Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 120 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bẹn là tình trạng các tạng trong ổ phúc mạc đi ra ngoài qua
điểm yếu của thành sau ống bẹn xuống bìu (hoặc môi lớn ở nữ). Thoát vị bẹn
ở trẻ em thường gặp là do bẩm sinh (do tồn tại ống phúc tinh mạc) và khác
với thoát vị bẹn ở người lớn thường gặp là do mắc phải (do yếu cân cơ thành
bụng) [10]. Phẫu thuật thoát vị bẹn là phẫu thuật được thực hiện thường
xuyên nhất ở trẻ em với tỷ lệ khoảng 0,8% đến 4,4% . Trẻ em bị thoát vị bẹn
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và sinh hoạt của trẻ. Thoát vị bẹn ở trẻ em
cần phải được chẩn đoán và điều trị phẫu thuật sớm nhằm giảm thiểu các biến
chứng thường gặp ví dụ như nghẹt, tắc ruột, viêm phúc mạc, Việc chẩn
đoán thường dễ dàng và phẫu thuật nhìn chung cũng ít xảy ra biến chứng .
Tuy nhiên, vẫn xảy ra tình trạng tái phát ở thời thanh thiếu niên nhưng với
nguy cơ thấp, nguy cơ phải phẫu thuật lại bẹn là 8,4% và đau mạn tính là 3% .
Đặc điểm lâm sàng của thoát vị bẹn thường có điểm chung là có khối
phồng ở vùng bẹn và trở nên đau khi khối thoát vị to lên làm rách mô thành
bụng. Các triệu chứng như nôn, bí trung đại tiện, chướng bụng, quấy khóc
thường ở giai đoạn muộn hay thoát vị nghẹt. Khối thoát vị thường có xu
hướng xảy ra ở bên phải hơn bên trái ,,. Đối với trẻ em có nhiều yếu tố thuận
lợi để thoát vị bẹn xuất hiện như trẻ thường khóc, chạy nhảy và ho với tỷ lệ
tương ứng 24,4%, 12,3% và 30,7% .
Điều trị thoát vị bẹn ở trẻ em bằng phẫu thuật là phương pháp hiệu quả,
với nhiều kỹ thuật mổ đã được chứng minh. Tại vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, nơi mà phẫu thuật viên Ngoại nhi còn ít, những trường hợp thoát vị bẹn
ở trẻ em chủ yếu do còn ống phúc tinh mạc, mạc ngang bình thường, khối
thoát vị thường nhỏ thì đa số bệnh nhi được phẫu thuật theo phương pháp
2
Bassini, McVay, Shouldice…đều cho kết quả tốt. Riêng phương pháp
Shouldice là kỹ thuật có tỷ lệ tái phát thấp . Tuy nhiên các kỹ thuật này khá
nặng nề so với trẻ em.
Tại Việt Nam, có nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Hà (2006)


nghiên cứu kết quả điều trị thoát vị bẹn ở trẻ em tại bệnh viện Việt Đức Hà
Nội . Tác giả Bun Liêng Chăn Sila (2006) nghiên cứu đánh giá kết quả điều
trị phẫu thuật bẹn trẻ em ≤ 6 tuổi tại bệnh viện Trung Ương Huế . Các tác giả
này đều không dùng các kỹ thuật mổ nêu trên. Tại Cần Thơ, số lượng nghiên
cứu về đề tài thoát vị bẹn còn ít và từ trước đến nay chưa có nghiên cứu nào
thực hiện ở trẻ em nhằm làm rõ vấn đề điều trị thoát vị bẹn trẻ em nên chọn
lứa tuổi nào để phẫu thuật, kỹ thuật mổ nào để có kết quả tốt, phù hợp với
sinh lý, giải phẫu ở trẻ em, an toàn, tỷ lệ tái phát thấp và và có thể áp dụng
rộng rãi ở các cơ sở ngoại khoa. Từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết quả phẫu thuật
điều trị thoát vị bẹn ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố Cần
Thơ” với các mục tiêu cụ thể như sau:
1. Khảo sát đặc điểm lâm sàng thoát vị bẹn trẻ em từ 03 đến 15
tuổi được điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố Cần Thơ
từ tháng 03/2013 đến tháng 03/2014.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn trẻ em từ
03 đến 15 tuổi tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố Cần Thơ từ tháng
03/2013 đến tháng 03/2014.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược lịch sử điều trị thoát vị bẹn
Thoát vị bẹn được biết như là chỗ phồng lên của vùng bẹn, được ghi
nhận từ thời kỳ đồ đá Ai Cập cổ đại và được lưu lại trong bản viết tay của
người Ai Cập ,,[73].
Năm 1552 trước công nguyên, người Ai Cập đã mô tả cách điều trị
thoát vị bẹn bằng áp lực bên ngoài . Nguyên tắc cơ bản và kinh nghiệm trong
điều trị thoát vị bẹn, dải đeo được áp dụng rộng rãi với mục đích chẹn và làm
giảm khối thoát vị được Celsus ghi lại. Hồ sơ sớm nhất về điều trị thoát vị bẹn
bằng phẫu thuật được ghi bởi Susruta ở thế kỉ XVI, đã có một số tiến bộ trong

điều trị thoát vị bẹn , đó là:
Năm 1556, Franco mở lỗ bẹn sâu giải phóng ruột trong thoát vị bẹn
nghẹt và đóng lại chỗ mở bằng các mũi chỉ khâu. Năm 1559, Stromayr cắt bỏ
túi thoát vị, thừng tinh và cả tinh hoàn khi mổ thoát vị gián tiếp [10]. Thời kỳ
Phục Hưng, việc phẫu tích xác ở Châu Âu đã cho phép hiểu thêm về thoát vị
bẹn. Năm 1721, William Cheselden mổ thành công một trường hợp thoát vị
bẹn nghẹt, quai ruột được giải phóng, mạc nối lớn dính vào túi thoát vị được
buộc và cắt .
Thế kỷ XIX được xem là khởi điểm điều trị thoát vị bẹn hiện đại. Năm
1877, tại Châu Âu và Bắc Mỹ V. Czerny đã mô tả phương pháp phẫu thuật
cột cao và cắt bao thoát vị tại lỗ bẹn nông và khâu hẹp lại lỗ bẹn nông . Các
tác giả Camper, Cooper, Hesselbach và Scarpa, cùng với phương pháp sát
trùng của Lister đã cho phép suy xét kỹ lưỡng tính khả thi của việc tái tạo cấu
trúc ống bẹn. Bassini (1887) và Halsted (1889) đã báo cáo sự thành công của
4
kỹ thuật cơ bản lúc bấy giờ trong thủ thuật túi thoát vị [50]. Năm 1899,
Ferguson mô tả phương pháp thắt cao túi thoát vị và tái tạo các phần liên quan
của cấu trúc thừng tinh theo các lớp giải phẩu ống bẹn .
Trong phẫu thuật thoát vị bẹn, người có công lớn nhất là Eduado
Bassini người Ý với kiến thức sâu về giải phẫu và sinh lý vùng bẹn, thấy được
những thiếu sót của các loại phẫu thuật trước đó, ông đã mổ thành công một
trường hợp thoát vị bẹn vào năm 1884, và sau này phương pháp mổ này mang
tên ông. Bassini có lý do cá nhân giải thích tại sao ông quan tâm đặc biệt đến
giải phẫu vùng bẹn. Trong lúc tham gia chiến đấu tại Villa Glovi vào năm
1867 ông đã bị một cận vệ giáo hoàng đâm lê vào vùng bẹn phải gây ra thủng
manh tràng gây dò phân ra vùng bẹn phải. Vào năm 1889, Bassini đã đề xuất
phương pháp bóc tách và tái tạo vùng bẹn như sau: mở cân cơ chéo bụng
ngoài, bóc tách và cắt cao cổ bao thoát vị ở lỗ bẹn sâu sau đó bằng các mũi
khâu rời 3 lớp, gân cơ kết hợp cùng với cung đùi sau thừng tinh, khâu lại 2
mép cân cơ chéo lớn với nhau trùm lên thừng tinh ,.

Năm 1914, Mac Lennan đã nhấn mạnh về phẫu thuật có chọn lọc như
là một phương pháp điều trị dứt khoát, và thúc đẩy việc chuyển tiếp từ dùng
dải đeo thoát vị sang phẫu thuật. Ông cũng là người có vai trò chính trong
việc cho bệnh nhi xuất viện sớm sau mổ chữa thoát vị bẹn [10].
Phương pháp Shouldice do E.E. Shouldice và cộng sự đề ra được xem
là phương pháp phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn thành công nhất có nguồn gốc
từ phương pháp Bassini đã được đề xuất vào năm 1950, được báo cáo lần đầu
tiên vào năm 1953 và được mô tả trong y văn thế giới vào năm 1960 ,[26].
Các tác giả Potts, Riker và Lewis ủng hộ phương pháp bộc lộ của
Ferguson thắt cao đơn giản và di chuyển túi thoát vị trong điều trị thoát vị bẹn
ở trẻ em và điều này cho đến nay vẫn là kỹ thuật cơ bản trong điều trị phẫu
thuật thoát vị bạn ở trẻ em .
5
1.2. Giải phẫu vùng bẹn
1.2.1. Giải phẫu vùng bẹn
Vùng bẹn được quy ước là khu vực gồm phần thấp của hố chậu và hạ vị
của mỗi bên. Cấu trúc giải phẩu chủ yếu ở vùng bẹn là ống bẹn. Ống bẹn là
một khe nằm giữa các lớp cân cơ của thành bụng, đi từ lỗ bẹn sâu đến lỗ bẹn
nông dài khoảng 4 – 6cm, chạy chếch từ trên xuống dưới vào trong và ra
trước, gần như song song với nửa trong của nếp lằn bẹn. Được cấu tạo bởi 4
thành: trước, sau, trên, dưới và 2 đầu là lỗ bẹn sâu và lỗ bẹn nông ,[18],.
Hình 1.1. Lỗ bẹn nông và thừng tinh.
“Nguồn: Netter F.H, 2010” [64]
- Thành trên: là bờ dưới của cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng. Khi
hai bờ của hai cơ này dính vào nhau thì tạo thành một cấu trúc gọi là liềm bẹn
hay gân kết hợp. Các sợi cơ ở bờ dưới hai cơ chéo bụng trong và cơ ngang
bụng bám vào dây chằng bẹn. Cơ ngang bụng bám vào 1/3 ngoài, cơ chéo
6
bụng bám ở 1/2 ngoài. Ở giữa ống bẹn, bờ dưới hai cơ này vòng lên ôm lấy
thừng tinh và dính vào nhau tạo nên liềm bẹn. Ở phía trong, liềm bẹn đi sau

thừng tinh và cuối cùng bám vào đường lược xương mu .
- Thành trước: Thành trước ống bẹn được tạo nên bởi cân cơ chéo bụng
ngoài và một phần nhỏ phía ngoài được tăng cường bởi cơ chéo bụng trọng, ở
chỗ này cơ bám vào dây chằng bẹn .
- Thành dưới: Được tạo nên bởi dây chằng bẹn. Dây chằng bẹn là chỗ
dày lên của bờ dưới cân cơ chéo bụng ngoài, đi từ gai chậu trước trên đến củ
mu [8],[18].
- Thành sau: Thành sau ống bẹn được tạo nên chủ yếu bởi mạc ngang.
Đây là lớp mạc bao phủ khắp ổ bụng và nằm ngay dưới cơ ngang bụng. Dưới
mạc ngang là lớp mở ngoài phúc mạc rồi đến phúc mạc và các tạng trong ổ
bụng ,[13],[14].
Cũng như tất cả các vùng của bụng, thành bụng vùng ống bẹn gồm các
lớp từ nông đến sâu: da, mỡ dưới da, lớp mạc sâu, cân và cơ chéo ngoài, cân
và cơ chéo trong, cân và cơ ngang bụng, mạc ngang, lớp mỡ trước phúc mạc,
cuối cùng là phúc mạc thành. Các cơ này liên tục với các lớp tương ứng ở bìu
[6],[18],[24].
- Nếp lằn da vùng bẹn bụng: Trong phẩu thuật, nếu rạch da ở vùng này
thì vết mổ sẽ không bị căng vì vậy sẽ dễ liền và ít để lại sẹo như khi mổ vết
dọc trên vùng bẹn, liền sẹo chậm, dễ bị sẹo lồi ở trẻ em [6],.
- Lớp dưới da: Vùng bẹn có tổ chức dưới da lỏng lẻo, có 2 lá: Một lớp
nông gọi là mạc nông và một lớp sâu, vững hơn có nhiều sợi đàn hồi gọi là
mạc sâu. Mạc sâu xuống dưới tạo thành một dải từ xương mu đến bao quanh
dương vật, gọi là dây treo dương vật ,[18].
- Cơ chéo ngoài (cơ chéo lớn): Là một cơ rộng, có tổ chức cơ ở phía
sau và cân ở phía trước. Nguyên ủy bám vào bảy xương sườn dưới bởi bảy trẽ
7
cân, các trẽ này xen kẽ như răng cưa với các trẽ của cơ răng to. Các thớ ở trên
chạy ngang vào trong, các thớ ở giữa đi chếch xuống dưới để hợp thành một
cái quạt xòe từ trên xuống dưới [18].
Cơ gồm hai phần: Phần cơ ở sau trên, tận hết cách gai chậu trước trên

3cm, phần còn lại là một mảng cân rất rộng tỏa tới đường trắng giữa. Dọc
theo bờ dưới của cân tạo nên dây chằng bẹn (cung đùi). Khi bám tận vào
xương mu, cân cơ chéo lớn tạo nên ba dải cân, chính là ba cột trụ của lỗ bẹn
ngoài ,,[18].
+ Cột trụ ngoài bám vào gai mu, một phần cột trụ ngoài lan xuống tận
đùi và xen vào cân của cơ thẳng đùi.
+ Cột trụ trong chạy ra trước cơ thẳng to và cơ tháp, bắt chéo với
đường trắng giữa để bám vào mặt trước gai mu bên đối diện.
+ Cột trụ sau (cột trụ Colles) chạy ở phía sau cột trụ trong, cũng bắt
chéo qua đường trắng để bám vào gai mu bên đối diện.
Dây chằng bẹn (cung đùi): Dây chằng bẹn được tạo nên bởi bờ dưới
của cân cơ chéo ngoài, gồm các sợi cân rất căng, song song với nhau nên rất
dễ rách. Dây chằng bẹn đi từ gai chậu trước trên đến củ mu, ở phía đùi bề mặt
của dây chằng bẹn cuộn lại vào trong, ra sau và lên trên để tạo nên bờ xoắn.
Khi bám vào củ mu dây chằng bẹn chạy ngang vào trong, ra sau và hơi chếch
lên trên tạo nên dây chằng khuyết (còn gọi là dây chằng Gimbernat) bám vào
mào lược rồi tiếp tục đi ra phía ngoài tới lồi chậu mu. Ở đây, nó hòa lẫn với
cân cơ lược và lớp cốt mạc của xương mu tạo nên một dây chằng rất chắc gọi
là dây chằng lược (dây chằng Cooper) ,[38]. Một phần dây chằng bẹn chạy
lên trên, vào trong bám vào đường giữa tạo nên dây chằng phản chiếu [8],
[13],[18].
8
Hình 1.2. Các cân cơ vùng bẹn.
“Nguồn: Netter F.H, 2010” [64]
- Cơ chéo trong: Từ chỗ xuất phát các thớ cơ chạy lên trên, vào trong.
Ở phía dưới, các thớ tách ra từ dây chằng bẹn, cong xuống dưới và vào trong
để ôm phía trên sau thừng tinh. Tại vùng bẹn, về giải phẫu cơ chéo bé rất thay
đổi: các thớ cơ đôi khi hợp với các thớ cơ ngang bụng tạo nên gân kết hợp
bám vào mào lược xương mu (khoảng 3% các thớ cơ chéo bé uốn cong xuống
dưới hợp với cân cơ ngang bụng để tạo nên gân kết hợp) [10],[13],[18].

Phần thấp nhất của cơ chéo bé dính vào dây chằng bẹn, nên thừng tinh
liên quan chặt chẽ với bờ trong của cơ. Bên ngoài thừng tinh nằm sâu so với
các thớ cơ, chính các thớ cơ này bị tinh hoàn kéo xuống đến bìu tạo nên cơ
bìu ,[18],[24].
- Cơ ngang bụng: Cơ ngang bụng là lớp cơ nằm sâu nhất trong ba lớp
cơ thành bụng. Hầu hết các sợi cơ chạy ngang, khi xuống dưới các thớ cơ
ngang bụng hướng xuống dưới và uốn cong vào phía trong tạo thành một
9
vòng cung ôm lấy ống bẹn. Cơ ngang bụng ít sợi cơ và nhiều sợi cân hơn cơ
chéo bé và cơ chéo to [8],.
- Mạc ngang: Mạc ngang nằm sâu dưới cơ ngang bụng, mạc ngang
được mô tả lần đầu tiên bởi Cooper (1807) ,[10],[38] ở vùng bẹn nó gồm hai
lớp: lớp vững chắc bao phủ phía trong cơ ngang bụng, lớp sâu nằm ngay trên
phúc mạc, bó mạch thượng vị dưới chạy giữa hai lá của mạc ngang. Tại vùng
bụng dưới, mạc ngang là một màng liên tục, chỉ bị gián đoạn bởi thừng tinh đi
qua lỗ bẹn sâu [18],[29].
Mạch máu và thần kinh vùng bẹn:
* Động mạch:
Ở lớp nông, vùng bẹn có ba động mạch, xuất phát từ động mạch đùi,
gồm có: Động mạch mũ chậu nông đi ra phía ngoài lên trên qua ống bẹn;
Động mạch thượng vị nông chạy lên trên và vào trong; Động mạch thẹn ngoài
nông chạy vào trong cấp máu cho da dương vật và bìu và nối với mạch thừng
tinh trong bìu [18].
Hình 1.3. Các mạch máu vùng bẹn.
“Nguồn: Netter F.H, 2010” [64]
10
Ở lớp sâu, động mạch thượng vị dưới xuất phát từ động mạch chậu
ngoài sát dây cung đùi nối với nhánh tận của động mạch thượng vị trên. Động
mạch thượng vị dưới tạo nên bờ ngoài của tam giác bẹn [18].
* Tĩnh mạch: đi kèm với các động mạch.

* Thần kinh: Thần kinh chi phối vùng bẹn đều xuất phát từ dây thắt
lưng đầu tiên. Dây thần kinh chậu - bẹn nhỏ hơn thần kinh chậu - hạ vị. Thần
kinh chậu - hạ vị xuyên qua cân cơ chéo lớn ngay phía trên lỗ bẹn nông ra da,
chi phối cảm giác của vùng trên xương mu. Thần kinh chậu - bẹn đi qua dưới
ống bẹn, qua lỗ bẹn nông cảm giác cho da bìu và phần nhỏ phía trong đùi.
Thần kinh sinh dục - đùi cho nhiều nhánh: ngay lỗ bẹn sâu, nó cho nhánh sinh
dục và nhánh đùi. Nhánh sinh dục đi qua ống bẹn nằm giữa thừng tinh và bờ
lật lên của cung đùi, vì chạy dọc theo sàn ống bẹn nên dễ bị tổn thương trong
quá trình mổ [10],[11],[18].
1.2.2. Nội dung của ống bẹn
- Ở nam giới: Là thừng tinh được bọc bởi mặt sâu, thừng tinh nằm nép
sát vào phía dưới và phía ngoài cân cơ chéo to .
Thừng tinh bao gồm: Di tích của ống phúc tinh mạc (dây xơ Cloquet) ở
trước và giữa, ống dẫn tinh ở sau và trong, các mạch máu tinh hoàn nằm ở sau
và ngoài, các hạch bạch huyết, nhánh sinh dục của thần kinh sinh dục đùi và
nhánh thần kinh tự động [18].
Ống dẫn tinh: Ở người lớn dài 40 – 45 cm, rộng 02 mm, thành rất dày
nên khi sờ thấy rắn, ở trẻ em ống dẫn tinh ngắn và mảnh hơn. Khi phẫu thuật
có thể nhận biết ống dẫn tinh nhờ nó có màu trắng đục và khá chắc ,[9].
- Ở nữ giới: Dây chằng tròn (ống Nuck) tương đương với dây chằng
Cloquet, có các nhánh của thần kinh sinh dục đùi và các nhánh tĩnh mạch [8],
[12],[18].
11
1.2.3. Cơ sở giải phẫu của thoát vị bẹn
Khi nhìn qua camera của máy nội soi ổ bụng [42],[44],[68],[82] hướng
đầu máy soi xuống vùng trước dưới của thành bụng (vùng bẹn), sẽ nhìn thấy
phúc mạc của vùng này bị đội lên ở 5 chỗ đối xứng nhau qua đường giữa:
- Một ở chính giữa là dây treo bàng quang.
- Hai động mạch rốn đã tắc.
- Hai động mạch thượng vị (nhánh của động mạch chậu ngoài).

Các phần kể trên tạo nên những sợi thừng chạy dưới phúc mạc, gọi là
hố bẹn ở mỗi bên của đường giữa, với tên gọi lần lượt từ ngoài vào trong là:
- Hố bẹn ngoài, nằm ngoài động mạch thượng vị.
- Hố bẹn giữa, nằm ngoài động mạch rốn đã tắc và trong động mạch
thượng vị.
- Hố bẹn trong, nằm giữa dây treo bàng quang và động mạch rốn.
Trừ hố bẹn trong có cơ thẳng bụng che chắn, còn lại hố bẹn ngoài và
giữa là các diện yếu và là điểm xuất phát của thoát vị bẹn [10],[13],[14].
1.3. Phân loại thoát vị bẹn
1.3.1. Theo vị trí giải phẫu
Thoát vị bẹn chéo ngoài: đa số thoát vị bẩm sinh, tạng chui ra ngoài
qua hố bẹn ngoài, vào ống phúc tinh mạc để xuống bìu. Túi thoát vị nằm
trong bao xơ thừng tinh.
Thoát vị bẹn trực tiếp: đa số là thoát vị mắc phải, tạng chui ra ngoài đi
qua hố bẹn giữa. Túi thoát vị nằm ngoài bao xơ thừng tinh.
Thoát vị bẹn chéo trong: tạng thoát vị chui ra ở hố bẹn trong, rất hiếm
gặp [14],[27],[75].
1.3.2. Theo nguyên nhân
Thoát vị bẩm sinh: do tồn tại ống phúc tinh mạc, là thoát vị chéo ngoài
và thường gặp ở trẻ em [12].
12
Thoát vị bẹn mắc phải: do yếu cân cơ thành bụng, thường gặp ở người
già, tạng chui ra ở hố bẹn giữa ,[14].
1.3.3. Theo tiến triển
Thoát vị chỏm: tạng mới vừa chui qua khỏi lỗ bẹn sâu.
Thoát vị kẽ: tạng chui ra khỏi lỗ bẹn sâu và nằm trong ống bẹn
Thoát vị bẹn-mu: tạng chui ra nằm ở gốc dương vật
Thoát vị bẹn-bìu: tạng thoát vị xuống đến bìu .
1.4. Phôi thai học và sinh bệnh học của thoát vị bẹn trẻ em
Vào tháng thứ ba của thời kỳ bào thai, tinh hoàn bị kéo từ sau phúc mạc

vùng thắt lưng xuống theo đường đi của dây chằng bìu (hay dây kéo tinh
hoàn), và vào tháng thứ bảy, nó chui qua lỗ bẹn sâu, qua ống bẹn xuống bìu,
kéo theo túi cùng phúc mạc tạo ra ống phúc tinh mạc [2],.
Hình 1.4. Sơ đồ thoát vị bẹn trẻ em.
“Nguồn: Nguyễn Thanh Liêm, 2002”
Sự tồn tại ống phúc tinh mạc là yếu tố cơ bản gây nên thoát vị bẹn ở trẻ
em và một số bệnh lý khác ở vùng bẹn bìu trẻ em như: tràn dịch màng tinh
hoàn và nang thừng tinh nếu ống nhỏ hẹp chỉ cho nước xuống, khi nó đủ rộng
và chứa một phần tạng của ổ bụng thì trở thành thoát vị bẹn thực sự .
13
Hình 1.5. Sự di chuyển của tinh hoàn từ trong ổ bụng xuống bìu.
“Nguồn: Netter F.H, 2010” [64]
Hình 1.6. Thoát vị bẹn phải ở bé nam.
“Nguồn: Phạm Văn Lình, 2007”
14
Tuy nhiên, một số không nhỏ trẻ còn tồn tại ống phúc tinh mạc mà
không bị thoát vị bẹn. Sachs (1885) cho rằng ống phúc tinh mạc vẫn mở hoàn
toàn trong 57% số trẻ từ 04 tháng đến 01 năm tuổi .
Trong những cơ thể bình thường, ống phúc tinh mạc vẫn còn thông
trong nhiều tháng sau khi sinh và trong số đó thì 20% sự tồn tại này không
được phát hiện và không có triệu chứng gì trong suốt cuộc đời [18] .
1.5. Đặc điểm lâm sàng thoát vị bẹn ở trẻ em
Tuổi: Thoát vị bẹn trẻ em có tỉ lệ cao nhất trong năm đầu tiên của cuộc
đời với đỉnh cao trong những tháng đầu. Khoảng 1/3 số trẻ bị thoát vị bẹn
dưới 06 tháng tuổi tại thời điểm phẫu thuật [34]. Tỷ lệ cao nhất gặp ở trẻ sơ
sinh non tháng khoảng từ 16% - 25% [33]. Trong một nghiên cứu tại bệnh
viện Trung Ương Huế thoát vị bẹn ở trẻ em ≤ 6 tuổi thì độ tuổi thoát vị bẹn
cao nhất là dưới 2 tuổi (61,2%) [20].
Giới tính: Con trai bị thoát vị bẹn nhiều gấp 06 lần so với con gái. Tỉ lệ
thoát vị bẹn giữa nam và nữ thay đổi từ 3/1 đến 10/1, tùy theo từng báo cáo.

Nguy cơ thoát vị bẹn ở trẻ đẻ non cao hơn nhưng không có bằng chứng rõ
ràng về sự khác biệt tỉ lệ giữa nam và nữ ở những đứa trẻ này [9]. Tại Việt
Nam, một nghiên cứu về đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn trẻ
em tại bệnh viện Việt Đức của Nguyễn Ngọc Hà (2006) cho thấy tỷ lệ trẻ nam
được phẫu thuật là 84,3% cao gấp khoảng 6 lần so với trẻ nữ được phẫu thuật
vì thoát vị bẹn 15,7% .
Thoát vị bẹn hai bên ở trẻ gái, cần phải làm nhiễm sắc thể giới tính
hoặc gen biệt hóa tinh hoàn. Nếu nhiễm sắc thể giới tính 46 XY hoặc gen biệt
hóa tinh hoàn (+) thì phải khám toàn diện và phải khám nội tiết để xác định là
nam lưỡng giới giả (ngoại hình và bộ phận sinh dục ngoài trông như nữ,
nhưng âm đạo ngắn, không có tử cung, không có buồn trứng mà có hai tinh
hoàn trong ổ bụng hoặc ống bẹn). Bệnh nhi là nam nhưng trông như nữ và
15
thường được đặt tên con gái. Nếu không có điều kiện làm xét nghiệm xác
định nhiễm sắc thể giới tính, thì khi mổ chữa thoát vị bẹn, bắt buộc phải kiểm
tra tuyến sinh dục là tinh hoàn hay buồng trứng [65]. Nam giới có tử cung
phát hiện lúc mổ mở bao thoát vị cần phải thăm dò cơ quan sinh dục trong,
làm thêm xét nghiệm nội tiết và nhiễm sắc thể giới tính [30],[40].
Vị trí thoát vị: Thoát vị bẹn ở trẻ em chủ yếu nằm ở bên phải và đã
được nhiều nghiên cứu ghi nhận [32]. Theo tác giả Rowe và Clatworthy thì ở
con trai thì 60% thoát vị bẹn ở bên phải, 30% ở bên trái, và 10% ở hai bên. Tỷ
lệ này tương tự ở con gái (bên phải: 60%, bên trái: 32%, hai bên là 8%) .
Ngay cả ở người lớn cũng ghi nhận kết quả tương tự. Trong nghiên cứu Srey
Phembunnarith (2003) ghi nhận 60,5% thoát vị bẹn xảy ra ở bên phải và
39,5% ở bên trái .
Tiền sử gia đình: Một tỉ lệ cao của thoát vị bẹn bẩm sinh đã được ghi
nhận ở những cặp sinh đôi . Có 11,5% bệnh nhân mà trong tiền sử gia đình có
người bị thoát vi bẹn . Thứ tự sinh con cũng được một số tác giả gợi ý để xem
xét đến thoát vị bẹn ở trẻ em [31]. Trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hà
(2006) cho thấy thoát vị bẹn ở trẻ là con thứ nhất chiếm 52,8% và giảm dần tỷ

lệ thoát vị bẹn từ con thứ 2 với tỷ lệ 39,6%, con thứ 3 6,4%, con thứ tư trở lên
1,2% .
Yếu tố di truyền: Yếu tố di truyền đã được gợi ý cho thấy có liên quan
đến bệnh nguyên gây thoát vị bẹn. Tuy nhiên cho đến nay thực sự vẫn còn là
những giả thuyết đang còn tranh luận. Những giả thuyết đã được đưa ra là:
- Di truyền tự thân trội.
- Di truyền tự thân trội liên quan đến giới tính.
- Di truyền trội liên kết với nhiễm sắc thể X.
- Di truyền đa gen (Polygenic inheritance) [10],[31].
16
Một công trình nghiên cứu trên 280 gia đình mắc bệnh thoát vị bẹn
gián tiếp bẩm sinh tại Shandon Trung Quốc cho thấy yếu tố di truyền trong
các gia đình này biểu hiện di truyền tự thân trội, di truyền tự thân trội liên
quan đến đến giới tính và di truyền trội liên kết với nhiễm sắc thể X [10].
1.6. Triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán thoát vị bẹn ở trẻ em
1.6.1. Thoát vị bẹn thường
Thoát vị bẹn thường là loại thoát vị thường gặp ở trẻ thoát vị. Với một
số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thoát vị bẹn thường từ 63,4%-92% ,[9],.
- Triệu chứng: Một túi phồng khác thường ở vùng bẹn, là lí do gia đình
đưa con đi khám (có thể xuất hiện ngay sau khi sinh hoặc vài tuần, vài tháng
thậm chí sau vài năm) [9],[15],. Khối phồng to lên khi có tăng áp lực ổ bụng
(như khi khóc, ho…), giảm hoặc mất đi khi trẻ ngủ.
Khi khám sẽ thấy khối phồng ở vùng bẹn bìu (trẻ nam) hay ở môi lớn
(trẻ nữ), khối phồng xuất hiện tự nhiên, không đau, bóp xẹp dễ dàng là triệu
chứng lâm sàng chủ yếu . Trong trường hợp không thấy khối thoát vị, có thể
làm một số biện pháp làm tăng áp lực ổ bụng để làm xuất hiện nó: Ở trẻ nhỏ
thì kích thích cho khóc, ở trẻ lớn hướng dẫn cho chạy tại chỗ, ho hoặc thổi
vào một quả bóng khi đứng (nghiệm pháp Valsalva) [9],[21].
- Chẩn đoán thoát vị bẹn thường: Chủ yếu dựa vào lâm sàng, thấy khối
thoát vị tự nhiên ở vùng bẹn bìu hoặc phía trên môi lớn. Có thể khối thoát vị

được xác định trước đó bởi gia đình hoặc các thầy thuốc nhi khoa, nhưng
phẫu thuật viên nên cố gắng thấy được khối thoát vị để có chẩn đoán xác định
trước khi quyết định mổ [9],[21].
Thoát vị bẹn trẻ em cần chẩn đoán phân biệt với [1],[21],:
- Hạch bẹn do nhiễm trùng, lao, ung thư.
- U máu thể hang.
- Phồng hoặc phồng giả động mạch đùi.
17
- Bướu mở vùng bẹn.
- Áp xe cơ thăn đổ vào vùng bẹn.
- Tụ máu sau chấn thương.
- Tinh hoàn lạc chổ.
- Nang thừng tinh, nang ống Nuck.
- Tràn dịch tinh mạc.
- Dãn tĩnh mạch thừng tinh.
- Viêm mào tinh hoàn.
- Xoắn thừng tinh.
1.6.2. Thoát vị bẹn nghẹt
Khối phồng vùng bẹn bìu là dấu hiệu chung của tất cả các bệnh nhân
thoát vị bẹn. Giai đoạn đầu khối phồng có thể tự lên xuống được hoặc chỉ lên
khi nằm. Về sau càng muộn thường khối phồng chỉ lên được khi đẩy lên, nếu
đẩy không lên thì đã có biến chứng nghẹt . Khối thoát vị điển hình, căng, đau,
ấn không nhỏ đi và có hội chứng tắc ruột rõ. Nếu bệnh nhân đến muộn thì đau
trở nên dữ dội, nôn ra nước mật và có thể ỉa ra ít máu. Khối thoát vị sưng nề,
da phía trên màu đỏ, đau dữ dội khi sờ nắn. Tinh hoàn có thể bị sưng, chắc do
tĩnh mạch và bạch huyết bị chèn ép ,[13].
Thoát vị bẹn trẻ em nghẹt cần chẩn đoán phân biệt với: xoắn tinh hoàn
và phần phụ tinh hoàn, viêm hạch vùng bẹn bìu [1],[23].
1.7. Biến chứng của thoát vị bẹn ở trẻ em
- Thoát vị bẹn nghẹt: do chèn ép mạch máu của các tạng thoát vị bởi

các tạng này bị xoắn, nghẽn trong bao thoát vị gây thiếu máu cấp tính rồi hoại
tử các tạng thoát vị nếu không được xử trí kịp thời. Khoảng 20% thoát vị bẹn
bị nghẹt ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng khoảng 60% thoát vị bẹn nghẹt hay xảy
ra trong ba tháng đầu sau đẻ .
18
- Thoát vị bẹn không đẩy lên được (incarcerated hernia): do dính cổ
bao thoát vị, do dính nội dung thoát vị vào bao thoát vị (buồng trứng, ruột,
bàng quang, mạc nối lớn…). Loại thoát vị bẹn này có thể không có triệu
chứng, tuy nhiên có nguy cơ gây tắc ruột và xoắn nghẹt ruột .
- Tắc ruột: Thường là do thoát vị bẹn nghẹt, ruột non hay bị nghẹt hơn
cả, hiếm hơn là đại tràng.
- Rối loạn tiêu hóa, chậm lớn ở trẻ nhỏ.
- Thoát vị bẹn còn là yếu tố thuận lợi gây xoắn tinh hoàn, teo tinh hoàn,
nghẹt bó mạch thừng tinh gây hoại tử tinh hoàn .
1.8. Phương pháp điều trị thoát vị bẹn ở trẻ em
1.8.1. Điều trị bảo tồn bằng đeo băng treo
Đây là một phương pháp tạm thời, không thể điều trị hết được thoát vị
bẹn. Gần đây không có chỉ định trong điều trị thoát vị bẹn ở trẻ em. Nếu như
chưa can thiệp phẫu thuật vì một lý do gì đó (tuổi, bệnh lý kèm theo ) thì chỉ
nên theo dõi.
Hình 1.7. Băng đeo thoát vị bẹn
“Nguồn: Nguyễn Văn Liễu, 2007” [10]
Việc băng treo bìu hay băng ép vùng bẹn sẽ ảnh hưởng đến sự trưởng
thành cũng như chức năng của tinh hoàn sau này [10],[13],[20].
19
1.8.2. Điều trị phẫu thuật
1.8.2.1. Chỉ định
Ngoại trừ những trường hợp chống chỉ định mổ thì tất cả thoát vị bẹn
trẻ em đều phải mổ để chữa tiệt căn, theo kế hoạch (mổ phiên), trừ thoát vị
bẹn nghẹt có thể phải mổ cấp cứu.

Có hai phương pháp phẫu thuật thoát vị bẹn trẻ em đó là cột cắt cao cổ
túi thoát vị và cột cắt cao cổ túi thoát vị + khâu hẹp lỗ bẹn sâu [20]:
- Cột cắt cao cổ túi thoát vị: Mức độ nặng nhẹ và kỹ thuật phù hợp
thoát vị bẹn ở trẻ em và phương pháp tái tạo hợp lý là cột cắt cao ống phúc
tinh mạc [9],[12],[70].
Các bước phẫu thuật bao gồm:
+ Rạch da theo chiều ngang theo nếp lằn bụng dưới một đoạn ngắn 2 –
3cm.
+ Rạch qua lớp mở dưới da để bọc lộ cân nông (cân Scarpa), cân này
phát triển ở trẻ em và dễ lẫn với mạc chéo lớn.
+ Mở cân cơ chéo bụng ngoài theo thớ cân, nhưng không cần mở lỗ
bẹn nông.
+ Bộc lộ, bóc tách túi thoát vị, tránh làm tổn thương thừng tinh.
+ Đẩy tạng thoát vị vào ổ bụng.
+ Khâu ngang, buộc và kẹp cắt cắt cổ bao thoát vị ngang mức lỗ bẹn
sâu.
+ Đưa tinh hoàn về đáy bìu.
+ Khâu đóng cân cơ chéo bụng ngoài và da.
Đối với trẻ nhỏ, hầu hết phẫu thuật viên đều chọn đường mổ ngang trên
nếp bẹn bụng, đầu trong của đường mổ ở ngoài gai mu, vị trí chính xác này
tùy thuộc vào từng trẻ, mục đích là có thể bộc lộ tốt nhất lỗ bẹn sâu. Một cuộc
phẫu thuật thoát vị bẹn thường có hai bước là: xử lý túi thoát vị và các thành
20
phần của chúng; phục hồi lại thành bụng. Với thoát vị ở trẻ nhỏ, sau khi rạch
da và tổ chức cân nông, bộc lộ lỗ bẹn nông ở phía ngoài gai mu. Ở trẻ sơ sinh,
lỗ bẹn sâu hầu như nằm ngay dưới lỗ bẹn nông và có thể phẫu tích vào lỗ bẹn
sâu mà không cần mở cân cơ chéo bụng ngoài. Với trẻ lớn hơn nên cắt cơ
chéo bụng ngoài bằng một đường ngắn dọc theo các sợi cân ở lỗ bẹn nông,
thận trọng để xác định và bảo vệ dây thần kinh chậu bẹn ở bên dưới [8],,[18].
Tiến hành phẫu tích túi thoát vị và xử lý túi thoát vị, cột cao cổ túi thoát vị

ngang lỗ bẹn sâu (mốc xác định là lớp mỡ trước phúc mạc).
- Cột cắt cao cổ túi thoát vị + khâu hẹp lỗ bẹn sâu: Khi túi thoát vị bị
phì đại do sự chứa đựng các tạng trong ổ bụng sa xuống, lỗ bẹn sâu có thể bị
dãn rộng, do đó phải khâu hẹp lỗ bẹn sâu [6],[10],[20].
1.8.2.2. Phương pháp vô cảm
Có nhiều phương pháp vô cảm tùy theo lứa tuổi của bệnh nhi và tùy
theo giai đoạn của thoát vị bẹn mà chọn lựa cho phù hợp [41],[54]:
- Với trẻ nhỏ: Mê nội khí quản để kiểm soát được thông khí tránh co
thắt khí quản sau mổ.
Trong trường hợp thoát vị bẹn nghẹt có nguy cơ thương tổn tạng thoát
vị, gây mê nội khí quản giúp cho việc kiểm tra và xử lí tạng bị nghẹt tốt hơn.
- Với trẻ lớn: Gây mê tĩnh mạch hoặc úp mặt nạ.
- Gây tê ngoài màng cứng qua khe xương cùng (phương pháp Caudal)
kết hợp với mê bốc hơi (Halothan, Forane, Sevoflorane…) qua đường thở
được đề nghị và hiện nay đang áp dụng rộng rãi trong mổ thoát vị bẹn ở trẻ
em [81],[87].
1.8.3. Điều trị thoát vị bẹn trẻ em nghẹt
Với thoát vị bẹn trẻ em nghẹt nhưng chưa có biểu hiện tổn thương các
tạng bị thoát vị, nên cố gắng điều trị bảo tồn bằng cách tiền mê và đẩy khối
thoát vị lên ổ bụng, nếu đẩy được thì tiến hành mổ chữa thoát vị bẹn sau 2 – 3
21
ngày khi tình trạng viêm nề tại chỗ đã hết, nếu không đẩy được thì phải tiến
hành mổ cấp cứu [9],.
Nếu đã có biểu hiện tắc ruột thì cần hồi sức tốt và mổ cấp cứu. Bệnh
nhi nên được gây mê nội khí quản, đường mổ nên rộng hơn bình thường, cân
cơ chéo lớn phải được mở qua lỗ bẹn ngoài để làm giảm bớt sự tắc nghẽn.
Khi mổ, chú ý một nguy cơ là rạch vào ruột. Phải kiểm tra kỹ, đánh gía tình
trạng quai ruột bị nghẹt để quyết định bảo tồn hay cắt bỏ. Kiểm tra khả năng
sống của tinh hoàn [9],[21].
Mổ thoát vị nghẹt ở trẻ nhỏ nói chung là khó khăn vì bao thoát vị phù

nề và dễ rách, tĩnh mạch tinh và ống dẫn tinh dễ bị tổn thương [6],[9],[21].
Với bao thoát vị phù nề, bở, dễ bị rách thì khâu vắt an toàn hơn là buộc.
Đường mổ được đóng theo cách thông thường .
1.9. Các tai biến và biến chứng phẫu thuật thoát vị bẹn ở trẻ em
1.9.1. Các tai biến trong mổ
Tổn thương các nhánh thần kinh: thần kinh chậu - bẹn, chậu - hạ vị,
sinh dục - đùi rất thường bị cắt đứt trong khi mổ, mà trên thực tế không phải
khi nào cũng tránh được, và hậu quả là mất cảm giác hoặc tê bì vùng vốn
nhạy cảm này [25],[27]. Điều may mắn là có hiện tượng đang chéo giữa các
nhánh thần kinh này nên hậu quả cũng khó nhận biết [6],[27].
Tổn thương ống dẫn tinh: Có thể xảy ra đặc biệt mổ thoát vị bẹn tái
phát vì giải phẫu vùng bẹn đã bị thay đổi, nói chung rất khó nhận biết cấu trúc
này trong mổ. Hay tổn thương bó mạch thừng tinh, thường do phẫu tích thô
bạo [10],[57],[79].
Thương tổn nội dung thoát vị: Có thể gặp khi mở bao thoát vị, nhất là ở
thoát vị bẹn nghẹt. Trong một nghiên cứu thoát vị bẹn ở trẻ em thì đa số
(65,4%) là không có tạng thoát vị, 19,2% nội dung tạng thoát vị là mạc nối
lớn và 13,5% là ruột non .
22
Tổn thương bàng quang: Có thể gặp khi phẫu tích bao thoát vị quá to
hoặc một phần bàng quang trượt vào túi thoát vị [10],[27],[52].
Trong các nghiên cứu gần đây tại Việt Nam về kết quả phẫu thuật thoát
vị bẹn ở trẻ em thì không có biến chứng lớn nào xảy ra trong lúc mổ ,.
1.9.2. Các biến chứng sớm
Biến chứng sớm sau điều trị phẫu thuật thoát vị bẹn được đề cập đến ở
các nghiên cứu gồm: hình thành cục máu đông, nhiễm khuẩn, tổn thương bìu
và cấu trúc của bìu, tổn thương cấu trúc thừng tinh (ống dẫn tinh hoặc tinh
hoàn có thể bị tổn thương 1% - 3%), chảy máu và khối máu tụ bìu, tổn thương
thần kinh chậu bẹn và thần kinh sinh dục đùi .
Tại Việt Nam, trong kết quả nghiên cứu của Bun Liêng Chăn Sila cho

thấy biến chứng sớm sau mổ hay gặp nhất là sưng bìu nhẹ 4,1%; không có
trường hợp nào chảy máu, viêm phúc mạc hay biến chứng về hô hấp; biến
chứng nhiễm khuẩn vết mổ có 1,9% các trường hợp .
1.9.3. Các biến chứng muộn
Các biến chứng muộn sau phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn trẻ em là:
- Sẹo rúm xấu, đau tê vùng bẹn bìu: theo nhiều tác giả, đau tê vùng này
là do thần kinh chậu bẹn, sinh dục, chậu hạ vị bị thương tổn hay chèn ép .
Trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hà thì 1,8% bị đau tê vùng bẹn từ 1 đến
5 tháng . Tác giả Nguyễn Văn Liễu cũng có 8,5% bệnh nhân người lớn bị tê
vùng bẹn bìu từ 3 tháng đến 6 tháng sau mổ thoát vị bẹn và sau đó tự hết .
Đau mạn tính cũng là biến chứng được quan tâm, trong nghiên cứu của
Dương Ngọc Thành thì kết quả 14,1% bệnh nhân bị đau mạn tính sau mổ
thoát vị bẹn .
- Teo tinh hoàn: thường do tổn thương mạch máu nuôi tinh hoàn hoặc
do khâu hẹp ống bẹn quá mức cần thiết, nhất là trong trường hợp có phục hồi
thành bụng gây chẹn vào mạch tinh hoàn .
23
- Tái phát thoát vị bẹn: Hầu hết thoát vị bẹn trẻ em tái phát là kết quả
của sự xé một bao thoát vị bở, thất bại trong việc phẫu tích bao thoát vị, việc
thắt cổ bao thoát vị không tại vị trí lỗ bẹn sâu, tuột chỉ buộc cổ bao thoát vị
[48],[80]. Trong một nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hà cho kết quả tỷ lệ tái
phát thoát vị bẹn ở trẻ em sau phẫu thuật là 0,4% .
- Ngoài ra còn một số biến chứng muộn khác: sa tinh hoàn, tinh hoàn
không xuống bìu, tràn dịch màng tinh hoàn
1.10. Tình hình thoát vị bẹn hiện nay
Thoát vị bẹn là một bệnh lý ngoại khoa ngày càng lôi cuốn sự quan tâm
của các phẫu thuật viên trên thế giới. Điều này được chứng minh bằng sự gia
tăng không ngừng các cuộc hội thảo dài ngày về đề tài thoát vị bẹn cả trẻ em
và người lớn trên khắp thế giới. Sau Hiệp hội Thoát vị Châu Âu ra đời cách
nay hơn 20 năm và không ngừng phát triển, là sự ra đời của Hiệp hội Thoát vị

Hoa Kỳ ở những năm cuối thập kỷ 90 đã nói lên tầm quan trọng của nghiên
cứu về bệnh học và điều trị học của bệnh lý ngoại khoa phỗ biến này [26].
Thoát vị nói chung gặp trong 5% dân số thế giới. Trong đó thoát vị bẹn
chiếm 80% trong tổng số các loại thoát vị [32].
Thoát vị bẹn xảy ra phổ biến ở nam hơn so với nữ (tỉ lệ 4 nam : 1 nữ).
60% trường hợp thoát vị bẹn xảy ra ở bên phải, 30% xảy ra ở bên trái và 10%
xảy ra ở cả hai bên. Khoảng 50% số trường hợp được thấy từ trước 1 năm tuổi
và trong số đó hầu hết đều xuất hiện từ trước 6 tháng tuổi [77].
Ở trẻ sinh non tỷ lệ mắc thoát vị bẹn cao hơn, có tới 7% số trẻ sơ sinh
nam mắc tật này nếu trẻ sinh trước 30 tuần của thai kì. Trẻ sinh non với trọng
lượng nhỏ hơn 1.500 gram sẽ có tỉ lệ mắc tật này cao 20 lần hơn so với trẻ có
trọng lượng lớn hơn [20],[51].
Hiện nay chưa có số liệu dịch tễ học về thoát vị bẹn của toàn Việt Nam
nhưng tại Pháp, một quốc gia có số dân tương đương ở Việt Nam, trung bình
24
mỗi năm có khoảng 100.000 trường hợp được phẫu thuật, đứng thứ 2 sau cắt
ruột thừa. Tại Mỹ là hơn 500.000 ca thoát vị bẹn được phẫu thuật mỗi năm,
chiếm khoảng 15% số ca phẫu thuật tổng quát, riêng thoát vị bẹn trẻ em
chiếm 37% tổng số bệnh nhi được phẫu thuật. Tại Anh, mỗi năm có khoảng
80.000 ca thoát vị bẹn được phẫu thuật [26].
Tại Việt Nam, theo thống kê của bệnh viện Nhi Trung Ương trong 05
năm (2005 – 2010) có khoảng 239 trẻ em thoát vị bẹn được mổ [6]. Tại Bệnh
viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh, trong 3 năm 2002 – 2004 trong tổng số 595 bệnh
nhi được mổ tại khoa ngoại tổng hợp, đã có 128 trẻ được mổ vì thoát vị bẹn,
chiếm 21,5% [7]. Tại bệnh viện Nhi đồng Thành phố Cần Thơ, trung bình
mỗi năm mổ khoảng 165 ca thoát vị bẹn, trong đó 90% là trẻ em trên 3 tuổi.
Trên thế giới, phẫu thuật nội soi điều trị thoát vị bẹn đã phổ biến ở
người lớn trong những năm gần đây, nó có ưu điểm là ít đau, thời gian phục
hồi sinh hoạt sớm, thời gian trở lại lao động sớm, điều trị được hai bên với
cùng vị trí vết mổ và dễ điều trị những trường hợp thoát vị bẹn tái phát Tuy

nhiên có một ít khó khăn là phải có trang thiết bị, chi phí cao, thời gian mổ
kéo dài và phẫu thuật viên có kinh nghiệm. Vì những lí do này mà lúc đầu hầu
hết phẫu thuật viên nhi không thích sử dụng kỹ thuật nội soi để điều trị thoát
vị bẹn ở trẻ em, bởi vì đường mổ mở quá nhỏ, dễ thao tác, sau mổ bệnh nhi
cũng ít đau và trở lại sinh hoạt cũng nhanh chóng [70].
Từ năm 1997 đến nay nhiều kỹ thuật nội soi điều trị thoát vị bẹn ở trẻ
em được áp dụng và kết quả rất tốt. El-Gohary đã sử dụng kỹ thuật cột túi
thoát vị trong ổ bụng qua nội soi ở trẻ em nữ đầu tiên năm 1997, tuy nhiên hai
ông Tontupet và Esposito là những người đầu tiên áp dụng kỹ thuật này thành
công ở bệnh nhi nam. Năm 2003 Schier đã sử dụng mũi khâu chữ Z qua nội
soi điều trị thoát vị bẹn ở nam, có 2,7% tái phát. Một nhóm khác đã chế tạo ra
một dụng cụ đặc biệt thông qua cấu trúc ngoài phúc mạc để khâu xung quanh
25
cổ túi thoát vị. Lee và Liang thực hiện trên 450 bệnh nhi, tái phát 0,88%.
Prasad và cộng sự đã báo cáo sử dụng tăng cường những mũi khâu bằng chỉ
thép và kỹ thuật SEAL (Subcutaneous endoscopically assisted ligation of the
hernia sac) cũng được áp dụng tại nhiều trung tâm trên thế giới. Trong những
năm gần đây, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về điều trị thoát vị
bẹn ở trẻ em qua nội soi như năm 2010 của Parelkar và cộng sự trên 450 trẻ
em bị thoát vị bẹn với kết quả đáng khích lệ, tỉ lệ tái phát thấp [68]. Cũng
trong năm này có nghiên cứu của Kiskar phẫu thuật nội soi cột túi thoát vị ở
173 trẻ em nữ cũng được thực hiện [61]. Từ đó đến nay có nhiều kỹ thuật
được áp dụng, tuy nhiên chưa có kỹ thuật nào được chứng minh là tốt hơn kỹ
thuật nào [70],[83],[86].

×