theo tác động của lực sẽ sản sinh một mơ men có
cùng độ lớn với mơ men uốn nhưng có hướng ngược lại. Đây là hiện
tượng chống lại và vơ hiệu hóa tác động của mơ men lực [18], [28], [29].
Hình 1.8. Minh hoạ cơ chế cơ sinh học đoạn cột sống chấn thương.
* Nguồn: theo DiRisio D., Benzel E.C. (2006) [18].
Xét trên trục dọc thì lực tác động nằm trên cùng một trục ở đoạn bản
lề và ở phía sau tại đoạn thắt lưng (hình 9A). Trục xoay tức thời trong tổn
thương cột trước nằm dịch về phía lưng thường trên dây chằng dọc sau và
gây ra tổn thương dạng gãy lún thân đốt hình chêm (hình 9C). Trong tổn
thương cột sau nó nằm dịch về phía bụng trên dây chằng dọc trước gây ra
17
tổn thương kiểu cúi căng hoặc gãy trật (hình 9B). Tổn thương cả cột
trước, cột giữa khi IAR đồng trục với lực tác động và gây ra dạng gãy vỡ
thân đốt nhiều mảnh (hình 9D). Tổn thương cả ba cột khi nằm ngồi cột
sống và gây ra kiểu gãy trật (hình 9E) [18], [29].
A
B
C
D
E
Hình 1.9. Vị trí trục xoay tức thời so với lực tác động.
* Nguồn: theo Benzel E.C. (2010) [29].
Theo Benzel E.C. [29] tổn thương dây chằng tại cột sống lưng và thắt
lưng cũng khá phổ biến nhưng có sự khác nhau với cột sống cổ. Trong đó
tổn thương dây chằng ở cột sống lưng và thắt lưng thường kết hợp với tổn
xương, cịn trong cột sống cổ thường là tổn thương đơn thuần. Do vậy
khảo sát và đánh giá tổn thương dây chằng bên cạnh tổn thương xương
thân đốt trong chấn thương cột sống lưng và thắt lưng là vấn đề thiết thực
và đúng đắn.
Tóm lại sự biến dạng của cột sống có thể là kết quả của những
dạng chuyển động khơng ổn định hoặc ngược lại quanh tr ục xoay t ức
thời gây ra. Sự phân loại biến dạng cột sống là rất phức tạp. Có sáu loại
chuyển động cơ bản tương ứng sáu loại biến dạng cơ bản của cột sống
có thể xảy ra, gồm: chuy ển động xoay và sự dịch chuyển dọc trục thẳng
đứng, trục ngang, tr ục tr ước sau c ủa c ột s ống. M ỗi lo ại chuy ển độ ng
này lại xảy ra trên hai hướng ngược chiều nhau. M ỗi lo ại bi ến d ạng có
thể chỉ liên quan đến một đoạn cột sống hoặc nhiều đoạn cột sống khác
nhau. Sự biến dạng cột sống th ường do s ự ph ối h ợp t ừ ít nhất hai loại
18
biến dạng trở lên và do lực chấn thương gây ra [28], [30]. Khảo sát và
đánh giá tổn thương phức hệ dây chằng phía sau là vấn đề cần đượ c
quan tâm.
Hình 1.10. Các chuyển động xoay và dịch chuyển theo trục: A trục dọc, B
trục ngang, C trục trước sau.
* Nguồn: theo Benzel E.C. (2010) [30].
1.2.2. Tổn thương thần kinh
Trong chấn thương cột sống có bốn cơ chế chấn thương cơ bản liên
quan lâu dài đến biến dạng thần kinh: chèn ép thần kinh từ bên ngồi, sự lan
tỏa, hiệu ứng dây cung trên mặt phẳng dọc và hiệu ứng dây cung trên mặt
phẳng ngang. Do vậy những hiểu biết về sinh lý bệnh chấn thương tuỷ
sống là cơ sở để nghiên cứu, phân tích các tổn thương thần kinh nhằm đưa
ra các liệu pháp điều trị và dự phịng phù hợp là một mục tiêu quan trọng
cần đạt được [31]. Chấn thương tuỷ sống diễn biến theo hai hình thái là
tổn thương ngun phát do lực chấn thương tác động và tổn thương thứ
phát do hệ quả của nó gây ra. Lực chấn thương là ngun nhân dẫn đến sự
rối loạn hoặc mất chức năng của tế bào thần kinh thơng qua một hoặc ba cơ
chế: phá hủy tế bào, biến dạng tế bào và rối loạn trao đổi chất. Trong đó sự
phá hủy tế bào dẫn đến tế bào thần kinh bị chết, sự biến dạng tế bào và rối
loạn trao đổi chất có thể dẫn đến rối loạn chức năng tạm thời hoặc mất. Sự
phá hủy tế bào có thể do tổn thương ngun phát hoặc là tổn thương thứ phát
19
sau sự tăng lên của mức độ biến dạng tế bào bởi sự chèn ép trung tâm thần
kinh do phù nề, khối máu tụ sau chấn thương hoặc là tổn thương thứ phát sau
rối loạn trao đổi chất do tăng thẩm thấu tế bào và q trình tự phá hủy sau
chấn thương gây ra. Như vậy biến dạng tế bào và rối loạn trao đổi chất có thể
dẫn đến sự phá hủy tế bào [31]. Trên lâm sàng Greenberg M.S. [2], nhận
thấy tổn thương thứ phát chiếm tỷ lệ 20% trong các tổn thương tủy lớn và
là hậu quả của sự chèn ép, chảy máu và phù nề dẫn đến thiếu máu ni
dưỡng làm hoại tử tế bào thần kinh. Như vậy, lực chấn thương, mức độ
chèn ép, tình trạng thiếu máu ni và thời gian chấn thương là những yếu tố
quyết định mức độ tổn thương thần kinh. Sinh học tế bào và cơ sinh học là hai
yếu tố phức tạp có mối liên quan chặt chẽ với nhau và có thể góp phần vào sự
trầm trọng của tổn thương thần kinh. Vì thế cơ sinh học cột sống cũng như cơ
sinh học giải ép thần kinh, cố định đóng một vai trị trong việc phịng chống sự
tiến triển của tổn thương ban đầu. Do đó cần phải chăm sóc điều trị tích cực,
kiểm sốt vùng tủy chưa bị tổn thương nhằm hạn chế tổn thương thần kinh
thứ phát. Phẫu thuật loại bỏ các yếu tố chèn ép như mảnh xương, khối máu tụ
có thể ngăn chặn, khắc phục được biến dạng tế bào và rối loạn trao đổi chất
[26], [31], [32]. Tăng cường áp lực tưới máu tổ chức sẽ giúp cải thiện mơi
trường trao đổi chất. Tổn thương thần kinh thứ phát có thể bị ngăn chặn ít nhất
một phần khi có sự can thiệp bằng thuốc. Liệu pháp sử dụng thuốc chống
đơng được khuyến cáo sử dụng sớm trong 72 giờ đầu ngay sau chấn thương
đạt hiệu quả và an tồn cho bệnh nhân [33]. Liệu pháp corticoid điều trị chấn
thương tủy sống được các tác giả Greenberg M.S. [2], [34] và Fehlings M.
cùng cộng sự [35] khuyến cáo chỉ sử dụng trong 8 giờ đầu ngay sau chấn
thương khi mà các tác dụng phụ có thể chấp nhận được so với các lợi ích
lâm sàng đạt được. Liều khởi đầu 30 mg/kg tiêm trong 15 phút, sau 45 phút
20
truyền duy trì với liều 5,4 mg/kg/h trong 23 47 giờ (liều ml/h = cân nặng x
0,0864). Nên truyền suốt trong q trình phẫu thuật nếu có thể. Lợi ích thu
được có thể nhận thấy sau 6 tuần, 6 tháng và một năm. Kết quả có thể tồi
tệ hơn sau một năm nếu thời điểm dùng thuốc ngồi 8 giờ trước chấn
thương. Tuy nhiên, chống chỉ định trong những trường hợp chấn thương
tủy có hội chứng đi ngựa khi có lt điểm tỳ, vết thương tủy do hỏa khí,
đang đe dọa tính mạng, nghiện ma túy, phụ nữ có thai, đang dùng corticoit
kéo dài, trẻ em < 13 tuổi.
Trên lâm sàng sốc tuỷ có thể xảy ra sau khi bị chấn thương tuỷ sống
và là một tín hiệu xấu [2]. Sốc tuỷ là một thuật ngữ để chỉ hai hiện tượng
hồn tồn khác nhau gồm: mất tạm thời tất cả các chức năng thần kinh phía
dưới đoạn tủy tổn thương do ức chế hồn tồn các cung phản xạ và tụt
huyết áp sau chấn thương tủy sống. Hiện tượng sốc tuỷ thứ nhất kéo dài
trong khoảng thời gian khác nhau và chỉ hồi phục sau tổn thương từ 24 48
giờ trở ra, thường là kéo dài vài tuần, đơi khi một vài tháng và có khi vĩnh
viễn, kèm theo sự mất co thắt phía dưới tổn thương. Phản xạ tủy ngay
phía trên tổn thương có thể bị giảm trên cơ sở của hiện tượng Schiff
Sherrington [2].
Sau giai đoạn sốc tuỷ, tổn thương tuỷ được bộc lộ theo ba hình thái [8], [34].
+ Khơng tổn thương tủy: tuỷ sống khơng có tổn thương thực thể hoặc
chỉ bị chấn động, biểu hiện lâm sàng là Frankel E.
+ Tổn thương tủy khơng hồn tồn: tuỷ sống bị tổn thương một phần
nhưng khơng hồn tồn. Trên lâm sàng có thể gặp: hội chứng tủy trung tâm,
hội chứng tủy trước, hội chứng tủy sau và hội chứng BrownSequard.
Trong đó hội chứng tủy trước có tiên lượng kém nhất, hội chứng Brown
Sequard có tiên lượng tốt nhất và hội chứng tủy trung tâm, tủy sau có tiên
21
lượng khá. Nhóm tổn thương chùm đi ngựa có khả năng phục hồi tốt
hơn nhóm tổn thương tuỷ hoặc nón cùng [36], [37].
+ Tổn thương tủy hồn tồn: tuỷ bị đứt hồn tồn. Khi đó triệu chứng
lâm sàng là mất hồn tồn vận động và cảm giác phía dưới tổn thương,
tương ứng Frankel A. Hiện nay, trên thế giới và Việt nam đang nghiên cứu,
áp dụng liệu pháp tế bào gốc trong điều trị những trường hợp liệt tủy hồn
tồn với hy vọng thu được những tín hiệu khả quan [38].
1.3. Phân loại tổn thương
1.3.1. Những quan điểm trước Denis
Năm 1929, Bưehler là người đầu tiên đưa ra khái niệm phân loại gãy cột
sống [39]. Nhưng, WatsonJones (1938) là người đầu tiên mơ tả gãy cột sống
lưng và thắt lưng gồm 3 loại: gãy hình chêm, gãy vỡ và gãy trật cùng với khái
niệm gãy mất vững làm cơ sở cho các nghiên cứu sau đó [40]. Năm 1948,
Chance đã mơ tả bổ xung loại gãy gập xoay mà Watson Jones chưa mơ tả, sau
này cịn được gọi là gãy kiểu Chance [41]. Năm 1949, Nicoll nêu 4 loại gãy cột
sống lưng và thắt lưng dựa trên phân loại của Watson Jones và Chance gồm:
gãy hình chêm phía trước, gãy hình chêm phía bên, gãy trật và gãy cung thần
kinh [42]. Holdsworth (1963) là người đầu tiên đưa ra khái niệm hai cột và mất
vững vào trong phân loại đồng thời mơ tả loại gãy trật (dislocation fracture) và
gãy vỡ thân đốt nhiều mảnh (burst fracture) [43]. Kelly White Sides (1968) và
Louis (1973) cũng đưa ra khái niệm cột để giải thích sự mất vững [39], [44],
[45].
1.3.2. Phân loại của Denis (1983)
Denis trong nghiên cứu của mình đã nhận thấy vai trị của dây chằng
dọc sau và thành sau thân đốt sống trong làm vững cột sống. Do vậy năm
22
1983 ơng phát triển khái niệm hai cột của Holdworth để đưa ra khái niệm 3
cột và mất vững trong chấn thương cột sống [46], [47], [48], [49], [50].
+ Cột trước (hình 1.11B) gồm: một phần hai trước thân đốt cùng đĩa
đệm, dây chằng dọc trước và dây chằng vành khun.
+ Cột giữa (hình 1.11C) gồm: một phần hai sau thân đốt cùng đĩa
đệm, dây chằng dọc sau và dây chằng vành khun.
+ Cột sau (hình 1.11D) gồm: tủy sống, mạch máu trong ống sống, hệ
thống dây chằng phía sau, cung sau.
A
B
C
D
Hình 1.11. Phân chia ba cột theo Denis
* Nguồn: theo Denis F. (1983) [49].
Trong tổn thương thân đốt sống Denis chia ra làm 4 loại trong đó có
các phân nhóm mơ tả chi tiết các loại gãy. Gồm gãy vững và gãy khơng
vững giúp chẩn đốn, điều trị và nghiên cứu.
Gãy lún (compression fracture): đây là loại gãy tổn thương cột
trước, khơng gây tổn thương cột giữa và có thể có tổn thương cột sau.
Khơng có tổn thương thần kinh do mảnh vỡ chèn ép ống sống. Gồm 4 phân
nhóm:
+ Loại Ia: gãy theo mặt phẳng đứng ngang
+ Loại Ib: gãy lún mặt trước trên
+ Loại Ic: gãy lún mặt trước dưới
+ Loại Id: gãy lún cả mặt trước trên và mặt trước dưới
23
Ia
Ib
Ic
Id
Hình 1.12. Gãy lún.
* Nguồn: theo Smith H.E., Anderson G., Vaccaro A.R., et al. (2010) [47]
Gãy vỡ thân đốt nhiều mảnh (burst Fracture): tổn thương cột trước
và giữa theo cơ chế ép trục dọc kết hợp gập, xoay. Thân đốt sống vỡ làm
nhiều mảnh, đặc biệt là mảnh vỡ thành sau thân đốt dẫn đến mảnh xương
rời có thể chèn ép ống sống, lỗ tiếp hợp gây tổn thương thần kinh. Theo
Denis tỷ lệ tổn thương thần kinh khoảng 50%. Gồm 5 phân nhóm:
+ Loại IIa: gãy vỡ cả mặt trên và mặt dưới thân đốt sống do lực ép
trục dọc đơn thuần.
+ Loại IIb: gãy vỡ mặt trên thân đốt do kết hợp giữa lực ép trục dọc
và gập trước, có thể có mảnh rời chèn ép ống sống ở góc sau trên.
+ Loại IIc: gãy vỡ mặt dưới thân đốt do lực ép trục dọc và gập trước
gây ra, loại này hiếm gặp có thể có mảnh rời chèn ép ống sống ở góc sau
dưới gây tổn thương thần kinh.
+ Loại IId: vỡ vụn thân đốt kèm theo xoay do lực ép trục dọc kết hợp
lực xoay gây nên, dẫn đến gập góc cột sống mạnh, chèn ép ống sống trên
diện rộng và nặng. Có thể chẩn đốn nhầm với gãy trật.
+ Loại IIe: vỡ vụn phía bên thân đốt do cơ chế gập bên gây ra, loại này
có thể đẩy lồi thành sau thân sống chèn ép vào ống sống, hay gây tổn thương lỗ
ghép.
IIa
IIb
IIc
IId
IIe
24
Hình 1.13. Gãy vỡ thân đốt nhiều mảnh.
* Nguồn: theo Raksin P.B. (2006) [23].
Gãy cúi căng (seat belt fracture): tổn thương do cơ chế nén ép, gãy
ở cột trước và kéo căng ở cột giữa và cột sau gây ra. Loại này ít gây tổn
thương thần kinh. Gồm 2 phân nhóm:
+ Loại IIIa: đường gãy nằm cùng một mức trong mặt phẳng đứng
dọc, chỉ đi qua xương hoặc phần mềm (đĩa đệm, dây chằng) gãy kiểu
Chance.
A
B
Hình 1.14. A: đường gãy đi qua đĩa đệm. B: đường gãy đi qua xương.
* Nguồn: theo Raksin P.B. (2006) [23].
+ Loại IIIb: đường gãy nằm trong 2 mức trong mặt phẳng đứng
dọc gây tổn thương cả xương, dây chằng và đĩa đệm.
C
D
Hình 1.15. Đường gãy đi qua cả xương và đĩa đệm.
* Nguồn: theo Raksin P.B. (2006) [23].
Gãy trật (dislocation fracture): tổn thương do cơ chế phối hợp giữa
lực ép trục dọc, xoay, kéo căng và lực xé với lực xoay. Trong đó, lực xé chiếm
ưu thế dẫn đến tổn thương tồn bộ hệ thống liên kết giữa các đốt sống. Đây
là loại gãy mất vững nhất và gây tổn thương nặng nề. Trong nghiên cứu của
Denis tỷ lệ tổn thương đứt tủy gây liệt hồn tồn chiếm 100%. Gồm 3 loại:
+ Loại IVa: gãy trật do lực cúi căng (flexiondistraction dislocation).
25
A
B
C
Hình 1.16. A: tổn thương lớn dây chằng, đĩa đệm, trật khớp. B: tổn thương
kiểu lát cắt nhìn phía bên. C: tổn thương kiểu lát cắt nhìn phía sau.
* Nguồn: theo Raksin P.B. (2006) [23].
+ Loại IVb: gãy trật do lực cúi xoay(flexionrotation.
Hình 1.17. Gãy trật theo cơ chế cúi xoay nhìn phía sau.
* Nguồn: theo Raksin P.B. (2006) [23].
+ Loại IVc: gãy trật do lực xé từ trước ra sau hoặc ngược lại.
E
F
G
Hình 1.18. E, F: lực xé từ sau ra trước. G: lực xé từ trước ra sau.
* Nguồn: theo Raksin P.B. (2006) [23].
Trên cơ sở phân loại này Denis đưa ra khái niệm “vững và mất
vững” làm cơ sở cho chỉ định điều trị trong chấn thương cột sống [46],
[49]. Cụ thể:
Khái niệm “gãy vững” gồm các gãy lún thân đốt nhẹ hoặc vừa,
khơng có tổn thương cột giữa và cột sau. Loại này chỉ định điều trị bảo
tồn, tập vận động sớm.
Khái niệm mất vững được chia làm ba loại dựa trên mối liên quan
giữa hình thái tổn thương và tổn thương thần kinh.