Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Tài liệu Sự khác nhau giữa vốn điều lệ vs. vốn chủ sở hữu và rủi ro pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.28 KB, 3 trang )

Sự khác nhau giữa vốn
điều lệ vs. vốn chủ sở hữu
và rủi ro trong kinh doanh
Một số đóng góp ý kiến:
Bạn thân mến, việc vốn điều lệ khác với vốn chủ sở hữu là bình thường, đó là vì lý
do sau. Vốn điều lệ chỉ ghi con số có tính chất đăng ký. Trong khi đó, doanh
nghiệp vận hành qua các năm, lãi-lỗ làm thay đổi phần lãi giữ lại, khiến cho vốn
chủ sở hữu trên thực tế thay đổi. Đó là từ nguồn vận hành sản xuất-kinh doanh.
Hơn thế nữa, ngày nay với việc phát hành
cổ phần mới, với mức thặng dư tạo
thành vốn chủ sở hữu, và việc chuyển đổi các
trái phiếu chuyển đổi thành cổ phần,
tức là biến tài sản nợ thành tài sản vốn, vốn chủ sở hữu tiếp tục còn tăng lên.
Ngược lại, lại có trường hợp vốn điều lệ lớn hơn vốn chủ sở hữu, một trong những
lý do là: (i) Chưa góp đủ vốn; (ii) Vốn chủ sở hữu teo đi do phần lỗ trong hoạt
động kinh doanh.
Tuy vậy, vốn điều lệ vẫn có ý nghĩa quan trọng của nó:
1. Trước tiên, căn cứ vào đó có thể biết được số cổ phần của công ty cổ phần
đã phát hành, nếu bạn biết
mệnh giá;
2. Thứ hai, đó là căn cứ pháp lý trong trường hợp tranh chấp, giải thể, để biết
được liệu một doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ đầu tiên và trên hết là
đóng góp đủ vốn hay chưa;
3. Thứ ba, qua vốn điều lệ và các phần cấu thành còn lại của vốn chủ sở hữu,
bạn cũng có thể hình dung doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đang chú
trọng vào lĩnh vực nào.
(1) và (2) tương đối dễ hình dung. Tôi chỉ lấy ví dụ điểm thứ (3) để bạn thấy bức
tranh. Giả sử, vốn điều lệ của bạn là 10 tỷ đồng, với mệnh giá 1 triệu đồng cổ
phần, và như vậy, bạn có 10.000 cổ phần. Thế nhưng, cấu trúc vốn chủ sở hữu lại
có phần thặng dư vốn do phát hành 1.000 cổ phần cho các cổ đông mới nào đó,
với mức giá mua 10 triệu đồng/cổ phần, như vậy bạn có mức thặng dư vốn 10 tỷ,


và chỉ riêng phần này thôi, cũng đã xấp xỉ vốn điều lệ.
Hơn thế nữa, nếu cty lại có mức lợi nhuận sau thuế giữ lại doanh nghiệp là 10 tỷ
nữa, thì khi này bạn có một cấu trúc vốn chủ sở hữu là 29 tỷ, tạo ra từ vốn điều lệ
10 tỷ, thặng dư vốn 9 tỷ và 10 tỷ được tạo ra từ hoạt động kinh doanh hợp pháp,
sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính với thuế và cổ đông.
Việc bạn hỏi sau này về vốn điều lệ lớn hơn nhiều so với vốn chủ sở hữu thì rủi ro
có thể xảy ra là:
Đối với vận hành sản xuất-kinh doanh, doanh nghiệp có thể thiếu vốn, do vốn điều
lệ ít nhiều phản ánh mong muốn của cổ đông kinh doanh ở quy mô "nào đó hợp
lý". Thiếu vốn sẽ vất vả xoay sở.
Đối với pháp lý thì tiềm tàng nếu có tranh chấp, hay phải bồi thường, các cổ đông
có nghĩa vụ góp đủ số đã đăng ký, đây là yêu cầu pháp luật để bảo đảm quyền lợi
các bên liên quan, đặc biệt là chủ nợ của công ty.
Thứ ba, việc chưa góp đủ vốn hoặc lỗ làm giảm hiệu quả kinh doanh và giảm vốn
chủ sở hữu nhìn chung đều có thể gây ra hạn chế trong trường hợp công ty muốn
kêu gọi thêm vốn từ các cổ đông mới, hoặc từ đối tác vốn. Tôi nói "nhìn chung"
bởi vì có những hoạt động kinh doanh và dù liên tục lỗ và giảm vốn cổ đông,
nhưng vẫn tiếp tục thu hút được đầu tư mới, do tiềm năng tương lai trong xu
hướng lạc quan của thị trường và ngành. Ở thế giới trường hợp của Amazon là
một ví dụ. Ở Việt Nam thì rất nhiều công ty tài chính và cả bất động sản cũng như
vậy trong quá khứ. Sự lạc quan của
cổ đông mới là nguồn sinh lực ngay cả khi vốn
chủ sở hữu suy giảm do tính chất "conservative" của nguyên lý hạch toán-kế toán.
Ngày nay còn việc liên doanh, liên kết và hợp vốn thành lập doanh nghiệp mới.
Trong các trường hợp này, bên góp vốn đều được kiểm tra tình hình thực hiện
nghĩa vụ đóng góp vốn trước tiên chính tại công ty
mang vốn đi góp.
Ngoài ra, việc góp đủ vốn điều lệ cũng là căn cứ quan trọng để các đối tác kinh
doanh xem xét mức độ cam kết của chủ sở hữu công ty đối với các công việc kinh
doanh. Một số tình huống đấu thầu dự án cũng phải trình bày năng lực tài chính,

và hiển nhiên, việc đầu tiên là phải đủ vốn góp theo điều lệ, rồi mới nói tới các
khía cạnh khác của năng lực tài chính.

×