Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

LICH SU DIA PHUONG TINH CAO BANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.69 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TÀI LIỆU VĂN HÓA ĐỊA PHƯƠNG TỈNH CAO BẰNG</b>
<b>CHƯƠNG II</b>


<b>LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG</b>


Cao Bằng – một vùng đất địa đầu miền biên viễn Đông bắc của Tổ quốc Việt
Nam. Trong tiến trình phát triển của lịch sử nước nhà, vùng đất và con người nơi
đây đã, đang và sẽ có những cống hiến, đóng góp nhất định, hịa mình với các tỉnh
thành trên cả nước, cùng viết nên những trang sử vàng của quốc gia dân tộc trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước.


<b>I/. CAO BẰNG - TỪ NHỮNG TRANG SỬ ĐẦU TIÊN</b>
<b>ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945</b>


<b>1. Buổi đầu lập quốc và đấu tranh chống xâm lược phương Bắc. </b>


Theo những nguyên cứu về khảo cổ học – Cao Bằng là vùng đất được những
cư dân Việt cổ - đó là các bộ tộc người Âu Việt (Tây Âu – Tày cổ) lựa chọn làm
nơi định cư từ rất sớm (¹).


Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tần (Từ năm 218
đến năm 207 TCN), Hùng Vương phải nhường ngôi cho thủ lĩnh của người Âu Việt
là Thục Phán – An Dương Vương. Hai miền đất của người Tây Âu và Lạc Việt hợp
thành nước Âu Lạc, kế tục và phát huy những giá trị văn hóa thời Văn Lang, tạo
dựng nền văn mình đầu tiên của dân tộc – Văn minh sông Hồng.


Năm 179 TCN – Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà (vua nước Nam Việt). Đến
năm 111 TCN, cả Âu Lạc và Nam Việt đều bị nhà Hán thơn tính. Từ đây, diễn ra
cuộc đấu tranh ngoan cường, bền bỉ của cộng đồng các dân tộc Việt suốt hơn một
ngàn năm giành lại nước.



Đại thắng Bạch Đằng giang năm 938, Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán,
xác lập thời kỳ độc lập lâu dài cho đất nước. Tiếp theo đó, các triều đại Ngơ, Đinh
-Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn … đã viết nên những trang sử vẻ vang cho
quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt, từ những chiến công vệ quốc đến những thành tựu
xây dựng đất nước, khẳng định vị thế của một quốc gia phong kiến hùng mạnh ở
Đông Nam Á (Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII).


Trong những trang sử oai hung đó, nhân dân các dân tộc Cao Bằng đã luôn
vững vàng trong tư thế vùng “phiên dậu” phía Bắc. Tên tuổi những người con ưu tú
của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao … nơi đây đã lưu danh trong sử sách. Đó là
vị Tù trưởng – Thái Bảo Nùng Trí Cao dưới thời Nhà Lý; là các vị thủ lĩnh Nơng
Trí Xn và Hồng Thắng Hứa, là An biên tướng quân Hoàng Lục thời Nhà Trần;
là Tù trưởng Bế Khắc Triệu và Nông Đắc Thái trong cuộc kháng chiến đánh đuổi
quân Minh đô hộ .


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Thời kỳ các tập đoàn phong kiến Nam - Bắc Triểu và Trịnh - Nguyễn phân
tranh, Cao Bằng trở thành vùng cát cứ của Nhà Mạc (1592 - 1677), rồi quay về Lê
Trung hưng (Lê -Trịnh). Đến thời Tây Sơn, sau đại thắng quân Thanh năm 1798,
Cao Bằng là nơi dư đảng Nhà Lê (Lê Duy Chỉ - em thứ ba của Lê Chiêu Thống) cư
ngụ. Năm 1802, nhà Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại, Cao Bằng trở về vai trị của
một khu vực trấn ải phía Bắc, thời vua Minh Mạng đổi tên thành tỉnh Cao Bằng.


“Về cơ bản, cho đến cuối thời trung đại, ở Cao Bằng vẫn còn tồn tại chế độ
Thổ ty, Lang đạo, Phìa tạo. Đó là tổ chức hành chính cổ truyền của đồng bào các
dân tộc thiểu số tồn tại song song với tổ chức chính quyền do Nhà nước trung ương
xếp đặt. Các chúa đất (hay còn gọi là Thổ ty; khi được triều đình phong kiến trao
cho chức quan thì được gọi là Thổ quan) là người nắm giữ quyền hành điều phối
công việc theo các thể chế cũ trong phạm vi nhất định, được triều đình phong kiến
trung ương công nhận là bồi thần và được phong chức tước tương ứng với lãnh thổ
hộ cai quan” (¹). Cơ cấu nền kinh tế gồm các ngành nông – lâm nghiệp, thủ cơng và


khai khống, mang đậm tính chất của nền kinh tế tự nhiên, với đặc trưng tự cung, tự
cấp. Cùng với đó, diện mạo văn hóa – xã hội với những tập tục truyền thống và cơ
sở văn hóa được tạo dựng những thời kỳ trước vẫn tồn tại một cách bền vững.


<b>2. Ách thống trị của thực dân Pháp và phong trào đấu tranh (1886-1939)</b>
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây phát triển mạnh mẽ, nhu cầu
về thị trường, tài nguyên và khoáng sản lên cao. Ngồi việc tăng cường bóc lột
nhân dân trong nước, các quốc gia tư bản đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa. Trong
thời điểm đó, các nước châu Á, châu Phi trở thành những “miếng mồi béo bở”.


Rạng sáng ngày 31 tháng 8 năm 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha, lấy lý
do triều đình nhà Nguyễn cấm đạo, giết đạo, đã nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn
Trà (Đà Nẵng), mở đầu cuộc tiến công xâm lược Việt Nam. Quân đội triều đình
chống cự thụ động, yếu ớt, vua quan từng bước thỏa hiệp rồi đầu hang, ký kết Hiệp
định Pa-tơ-nốt (06/06/1884) chính thức thừa nhận “quyền bảo hộ” của Pháp đối với
Việt Nam, nước ta biến thành thuộc địa của đế quốc Pháp.


Sau năm 1884, thực dân Pháp đẩy mạnh tiến cơng, bình định các tỉnh thành
trên cả nước. Từ năm 1886 đến 1892, Pháp điều quân lên đánh chiếm các huyện lỵ
thuộc tỉnh Cao Bằng. Tại đây, kẻ thù đã phải vất vả đối phó với phong trào kháng
chiến của nhân dân các dân tộc dưới sự lãnh đạo của các tù trưởng địa phương. Ở
Ngun Bình có nghĩa qn của Phù Nhi - thủ lĩnh dân tộc Dao; Ở Thơng Nơng có
nghĩa qn của nữ thủ lĩnh Pa Deng - người dân tộc H’Mông; Ở Hịa An và Hà
Quảng có nghĩa qn của Triệu Phúc Sinh - thủ lĩnh người Tày; Ở Trùng Khánh có
đội quân của Bá hộ Lê Bá Tài … cùng nhiều đội nghĩa binh khác ở khắp các địa
phương trong tỉnh. Quân Pháp phải thú nhận “Tiểu khu Cao Bằng là hình ảnh rõ rệt
nhất của tình hình mà đạo quân chiếm đống mắc phải từ ngày xâm chiếm, ít quân
quá, nhiều giặc dã quá” (²).


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Từ năm 1893, Pháp tăng cường lực lượng đàn áp các phong trào đấu tranh,


từng bước hồn thành cơng cuộc bình định miền đất Cao Bằng. “Sự chống trả quyết
liệt của nhân dân vùng thượng du Bắc Kỳ, cũng như địa thế xa cách, địa hình hiểm
trở ở những khu vực này khiến cho thực dân Pháp không thể áp dụng máy móc bộ
máy cai trị theo khn mẫu của các tỉnh đồng bằng, châu thổ.Chính bởi vậy, chúng
đã phải áp dụng một hình thức bộ máy cai trị đặc biệt, tập hợp chính quyền dân sự
và chính quyền quân sự vào một bộ máy, được gọi là các Đạo Quan binh” (¹). Theo
các Nghị định của Tồn quyền Đơng Dương, từ tháng 8 năm 1891 Cao Bằng hợp
với Hà Giang và Lạng Sơn thành đạo quan binh II, có thủ phủ tại Lạng Sơn. Đến
tháng 8 năm 1896, sau cuộc phân chia lại, Cao Bằng trở thành một Khu Quan binh
thuộc đạo Quan binh 2, đóng thủ phủ tại Thị xã Cao Bằng.


Bên cạnh các đạo quan binh, chính quyền thực dân vẫn tiếp tục bảo lưu về
ình thức một bộ máy chính quyền của người bản xứ. “các đơn vị hành chính bản xứ
ở Đạo Quan binh Cao Bằng bao gồm: Xã, Tổng, Châu, Phủ và Tỉnh” (²).Điều hành
công việc ở xã là Tộc trưởng (Tù trưởng hay thủ lĩnh dân tộc trước kia), họ trực tiếp
bầu ra Lý trưởng, Phó lý và Xã đồn, dưới thơn, xóm có Thơn trưởng. Nhiều xã liên
kết thành một Tổng, đứng đầu là Cai tổng, giúp việc có Phó tổng và Thơng đồn.
Hai hay nhiều tổng hợp thành châu, đứng đầu là Tri Châu, giúp việc có Châu đồn,
chịu sự chỉ đạo của Tư lệnh Tiểu khu. Đứng đầu tỉnh có Án sát.


Dưới ách cai trị hà khắc, chính sách bóc lột tàn bạo của chính quyền thực dân
và thuộc địa bản xứ, với truyền thống yêu nước, bất khuất – phong trào đấu tranh
của đồng bào các dân tộc ở các tỉnh miền thương du Bắc Kỳ (Hà Giang, Bắc Kạn,
Cao Bằng, Lạng Sơn) lại được khơi dậy trong những năm 20 của thế kỷ XX. Thời
kỳ 1925 – 1927, ở Cao Bằng, các hội đánh Tây tự phát thành lập ở Hịa An, sau đó
lan sang Hà Quảng, bước đầu có những hoạt động tích cực. Thời gian này, tiêu biểu
có hoạt động của người thanh niên u nước Hồng Đình Gioong (người làng Nà
Toàn, xã Đề Thám) đang theo học tại trường Bách nghệ ở Hà Nội, do những hoạt
động đấu tranh cách mạng đã bị chính quyền thực dân đuổi học, sau đó truy nã.
Cuối năm 1927, Hồng Đình Gioong tìm đường sang Quảng Tây (Trung Quốc) bắt


liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, được kết nạp vào tổ chức, sau đó
quay về nước hoạt động (³).


Từ năm 1928, đồng chí Hồng Đình Gioong đã bí mật đưa những thanh niên
tiên tiến của Cao Bằng sang Long Châu (Quảng Tây – Trung Quốc) huấn luyện, rồi
đưa trở về gây dựng phong trào của Hội tại các châu Hòa An, Hà Quảng và khu mỏ
Tĩnh Túc (Nguyên Bình). Với các cơ sở cách mạng được gây dựng đó, ngay sau khi
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập (tháng 2 năm 1930), tại Cao Bằng đã đủ điều
kiện để thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên (ngày 01/04/1930) hoạt động như một
“Tỉnh ủy lâm thời” (4)


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Từ hạt nhân của Chi bộ Đảng đầu tiên, tại các huyện Hịa An, Hà Quảng,
Ngun Bình, Quảng Un, Thạch An và khu mỏ Tĩnh Túc các chi bộ Đảng lần
lượt ra đời, giương cao ngọn cờ chiến đấu, đưa phong trào cách mạng phát triển
mạnh mẽ. Tiếp đó, tổ chức “Công hội đỏ” được thành tại Tĩnh Túc, “Nông hội đỏ”
cùng được xây dựng tại Hòa An, Hà Quảng, Nguyên Bình … Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, phong trào cách mạng tại các địa phương trong tỉnh ngày càng khởi sắc.
“Trong cuộc vận động cách mạng 1930 – 1935, Cao Bằng trở thành bàn đạp phát
triển cách mạng, cầu nối giữa Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng với phong trào cách
mạng trong nước” (¹).


Đồng chí Lê Hồng Phong - Ủy viên Quốc tế Cộng sản đã trực tiếp hoạt động
tại Cao Bằng, chỉ đạo gây dựng lại cơ sở cách mạng sau thời kỳ địch khủng bố
trắng 1931 – 1932. Đồng thời, lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh ủy đã được Trung ương
phân công đảm trách nhiệm vụ kết nối phong trào từ Cao Bằng xuống miền duyên
hải Bắc bộ (Quảng Ninh, Hải Phòng). Đến “tháng 7 năm 1933, Ban Lãnh đạo của
Đảng cộng sản Đông Dương công nhận Ban Chấp hành Đảng bộ Cao Bằng do đồng
chí Hồng Như làm Bí thư; các ban châu ủy lần lượt được thành lập ở Hòa An
(1933), Hà Quảng (1935)” (²).



Những năm 1936 – 1939, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã hòa
chung với cao trào đấu tranh của cả nước dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân chủ Đông
Dương, hưởng ứng phong trào vận động “Đông Dương Đại hội”. Tháng 2 năm
1937, Ban lãnh đạo tỉnh ủy đã chủ động, sáng tạo tổ chức quần chúng mít tinh, biểu
tình và đưa được bản “Dân nguyện” đến tay Phái đồn Chính phủ Mặt trận Bình
dân Pháp (phái doàn Godard). “Ngoài ra, triệt để tận dung hình thức đấu tranh cơng
khai hợp pháp, đảng bộ Cao Bằng đã chỉ đạo đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao
và các lễ hội …” (³) qua đó tập hợp và vận động quần chúng. Các hoạt động báo chí
tiến bộ, cơng tác binh vận cũng được coi trọng, đem lại hiệu quả tốt cho phong trào.


Kết quả phát triển của phong trào gia đoạn này, cùng với sự vững vàng của
đội ngũ lãnh đạo chủ chốt tại các cơ sở Đảng đã giúp cho việc duy trì, bảo vệ, và
phát triển lực lượng cách mạng tại Cao Bằng trong thời gian đầu khi Chiến tranh
thế giới thứ hai bùng nổ (1939 – 1940).


<b>3. Cuộc vận động cách mạng tháng Tám năm 1945.</b>


Mùa xuân năm 1941, sau 30 năm bơn ba hoạt động ở nước ngồi, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trở về nước (28/01/1941), cùng với Trung ương Đảng trực tiếp
lãnh đạo phong trào cách mạng. Người nhận định “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra
triển vọng lớn cho cách mạng nước ta.Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề
sát biên giới, lấy đó làm liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng cịn phải
phát triển về Thái Ngun và thơng xuống nữa mới có thể tiếp xúc với tồn quốc
được. Có nối được phong trào với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu
tranh vũ trang lúc thuận lợi có thể tiến cơng, lúc khó khăn có thể giữ” (4).


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Từ “suối nguồn” Pác Bó ngọt ngào, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo thực
hiện thí điểm xây dựng các hội Cứu quốc tại ba châu Hịa An, Hà Quảng, Ngun
Bình, đồng thời củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Cao Bằng.
Lấy kết quả thực tiễn để đúc rút kinh nghiệm, với thành công bước đầu về gây dựng


các hội Cứu quốc trong các lực lượng quần chúng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu
tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám tại lán Khuổi Nặm từ
ngày 10 đến 19 tháng 5 năm 1941. Tại Hội nghị đã Quyết định thành lập Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) với phương châm mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất thông qua các tổ chức quần chúng mang tên Hội Cứu quốc
(Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc, Hội
Nông dân cứu quốc, Hội Nhi đồng cứu quốc …).


Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, phong trào
xây dựng Mặt trận Việt Minh nhanh chóng được triển khai và phát triển khắp cả
nước. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng đẩy mạnh công tác bồi dưỡng,
đào tạo cán bộ, cả về cơng tác chính trị và qn sự. Nhiều khóa bồi dưỡng cán bộ,
các lớp quân chính được mở đã kịp thời đáp ứng nhu cầu phát triển phong trào Việt
Minh theo chủ trương “Nam tiến”, gắn kết Mặt trận Việt Minh từ căn cứ địa Cao
Bằng xuống Bắc Cạn, Lạng Sơn, sang Hà Giang, Tuyên Quang và vùng đồng bằng
châu thổ, đảm bảo liên lạc trong nước và quốc tế.


Tháng 10 năm 1944, sau khi thoát khỏi nhà tù Tưởng Giới Thạch, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trở về Hà Quảng, trung tâm căn cứ địa cách mạng. Người đã chỉ
đạo hoãn ngay chủ trương khởi nghĩa của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, đồng thời
đưa ra những quyết sách mới thúc đẩy phong trào cách mạng đi lên.


Ngày 22 tháng 12 năm 1944, chấp hành chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc,
đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân tại khu rừng Sau Cao nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hồng Hoa
Thám (Ngun Bình – Cao Bằng). Ngay sau khi thành lập, đội quân giải phóng đã
mở đầu thắng lợi với việc đánh chiếm đồn Phai Khắt (Xã Tam Kim – 25/12) và đồn
Nà Ngần (Xã Hoa Thám – 26/12). Cùng phối hợp với các hoạt động vũ trang tuyên
truyền của Đội là những đội du kích vũ trang được thành lập tại các địa phương
trong tỉnh, làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh cách mạng từ cơ sở.



Cuối tháng 4 năm 1945, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng
chuyển địa điểm cơ quan Trung ương từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên
Quang), xúc tiến thành lập Khu Giải phóng Việt Bắc (Cao - Bắc - Lạng – Thái –
Tuyên – Hà), đẩy mạnh hơn nữa phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Từ ngày 17 đến ngày 21 tháng 8 năm 1945, thực hiện lệnh Quân lệnh số 1
của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, tại các địa phương trong tỉnh - dưới sự lãnh dạo
của các Chi, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc Cao Bằng đã nhất tề vùng lên Tổng
khởi nghĩa, vô hiệu hóa mọi cố gắng cuối cùng của quân Nhật và chính quyền tay
sai, giành lại chính quyền. Tiêu biểu nhất là cuộc Tổng khởi nghĩa tại Thị xã Cao
Bằng – Ngày 21 tháng 8, Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Hồng Đình Gioong lãnh
đạo đã buộc qn Nhật phải đầu hàng và thành lập ngay Ủy ban nhân dân cách
mạng lâm thời (22/8/1945) chỉ một ngày trước khi quân Tưởng theo thỏa thuận của
Đồng Minh vào tước vũ khí quân đội Nhật. Vậy là, chúng ta tiếp đón lực lượng
Đồng Minh trong tư thế của “người chủ nhà chiến thắng”.


Từ những trang sử đầu tiên đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 - Lịch
sử địa phương tỉnh Cao Bằng đã và luôn là một thể thống nhất trong lịch sử quốc
gia dân tộc Việt Nam. Từ vị trí khiêm tốn của một tấm “phên dậu” vùng biên viễn
đến vị thế của khu căn cứ địa “ngôi sao cách mạng” trong công cuộc đấu tranh
giành độc lập – Cao Bằng đã xứng đáng với vai trị khơng chỉ là một “cái nơi văn
hóa” mà cịn là “chiếc nơi cách mạng”.


<b>II/. CAO BẰNG TRONG CHIẾN TRANH GIẢI PHĨNG (1945 – 1975)</b>


<b>1. Tăng cường củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng, tích cực ủng</b>
<b>hộ Nam Bộ kháng chiến (1945 – 1946).</b>


Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời


(02/9/1945). Cũng như các địa phương trong khu vực Bắc Bộ - chính quyền Cách
mạng ở Cao Bằng gặp mn vàn khó khăn, thách thức – đó là “giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm” và nhất là những khó khăn về tài chính, về tình hình chính trị bất
ổn định.


Sau cách mạng tháng Tám 1945, nạn đói ở Cao Bằng, tuy khơng diễn ra
nghiệm trọng như các tỉnh miền xuôi, song nhân dân từ lâu phải sống trong đói
nghèo, lạc hậu nên việc thiếu thốn lương thực, thực phẩm là điều không trành khỏi.
Cơ cấu các ngành thiếu cân đối, phát triển què quặt, kỹ thuật lạc hậu, mang nặng
tính tự nhiên, tự cung, tự cấp. Trình độ dân trí tồn dân thấp (trên 96% dân số mù
chữ). Ngồi việc đối phó với qn Tưởng, chính quyền cách mạng non trẻ cịn phải
đối phó với nạn thổ phí khắp các huyện ở cả hai miền Đông và Tây của tỉnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, đồng bào các dân tộc Cao Bằng hân hoan, phấn
khởi tham gia cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam mới. “Tỉnh
Cao Bằng vinh dự được bầu 4 đại biểu: Vũ Anh, Dương Kim Đao, Nguyễn Khánh
Kim, Dương Đại Lâm” (¹). Tại kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp tháng 3 năm
1946, đồng chí Đồn Hồng Kỳ được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh.
Đồng chí Bùi Bảo Vân được Trung ương chỉ định giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy. Hệ
thống chính quyền nhân dân tồn tỉnh được củng cố, kiện toàn, tạo ra thực lực mới
cho cách mạng.


Thực thi sắc lệnh của Chính phủ về xây dựng “Quỹ độc lập” và phát động
“Tuần lễ vàng”, cùng với những hoạt động tích cực của Ban Kinh tế tỉnh ủy, những
khó khăn về tài chính được giải quyết. Các cơ sở kinh tế công nghiệp - tiểu thủ
công được khôi phục, giao thương vùng biên giới được thúc đẩy, cơng tác y tế,
chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, sinh hoạt xã hội đi dần vào ổn định.


Hưởng ứng Lời kêu gọi cả nước ủng hộ Nam Bộ kháng chiến của Hồ Chủ
Tịch, các phân đội Giải phóng quân của Cao Bằng lại tiếp bước lên đường. “Trong


đợt đầu, hai mươi Chi hội Nam tiến từ Việt Bắc ra đi gồm những cán bộ chiến sĩ ưu
tú đã được huấn luyện quân sự, có kinh nghiệm chiến đấu do đồng chí Hồng Đình
Gioong làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Đàm Minh Viễn (tức Đức Thanh) làm Tham
mưu trưởng. Lực lượng Nam tiến đã kịp thời tăng thêm sức mạnh chiến đấu cho
đồng bào miền Nam…”(²).


<b>2. Kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ” chống thực dân Pháp</b>
<b>(1946 – 1950)</b>


Cuối năm 1946, dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lộ rõ “Chúng ta muốn
hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân
Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa !..” (³).


Chấp hành Chỉ thị của Trung ương và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Hồ Chủ Tịch, Tỉnh ủy Cao Bằng đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách về tăng cường
bộ máy chính quyền các cấp đảm bảo chỉ đạo kháng chiến, củng cố lực lượng vũ
trang, tích cực xây dựng kế hoạch phịng thủ.


Ủy ban hành chính tỉnh và ủy ban kháng chiến hợp nhất trở thành Ủy ban
kháng chiến hành chính do đồng chí Đồn Hồng Kỳ làm Chủ tịch. Đồng chí Lê
Thành được Trung ương chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy.


Lực lượng quân sự được tăng cường. Trung đoàn chủ lực 74 được kiện toàn
và tăng cường thêm quân số, trang thiết bị, vũ khí. Ngày 15 tháng 4 năm 1947, Tỉnh
đội Cao Bằng được thành lập do đồng chí Như Thanh làm Chỉ huy trưởng, đồng chí
Hồng Nghiệp làm Chính trị viên. Tiếp đó, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh
quyết định thành lập một tiểu đoàn cơ động mang tên Tiểu đoàn 73. Tại các địa
phương trong tỉnh đã khẩn trương thành lập Huyện đội, Ban chỉ huy xã đội, xây
dựng một số Đại đội độc lập.



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Thực hiện phương châm “tiêu thổ kháng chiến” quân và dân Cao Bằng đã tập
trung phá hoại các tuyến quốc lộ số 3A, 3B và quốc lộ số 4, nhằm ngăn cản đường
tiến quân của địch. Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh và các địa phương đã tích
cực chỉ đạo xây dựng hậu phương kháng chiến, lập khu an toàn cho dân sơ tán tránh
địch khủng bố, huy động nhân dân tích trữ lương thực, thực phẩm; đồng thời đẩy
mạnh hoạt động của Mặt trận Việt Minh, củng cố khối đoàn kết toàn dân.


Tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp tập trung 20.000 quân, chia hai gọng kìm
tiến cơng căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 9 tháng 10 năm 1947, 300 lính dù của Pháp
nhảy dù đánh chiếm Thị xã Cao Bằng, chiếm giữ một số vị trí xung yếu phía đơng
nam Thị xã. “Cuộc chiến đấu đánh quân nhày dù và đánh trả máy bay diễn ra vô
cùng ác liệt. Khẩu đội súng thượng liên của Trung đồn 74 bố trí trên đồi Thiên
Văn do xạ thủ Nông Văn Diên lập chiến công đã bắn rơi chiếc máy bay JU-52 của
Pháp xuống làng Pác Cáy (xã Hòa Chung, Thị xã Cao Bằng), tiêu diệt 12 sĩ quant
ham mưu và tên đại tá Lăm-be, Phó Tham mưu trưởng quân đội viễn chinh Pháp ở
Bắc Đơng Dương, ta thu được tồn bộ kế hoạch tấn công Việt Bắc mang mật danh
Léa. Tài liệu đặc biệt quan trọng này được chiến sĩ liên lạc Nguyễn Danh Lộc đi bộ
liên tục 4 ngày, 3 đêm đến Định Hóa – Thái Nguyên giao cho Bộ Tổng tham mưu.
Nhờ đó, Bộ Tổng chỉ huy của ta có thêm cơ sở vững chắc hoàn chỉnh phương án
đánh địch, quyết phá tan cuộc tiến cơng của giặc Pháp” (¹).


Sau khi cho quân dù chiếm được Thị xã Cao Bằng và Đông Khê (Thạch An),
Pháp tăng quân đánh chiếm các huyện lỵ Ngun Bình, Trà Lĩnh, Hịa An, Quảng
Un, Phục Hịa, đồng thời thiết lập 49 đồn bốt tại các địa bàn chiếm được, âm
mưu khống chế tuyến giao thông huyết mạch của tỉnh, thu hút và tiêu diệt lực lượng
chủ lực của ta.


Quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương và Bộ Tổng chỉ huy, Tỉnh ủy Cao Bằng
chỉ đạo các lực lượng quân đội và dân quân thực hiện chiến thuật đánh du kích, lợi
dụng địa thế và địa hình vùng rừng núi hiểm trở tổ chức phục kích và tập kích quân


địch, tiêu hao sinh lực địch. “Từ ngày 9 tháng 10 năm 1947 đến tháng 4 năm 1948
ta đã tiêu diệt 1.257 tên địch, làm bị thương 130 tên, phá hủy 29 xe ơ tơ và nhiều vũ
khí đạn dược quân trang quân dụng khác, góp phần cùng quân và dân Việt Bắc phá
tan cuộc tiến công chiến lược thu động 1947 của giặc Pháp” (²).


Trên đà thắng lợi, quân và dân Cao Bằng đẩy mạnh tiến công quân Pháp.
Trung đoàn chủ lực 174 mới thành lập (19/8/1949) đã ra quân đánh thắng nhiều
trận, tiêu biểu là trận đánh ngày 03 tháng 9 năm 1949 trên đèo Bông Lau – Lũng
Phầy, phá hủy 86 xe hàng hóa các loại, bắt sống 40 tên địch, thu 20 khẩu súng. Bị
mất đường tiếp tế, lại thường xuyên bị uy hiếp, quân Pháp buộc phải rút lui một số
vị trí, co cụm về giữ Thị xã Cao Bằng và Đông Khê. “Như vậy, từ 9 tháng 10 năm
1947 đến 20 tháng 10 năm 1949, ta đã buộc địch rút 41 vị trí, mở ra một vùng giải
phóng rộng lớn với 10 huyện trong tỉnh. Từ đây bộ đội và dân quân du kích đã làm
chủ chiến trường, quân địch rơi vào thế phòng ngự…” (³).


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Cuối năm 1949 đầu năm 1950, quân và dân Cao Bằng còn tổ chức chặn
đánh, tiêu diệt nhiều toán tàn quân Tưởng Giới Thạch bị Giải phóng qn Trung
Quốc truy kích, thu thêm vũ khí, trang bị.


Tháng 1 năm 1950, Hồ Chủ Tịch bí mật sang thăm Trung Quốc và Liên Xơ,
chuyến thăm đã đem lại nhiều thuận lợi có ý nghĩa quan trọng, giúp cho thế giới
hiểu rõ hơn về cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Sau đó, Liên Xô,
Trung Quốc và các nước Dân chủ nhân dân Đông Âu lần lượt công nhận Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, đồng thời chính thức nhận lời chi viện cho cuộc
kháng chiến. Thế và lực của quân dân ta được tăng cường.


Tháng 7 năm 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp được giao quyền Bí thư kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận,
đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách hậu cần chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh trực
tiếp tham gia chiến dịch quan trọng này, Người nhắc nhở các chiến sĩ “Trong cuộc


chiến đấu này ta chỉ được đánh thắng, không cho đánh bại” (¹).


“Đảng bộ tỉnh Cao Bằng nói riêng, cả nước nói chung đã chuẩn bị mọi mặt
cho chiến dịch ngay từ những ngày đầu năm 1950, với khẩu hiệu tất cả cho chiến
dịch toàn thắng. Sau một thời gian ngắn chưa đầy một năm, đảng bộ và nhân dân
Cao Bằng đã chuẩn bị được 78.824 người đi dân công với 1.340.780 ngày công và
2.346 tấn gạo, trên 120 tấn thực phẩm phục vụ chiến dịch”. (²)


“Đêm 16 tháng 9 năm 1950, quân ta nổ sung đánh đồn Đông Khê cũng là lúc
Bác Hồ ra Sở chỉ huy tiền phương, trực tiếp quan sát đồn Đông Khê. Tại đây Người
đã làm bài thơ nổi tiếng:


Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta thế mạnh nuốt ngưu đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy” (³).


Sau hai ngày đêm chiến đấu ác liệt, quân ta tiêu diệt hồn tồn đồn Đơng
Khê, cứ điểm có vị trí sống cịn của qn Pháp trên đường số 4. Trong trận chiến
đấu này, nhiều cán bộ, chiến sĩ nêu tấm gương sáng về tinh thần dũng cảm, chiến
đấu quên mình. Đó là La Văn Cầu, q Trùng Khánh, khi chiến đấu một tay bị
trúng đạn, không do dự nhờ đồng đội chặt cánh tay bị giặc bắn nát, tiếp tục dùng
tay cịn lại ơm bộc phá xơng lên tiêu diệt lơ cốt địch; đó là Lý Việt Mưu, người quê
Quảng Uyên, mưu trí và dũng cảm, dưới làn bom đạn thu nhặt từng quả thủ pháo
gói lại thành một khối, dù bị thương vẫn cố gắng ôm khối thuốc nỗ phá tung miệng
hầm ngầm của địch, tạo cơ hội cho đồng đội diệt địch; đó là đại đội trưởng Trần
Cừ, dẫn bộ đội tiến công vào hướng nam cứ điểm, bị hỏa lực địch từ lỗ châu mai
khống chế, tình hình khó khăn, đồng đội thương vong, anh đã lấy thân nình lấp lỗ
châu mai, bịt hỏa lực địch, tạo thời cơ cho bộ đội tiêu diệt đồn địch.



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

“Bên cạnh những chiến sĩ trực tiếp cầm súng tiêu diệt quân thù là những chị
dân công hỏa tuyến, ngày đêm miệt mài công việc. Các chị Đinh Thị Dậu, Đinh Thị
Bỏng, Nguyễn Thị Bé, Đinh Thị Mẩn, Nông Thị Đuông, Đàm Thị Nhay, Triệu Thị
Soi, v.v. dưới làn đạn bom địch, không sợ hy sinh, gian khổ, quyết tâm phục vụ
chiến dịch. Chị Triệu Thị Soi đã được tuyên dương công trạng trong ngày lễ chiến
thắng và được Chính phủ tặng Hn chương Chiến cơng hạng Nhì. Các chị khác
được Bác Hồ tặng quà nhân dịp Tết Ngun đán Tân Mão (đầu năm 1951) vì đã có
cơng đặc biệt trong Chiến dịch biên giới” (¹).


Cứ điểm Đơng Khê thất thủ, Bộ chỉ huy quân Pháp điều binh đoàn Lơ Pa-giơ
từ Thất kê lên, âm mưu chiếm lại đồn và đón cánh qn của Sác-tơng từ Thị xã Cao
Bằng rút về. Quân ta tổ chức đánh chặn, truy kích mạnh cả hai cánh quân địch.
Chiều ngày 7 tháng 10 năm 1950, binh đồn Sác-tơng bị đánh bại ở Bản Kéo, quân
ta tiêu diệt 677 tên, bắt sống 1.386 tên, thu tồn bộ vũ khí. “Người bắt sống tên Sác
–tông là chiến sĩ Nguyễn Văn Hản ở Tiểu đội 2, Trung đội 3, Đại đội 263, Tiểu
đồn 18 Bình Ca, Trung đồn Thủ đơ. Viên tỉnh trưởng Cao Bằng Nông Ngọc Tu bị
bắt. Ngày 8 tháng 10 năm 1950, Trung tá Lơ Pa-giơ xin hang ở khu vực Nà Cao,
cách Cốc Xá 4 km. Người đến chấp nhận sự đầu hang của Lơ Pa-giơ là Tiểu đồn
trưởng Khúc Đình Binh, đại đội trưởng đại đội 42 Trần Đăng Khiêm và Đỗ Đức
Hùng – cán bộ tham mưu.” (²)


Trước sức tấn công mãnh liệt của quân ta, quân Pháp ở các cứ điểm Thất
Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Thị xã Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập và một số cứ
điểm trên đường quốc lộ số 1 lần lượt rút chạy. Tồn bộ hệ thống phịng thủ vành
đai trên đường số 4 của Pháp bị quân ta phá tan. “Chiến dịch Biên giới thắng lợi, ta
đã tiêu diệt và bắt sống 8.300 tên địch, tiêu diệt 10 tiểu đồn trong đó có 8 tiểu đồn
bị diệt gọn, chiếm 41% lực lượng cơ động chiến lược tồn Đơng Dương, giải phóng
350.000 dân, 4.500 km² đất” (³).


Chiến thắng Biên giới thu đông 1950 đã làm thay đổi cục diện cuộc chiến


tranh giữa Việt Nam và Pháp, là bước ngoặt đem đến thế chủ động cho quân ta trên
chiến trường chính Bắc Bộ, đẩy quân Pháp vào tình thế bị động, lúng túng, hoang
mang. Tướng Pháp Hăng-ri Na-va đã phải thú nhận “Đây là cuộc chiến đấu bất
hạnh” và “tinh thần binh lính Pháp tổn hại một cách nghiêm trọng, tâm lý thất bại
ngày càng lan tràn”. “Thất bại ở Chiến dịch Biên giới là thất bại chưa từng có trong
lịch sử chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp” (4).


Ngày mồng 3 tháng 10 năm 1950 là ngày giặc Pháp buộc phải rút chạy khỏi
Thị xã Cao Bằng, Đảng bộ và nhân dân Cao Bằng lấy ngày này làm ngày truyền
thống kỷ niệm sự kiện Cao Bằng hồn tồn giải phóng. Từ đây, một thời kỳ mới,
một vận hội mới và cũng là thử thách mới đến với Đảng bộ, chính quyền và đồng
bào các dân tộc tỉnh nhà.


(¹)(³)(4) - Địa chí Cao Bằng: tr 153 – 155.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>3. Xây dựng và củng cố hậu phương, góp sức cùng cả nước đánh thắng</b>
<b>thực dân Pháp xâm lược (1950 – 1954).</b>


Sau thất bại Biên giới 1950, tháng 12 năm 1950, thực dân Pháp cầu xin viện
trợ của Mỹ, bắt đầu từ đây viện trợ của Mỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong chiến
tranh của Pháp ở Đông Dương. Cũng từ đây, cuộc kháng chiến của nhân dân ta
bước sang một giai đoạn mới chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, cam go hơn,
khốc liệt hơn.


Những ngày đầu giải phóng, Thị xã Cao Bằng còn rất vắng người, nhân dân
mới đang dần hồi cư. Trên địa bàn toàn tỉnh, hậu quả chiến tranh cịn khá nặng nề,
diện tích canh tác bị bỏ hoang nhiều, nhân dân thiếu đói chưa yên tâm ổn định cuộc
sống, một số cán bộ, đảng viên có tâm lý nghỉ ngơi, đường xá giao thông ngưng trệ
do “tiêu thổ kháng chiến” và bom đạn, các hoạt động sản xuất và kinh tế hãy còn bị
dư âm thời chiến chi phối. Giặc Pháp tăng cường dùng máy bay bắn đánh phá cầu


đường, kho tàng, bến bãi, tiếp tay cho bọn Việt gian và thổ phỉ ở vùng biên quấy
rối, tung biệt kích phá hoại hậu phương của ta …


Tháng 9 năm 1951, Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ III được tổ chức tại căn cứ
Lam Sơn (xã Hồng Việt, huyện Hòa An). Đại hội bầu ra Ban Chấp hành mới, đồng
chí Dương Cơng Hoạt giữ cương vị Bí thư, đồng chí Đào Duy Tùng được bầu làm
Phó Bí thư Tỉnh ủy. Nghị quyết Đại hội đưa ra nhiệm vụ “ra sức xây dựng hậu
phương về mọi mặt kịp thời phục vụ các chiến trường góp phần đưa cuộc kháng
chiến đến tồn thắng” (¹).


Phát huy tinh thần cách mạng, nêu cao vai trò của địa phương sớm được giải
phóng và là địa bàn giao thương, nơi nhận viện trợ của các nước bạn cho cuộc
kháng chiến - Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực
thi đua, phấn đấu. Một mặt, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, mở rộng diện tích trồng
trọt, thực hiện tiết kiệm, làm hũ gạo kháng chiến, đảm bảo đời sống; tập trung các
điều kiện khôi phục các ngành sản xuất, sửa chữa và nâng cấp các tuyến đường giao
thông; công tác giáo dục được chăm lo, hệ thống trường phổ thông nhân rộng ưu
tiên cấp I để đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, phong trào “bình dân học vụ”
được tiếp nối hiệu quả; cơng tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng có nhiều
tiến bộ, số y sĩ được bổ sung. Mặt khác, tăng cường giáo dục nhân dân nêu cao ý
thức phịng gian, bảo mật, góp phần duy trì an ninh trật tự các vùng dân cư; xây
dựng các trận địa phịng khơng ở các điểm cao, xung yếu tại các huyện miền đông
của tỉnh, bảo vệ con đường giao thông huyết mạch, giữ cho nguồn viện trợ của các
nước anh em cho kháng chiến được an toàn; kiên quyết trừng trị bọn phỉ ngoan cố ở
Lục Khu (Hà Quảng), Nguyên Bình, đảm bảo cuộc sống bình yên của người dân.


Công tác huy động nhân lực, vật lực cho các chiến trường tiếp tục được thực
hiện. Cao Bằng đã vận chuyển về điểm tập kết ở Bắc Cạn 1.200 tấn thóc; đóng góp
648.552 cơng phục vụ các chiến dịch, đóng thuế nơng nghiệp đạt 109% chỉ tiêu
giao; bổ sung cho quân chủ lực 844 cán bộ, chiến sĩ …



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Đông xuân 1953 – 1954, cuộc kháng chiến của nhân dân Đông Dương bước
sang năm thứ 8. Lực lượng cách mạng ngày càng trưởng thành và lớn mạnh, hậu
phương không ngừng được củng cố, đảm bảo chi viện hiệu quả cho tiền tuyến đánh
giặc. Bọn thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đưa ra Kế hoạch Na-va với hy vọng có
thể xoay chuyển tình thế của cuộc chiến, song càng đánh càng thua đau, càng bị
động, lại bị dư luận Pháp và quốc tế phản đối quyết liệt.


Trận quyết chiến chiến lược giữa hai bên được ấn định tại Điên Biên Phủ,
một vị trí chiến lược khống chế vùng Tây Bắc Việt Nam và Bắc Lào. Pháp và Mỹ
đổ xuống đó 16.200 lính Lê dương tinh nhuệ bậc nhất, cùng với hệ thống công sự
đặc biệt chắc chắn và sự chi viện tối đa về không quân trong mọi trường hợp. Các
tướng lĩnh Pháp - Mỹ coi đây là tập đồn cứ điểm mạnh nhất Đơng Dương, “một
pháo đài bất khả xâm phạm”, ngang nhiên thách thức qn chủ lực Việt Nam tiến
cơng. Song, bằng trí tuệ và nghị lực phi thường, quân và dân ta đã đập tan “pháo
đài Điện Biên Phủ”, buộc Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị quốc tế tại Giơ-ne-vơ
và chấp nhận kết thúc chiến tranh.


Trong chiến dịch lịch sử này, Đảng bộ Cao Bằng đã huy động được 1.034
dân công tham gia phục vụ dài hạn, vận chuyển hơn 2.000 tấn thóc ra mặt trận ni
qn. Đặc biệt, “các chiến sĩ là con em Cao Bằng thuộc các đơn vị chủ lực phát huy
truyền thống quê hương cách mạng, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, lập cơng xuất
sắc, tiêu biểu là Bế Văn Đàn, Phùng Văn Khầu, Triệu Văn Báo, Lộc Văn Trọng …
đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang.”
(¹).


Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ đã kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 – 1954), cách mạng
cả nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
các dân tộc Cao Bằng tiếp bước đi lên trong thế và lực mới.



<b>4. Bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và</b>
<b>tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975).</b>


Hịa bình lập lại trên tồn miền Bắc, nhiệm vụ đặt ra cho cấp ủy Đảng, chính
quyền và nhân dân các tỉnh thành là khôi phục kinh tế, ổn định đời sống nhân dân,
tiếp tục phát triển văn hóa – xã hội.


Bước ra khỏi cuộc kháng chiến trường kỳ, hậu quả để lại cho Cao Bằng rất
năng nề. Các cơ sở kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công đều bị tàn
phá nghiêm trọng, dù đã được khôi phục sớm từ sau giải phóng (1950) nhưng kết
quả cịn hạn chế. Sức người, sức của dốc mình cho cuộc chiến nên khơng tránh khỏi
những khó khăn, thiếu thốn nhiều bề. Thêm vào đó là hậu quả của việc tiến hành
giảm tô ở một số địa phương trong tỉnh mắc sai lầm, thực hiện rập khn, máy
móc, "tả khuynh”, “truy bức” không đúng thành phần khiến dư luận quần chúng
hoang mang, gây căng thẳng và bất ổn chính trị…


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương và Đảng bộ, chính quyền các cấp, cơng
cuộc khơi phục kinh tế, ổn định tình hình chính trị - xã hội ở Cao Bằng đã đạt được
những kết quả tích cực. Những năm 1956 - 1957, tổng sản lượng lương thực đạt
77.841 tấn, tổng đàn gia súc trâu, bò trên 110.000 con, lợn 78.924 con, các loại gia
cầm được nuôi rộng khắp (hầu như nhà nào cũng chăn nuôi gà, vịt, ngan, ngỗng…);
sản lượng thủ công đạt gần 10.000 nông cụ và dụng cụ gia đình; kim ngạch mậu
dịch quốc doanh đạt 5.338 triệu đồng, xuất khẩu đạt 743 triệu đồng; các tuyền
đường giao thông được khôi phục và nâng cấp (Quảng Uyên - Hạ Lang, Mã Phục –
Trà Lĩnh, Thị xã Cao Bằng – Sóc Giang, Ngun Bình - Bảo Lạc …), nhất là đường
chiến lược số 3 và số 4; Tồn tỉnh có 24.039 học viên theo học các lớp “bình dân
học vụ”, học sinh các cấp phổ thơng có 8.596 diện vỡ lòng, 13.539 học sinh cấp I,
1.020 học sinh cấp II và 598 học sinh cấp III; Công tác y tế có nhiều tiến bộ với 145
ban phịng bệnh cấp xã và khu phố, 2.273 tổ phòng bệnh, 1.315 tổ cứu thương;


Công nghiệp cũng khởi sắc với sự ra đời của Xí nghiệp thiếc Cao Bằng (do Liên Xô
viện trợ), nhà máy thủy điện Tà Sa, nhiệt điện Cao Bằng đi vào hoạt động. (¹).


Phát huy những kết quả đạt được, trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội những năm 1958 – 1960, Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân Cao Bằng tiếp tục có bước phát triển mới. Đến năm 1960, phong trào
“hợp tác hóa” có 1.219 hợp tác xã nông nghiệp ra đời (chiếm 87,6% tổng số nông
hộ của tỉnh), trong đó có 86 hợp tác xã bậc cao; Tiểu thủ cơng và cơng nghiệp có 10
hợp tác xã tiểu thủ công và 10 tổ cung tiêu, 21 xí nghiệp quốc doanh (các ngành sửa
chữa cơ khí, điện lực, chế biến thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng …); Thương
nghiệp có 32 cửa hàng mậu dịch quốc doanh, giao thơng có quốc doanh với 28 ơ tơ
vận tải các loại; Giáo dục phổ thông năm học 1959 – 1960 có 202 trường với
25.124 học sinh; Năm 1958, bệnh viện tỉnh được xây dựng, sau đó là hai bệnh xá ở
Bảo Lạc và Quảng Uyên, 90 trạm xá và 404 tủ thuốc phịng bệnh tại thơn bản (²).


Tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Thủ
đô Hà Nội. Trong lời khai mạc, Hồ Chủ Tịch nhấn mạnh “Đại hội lần này là Đại
hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hịa bình thống nhất nước
nhà”. Nghị quyết của Đại hội đã định hướng hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam, vị trí và vai trò của từng miền sát sao hơn, cụ thể hơn.


Từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 2 năm 1961, Hồ Chủ Tịch lên thăm và làm
việc tại Cao Bằng, thăm lại khu Pác Bó năm xưa từng sống và làm việc. Tại Pác
Bó, Người lưu lại một tứ thơ đầy xúc động:


Hai mươi năm trước ở hang này,
Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây,


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Tại cuộc mít tinh ở sân vận động Thị xã Cao Bằng (ngày 21/2/1961), Hồ Chủ
Tịch căn dặn “Bác mong tỉnh Cao Bằng sớm trở thành một trong những tỉnh gương


mẫu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc như trước đây Cao
Bằng là một trong những tỉnh đi đầu trong cơng cuộc giải phóng dân tộc” (¹).


Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đảng và thi đua phấn đấu thực hiện lời căn
dặn của Hồ Chủ Tịch, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Cao Bằng đã quyết tâm
thực hiện thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965). Năm 1965, sản
lượng lúa đạt 44.725 tấn, ngô đạt 40.523 tấn, đỗ tương đạt 1.729 tấn, thuốc lá đạt
312 tấn; tổng đàn gia súc có 68.275 con trâu, bị có 63.101 con, ngựa có 3.507 con
và lợn có 85.422 con; Giá trị tổng sản lượng cơng nghiệp quốc doanh đạt 66%, thủ
công nghiệp tăng 29,9%; Đảm bảo duy trì giao thơng liên tục trên quốc lộ 3 và 4,
xây dựng và mở rộng các tuyến đường Mỏ Sắt – Thông Nông, Trà Lĩnh - Tổng Cọt,
Bằng Ca – Trùng Khánh; Công tác giáo dục, Y tế tiếp tục phát triển, đời sống văn
hóa – xã hội được nâng cao hơn trước… (²).


Ngày 5 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ gây ra “sự kiện vịnh Bắc Bộ” lấy cớ
đưa không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, cản trở sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, ngăn chặn sự chi viện Bắc – Nam. Sự việc trên đưa cả nước Việt Nam
trực tiếp đối đầu với Hoa Kỳ, quốc gia hùng mạnh nhất khối tư bản đế quốc. Nhiệm
vụ chống Mỹ, cứu nước là thiêng liêng nhất của cả dân tộc từ Bắc chí Nam.


Trong bối cảnh và tình hình mới, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Cao Bằng đã
kịp thời chỉ đạo đưa các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội tại các địa
phương vào chế độ thời chiến, tổ chức huấn luyện phương thức đánh giặc và tránh
giặc (không quân) hiệu quả cho nhân dân, đảm bảo chi viện cho miền Nam. Bình
quân hàng năm, huy động 6000 bộ đội tham gia chiến đấu ở cả hai miền, động viên
42.780 người tham gia tự vệ; đảm bảo các chỉ tiêu giao về thuế các ngành sản xuất;
Sự nghiệp giáo dục và Y tế trưởng thành và lớn mạnh hơn, năm học 1974 – 1975
tồn tỉnh có 18.000 học sinh mẫu giáo, 59.000 học sinh cấp I, 23.556 học sinh cấp
II, 5.200 học sinh cấp III, năm 1975 bệnh viện các tuyến có 1.900 giường bệnh (³).



Cùng với các tỉnh thành miền Bắc, Cao Bằng đã thực hiện hiệu quả phương
châm “vừa sản xuất - vừa chiến đấu”, đánh bại các cuộc leo thang đánh phá của Mỹ
những năm 1964 – 1968 và năm 1972, duy trì các hoạt động sản xuất, ổn định tình
hình chính trị, bảo vệ an toàn đời sống nhân dân, đặc biệt đảm bảo nhiệm vụ vận
chuyển hàng hóa chiến lược từ Trung Quốc qua Cao Bằng đến các chiến trường,
các địa chỉ theo kế hoạch Trung ương giao. Nhờ vậy, khi thời cơ đến vào cuối năm
1974 đầu 1975, Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy có đủ điều kiện để thực hiện
kế hoạch tiến cơng chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Đại thắng mùa Xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam, tạc vào thế kỷ XX hình ảnh một đất nước
Việt Nam anh hùng, kiêu hãnh, vinh quang, đưa toàn thể nhân dân nước Việt bước
vào kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15></div>

<!--links-->

×