Chương 1
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
Lịch sử phát triển của nhân loại là sự kế tiếp và thay thế nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội. Ở mỗi giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất
(LLSX) con người có cách giải thích khác nhau đối với các hiện tượng và
quá trình kinh tế tương ứng với trình độ hiểu biết và nhận thức của họ. Ban
đầu chỉ là các tư tưởng kinh tế riêng lẻ được trình bày lẫn trong các ca dao
tục ngữ truyền miệng lại cho các thế hệ sau. Khi sức sản xuất của xã hội phát
triển, trí tuệ và sự hiểu biết của con người tăng lên và thực tiễn đòi hỏi
không chỉ nhận thức, giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế đang diễn
ra, mà còn phải vận dụng tri thức đó vào chỉ đạo thực tiễn. Trong điều kiện
đó những hiểu biết về các quá trình kinh tế phải được được trình bày theo
một hệ thống những phạm trù, quy luật kinh tế, từ đó hình thành ra các học
thuyết kinh tế. Từ các học thuyết kinh tế phát triển thành chuyên ngành lịch
sử các học thuyết kinh tế cũng trải qua một quá trình phát triển từ giản đơn
đến phức tạp, từ ít hoàn thiện đến ngày một hoàn thiện hơn. Đó là tư tưởng
của nhân loại về kinh tế thuộc kiến trúc thượng tầng, trong một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định.
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT
KINH TẾ
1.1. Quá trình hình thành, phát triển lịch sử các học thuyết kinh tế
Các tư tưởng kinh tế của loài người được hình thành từ thời Cổ đại,
trong tác phẩm của cac nhà lý luận nổi tiếng như: Xenophone, Aristots,
Platon, Mạnh tử, Copecnic… họ đã đề cập đến các vấn đề như: ruộng đất,
thuế khóa, phân công lao động xã hội, phân phối thu nhập, tiền tệ, phân chia
- 1 -
xã hội thành giai cấp nhằm hướng vào giải quyết vấn đề luân lý về đạo đức,
chính trị, đẳng cấp… đặc biệt là vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, những tư tưởng
của họ chưa mang tính khái quát, hệ thống được trình bày lẫn trong các tác
phẩm triết học, văn học, luật pháp… nên chưa xây dựng được lý luận kinh tế
khoa học riêng biệt.
Đến cuối thế kỷ XV, nền sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển trong
phương thức sản xuất phong kiến đang từng bước chuyển sang sản xuất
hàng hóa lớn, thúc đẩy phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản ra đời, từ đó
các tư tưởng kinh tế được hình thành có tính hệ thống thành các học thuyết
kinh tế.
Tư tưởng kinh tế của những người trọng thương được coi là học thuyết
kinh tế đầu tiên, nó được hình thành, phát triển ở nhiều nước Châu Âu như:
Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha,… Đó là những lý luận kinh tế đầu tiên
nghiên cứu về sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chính
sách kinh tế của nhà nước trong thời kỳ tích lũy nguyên thủy của tư bản.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chỉ rõ vai trò của lao động
trong ngành sản xuất vật chất là nguồn gốc sáng tạo ra của cải vật chất làm
cho lý luận kinh tế của chủ nghĩa trọng thương bị lỗi thời, tan rã, nhường
chỗ cho sự ra đời của chủ nghĩa trọng nông ở Pháp và kinh tế chính trị tư sản
cổ điển ở Anh. W.Petty là cha đẻ của học thuyết kinh tế tư sản cổ điển và nó
phát triển đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với tư tưởng
kinh tế của Adam Smith và David Ricardo.
Học thuyết kinh tế tư sản cổ điển tuy xuất phát từ lợi ích kinh tế của
giai cấp tư sản, song mang tính khoa học cao. Cuộc đấu tranh giai cấp trên
lĩnh vực lý luận, tư tưởng , thực tiễn đã bộc lộ rõ ràng, những mâu thuẫn,
hạn chế vốn có của chủ nghĩa tư bản. Để bào chữa, che đậy những mâu
thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, học
- 2 -
thuyết kinh tế của trường phái kinh tế chính trị tầm thường xuất hiện, đứng
đầu là Jean Baptitste Say và Thomas Robert Malthus.
Chủ nghĩa tư bản phát triển làm phá sản hàng loạt những người sản
xuất nhỏ, hình thành đội quân thất nghiệp ngày càng đông đảo. Do đó, xuất
hiện dòng tư tưởng kinh tế phê phán chủ nghĩa tư bản, bảo vệ lợi ích của
những người sản xuất nhỏ, những người làm thuê đó là học thuyết kinh tế
Tiểu tư sản do S. Sismondi và P.J Proudhon sáng lập.
Trước sự áp bức bóc lột nặng nề do phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa tạo ra, những tư tưởng kinh tế hướng đến xây dựng một nền kinh tế
hoạt động có hiệu quả và xây dựng một xã hội công bằng bình đẳng, bác ái
xuất hiện trong phương thức sản xuất nô lệ được các nhà XHCN không
tưởng ở Pháp và Anh như S. Simon, F.C. Fourier, R. Owen phát triển thành
trào lưu tư tưởng tiến bộ.
Trong hoàn cảnh cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp
tư sản ở các quốc gia Âu – Mỹ phát triển, từ đòi hỏi thực tiễn đó học thuyết
kinh tế của C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời đưa phong trào đấu tranh tự giác
đi tới giành chính quyền về tay vô sản. Học thuyết kinh tế của C. Mác và Ph.
Ăngghen được V.I Lênin phát triển thành nền tảng tư tưởng lý luận kinh tế
của chủ nghĩa Mác – Lênin và được vận dụng thành công vào nước Nga.
Đây là nền tảng lý luận cho sự hình thành đường lối cách mạng của các
Đảng cộng sản trên toàn thế giới và là kim chỉ nam cho sự thành công của
cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 chuyển CNXH từ lý luận thành
hiện thực.
Cuối thế kỳ XIX, đầu thế kỷ XX, sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền và sự phát triển mạnh mẽ của
cách mạng khoa học – kỹ thuật làm tăng thêm mâu thuẫn vốn có trong chủ
nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng
- 3 -
sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp thường xuyên nổ ra đòi hỏi phải
có lý do thuyết kinh tế mới làm cơ sở lý luận cho việc chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của sản xuất kinh doanh cũng như điều tiết nền kinh tế ở các nước
tư bản nhằm cứu CNTB khỏi sụp đổ. Do đó, các học thuyết kinh tế mới ra
đời như: học thuyết kinh tế cổ điển mới, học thuyết kinh tế thị trường phái J.
Keynes, học thuyết của chủ nghĩa tự do mới, học thuyết kinh tế của P.A.
Samuelson…
1.2. Đối tượng nghiên cứu Lịch sử các học thuyết kinh tế
Lịch sử các học thuyết kinh tế là một môn khoa học xã hội nghiên cứu
sản phẩm tư duy kinh tế của con người về quá trình phát sinh, phát triển,
đấu tranh, kế thừa và thay thế lẫn nhau của hệ thống các quan điểm kinh tế
của các giai cấp cơ bản trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau trong
lịch sử phát triển kinh tế của xã hội loài người.
Trong các hoạt động của con người thì hoạt động kinh tế giữ vị trí
trung tâm. Từ thời Cổ đại đến nay, con người đã có nhiều quan điểm, tư
tưởng kinh tế khác nhau tương ứng với từng trình độ phát triển lịch sử của
xã hội loài người, do đó nó giữ vị trí nền tảng trong hình thành các quan
điểm cơ bản về chính trị, xã hội. Tư tưởng kinh tế khi nó phát triển đến giai
đoạn cao, có tính hệ thống và có tác dụng trực tiếp chỉ đạo phát triển kinh
tế - xã hội thì trở thành học thuyết kinh tế.
Đối tượng nghiên cứu của lịch sử các học thuyết kinh tế là hệ thống các
quan điểm kinh tế của các giai cấp khác nhau trong mỗi hình thái kinh tế - xã
hội, không chỉ phản ánh sự nhận thức về các hiện tượng và quá trình kinh tế,
mà còn phản ánh lợi ích giai cấp ở các giai đoạn lịch sử của xã hội loài
người. Nó chỉ ra những giá trị khoa học và sự vận dụng những giá trị đó vào
thực tiễn cũng như phê phán có tính lịch sử đối với những sai lầm của các
đại biểu khoa học của những giai cấp khác nhau ở các giai đoạn phát triển cụ
thể của nền kinh tế dựa trên lập trường của một giai cấp nhất định.
- 4 -
Ngoài việc nghiên cứu hệ thống các quan điểm của các nhà tư tưởng
kinh tế thuộc lĩnh vực kinh tế chính trị, lịch sử các học thuyết kinh tế còn
nghiên cứu hệ thống các quan điểm của các nhà tư tưởng kinh tế trong các
lĩnh vực kinh tế học, quản lý kinh tế,… Vậy, không thể đồng nhất đối tượng
nghiên cứu của môn lịch sử các học thuyết kinh tế với đối tượng nghiên cứu
của môn kinh tế chính trị hay các môn kinh tế cụ thể. Lịch sử các học thuyết
kinh tế chỉ là một bộ phận của lịch sử tử tưởng kinh tế.
II. PHƯƠNG PHÁP, MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU LỊCH
SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
1.1. Phương pháp nghiên cứu Lịch sử các học thuyết kinh tế
Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn khoa học xã hội mang tính hiện
thực khách quan, do đó phương pháp nghiên cứu đặc thù là phương pháp
biện chứng duy vật kết hợp với lịch sử và cụ thể.
Phương pháp duy vật biện chứng là hệ thống các quan điểm và phương
pháp luận phân tích sự phản ánh thực tiễn sự phát triển của các quan hệ sản
xuất vào ý thức con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nghiên
cứu lịch sử các học thuyết kinh tế đòi hỏi phải xem xét các hiện tượng kinh tế
trong mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau trong lịch sử phát triển,
chuyển hóa giữa các quá trình kinh tế, hình thành và phát triển theo các xu
hướng tất yếu mang tính quy luật dưới sự hoạt động của con người.
Phương pháp lịch sử: nguyên tắc chung cho phương pháp luận của
lịch sử các học thuyết kinh tế là nghiên cứu một cách có hệ thống các quan
điểm kinh tế, đồng thời đánh giá đúng công lao động, hạn chế của các nhà
kình tế trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Điều đó đòi hỏi việc nghiên cứu
lịch sử các học thuyết kinh tế phải tuân thủ một cách triệt để nguyên tắc lịch
sử. Không nên xem xét lại các di sản lý luận kinh tế của giai đoạn quá khứ
- 5 -
bằng tiêu chuẩn hiện tại mà phải đánh giá ý nghĩa của chúng căn cứ vào
trình độ phát triển khoa học kinh tế của thời đại ấy.
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế đòi hỏi phải sử dụng
phương pháp phê phán, phương pháp tiếp cận hệ thống, tính kế thừa và
phát triển của các trường phái kinh tế trong lịch sử. Sự tồn tại, phát triển
của hoạt động thực tiễn và các lý luận kinh tế đều mang tính lịch sử cụ thể
sự tồn tại, phát triển của hoạt động thực tiễn và các lý luận kinh tế đều có
tính lịch sử, trong đó con người luôn phê phán kinh nghiệm cũng như lý
luận của các thế hệ trước đó mà kế thừa, phát triển lý luận đó vào hoạt
động kinh tế - xã hội của thời đại mình. Chính vì vậy, các học thuyết kinh
tế bản thân nó có tính độc lập tương đối và có ảnh hưởng nhất định đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội.
I.2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu Lịch sử các học thuyết kinh tế
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế nhằm hiểu rõ sự phát sinh,
phát triển và thay thế lần nhau giữa các quan điểm kinh tế của các trường
phái kinh tế trong lịch sử. Từ đó giúp chúng ta hiểu sâu sắc và cặn kẽ về
thành tựu lý luận kinh tế của loài người, nâng cao trình độ tư duy kinh tế,
trên cơ sở đó vận dụng vào hoạt động thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội.
Lịch sử các học thuyết kinh tế có các chức năng: chức năng nhận thức,
chức năng tư tưởng, chức năng thực tiễn và chức năng phương pháp luận.
Lịch sử các học thuyết kinh tế không chỉ dừng lại ở việc tiếp cận một
cách giản đơn các quan điểm kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp
mình, mà còn trang bị cho người học tri thức khoa học để nhận thức, cải tạo
thực tiễn trong hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế giúp chúng ta hiểu được hoàn
cảnh ra đời và đặc điểm (cả về nội dung và phương pháp) của các lý thuyết
kinh tế; nắm được nội dung cơ bản của các lý thuyết kinh tế; đánh giá đúng
- 6 -
thành tựu, hạn chế của các lý thuyết đó. Các học thuyết kinh tế thị trường
trang bị cho chúng ta những kiến thức giúp việc nghiên cứu tốt hơn các môn
học Kinh tế chính trị học, Kinh tế vĩ mô, Kinh tế vi mô, Kinh tế phát triển,
Kinh tế phúc lợi, Thương mại quốc tế và các lĩnh vực khác của kinh tế thị
trường như tiền tệ và lưu thông tiền tệ, ngân hàng và hoạt động tín dụng…
Đồng thời, nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế sẽ giúp cho chúng ta có
cơ sở lý luận để xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp; hoạch
định chủ trương, chính sách kinh tế của Nhà nước. Tóm lại, việc nghiên cứu
lịch sử các học thuyết kinh tế có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Xuất phát từ đối tượng, mục đích, ý nghĩa của lịch sử các học thuyết
kinh tế để khẳng định: nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế là một bộ
phận không thể tách rời việc nghiên cứu các khoa học kinh tế trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại. Các nhà khoa học kinh tế, nhà
quản lý kinh tế chỉ khi nắm chắc và hiểu sâu sắc, hoàn chỉnh các tư tưởng,
các học thuyết kinh tế mới có đầy đủ hơn những kiến thức cơ bản về các
phạm trù, quy luật, lý luận kinh tế để hoạch định, chỉ đạo, thực thi các chính
sách kinh tế vĩ mô, vi mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế
thị trường.
Câu hỏi ôn tập
1. Quá trình hình thành, phát triển lịch sử các học thuyết kinh tế?
2. Đối tượng nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế?
- 7 -
3. Phương pháp và ý nghĩa nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế?
Tài liệu tham khảo
- LÞch sö c¸c häc thuyÕt kinh tÕ, Nxb Thèng kª, Hµ Néi 1997
- Gi¸o tr×nh lÞch sö c¸c häc thuyÕt kinh tÕ, Nxb CTQG, Hµ Néi 2000,
Chương 2
HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA
CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG VÀ CHỦ NGHĨA TRỌNG NÔNG
- 8 -
I. HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
1. 1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm lý luận
1.1.1.. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa Trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương hay trường phái coi trọng thương mại là học
thuyết kinh tế đầu tiên về phương thức sản xuất TBCN, tồn tại từ cuối thế
kỷ XV đến cuối thế kỷ XVII ở nhiều nước châu Âu mà điển hình ở Anh,
Pháp, Hà Lan.
Về mặt lịch sử: đây là giai đoạn tiền TBCN hay tích luỹ nguyên thủy
TBCN từ giữa thế kỷ XV – XVII, thực chất của tích luỹ nguyên thuỷ TBCN
là tách những người sản xuất ra khỏi tư liệu sản xuất bằng bạo lực và cướp
bóc nhằm tạo ra người vô sản đi làm thuê cho tư bản và tạo ra các nhà tư bản
có nhiều tư liệu sản xuất và tiền để bóc lột lao động làm thuê. Giai đoạn này
bóc lột siêu kinh tế bằng bạo lực, biểu hiện bằng xâm chiếm thuộc địa, buôn
bán nô lệ, cướp biển... hay còn gọi là giai đoạn "cừu ăn thịt người" đuổi
nông dân khỏi ruộng đất của mình, tước đoạt bằng bạo lực, cướp bóc, trao
đổi không ngang giá "mua rẻ, bán đắt".
Về điều kiện kinh tế: kinh tế hàng hóa ra đời và phát triển mạnh. Đối
tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị học lúc này là lĩnh vực lưu thông. Các
đại biểu của chủ nghĩa trọng thương đánh giá cao vai trò của tiền tệ trong
việc tích luỹ của cải, tạo điều kiện cho sự ra đời của phương thức sản xuất
TBCN. Họ nhìn thấy con đường để làm tăng của cải thương nghiệp, là ngoại
thương thực hiện bán nhiều, mua ít.
Về mặt chính trị: giai cấp tư sản non trẻ ra đời chưa nắm được chính
quyền (chính quyền vẫn nằm trong tay giai cấp quý tộc) do đó chủ nghĩa
trọng thương ra đời nhằm chống lại giai cấp phong kiến.
- 9 -
Về mặt tư tưởng và khoa học: là thời kỳ phát triển của chủ nghĩa duy
vật đấu tranh với những thuyết tôn giáo, đặc biệt là những phát kiến địa lý
(TK XV - XVI) tìm ra châu Mỹ, đường biển qua châu Phi, từ châu Âu sang
Ấn Độ... tạo điều kiện mở rộng thị trường, xâm chiếm thuộc địa, làn sóng du
thương vàng từ châu Mỹ về châu Âu... vai trò của tư bản thương nghiệp
được nêu cao đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế chỉ đạo.
Chủ nghĩa trọng thương không những ra đời ở các nước Tây Âu mà
còn xuất hiện ở các nước khác. Ngoài những đặc điểm chung nó cũng có
những đặc điểm khác nhau phù hợp với điều kiện lịch sử mỗi nước.
Các đại biểu điển hình của Chủ nghĩa trọng thương: Antoine de
Montchretien (1575-1622) người đầu tiên dùng từ kinh tế chính trị để chỉ
môn học, Jean Baptiste Colbert (1619-1683), Thomas Mun (1571-1641),
Williams Stafford (1554 - 1612).
Chủ nghĩa trọng thương xuất hiện nhằm hướng dẫn hoạt động thương
nghiệp, đẩy nhanh sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN và trực tiếp
bảo vệ lợi ích của tư bản thương nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm lý luận
Chủ nghĩa trọng thương nghiên cứu thương nghiệp đặc biệt là lĩnh vực
lưu thông trao đổi. C.Mác đã chỉ ra rằng: Chủ nghĩa trọng thương thế kỷ
XVI - XVII đã đi theo "cái hình thái chói lọi của giá trị để xem xét nền sản
xuất TBCN"
Những tư tưởng chủ yếu của chủ nghĩa trọng thương ở các nước có
những sắc thái riêng phản ánh đặc điểm riêng của từng nước ở Pháp là trọng
thương công nghiệp, ở Anh gọi là trọng thương vàng. Tuy nhiên chủ nghĩa
trọng thương đều có những tư tưởng kinh tế chung, đó là:
Thứ nhất, tiền là của cải thực sự của xã hội: những người trọng thương
coi tiền là của cải quốc gia, càng nhiều tiền quốc gia càng giàu có. Theo họ,
- 10 -
tiền là một vị thần có thể thay hình đổi dạng để biến thành bất cứ thứ gì ta
muốn. Một tác giả trọng thương đã viết: "Tiền là một vị thần có thể thay
hình đổi dạng để biến thành bất cứ thứ gì mà ta muốn: rượu vang, bánh mì,
vải vóc, con ngựa, cái nhà, một di sản, một thị trấn hay cả một kinh thành".
Vì vậy, mục đích của mỗi quốc gia chung quy là tích luỹ nhiều tiền (vàng,
bạc). Từ đó, họ cho rằng: mục đích của mọi hoạt động kinh tế đều phải
hướng vào thu hút nhiều vàng, bạc, phải dùng mọi biện pháp hữu hiệu để thu
hút vàng, bạc trong nước.
Thứ hai, cách thức tích lũy tiền: việc thu hút vàng, bạc vào trong nước
chỉ được thực hiện bằng con đường phát triển thương mại, đặc biệt là ngoại
thương. Nhiệm vụ chủ yếu của thương mại là xuất siêu, cấm xuất khẩu kim
loại quý, thương nhân sau khi bán hàng phải mua vàng bạc về nước; khuyến
khích sản xuất cho xuất khẩu. Theo họ, trong thương mại phải có những thủ
đoạn để buôn bán làm giàu như lừa gạt, chiến tranh; bởi vì trong thương mại
phải có người được, kẻ mất; dân tộc này làm giàu phải biết hy sinh lợi ích
của dân tộc khác...
Những người theo chủ nghĩa trọng thương coi thương nghiệp mới là
hoạt động nghề nghiệp tạo ra tiền và của cải vì còn có những hoạt động sản
xuất ra nhiều hàng hóa vô hình mà thương nghiệp không sản xuất.
Thứ ba, nguồn gốc của lợi nhuận: lợi nhuận là do trao đổi, lưu thông
mang lại, lợi nhuận thương nghiệp chính là kết quả của sự trao đổi không
ngang giá, hy sinh lợi ích của dân tộc này với dân tộc khác.
Quan điểm này không đúng vì lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư
mà chỉ là điều kiện tạo ra giá trị thặng dư. Lợi nhuận chỉ được tạo ra trong
quá trình sản xuất chứ không phải trong lưu thông. Trao đổi ngang giá biểu
hiện sự hy sinh lợi ích, cướp bóc thuộc địa, tính dân tộc hẹp hòi...
- 11 -
Thứ tư, vai trò kinh tế của nhà nước: chủ nghĩa trọng thương đánh giá
cao các chính sách kinh tế của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, đề cao
sự can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế. Đa số các biện pháp mà chủ
nghĩa trọng thương đề xướng đều đưa vào bạo lực và theo họ cần có quyền
lực mới có thể thực hiện được; điều tiết lưu thông tiền tệ, khống chế thị
trường trong nước, khuyến khích và bảo trợ các công trường thủ công, xây
dựng hàng hải, thuỷ quân để cướp bóc thuộc địa, thực hành chiến tranh
thương mại...
Thứ năm, tính dân tộc: đây là một trong những đặc điểm nổi bật của
chủ nghĩa trọng thương, xây dựng thị trường dân tộc, mục đích là tích luỹ
tiền, chiếm được nhiều của cải để dân tộc mình thu được nhiều lợi ích. Chủ
nghĩa trọng thương phát triển ở nhiều nước trên thế giới như ở Italy, Tây Ba
Nha, Anh, Pháp, Hà Lan. Sự giống nhau của học thuyết kinh tế trọng thương
ở các nước là chỗ đề đưa ra những tư tưởng về chính sách nhằm tăng cường
khối tiền tệ tích lũy, làm tăng sự giàu có của đất nước. Tuy nhiên, biện pháp
tích lũy tiền tệ ở mỗi nước áp dụng khác nhau.
1.1.3. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng thương
Giai đoạn đầu của chủ nghĩa trọng thương từ giữa thế kỷ XV đến giữa
thế kỷ XVI. Giai đoạn sau từ giữa thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVI. Cuối thế
kỷ XVII là thời kỳ tan rã của chủ nghĩa trọng thương.
Ở giai đoạn đầu, các nhà kinh tế học như Williams Stafford (1554 -
1612) đồng nhất của cải với tiền tệ. Họ chưa hiểu quan hệ giữa lưu thông
hàng hóa và lưu thông tiền tệ. Tư tưởng trung tâm của các tác phẩm kinh tế
là “Bảng cân đối tiền tệ” được sử dụng làm cơ sở cho chính sách làm tăng
của cải tiền tệ, gìn giữ cho khối tiền không ra nước ngoài; tập trung buôn
bán vào những vùng có kho hàng để nhà nước dễ kiểm soát; bắt thương nhân
nước ngoài đến buôn bán phải dùng số tiền có được mua hết hàng hóa mang
- 12 -
về nước họ; quy định tỷ giá hối đoái, cấm đổi cho người nước ngoài khối
lượng tiền tệ lớn hơn mức quy định của nhà nước. Nhận xét học thuyết kinh
tế trong thương giai đoạn đầu, Ăngghen viết: “Các dân tộc chống đối nhau
như những kẻ bủn xỉn, hai tay ôm giữ túi tiền quý báu, nhìn sang người láng
giềng với con mắt ghen tị, đa nghi”.
Ở giai đoạn sau, các nhà kinh tế học như Thomas Mun (1571-1641)
người Anh, Antoine de Montchretien (1575-1622), Jean Baptiste Colbert
(1619-1683) người Pháp… đã hiểu của cải một cách rộng lớn hơn. Theo họ,
ngoài tiền, của cải còn là số sản phẩm dư thừa được sản xuất ra trong nước
sau khi đã thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, song phải được chuyển thành tiền
thông qua thị trường nước ngoài. Tư tưởng trung tâm của các tác phẩm kinh
tế là “Bảng cân đối thương mại”. Trong thương mại, phải đảm bảo xuất siêu
để có chênh lệch, tăng tiền tích lũy cho ngân khố quốc gia. Họ gọi “Bảng
cân đối xuất siêu” là bảng cân đối tích cực. T.Mun viết: “Chúng ta phải
thường xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho người nước ngoài
với số lượng hàng hóa lơn hơn số lượng chúng ta phải mua của họ”.
Để có xuất siêu, họ khuyến khích việc nhập khẩu nguyên liệu thô và
xuất khẩu thành phẩm; thực hiện thương mại trung gian, mang tiền ra nước
ngoài để mua rẻ ở nước này, bán đắt ở nước khác; thực hiện chính sách thuế
quan bảo hộ nhằm kiểm soát hàng hóa nhập khẩu, khuyến khích phát triển
sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Nhìn chung, học thuyết trọng thương có hai giai đoạn đều cho rằng
nhiệm vụ kinh tế của mỗi nước là phải làm giàu, phải tích lũy tiền tệ. Tuy
nhiên, các phương pháp tích lũy tiền tệ là khác nhau.
Vào cuối thế kỷ XVII, chủ nghĩa trọng thương bắt đầu suy đồi. Theo
đà phát triển “theo chiều sâu” các quan hệ tư bản chủ nghĩa, lý thuyết kinh tế
của chủ nghĩa trọng thương với thể chế nghiêm ngặt qua việc giữ độc quyền
- 13 -
ngoại thương, đã bắt đầu mâu thuẫn với đông đảo tầng lớp tư sản công
nghiệp, nông nghiệp và nội thương. Các nhà tư tưởng đã đề ra khẩu hiệu tư
do thương mại (free trade), mang hàm ý thủ tiêu các công ty độc quyền, điều
đó phản ánh nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế. Nếu như trong
các giai đoạn ban đầu của tích lũy tư bản, việc tập trung tối đa lợi nhuận
trong tay một nhóm nhỏ các nhà độc quyền thương mại là việc làm lịch sử
tiến bộ, thì ngay từ thế kỷ XVII ở các nước Châu Âu tiên tiến, các quan hệ
tư bản chủ nghĩa đã bắt đầu bao trùm lĩnh vực sản xuất. Địa vị không bình
đẳng của lĩnh vực này so với các thương gia lớn không kích thích, mà lại
kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dân tộc. Trong các bài luận
chiến chống chủ nghĩa trọng thương, các đối thủ của nó bác bỏ những giáo
lý của chủ nghĩa trọng thương đòi hỏi phải phân tích sâu sắc các hiện tượng
kinh tế và phải thoát khỏi phương pháp kinh nghiệm thuần túy. Đã xuất hiện
những ý kiến loại suy “giải phẫu” đầu tiên, đòi hỏi phân tích “cơ chế” kinh
tế - xã hội với tư cách là một chỉnh thể, dự định tìm kiếm quy luật giá cả, lập
luận cho nguyên tắc trừu tượng hóa. Tất nhiên, những tác giả này mới đi
được một đoạn trên con đường từ giai đoạn coi trọng buôn bán sang giai
đoạn coi trọng sản xuất. Phương pháp luận của họ vẫn giữ nhiều ý kiến của
chủ nghĩa kinh nghiệm của các nhà trọng thương.
1. 2. Các trường phái lý luận của chủ nghĩa trọng thương
1.2.1. Chủ nghĩa trọng thương Hà Lan
Ở Hà Lan, các nhà tư tưởng của học thuyết kinh tế trọng thương chủ
trương dựa vào lợi thế vị trí địa lý của đất nước, sử dụng đội thương thuyền
mạnh nhất thế giới thời bấy giờ để buôn bán với tất cả cá nước trên thế giới ,
nhờ đó đem về cho nước này nguồn tiền tệ đáng kể, đưa đất nước Hà Lan
trở thành cường quốc số 1 thế giới vào thế kỷ XVII. Tuy nhiên, nguồn tiền
thu được từ buôn bán quốc tế không được đầu tư thích đáng vào sản xuất
- 14 -
trong nước. Vì vậy, nền thương mại nước này thiếu đi cốt vật chất tạo điều
kiện cho hoạt động của mình, nên đến thế kỷ XVIII, nó phải nhường vị trí
hàng đầu thế giới về kinh tế cho nước Anh.
1.2.2. Chủ nghĩa trọng thương Pháp
Đại biểu tiêu biểu, nổi tiếng Antoine de Montchretien (1575-1622)
người đầu tiên nêu ra danh từ "chính trị kinh tế học", những quan điểm của
ông phản ánh thời kỳ quá độ từ học thuyết "bảng cân đối tiền tệ" sang học
thuyết về "bảng cân đối thương mại", theo ông:
+ Thương mại là mục đích chủ yếu của nhiều ngành, nghề khác nhau.
+ Lợi nhuận thương nghiệp là chính đáng
+ Không chỉ tiền là tài sản quốc gia mà quan niệm cả dân số của một
nước và cả những người dân cũng là tài sản quốc gia, nông dân là chỗ dựa
cho một nước.
Đại biểu Jean Baptiste Colbert (1619-1683) đã đề ra hệ thống tài
chính của Pháp trong vòng 100 năm nên còn gọi là chủ nghĩa Colber. Ông
cho rằng ngoại thương có khả năng làm cho thần dân sung túc, sự hùng
cường của quốc gia là do số lượng tiền tệ quyết định, ông chú trọng phát
triển công nghiệp nhưng những biện pháp nhằm thúc đẩy công nghiệp của
ông lại làm cho nông nghiệp sa sút. Ví dụ: Chính sách hạ giá hàng nông
phẩm, bắt bán lúa mì với bất cứ giá nào khi đã mang ra thị trường không
được chở về nhà.
Tóm lại những người trọng thương chủ nghĩa đều nhằm mục đích tích
luỹ thật nhiều tiền tệ, chú trọng phát triển thương nghiệp, nhưng ở mỗi nước
có khác nhau về phương pháp thực hiện và chịu sự tác động của hoàn cảnh
kinh tế - xã hội. So với ở Anh thì ở Pháp chủ nghĩa trong thương ít tính lý
luận, thiên về hoạt động thực tiễn, tính chất trọng thương có phần không triệt
để và bắt đầu của sự tan rã.
- 15 -
1.2.3. Chủ nghĩa trọng thương Anh
Chủ nghĩa trọng thương ra đời sớm nhất và chín muồi ở Anh thế kỷ
XVI - XVII chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: (TK XV - XVI) được gọi là
giai đoạn hệ thống về "Bảng cân đối tiền tệ", cấm xuất khẩu tiền để tích luỹ
tiền, tính chất phòng thủ, điển hình là quan điểm của Williams Stafford
(1554 - 1612); Giai đoạn 2: (Cuối TK XVI và TK XVII) được gọi là giai
đoạn học thuyết về "Bảng cân đối thương mại", điển hình là Thomas Mun
(1571-1641) khuyến khích xuất khẩu tiền để mua nguyên nhiên vật liệu sản
xuất hàng hóa để bán hàng hóa với giá cao hơn, tính chất tiến công.
Ở nước Anh, để tích lũy tiền tệ, các nhà kinh tế học như Thomas Mun
(1571-1641) chủ trương khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp và
nông nghiệp để có nhiều sản phẩm trao đổi với nước ngoài, sử dụng đội
thương thuyền mạnh nhất thế giới để mua đi bán lại ở nhiều vùng trên thế
giới; đẩy mạnh giao lưu hàng hóa giữa các nước, tái đầu tư lợi nhuận thu
được vào lĩnh vực sản xuất để phát triển kinh tế dân tộc.
1. 3. Đánh giá về chủ nghĩa trọng thương
1.3.1. Hạn chế
- Yếu về tính lý luận, chưa nhận thấy và chưa thừa nhận quy luật kinh
tế, đề cao nhà nước, nhiều chính sách kinh tế đề ra mang tính chất kinh
nghiệm, lời khuyên, không có tính thị trường và cơ sở thực tiễn.
- Đánh giá cao vai trò của thương nghiệp, chỉ coi trọng ngoại thương
không coi trọng nông nghiệp, đối với nghiên cứu chỉ là thương nghiệp. Cho
rằng nông nghiệp không tạo ra của cải vật chất, không coi trọng một số ngành
công nghiệp, chỉ công nhận công nghiệp khai thác vàng, các kim loại quý...
- Quá sùng bái tiền tề, bằng mọi cách để tích luỹ tiền.
1.3.2. Ưu điểm
- 16 -
Những quan điểm kinh tế của CNTT đã tiến bộ hơn so với quan điểm
kinh tế của phong kiến, khắc phục những nhược điểm của kinh tế phong kiến
(trung cổ) đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp và những giáo
lý phong kiến để phát triển kinh tế hàng hóa, mở đường cho sự phát triển của
kinh tế hàng hóa đồng thời tạo ra điều kiện ra đời và phát triển của CNTB.
1. 3.3. Quá trình tan rã của chủ nghĩa trọng thương
Công nghiệp càng phát triển, công trường thủ công tư bản trở thành
phổ biến và bước tới đỉnh cao, dẫn đến kết cấu kinh tế và xã hội thay đổi.
Nếu trước đây thương nghiệp chi phối công nghiệp thì lúc này vai trò của
công nghiệp được tăng lên so với thương nghiệp, người ta hướng tới sản
xuất, đề cao sức mạnh của sản xuất tạo ra của cải. Thời kỳ tích lũy nguyên
thủy của chủ nghĩa tư bản kết thúc, thay vào đó là giai đoạn tích lũy bằng giá
trị thặng dư do nền sản xuất tư bản tạo ra.
Giai cấp tư sản đủ lớn mạnh hơn, cần ít đến sự bảo hộ của nhà nước,
thêm vào đó ngày càng xuất hiện nhiều quan điểm mới trong các học thuyết
kinh tế. Các quan điểm phê phán nghiêm khắc chủ nghĩa trọng thương. Họ
nhận định nguồn gốc tạo ra của cải là lao động trong khâu sản xuất… vào
lúc này có nhiều nhà kinh tế như: Dulley North (1641-1695), William Petty
(1623-1687)…đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa trong thương và đề ra những
vấn đề lý luận mới.
II. HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG NÔNG
1.1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm lý luận
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Cuối thế kỷ XVIII Pháp vẫn là nước tiểu nông, tàn dư của phương
thức sản xuất phong kiến vẫn còn nặng nề, nhà thờ chi phối bóc lột nông
dân, địa tô cao, sưu cao thuế nặng, chịu sự thống trị hà khắc, dân đói khổ bị
- 17 -
đẩy đến bờ vực của sự phá sản. Chủ nghĩa trọng nông ở Pháp ra đời từ năm
1756, tồn tại 21 năm cho đến năm 1777. Sự ra đời của chủ nghĩa trọng nông
ở Pháp do nhiều nguyên nhân, cụ thể:
Giai cấp địa chủ thu tô nặng với giai cấp nông dân: Mức địa tô rất cao
(từ 1/4 đến 1/3 thu hoạch trên ruộng đất) nông dân mắc vào cảnh tũng quẫn
cha truyền con nối.
Chính sách hạ giá lúa mì của Colbert (Bộ trưởng Tài chính): áp dụng
chính sách hạ giá ngũ cốc, thực hiện các biện pháp cướp bóc nông nghiệp để
phát triển công nghiệp, ăn đói để xuất khẩu... làm cho nông dân đói khổ,
túng quẫn, đời sống tinh thần nghèo nàn.
Thuế khóa của nhà nước rất cao đè lên vai những người nông dân, họ
phải nộp nhiều thứ thuế: Thuế trực thu, thuế gián thu, thuế cầu đường, thuế
cho nhà thờ…nông dân thường phải nộp cho nhà thờ 1/10 thu hoạch trên
ruộng đất. Vậy mà, nhà thờ Wonte đã mỉa mai rằng "nông dân bàn tán về lúa
mì nhiều hơn là Thượng đế".
Để chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương, tìm đường giải
phóng kinh tế nông dân khỏi quan hệ sản xuất phong kiến, chủ nghĩa trọng
nông đã xuất hiện tiêu biểu ở Pháp.
1.1.2. Đặc điểm lý luận
Chủ nghĩa trọng nông đã chuyển đối tượng nghiên cứu sang lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp, đánh giá cao vai trò của ngành nông nghiệp coi đó là
lĩnh vực duy nhất trong xã hội tạo ra của cải, chỉ có lao động nông nghiệp
mới là lao động có ích, lao động sinh lời vì nó tạo ra sản phẩm thuần tuý cho
xã hội. Vì vậy muốn giàu có phải phát triển nông nghiệp.
1.1.3. Các đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa trọng nông
Fransois Quesnay (1694-1774) ông là đại biểu tiêu biểu nhất của chủ
nghĩa trọng nông. Ông là con một chủ ruộng nhỏ, sau khi lập nghiệp ở thành
- 18 -
phố Manche, lấy con gái một thương nhân Paris. Ông là người có năng lực
phi thường. Năm 1718 ông nhận học vị phẫu thuật gia. Năm 1749 trở thành
một viên ngự y. Năm 1752 được phong tước vị quý tộc và cũng từ đây ông
mới nghiên cứu những vấn đề kinh tế. Năm 1756 ông đã đăng nhiều bài
trong bộ “bách khoa” nổi tiếng của nước Pháp như “Sự thật rõ ràng”. Trên
cơ sở những bài viết đó ông đã lôi cuốn một số người đi theo học thuyết của
ông và trở thành người lãnh đạo trường phái trọng nông, là linh hồn của phái
này. Học thuyết trọng nông chủ yếu được xây dựng theo những tư tưởng
kinh tế của F.Quesnay. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị: năm 1758 xuất bản
cuốn “Biểu kinh tế”…
Anne Roberrt Jaucques Turgot (1727-1781) là nhà tư tưởng lỗi lạc và
là nhà hoạt động chính trị lớn của nước Pháp đã từng giữ chức Bộ trưởng Bộ
Tài chính. Ông xuất thân từ một gia đình thị trưởng ở Paris. Lúc đầu
A.Turgot nghiên cứu luật học, ông có 13 năm hoạt động trong ngành tài
chính. Ông rất quan tâm đến hoạt động nông nghiệp theo hình thức đồn điền
do các nhà ta bản đầu tư trực tiếp kinh doanh, năm 1770 ông xuất bản cuốn
“Buôn bán ngũ cốc” trong đó đề cập nhiều đến tư tưởng trọng nông, năm
1774 ông được bổ nhiệm là Bộ trưởng bộ tài chính. Tư tưởng chủ đạo của
ông là tự do buôn bán ngũ cốc.
1. 2. Một số lý thuyết cơ bản của chủ nghĩa trọng nông
1.2.1. Lý thuyết về “Trật tự tự nhiên”
Theo F.Quesnay có 2 loại quy luật tự nhiên tồn tại đó là quy luật vật
lý và quy luật luân lý tác động trong lĩnh vực kinh tế xã hội. Quy luật luân lý
cũng tất yếu như quy luật vật lý.
Ông đưa ra nội dung của lý thuyết “Trật tự tự nhiên” là:
- 19 -
- Thừa nhận vai trò của tự do cá nhân, coi đó là luật tự nhiên của con
người không thể thiếu được, chống lại chế độ phong kiến và xem nó là chế
độ không bình thường.
- Chủ trương thực hiện tự do cạnh tranh giữa những người sản xuất
hàng hóa.
- Thừa nhận quyền bất khả xâm phạm đối với chế độ tư hữu.
- Nhà nước không nên can thiệp sâu vào kinh tế, nhà nước như người
làm vườn không nên đụng chạm đến rễ cây (doanh nghiệp) mà chỉ nên chăm
sóc vườn cây thôi.
Nội dung của lý thuyết “Trật tự tự nhiên” của F.Quesnay về căn bản là
luật tư sản, ông đã đề nghị đối xử với chủ nghĩa tư bản như đối xử với một
hiện tượng hợp quy luật, nên nền kinh tế có tính tất yếu bên trong thì nhà
nước không can thiệp vào nền kinh tế. Ông cho rằng chính sách tự do kinh
doanh là chính sách đúng đắn nhất. Nhà nước chỉ có nhiệm vụ bảo vệ chế độ
tư hữu, chống tội phạm hình sự và kẻ thù bên ngoài. Trong thế kỷ XVII
chính phủ Pháp không quan tâm đến nông nghiệp. F.Quesnay cho rằng công
nghiệp không đáng được bảo vệ mà cần tập trung pháp triển nông nghiệp.
Như vậy, lý thuyết “Trật tự tự nhiên” của F.Quesnay mang tính siêu hình,
mặc dù vậy nó cũng ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển tư tưởng kinh tế.
1.2.2. Lý thuyết sản phẩm thuần túy
Đây là lý thuyết trọng tâm của chủ nghĩa trọng nông và theo C.Mác:
công lao lớn nhất của những người trọng nông là thấy được sản phẩm thuần
túy chỉ được tạo ra trong nông nghiệp; nông nghiệp là ngành sản xuất vật
chất duy nhất trong xã hội còn công nghiệp thì “chỉ tiêu dùng chứ hoàn toàn
không có sản xuất”. Nội dung chính của lý luận sản phẩm thuần túy cụ thể
như sau:
- 20 -
Thứ nhất, sản phẩm thuần túy là sản phẩm do đất đai mang lại sau khi
đã trừ đi chi phí lao động và chi phí cần thiết để tiến hành canh tác.
Thứ hai, sản phẩm thuần thúy là tặng vật của tự nhiên cho con người,
không phải là do quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp đưa lại.
Thứ ba, chỉ ngành sản xuất nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần
túy (còn gọi là sản phẩm ròng), các ngành công nghiệp và thương mại không
thể sản xuất ra sản phẩm thuần túy.
Thứ tư, có hai nguyên tắc hình thành giá trị hàng hóa khác nhau giữa
công nghiệp và nông nghiệp:
- Trong lĩnh vực công nghiệp, giá trị hàng hóa bằng tổng chi phí sản
xuất như tiền lương, nguyên, nhiên vật liệu và sự quản lý của nhà tư bản…
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, giá trị hàng hóa bằng tổng chi phí sản
xuất tương tự như trong công nghiệp cộng với sản phẩm thuần túy mà ngành
công nghiệp không có. Bởi vì, chỉ trong nông nghiệp mới có sự giúp sức của
tự nhiên làm sinh sôi nảy nở nhiều của cải.
Hạn chế của lý thuyết này đó là cách giải thích sai lầm trong học
thuyết sản phẩm thuần tuý có lý do lịch sử là lúc đó chưa xuất hiện phát
minh về định luật bảo toàn chuyển hoá năng lượng của Lômônôxốp.
1.2.3. Lý thuyết giá trị, lao động, giai cấp, tiền lương và lợi nhuận, tiền
tệ, tư bản.
* Lý thuyết về giá trị lao động: đây là lý thuyết của F.Quesnay xây
dựng nhằm chống lại chủ nghĩa trọng thương. Những người trọng thương
cho rằng nguồn gốc lợi nhuận là từ trong quá trình lao động và trao đổi
ngang giá không mang lại lợi nhuận. Trái lại F.Quesnay tìm “giá cả thực tế”
trong sản xuất, ông cho rằng “giá cả thực tế” phù hợp với mức cần thiết để
bù đắp chi phí sản xuất. Ông cho rằng “Sự mua bán phải được cân bằng hai
bên; đó là sự trao đổi giá trị với giá trị ngang giá mà những giá trị đó đã tồn
- 21 -
tại trước khi có trao đổi, còn trong trao đổi thì không sản xuất được gì, do đó
trao đổi không làm cho tài sản tăng lên vì tài sản đã được tạo ra trong sản
xuất”. Từ đó ông phát triển tư tưởng về trao đổi ngang giá và ông khẳng
định giá trị không được tạo ra trong lưu thông đồng thời trao đổi không làm
cho tài sản tăng lên vì tài sản được tạo ra trong sản xuất, trao đổi chỉ là sự
trao đổi giá trị sử dụng này bằng một giá trị sử dụng khác.
* Lý thuyết về lao động sản xuất và lao động không sinh lời.
Từ lý luận sản phẩm thuần túy F.Quesnay quan niệm lao động sản
xuất là lao động tạo ra sản phẩm thuần tuý. Lao động không tạo ra sản phẩm
thuần tuý là lao động không sinh lời. Như vậy chỉ có lao động nông nghiệp
tạo ra sản phẩm thuần tuý nên nó là lao động sản xuất còn lao động công
nghiệp là lao động không sinh lời. Tuy nhiên ông không coi lao động công
nghiệp là ăn bám vào nông nghiệp.
* Lý thuyết về giai cấp
Từ lý luận lao động sản xuất F.Quesnay chia xã hội thành 3 giai cấp:
giai cấp sản xuất; giai cấp không sản xuất; giai cấp sở hữu. Không giống
F.Quesnay, A.R.J.Turgot chia xã hội thành 5 giai cấp: giai cấp các nhà tư
bản sản xuất; giai cấp công nhân sản xuất; giai cấp các nhà tư bản không sản
xuất; giai cấp công nhân không sản xuất và giai cấp sở hữu.
C.Mác không chia giai cấp theo ngành, quan điểm của ông là căn cứ
quan hệ giữa người với người để phân chia xã hội và giai cấp.
* Lý thuyết về tiền lương và lợi nhuận
F.Quesnay ủng hộ quan điểm quy luật sắt về tiền lương, theo ông: tiền
lương của công nhân phải thu hẹp ở mức tiền lương sinh hoạt tối thiểu, là sản
phẩm theo lao động còn sản phẩm thuần tuý là thu nhập của nhà tư bản, gọi là
lợi nhuận. Vậy lợi nhuận là thu nhập không lao động do công nhân tạo ra, tất
cả những học giả của chủ nghĩa trọng thương cũng nhận thức như trên.
- 22 -
* Lý thuyết về tiền.
Nếu những người trọng thương đề cao quá mức vai trò của đồng tiền,
họ cho rằng tiền là của cải thật sự của xã hội, còn lưu thông chỉ nhằm để đổi
lấy những của cải thực sự đó thôi, thì những người trọng nông chỉ coi tiền là
phương tiện lưu thông, làm môi giới giữa mua và bán, thậm chí theo
F.Quesnay, để mới rộng sản xuất cũng không cần phải có tiền. Tóm lại họ
bài xích việc đề cao đồng tiền là làm lay chuyển lý luận về tiền của chủ
nghĩa trọng thương.
* Lý thuyết về tư bản
F.Quesnay coi tư bản không phải là bản thân tiền tệ mà là tư liệu sản
xuất mua bằng tiền tệ đó. Đó là những yếu tố vật chất đưa vào sản xuất nông
nghiệp như nông cụ, súc vật cày kéo, hạt giống, tư liệu sinh hoạt của công
nhân. Như vậy tư bản là vật chất, nó tồn tại vĩnh viễn. F.Quesnay là người
đầu tiên dựa vào tính chất chu chuyển của tư bản để chia tư bản thành tư bản
ứng trước đầu tiên và tư bản ứng trước hàng năm ( sau này A.R.J.Turgot gọi
là tư bản cố định, tư bản lưu động) và chỉ có trong nông nghiệp.
1.2.4. Lý thuyết tái sản xuất (Biểu kinh tế Quesnay)
Một trong những cống hiến to lớn của phái trọng nông là Biểu kinh tế
của F.Quessnay được công bố năm 1758 và phản ánh đầy đủ các quan điểm
kinh tế chủ yếu của phái chủ nghĩa trọng nông. Trái với những người đối lập
cho rằng “biểu kinh tế” không có nội dung và ý nghĩa gì, thì C.Mác là người
tìm ra ý nghĩ thực tiễn của nó, C.Mác đánh giá “Biểu kinh tế”của F.Quesnay
là sơ đồ đại cương về tái sản xuất xã hội và chính C.Mác là người đã kế
thừa, phát triển lý luận của F.Quesnay vào lý luận tái sản xuất của mình.
Nội dung của “Biểu kinh tế”
- Để phân tích “Biểu kinh tế” F.Quesnay đã đưa ra các giả định:
+ Nghiên cứu tái sản xuất giản đơn.
- 23 -
+ Tru tng húa s bin ng ca giỏ c
+ Khụng xột n ngoi thng
+ Xó hi ch cú 3 giai cp c bn
- Trong tay giai cấp sở hữu đã có sẵn 2 tỷ tiền thu tô.
- Giá trị tổng sản phẩm có 7 tỷ đồng, trong đó giá trị sản phẩm nông
nghiệp là 5 tỷ, giá trị sản phẩm công nghiệp là 2 tỷ.
- Trong 5 tỷ sản phẩm nông nghiệp đợc phân thành:
+ 1 tỷ để bù đắp khoản ứng ra ban đầu.
+ 2 tỷ để bù đắp khoản ứng ra hàng năm.
+ 2 tỷ sản phẩm ròng nộp cho địa chủ.
- Trong 2 tỷ sản phẩm công nghiệp phân thành:
+ 1 tỷ bù đắp hao phí nguyên vật liệu.
+ 1 tỷ bù đắp t liệu hàng năm.
Ghi chú :
Một là, ở đây không tính đến phần tự tiêu dùng trong nội bộ ngành mà
không cần trao đổi với ngành khác.
Hai là, trong giai cấp sản xuất giả định phần tự tiêu dùng không có
hàng công nghệ phẩm.
Ba là, 2 tỷ sản phẩm ròng giả định đã biến thành tiền tô nộp cho địa chủ.
- S tỏi sn xut ca F.Quesnay:
- 24 -
I
III
IV
V
II
Giai cp sn xut Giai cp s hu Giai cp khụng sn xut
Sơ đồ gồm 5 hành động:
I. Giai cấp sở hữu dùng 1 tỉ để mua tư liệu tiêu dùng, như vậy giai cấp
sản xuất thực hiện được 1/5 sản phẩm nông nghiệp của mình và thu được 1 tỉ
tiền mặt.
II. Giai cấp sở hữu dùng 1 tỉ còn lại mua hàng công nghệ của giai cấp
không sản xuất. Như vậy giai cấp không sản xuất thực hiện được 1 tỉ sản
phẩm của mình và thu được 1 tỉ tiền mặt.
Giai cấp sở hữu đã tiêu hết tiền (qua I và II) thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng của mình.
III. Giai cấp không sản xuất dùng 1 tỉ tiền mặt đã thu được từ giai cấp
sở hữu (II) mua tư liệu sinh hoạt của giai cấp sản xuất. Như vậy giai cấp sản
xuất đã thực hiện được 2/5 sản phẩm của mình (ở I, III).
IV. Giai cấp sản xuất dùng 1 tỉ vừa nhận được (III) mua tư liệu sản
xuất của giai cấp không sản xuất dưới hình thức tư bản ứng trước đầu tiên.
Đến đây giai cấp không sản xuất thực hiện xong sản phẩm của mình và
trong tay có 1 tỉ tiền mặt.
- 25 -