BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN QN Y
ĐỖ NGỌC SƠN
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM KỸ THUẬT
VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT GHÉP THẬN
LẤY TỪ NGƯỜI CHO SỐNG TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Chun ngành : Ngoại khoa
Mã số
: 9720104
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Tiến Quyết
2. PGS.TS. Hồng Long
HÀ NỘI 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được cơng bố trong
bất kỳ một cơng trình nào trước đây.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận án
Đỗ Ngọc Sơn
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Phịng Sau đại học Học viện
Qn Y đã dành cho tơi sự giúp đỡ tận tình trong thời gian học tập và nghiên
cứu.
Tơi bày tỏ lịng biết ơn chân thành tới Ban giám đốc, Phịng kế hoạch
tổng hợp, Bộ mơn Ngoại tiết niệu đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi
hồn thành nghiên cứu của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cơ trong hội đồng chấm luận án
các cấp đã đóng góp những ý kiến sâu sắc, tỷ mỷ, cụ thể cho bản luận án
của tơi được ngày càng hồn thiện.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc và sự kính trọng với
PGS.TS Nguyễn Tiến Quyết và PGS.TS. Hồng Long hai người thầy đã
tận tâm giúp đỡ, chỉ bảo đóng góp cho tơi những ý kiến q báu từ khi xây
dựng đề cương đến khi hồn thiện luận án.
Tơi xin cảm ơn tất cả những người bệnh và người tình nguyện đã gửi
gắm lịng tin đối với đội ngũ thầy thuốc chúng tơi. Những người bệnh vừa
là đối tượng, mục tiêu và là động lực cho mọi nghiên cứu của y học.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân và
bạn bè đã ln dành cho tơi sự động viên giúp đỡ trong q trình thực hiện
đề tài nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Đỗ Ngọc Sơn
MỤC LỤC
Trang
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Phần viết tắt
BN
BMI
BQ
cs
CT
CTNT
ĐK
ĐM
ĐMCC
ĐMCB
ĐMCN
ĐMCT
ĐMMTTT
ĐMT
HCP
HLA
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
HT
KQ
NQ
SD
TH
THA
TM
TMCB
TMCC
TMCD
TMCN
TMCT
TMT
TPEE
31
32
RI
XQ
Phần viết đầy đủ
Bệnh nhân
Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)
Bàng quang
Cộng sự
Computed tomography (Chụp cắt lớp vi tính)
Chạy thận nhân tạo
Đường kính
Động mạch
Động mạch chậu chung
Động mạch chủ bụng
Động mạch chậu ngồi
Động mạch chậu trong
Động mạch mạc treo tràng trên
Động mạch thận
Hố chậu phải
Human Leucocyte antigen
(Kháng ngun bạch cầu người)
Huyết thống
Kết quả
Niệu quản
Standard Deviation (Độ lệch chuẩn)
Trường hợp
Tăng huyết áp
Tĩnh mạch
Tĩnh mạch chủ bụng
Tĩnh mạch chậu chung
Tĩnh mạch chủ dưới
Tĩnh mạch chậu ngồi
Tĩnh mạch chậu trong
Tĩnh mạch thận
Thermoplastic Polyether Ester Elastomer
(Tên gọi chung của vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo)
Resistive Index (Chỉ số kháng trở động mạch)
Xquang
DANH MỤC BẢNG
Bảng
Tên bảng
Trang
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
DANH MỤC HÌNH
Hình
Tên hình
Trang
7,9,10,19,20,21,23,24,26,27,29,31,36,41,49,5260,62,71,73,757
9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép thận là phương pháp phẫu thuật thay thế thận cơ bản, hiện đại
trong điều trị cho những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối và được
coi là một thành tựu lớn của y học hiện đại. Người bệnh có thể trở về
cuộc sống bình thường, tham gia lao động sản xuất mà chỉ cần uống thuốc,
theo dõi định kỳ 1 tháng 1 lần là điểm vượt trội của ghép thận so với các
phương pháp điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối khác. Ngày 23/12/1954
Josep Murray và Jonh Merril đã ghi dấu mốc ca ghép thận thành cơng đầu
tiên tại Boston (Hoa Kỳ) [1], [2]. Đến nay ghép thận đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống rõ rệt cho
người bệnh.
Tại Việt Nam, ca ghép thận lấy từ người cho sống thành cơng đầu
tiên được thực hiện năm 1992 tại Bệnh viện Quân y 103 Học viện Quân y
[3], [4], [5]. Cho tới nay ghép thận đã được thực hiện thành công và trở
thành phẫu thuật thường quy tại nhiều bệnh viện trên cả nước.
Trên thế giới, nguồn thận ghép chủ yếu lấy từ người cho chết não
nhưng cho tới nay ghép thận ở nước ta chủ yếu vẫn lấy từ nguồn người
cho sống. Kỹ thuật ghép thận lấy từ người cho sống có một số đặc điểm
khác so với ghép thận từ người cho chết não do bị ảnh hưởng bởi giải
phẫu thận lấy ghép cũng như kỹ thuật lấy thận ghép từ người cho sống.
Ngun tắc lựa chọn bên thận lấy ghép là “bảo đảm an tồn cho người
hiến tạng”: lấy thận có chức năng kém hơn dựa xạ hình thận, để lại thận
có chức năng tốt hơn cho người hiến. Do vậy thận lấy để ghép có thể là
bên phải hay bên trái và cũng có thể có bất thường về giải phẫu mạch máu
hay đường bài tiết nước tiểu. Gần đây lấy thận ghép nội soi đang phát
triển do đó số lượng thận ghép lấy từ người cho sống có tĩnh mạch ngắn
10
(đặc biệt là thận phải) sẽ gặp ngày một nhiều lên. Thêm vào đó, hố chậu
phải ln là lựa chọn ưu tiên trong ghép thận nên tỷ lệ ghép thận phải có
tĩnh mạch ngắn vào hố chậu phải sẽ gặp nhiều hơn.
Trong phẫu thuật ghép thận, các kỹ thuật ngoại khoa được sử dụng
gồm: kỹ thuật khâu nối tĩnh mạch, kỹ thuật khâu nối động mạch và kỹ
thuật cắm niệu quảnbàng quang [6]. Các kỹ thuật này đều đã thống nhất
theo quy trình kỹ thuật ghép thận lấy từ người cho sống của Bộ Y tế năm
2006 nhưng đa số các trung tâm ghép trong nước thời gian đầu thường ưu
tiên thực hiện miệng nối động mạch thận ghép tậntận với động mạch
chậu trong người nhận [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13]. Duy chỉ có
viện Nhi Trung Ương thực hiện kỹ thuật nối động mạch thận ghép tận
bên với động mạch chậu ngồi, động mạch chủ trong ghép thận do đặc
điểm ghép thận ở trẻ em tuy nhiên chưa có báo cáo nào đánh giá kết quả
ghép thận khi thực hiện miệng nối động mạch thận tậnbên với động
mạch chậu người nhận được cơng bố.
Các trường hợp ghép thận có tĩnh mạch ngắn thường phải áp dụng
các kỹ thuật xử lý mạch máu trước ghép như: kéo dài tĩnh mạch thận, can
thiệp chuyển vị mạch máu vùng rốn thận, vùng hố chậu [8], [14], [15], [16],
[17]. Các kỹ thuật này sẽ làm kéo dài thời gian thiếu máu thận ghép, đồng
thời làm tăng nguy cơ xảy ra tai biến, biến chứng ảnh hưởng tới đời sống
lâu dài thận ghép. Vậy có kỹ thuật nào đơn giản áp dụng khi ghép làm
giảm tỷ lệ xử lý mạch máu trước ghép đồng thời khơng làm tăng tai biến,
biến chứng khi ghép thận phải vào hố chậu phải khơng (đặc biệt khi tĩnh
mạch thận phải ngắn)? Một giải pháp đơn giản có thể áp dụng khi ghép
thận phải vào hố chậu phải thuận lợi ngay cả khi tĩnh mạch ngắn đó là
ghép thận đảo cực. Năm 1972, Hamburger J. và cs đã báo cáo các trường
11
hợp ghép thận phải đảo cực mà khơng có biến chứng nghiêm trọng [18].
Nghiên cứu ghi nhận tĩnh mạch thận phải ngắn nằm ở phía trước và đặt
thận đảo cực cho phép khâu nối mạch máu thuận tiện hơn. Sau đó ghép
thận đảo cực được ghi nhận hồi cứu trong hai báo cáo của Webb J. và cs
(2003) với 3/1270 trường hợp và Danier E.K. và cs (2006) với 4/167 trường
hợp [19], [20]. Tất cả các trường hợp trên đều khơng có biến chứng và
chức năng thận tốt. Năm 2007 Simforoosh N. và cs đã thực hiện chủ động
ghép thận phải đảo cực cho 32 trường hợp lấy nội soi và ghi nhận: khơng
có biến chứng về mạch máu, biến chứng tiết niệu gặp 2 trường hợp (1 rị
niệu quản, 1 hẹp niệu quản) và thận tốt đạt 97% sau 14 tháng [21]. Trong
báo cáo ơng có ghi nhận ghép thận đảo cực thành cơng cho 3 trường hợp
lấy thận phải mổ mở trước đó. Tới năm 2016, chính Simforoosh N. và cs
lại tổng kết 79 trường hợp ghép thận phải đảo cực từ năm 2004 đến năm
2009 và nhận định: ghép thận đảo cực là một phương pháp dễ dàng, an
tồn và điều chỉnh đơn giảm này làm giảm nhu cầu kéo dài tĩnh mạch thận
ngắn [22]. Tại Việt Nam, chưa có báo cáo nào trên cả nước cũng như quy
trình kỹ thuật ghép thận lấy từ người cho sống của Bộ Y tế ban hành năm
2006 chưa đề cập tới vấn đề đảo cực thận ghép.
Do vậy với việc thực hiện quy trình ghép thận lấy từ người cho sống
tại Bệnh viện Việt Đức: ghép thận đều ưu tiên thực hiện nối động mạch
thận ghép tậnbên với động mạch chậu người nhận đồng thời chủ động
thực hiện đảo cực thận khi ghép thận phải vào hố chậu phải, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm kỹ thuật và đánh giá
kết quả phẫu thuật ghép thận lấy từ người cho sống tại Bệnh viện
Việt Đức” với các mục tiêu:
12
1.
Mô tả đặc điểm kỹ thuật của phẫu thuật ghép thận lấy từ người
cho sống tại Bệnh viện Việt Đức.
2.
Đánh giá kết quả phẫu thuật ghép thận lấy từ người cho sống tại
Bệnh viện Việt Đức (giai đoạn 20112013).
13
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược lịch sử ghép thận
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Lịch sử từ trước khi ghép thận thành công ở người
Ghép thận tự thân cho chó đã được Emerich Ullman (Vienna,
Áo,1902) thực hiện thành cơng [23]. Cùng lúc đó Carrel, Briau và Villard đã
cải biên phương pháp khâu nối mạch máu và đứng đầu là kỹ thuật khâu
nối mạch máu của Carrel. Vào năm 1912, Carrel đạt giải thưởng Nobel cho
những nghiên cứu của mình về ghép tạng dị lồi trên người [2]. Năm 1933,
Voronoy lần đầu tiên thực hiện ghép thận đồng loại trên người và bệnh
nhân chết vào ngày thứ 4 mà khơng có huyết khối mạch ghép [2].
Năm 1952, Hamburger J. đã thực hiện thành cơng ca ghép thận trên
người đầu tiên tại Pháp nhưng thải ghép sau 3 tuần và năm 1953, Michon
L., Hamburger J. và cs thực hiện ghép thận từ người cho sống có quan hệ
huyết thống [1], [2]. Ngun nhân thất bại của giai đoạn này là chưa phát
hiện ra ngun lý miễn dịch của ghép, cơ chế đáp ứng miễn dịch dịch thể
hay miễn dịch tế bào cũng như việc lấy và bảo quản tạng.
1.1.1.2. Lịch sử kể từ khi thành cơng ca ghép thận sinh đơi cùng trứng
Ngày 23/4/1954, Tại Boston, Murray J.E. và cs đã ghép thận thành
cơng cho cặp ghép thận sinh đơi cùng trứng và sống được 8 năm [23]. Sau
nỗ lực đó, cho đến năm 1956, 19 ca ghép đơi khác đã thực hiện thành cơng
với tỷ lệ tái phát 30% của bệnh viêm cầu thận mạn.
Năm 1960, các nhà y học nắm rõ được quy luật thải loại của hệ
miễn dịch. Với các chất ức chế miễn dịch như cortisone, azathioprine,
immutran serum antilymphocytaire, các nhà phẫu thuật Mỹ đã có thể tiến
14
hành ghép thận từ người cho không cùng huyết thống và từ thận cho của
người chết.
Năm 1962, Hamburger J. thành công trong ghép thận cùng huyết
thống và Kuss R. cũng thành cơng trong ghép thận khơng cùng huyết thống
[1], [2]. Khi đó có dùng thuốc ức chế miễn dịch tỷ lệ thành cơng ghép thận
cùng huyết thống là 70% cịn khơng cùng huyết thống là 20%. Ghép khơng
cùng huyết thống, khơng dùng thuốc ức chế miễn dịch, cơ hội sống sót chỉ là
1%.
Năm 1974 cyclosporin ra đời làm tỷ lệ sống trên 1 năm của người
ghép thận tăng lên 80 – 90% so với 20% trước đó.
Năm 1985, Thomas Starzl sử dụng thuốc ức chế miễn dịch mới FK
506 của Nhật sau ghép và khơng có một trường hợp nào phản ứng thải loại
[24]. Sau này, phản ứng thải loại hầu như được khắc phục nhờ:
Mycophénolic 1985, Tacrolimus 1989, Ropamycin, Mizoribin, Mycophenolat
mophétil 2004... và nhờ đó ghép thận đã trở thành thường quy ở các nước
phát triển.
1.1.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, ghép thận mới phát triển vào những năm 1990. Tuy
nhiên, ý tưởng ghép thận đã có từ những năm 70 khi Lê Thế Trung, Học
viện Quân y chuẩn bị cơ sở vật chất và tiến hành ghép thận thực nghiệm
[3].
Ngày 4/6/1992, ca ghép thận đầu tiên từ người cho sống cùng huyết
thống được thực hiện tại Học viện Quân y và sau đó nhiều trung tâm lớn
khác tại Việt Nam bắt đầu thực hiện ghép thận: Bệnh viện Chợ Rẫy
(12/1992), Bệnh viện Việt Đức (8/2000), Bệnh viện Trung Ương Huế
(7/2001), Bệnh viện Nhân dân Gia Định (1/2002), Bệnh viện Nhân dân 115
(2/2004) và Bệnh viện Nhi Trung Ương (5/2004) [3], [4], [5].
15
“Luật hiến, lấy, ghép mơ, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác”
được Quốc hội nước cộng hồ Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua và
thực hiện từ ngày 1 tháng 7 năm 2007 (luật số 75/2006/QH11).
Ngày 23 tháng 4 năm 2008, ca ghép thận từ người cho chết não đầu
tiên tại Việt Nam được thực hiện tại Bệnh viện Chợ Rẫy và ngày 7 tháng
5 năm 2010 Bệnh viện Việt Đức lần đầu tiên thực hiện cùng lúc 2 trường
hợp ghép thận và 1 trường hợp ghép gan từ người cho chết não [25], [26].
Từ 11/2012 trở về trước có 900 ca ghép thận (847 ca từ người cho
sống và 53 ca từ người cho chết não) được thực hiện tại 14 cơ sở y tế trên
cả nước. Đến hết năm 2016 tại Việt Nam đã có 18 cơ sở y tế được cấp phép
và thực hiện ghép thận thành cơng với tổng số thận ghép lên đến 2106 ca [27].
Hiện nay nhiều cơ sở y tế đã thực hiện ghép thận thường quy với nhiều
trường hợp ghép khác nhóm máu, ghép khơng cùng huyết thống nhờ ứng dụng
các loại thuốc ức chế miễn dịch mới mang lại hiệu quả tốt hơn. Kết quả theo
dõi sau ghép thận cho thấy tỉ lệ sống thêm sau ghép của bệnh nhân và của
thận ghép ngày càng gia tăng (trên 90%) [26]. Do vậy con số thơng báo mới
nhất tính đến 30/6/2018 nước ta đã tiến hành ghép thận cho 3047 ca, trong đó
2908 ca từ người cho sống, 137 ca từ người cho chết não và 2 ca từ người cho
chết tim [28].
1.2. Những cơ sở giải phẫu học liên quan tới ghép thận
1.2.1. Giải phẫu thận liên quan tới ghép thận
1.2.1.1. Thận về đại thể
Thận gồm hai mặt: mặt trước lồi, mặt sau phẳng; hai cực: cực trên
và cực dưới; hai bờ: bờ ngồi lồi, bờ trong lõm. Chỗ lõm ở bờ trong gọi là
rốn thận, rốn thận ở gần cực trên hơn là cực dưới và hơi lấn ra mặt trước.
1.2.1.2. Kích thước thận
Theo Đỗ Xn Hợp và Nguyễn Quang Quyền chiều dài thận: 12cm,
chiều rộng: 6 cm và dầy: 3 cm [29], [30].
16
Theo Nguyễn Đình Mão nhận thấy kích thước thận ở
Nam: Thận phải: dài 9,37cm, rộng 4,49 cm và dầy 3,32 cm
Thận trái: dài 9,81 cm, rộng 4,55cm, và dầy 4,46cm
Nữ: Thận phải: dài 9,16 cm, rộng 4,50cm và dầy 3,46 cm
Thận trái: dài 9,55 cm, rộng 4,14cm, và dầy 3,56cm [31].
1.2.1.3. Hệ mạch máu chính của thận
Cuống mạch thận được mơ tả cổ điển gồm 1 động mạch (ĐM) và 1
tĩnh mạch (TM). TM thận nằm ở bình diện giải phẫu trước hơn so với ĐM
thận.
Động mạch thận
Theo Nguyễn Quang Quyền, chiều dài của ĐM thận phải là 55mm,
ĐM thận trái là 48,36mm và đường kính của mỗi ĐM từ 4,24,34 mm. 8%
thận phải có ĐM cực trên, 4,8% thận trái có ĐM cực trên, 6,45% thận trái
có ĐM cực dưới và 4,8% cả 2 bên thận cùng lúc có ĐM cực dưới [30].
Trịnh Xn Đàn (1999), nghiên cứu giải phẫu mạch máu thận của
người Việt Nam có ghi nhận 30,23% số thận có 23 ĐM, bên phải thay đổi
số lượng nhiều hơn bên trái [32]. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh
vực ghép thận, vì dễ thương tổn ĐM cực thận khi lấy thận ghép, đặc biệt
thương tổn ĐM cực dưới có thể gây hoại tử niệu quản chỗ nối [33].
Trần Văn Hinh và cs (2005) nghiên cứu sự phân bố mạch máu vùng cuống
thận trên tử thi để áp dụng trong ghép thận, nhận thấy 82,61% thận có 1 ĐM,
14,49% thận có 2 ĐM và 2,9% thận có 3 ĐM [33]. Theo Võ Văn Hải và cs (2011)
cho thấy 75,64% thận có 1 ĐM, 21,79% thận có 2 ĐM, 1,92% thận có 3 ĐM, và
0,64% thận có 4 ĐM [34]. Tỷ lệ ĐM cực trên khá cao (38,46%), ĐM cực dưới
thấp (5,77%) [34]. Nghiên cứu của Bùi Văn Mạnh (2015) cho thấy 83,85% thận
có 1 ĐM, 14,91% thận có 2 ĐM, 0,93% thận có 3 ĐM và 0,31% thận có 4 ĐM
[35].
17
Hình 1.1. Cấu trúc giải phẫu động mạch, tĩnh mạch thận nhìn
theo mặt phẳng đứng dọc
* Nguồn: theo Netter F.H. (2008) [36]
Trịnh Xn Đàn cũng ghi nhận chiều dài trung bình của ĐM thận trái
là từ 28,9 ± 11,6 mm, ĐM thận phải dài hơn ĐM thận trái khoảng 1 cm
(39,5 ± 10,2mm) [32]. Đường kính của ĐM thận người Việt nam trưởng
thành khoảng 4 7 mm trong 84,51% các trường hợp và ít thay đổi [32].
Một yếu tố quan trọng liên quan tới ghép thận là vị trí sắp xếp bình
thường của mạch thận. Ta thấy vị trí của TM cả 2 thận đều nằm ở mặt
phẳng phía trước, ĐM thận trái và phải đều nằm ở mặt phẳng phía sau và
cả ĐM và TM 2 thận đều nằm ở trước hệ thống bài xuất nước tiểu (hình
1.1) [36].
Tĩnh mạch thận
TM thận bắt nguồn từ vùng vỏ và tuỷ thận. Các TM ở cả 2 vùng đều
đổ vào các TM cung, rồi tập trung về TM gian thùy, sau đó đổ ra các nhánh
trong xoang. TM thận cuối cùng đổ về TM chủ dưới (TMCD) bằng một
thân duy nhất hoặc 2 hay 3 nhánh nhưng đều thơng nhau nên có thể khâu
thắt các TM ngay tại gốc mà vẫn khơng có vấn đề nghiêm trọng [30].
Ngược lại đối với ĐM thận do khơng có nhánh nào nối với nhau trong thận
18
nên nếu buộc một nhánh ĐM thì sẽ thiếu máu phần nhu mơ thận do nhánh
ĐM đó ni dưỡng [30]. Đây cũng là một đặc điểm giải phẫu thận cần chú
ý trong ghép thận.
Thận có thể có nhiều TM dẫn máu về TMCD tương tự như ĐM
thận. Số lượng TM thận thường gặp có từ 2 3 nhánh TM với tỷ lệ thay
đổi từ 4,7 30,6% các trường hợp (TH) nghiên cứu. Theo Trịnh Xn Đàn
thì thận có nhiều TM chiếm tỷ lệ 19,44% và gặp chủ yếu ở thận phải,
trong đó thận có 2 TM chiếm đa số (16,67%) và chỉ có rất ít thận có 3 TM
(2,78%) [32].
Chiều dài TM thận ảnh hưởng đến việc lựa chọn bên thận lấy ghép,
vị trí đặt thận ghép ở người nhận cũng như chuẩn bị và lựa chọn kỹ thuật
khâu nối mạch máu khi ghép của các tác giả trên thế giới. Theo Anderson
K.J. và cs chiều dài TM thận phải trung bình từ 2040mm, thận trái từ 60
100mm [37]. Tác giả Janscheck E.C. và cs nghiên cứu 119 TH thận ghép
phải lấy từ người cho chết nhận thấy chiều dài TM từ 2171mm và chiều
dài ĐM từ 44111mm [38]. Nhìn chung đường kính TM thận dao động từ
0,6 1,8 cm. TM thận trái (0,8 1,8 cm) thường lớn hơn TM thận phải (0,6
1,6 cm).
1.2.1.4. Niệu quản
Niệu quản (NQ) là 1 ống dẫn nước tiểu từ thận xuống bàng quang
(BQ). Chiều dài trung bình NQ từ 2528 cm và đường kính NQ khi căng
khoảng 5mm đều từ trên xuống trừ ba chỗ hẹp: khúc nối bể thận NQ, NQ
bắt chéo ĐM chậu, đoạn trong thành BQ [30].
19
Hình 1.2. Các động mạch ni niệu quản
* Nguồn: theo Anderson J.K. và cs. (2007)[37]
ĐM ni NQ: Bể thận và phần trên NQ được ni dưỡng bởi nhánh
của ĐM thận, nhánh của ĐM tinh hồn (ở nam) và nhánh của ĐM buồng
trứng (ở nữ). Phần dưới của đoạn NQ bụng được ni dưỡng bởi nhánh của
ĐM chậu chung (ĐMCC). Đoạn NQ chậu được cung cấp máu bởi nhánh của
ĐM bàng quang dưới hoặc đơi khi nhánh của ĐM trực tràng giữa (hình 1.2)
[37].
Tĩnh mạch: Máu trở về từ NQ đổ vào các TM tương ứng đi kèm ĐM
[30].
Trong ghép thận, khi thận lấy ra cùng NQ thì ĐM ni NQ duy nhất
tách từ ĐM thận nên NQ được cấp máu tối đa tới vị trí bắt chéo bó mạch
chậu. Nếu lấy NQ dài có nguy cơ cao gây hoại tử đầu xa nên trước khi
cắm NQ BQ có thể phải cắt ngắn NQ. Khi lấy NQ cần phải lấy cả lớp
mỡ quanh NQ để bảo vệ ĐM ni NQ khơng bị tổn thương [39]. Do vậy
khi phẫu tích NQ tránh sử dụng dao đốt điện vì có thể làm tổn thương thành
NQ dẫn đến nguy cơ rị. Trần Ngọc Sinh và cs ghi nhận 2 TH rị NQ do
20
ngun nhân này [7]. Theo Shoskes D. và cs (2014) cùng nhiều tác giả khác
nhấn mạnh: khi lấy và phẫu tích thận ghép phải tơn trọng tam giác vàng giữa
bờ dưới góc TMCD và TM thận, xoang thận và cực dưới thận vì vị trí này là
nơi xuất phát của ĐM ni NQ từ nhánh ĐM sau bể thận (hình 1.3) [40], [41].
Dinckan A. và cs cho rằng 70% các TH hoại tử đoạn xa NQ là do tổn thương
vị trí tam giác vàng này [42].
Hình 1.3. Tam giác vàng cần tơn trọng khi lấy, phẫu thích thận ghép
* Nguồn: Theo Culty T. và cs (2014) [41]
1.2.2. Hệ thống mạch máu vùng chậu
1.2.2.1. Động mạch chậu chung
Động mạch chậu chung (ĐMCC) tách ra từ động mạch chủ bụng
(ĐMCB), chạy xuống dưới và ra ngồi rồi chia đơi thành động mạch chậu
ngồi (ĐMCN) và động mạch chậu trong (ĐMCT).
Động mạch chậu chung phải
ĐMCC phải dài khoảng 5 cm [43], phía trước liên quan đến phúc mạc,
ruột non, NQ, phía sau liên quan với hai tĩnh mạch chậu chung (TMCC),
TMCD, phía ngồi với TMCD, TMCC phải và cơ thắt lưng lớn.
Động mạch chậu chung trái
21
ĐMCC trái dài khoảng 4cm, ngắn hơn ĐMCC phải khoảng 1cm [43].
Phía trước, liên quan với phúc mạc, ruột non, ĐM trực tràng trên, NQ; phía sau
ĐMCC trái tựa vào thân đốt sống thắt lưng 4, 5 và nằm ngồi TMCC trái.
1.2.2.2. Động mạch chậu trong
ĐMCT dài khoảng 4cm cấp máu cho các tạng trong chậu hơng và các
vùng ở thành chậu hơng, chạy xuống dưới, ra sau rồi chia ra nhiều nhánh [43].
Có thể thắt ĐMCT hay các nhánh của nó ở một hoặc cả 2 bên mà các tạng trong
chậu hơng khơng bị hoại tử do nó có nhánh thơng từ trực tràng với ĐM tràng
dưới [30].
1.2.2.3. Động mạch chậu ngồi
ĐMCN có kích thước lớn hơn ĐMCT, đi chéo xuống dưới và ra ngồi,
dọc theo bờ trong cơ thắt lưng lớn tới điểm giữa của đường nối từ gai chậu
trước trên đến củ mu thì đi vào đùi và trở thành ĐM đùi [43]. Đường đi của
ĐMCN đi từ sâu ra nơng và thường khơng có nhánh bên lớn nên việc bộc lộ
dễ dàng. Do vậy các phẫu thuật viên ghép thường lựa chọn nối ĐM thận
ghép với ĐMCN.
1.2.2.4. Tĩnh mạch chậu
TM chậu ngồi (TMCN) và TM chậu trong (TMCT) phải và trái nhận
máu từ các cơ quan vùng chậu, cơ quan sinh dục ngồi, chi dưới rồi đổ về
TMCC và TMCD [30]. TMCT và TMCN có sự thơng nối với hệ thống cửa
chủ ở giữa những TM trực tràng trên và dưới. Như vậy khi thắt buộc các
nhánh TMCT để di chuyển TMCN thì máu của hệ thống TM các cơ quan
vùng chậu vẫn có thể về TMCD theo hệ thống đám rối trĩ [43].
Về giải phẫu bình thường ĐMCC và ĐMCN 2 bên đều nằm ở mặt
phẳng phía trước so với mặt phẳng của TMCD, TMCC, TMCN 2 bên. Yếu tố
quan trọng này liên quan tới kỹ thuật ghép đặc biệt là những TH ghép thận
phải vào hố chậu phải. Khi đó nếu đặt thận ghép bên phải xi chiều vào hố
22
chậu phải thì bình diện TM thận sẽ ở phía trước và khoảng cách từ TM thận
tới TMCN sẽ xa hơn trong khi TM thận phải lấy từ người cho sống thường là
ngắn.
Một nhận xét quan trọng khác về liên quan và đường đi của TMCC
phải là: sau khi tách từ TMCD, 1 đoạn 12cm TMCC phải đi xuống dưới ra
sau và vào bên trong ĐMCC phải. Nó chia 1 hay nhiều nhánh TMCT rồi tiếp
tục chạy song song phía trong ĐMCN nhưng vẫn nằm ở bình diện sau so với
bình diện của ĐMCN. Dựa vào nhận xét này và đặc điểm giải phẫu của ĐM
và TM chậu mà các phẫu thuật viên ghép thường ưu tiên chọn ghép thận trái
vào hố chậu phải và ngược lại. Do đặc điểm này mà Dư Thị Ngọc Thu đã
thực hiện kỹ thuật chuyển vị mạch máu vùng rốn thận khi ghép thận phải
vào hố chậu phải [8].
1.3. Kỹ thuật ghép thận tai biến và biến chứng trong ghép
1.3.1. Kỹ thuật ghép thận
1.3.1.1. Đường mổ trong ghép thận và vị trí đặt thận ghép
Đường mổ ghép
Đường Gibson là đường mổ mà các tác giả thường sử dụng để ghép
thận. Theo Watson C.J.E. và cs (2014), có hai đường mổ thường được sử
dụng để bộc lộ mạch máu vùng chậu và BQ:
Đường mổ Rutherford Morison xiên hay đường mổ cong chéo bên
phải hoặc bên trái góc phần tư phía dưới bụng bắt đầu ở giữa 2cm trên
khớp mu, kéo dài theo một đường cong lên trên song song, cách 2 cm với
dây chằng bẹn và kết thúc ngay trên gai chậu trước trên [44]. Cắt cân cơ
chéo ngồi, tách cơ chéo ngồi ở góc bên đường mổ, cắt đến bao cơ thẳng
to để bộc lộ BQ rồi tách cơ chéo trong và cơ ngang bụng. Khoang ngồi
phúc mạc được mở rộng bằng cách vén phúc mạc lên trên, mặt dưới cơ
23
ngang bụng. Vén phúc mạc và bộc lộ hố chậu cho đến khi nhận thấy bó
mạch chậu gốc [45], [46], [47].
Đường mổ Alexandre hoặc pararectal hơi thẳng đứng hơn so với
Rutherford Morison. Nó bắt đầu từ vị trí 2cm phía trên giữa khớp mu đi vào
trong và dọc lên trên theo đường cân trắng bên (hình 1.4) [44], [46], [47].
Hình 1.4. Đường mổ Gibson (nét liền) và đường mổ pararectal (nét rời)
* Nguồn: theo Barry D.K. và cs(2000)[46]
Vị trí đặt thận ghép
Theo Singer J. và cs viết trong bài “Ghép thận và những biến chứng
phẫu thuật” nhận định có nhiều cách lựa chọn vị trí ghép thận [48].
+ Ln lựa chọn hố chậu phải dù thận ghép lấy từ bên nào.
+ Lựa chọn hố thận đối bên (thận phải ghép vào hố chậu trái và ngược
lại)
+ Lựa chọn ghép vào hố chậu cùng bên
+ Ghép thận lần 2 sẽ ghép vào hố chậu chưa ghép.
Chọn vị trí để khâu nối thận ghép có khác nhau tuỳ thuộc chủ yếu
vào tình trạng mạch máu thận lấy ghép. Khi nghiên cứu về ghép thận từ
người cho sống nhận thấy các chun gia ghép thận trên thế giới thường
lựa chọn cắt thận trái ghép vào hố chậu phải của người nhận [9]. Đó là do
khi cắt thận trái TM thận trái dài thuận lợi cho kỹ thuật ghép hơn. Hơn nữa
24
theo vị trí giải phẫu học bình thường của mạch máu thận trái và mạch máu
vùng chậu phải nhìn từ sau ra trước, chúng ta có thể nhận thấy được sự
tương thích giữa ĐM và TM thận trái với ĐM và TM chậu phải. Khi đặt thận
trái vào hố chậu phải, chỉ cần đảo mặt trước sau của quả thận sẽ rất dễ dàng
khi khâu nối TM thận với TMCN phải, ĐM thận với ĐMCN hoặc ĐMCC
phải đồng thời đường bài tiết nước tiểu cũng xi chiều xuống BQ. Watson
C.J.E. và cs (2014) cũng cơng nhận mặc dù theo truyền thống, hố chậu phải
thường được sử dụng để cấy ghép thận nhưng trong thực tế có rất ít sự lựa
chọn giữa 2 bên. Người ta khun rằng thận trái tốt nhất được đặt vào hố
chậu phải và thận phải đặt vào hố chậu trái. Khi đó bể thận NQ sẽ quay ra
trước nên dễ dàng cho việc tiếp cận khi cần thiết [44].
Barry D.K. và cs (2000) lại nhận định khi khơng có chống chỉ định thì
hố chậu phải thường được lựa chọn vì TM hố chậu phải đi nơng và ngang
hơn nên bộc lộ sẽ dễ dàng hơn bên trái. Theo dõi sau ghép sẽ thuận lợi khi
siêu âm Doppler thận ghép hay sinh thiết thận ghép khi cần thiết [46].
Theo phân tích ưu nhược điểm của hố chậu phải và hố chậu trái của
Dư Thị Ngọc Thu thì hố chậu trái ít được lựa chọn đặt thận ghép trong những
trường hợp ghép lần đầu do hệ thống TM chậu trái đi sâu hơn, có thể bị đại
tràng Sigma che phủ khó khăn trong bóc tách bộc lộ TM chậu, thăm khám
thận, sinh thiết thận sau ghép khó hơn [8]. Chỉ chọn đặt thận ghép vào hố
chậu trái khi hố chậu phải khơng thể sử dụng cho ghép do bệnh nhân đã được
ghép thận lần trước, mạch máu vùng chậu phải bị xơ vữa hoặc người nhận đã
nhiều lần phẫu thuật lấy sỏi NQ, tạo hình NQ bên phải và khi ghép phối hợp
thận tụy [8]. Quan điểm này cũng được nhiều tác giả trên thế giới đồng ý
và thống nhất [44], [48].
Nguyễn Trường Giang và cs (2012) nghiên cứu 98 bệnh nhân (BN) ghép
thận tại Bệnh viện Qn y 103 cũng đồng tình quan điểm lựa chọn ghép
thận vào hố chậu phải vì mạch máu hố chậu phải ở nơng hơn [10]. Dư Thị
Ngọc Thu (2012) ghi nhận ghép thận tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 19922012
25
cũng chỉ có 6 BN ghép thận vào hố chậu trái trong đó 4/6 BN ghép thận lần
2 và 2 BN do bệnh lý gan thận đa nang [8].
Một số tác giả như Eileen W.T. và cs, David A.G. và cs, Watson
C.J.E. và cs lựa chọn vị trí vùng lưng thấp để đặt thận ghép trong các
trường hợp ghép thận ở trẻ em hoặc khi ghép lần thứ 3, khi đó ĐM thận
được nối tận bên với ĐM chủ, TM thận nối tận bên với TMCD [44],
[45], [49].
1.3.1.2. Các bước thực hiện kỹ thuật ghép thận
Chuẩn bị thận trước ghép
Lấy bỏ lớp mỡ quanh thận, kiểm tra nhu mơ thận ghép, đánh giá ĐM,
TM thận ghép. Xử lý ĐM, TM trong trường hợp thận có bất thường về số
lượng hay vị trí giải phẫu ĐM, TM. Trường hợp nhiều TM thì có thể thắt
TM nhỏ nhưng nếu nhiều TM có kích thước tương đương và có nguy cơ ứ
máu thận khi thắt 1 TM thì bảo tồn tất cả các TM. Có thể tạo hình lại
thành 1 miệng nối TM hoặc để ngun để làm 2 miệng nối riêng. Thận có
nhiều ĐM thì tất cả các ĐM đều cần được bảo tồn tối đa (đặc biệt mạch
cực dưới vì nó tách nhánh ni niệu quản) [50]. Cụ thể xử lý tạo hình các
ĐM, TM sẽ trình bày sau.
Kiểm tra đánh giá niệu quản thận ghép để có phương án thiết lập lại
đường bài tiết nước tiểu phù hợp. Đánh giá tổ chức quanh NQ, chiều dài
NQ và tồn vẹn của NQ thận ghép.
Quy trình ghép thận thường quy
David A.G. và cs (2003), Barry D.K. và cs (2000), quy trình ghép thận
của Hội đồng tư vấn chun mơn ghép tạng Bộ Y tế (2002) và mới nhất
của Peter J.M. và cs (2014) mơ tả quy trình ghép thận gần như thống nhất
và ít có sự thay đổi [6], [45], [46], [50]. Cụ thể quy trình như sau:
Bệnh nhân được gây mê tồn thân.
Chuẩn bị BQ: BN được đặt thơng tiểu vào BQ, thơng này nối trạc 3: