Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Luan van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.86 KB, 127 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO. HỌC VIỆN CTHC QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH. *********. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH. ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ. Chuyên ngành: Hành Chính Công Mã số: ......................................... Đề tài :. Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP. Hà nội. Học Viên. : Bùi Hoàng Chung. Lớp. : Cao học 14G. HÀ NỘI – 2011.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> MỞ ĐẦU. 1.. Lý do chọn đề tài. Du lịch là ngành kinh tế then chốt của thủ đô, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Để các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn thành phố Hà nội phát triển theo đúng định hướng đòi hỏi phải có sự quản lý của thành phố . Đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch đang đặt ra yêu cầu ngày càng cấp thiết trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của thủ đô. Trước tình hình trên đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch ở thủ đô hiện nay. Là một cán bộ công tác trong ngành du lịch, với kinh nghiệm nhiều năm, tôi nhận thấy quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch trên địa bàn TP. Hà nội đang còn nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn; cả những mặt được và chưa được.... Với lý do trên tôi chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP. Hà nội” làm luận văn Thạc sỹ quản lý hành chính công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu: - Nghiên cứu về quản lý nhà nước đã có rất nhiều công trình... (xin được nêu ra trong quá trình làm luận văn). - Nghiên cứu về ngành Du lịch và quản lý ngành du lịch cũng đã có nhiều công trình... (xin được nêu ra trong quá trình làm luận văn). - Nghiên cứu quản lý nhà nước đối với các thành phần kinh tế cũng đã có... (xin được nêu ra trong quá trình làm luận văn)..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Nghiên cứu quản lý nhà nước với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch thì mới chỉ có....(xin được nêu ra trong quá trình làm luận văn). - Vì vậy đây là đề tài nghiên cứu mới không trùng lặp với các công trình đã nghiên cứu trước. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu - Mục đích: Trên cơ sở làm rõ thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch ở TP. Hà nội, luận văn sẽ đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội hiện nay. - Nhiệm vụ: + Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội. + Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội. + Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội từ năm 2006 đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của thành uỷ và UBND thành.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> phố Hà nội về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn thành phố. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ chủ nghĩa Mác- Lênin quan điểm, đường lối của đảng... Ngoài ra, luận văn sử dụng một số phương pháp khác: phân tích và tổng hợp; lịch sử - lôgíc, thống kê xã hội học, so sách đối chiếu..., nhằm làm rõ nội dung mà luận văn đề cập. 5. Ý nghĩa, lý luận và thực tiễn của đề tài - Luận văn sẽ góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội. - Luận văn đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các đồng nghiệp khi nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội. 6. Kết cấu của luận văn gồm: Phần mở đầu; Phần nội dung; Phần kết luận; Phần tài liệu tham khảo. Phần nội dung chính kết cấu gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Du lịch và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân. 1.1.1. Khái quát chung về du lịch. Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong du lịch sự phát triển của loài người. Giống người Homo Erectus xuất phát từ miền đông và nam châu Phi nhưng di tích của những người tiền sử này đã được tìm thấy ở Trung Quốc và Java (In đonexia) cách đây khoảng một triệu năm. Các chuyên gia cho rằng để di chuyển được một khoảng cách như vậy thời bấy giờ phải mất khoảng 15.000 năm. Một gia thuyết cho rằng, những người cổ xưa đi du mục để tìm thức ăn và trốn tránh nguy hiểm. Một giả thuyết khác lại cho rằng, con người quan sát sự di chuyển của loài chim, muốn biết chúng từ đâu đến và chúng bay đi đâu, nên họ đã di chuyển mặc dù họ không thiếu thức ăn nơi họ sinh sống. Tức là từ xa xưa, con người đã luôn có tíh tò mò muấn tìm hiểu thế giới xung quanh, bên ngoài nơi cư trú của họ. Con người luôn muốn biết những nơi khác có cách sống ra sao, muốn biết về các dân tộc, nền văn hóa, các động vật, thực vật và địa hình ở những vùng khác hoạc quốc gia khác. Lần theo chiều dài lịch sử cho thấy du lịch xuất hiện khá sớm từ thời kỳ cổ đại gắn với đại phân công lao động xã hội lần thứ hai – nghành thủ công tách ra khỏi nông nghiệp. Đến thời đại chiếm hữu nô lệ , khi cuộc phân chia lao động lần thứ ba – thương nghiệp tách ra khỏi sản xuất, kinh doanh du lịch đã có biểu hiện ba xu hướng chính: Lưu trú, ăn uống và giao thông. Du lịch trong thời kỳ này tập trung ở các trung tâm kinh tế văn hóa của loài người. Thể loại du lịch nghỉ ngơi và giải trí cũng đã phát triển cho giới quý tộc chiếm.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> hữu nô lệ, những người phục vụ và các nhân viên cao cấp. Sau thế kỷ IV, khi đạo Thiên chúa giáo được phát triển, du lịch chữa bệnh cũng đã xuất hiện. Trong thời kỳ phong kiến du lịch không có biểu hiện gì lớn. Ở thời kỳ này du lịch công vụ và du lịch tôn giáo là loại hình tương đối phát triển so với các thể loại du lịch khác. Đáng chú ý trong thời kỳ hưng thịnh của chế độ phong kiến ( từ giữa thế kỷ XI đến thế kỷ XVI), du lịch có một bước chuyển biến mới. Ngoài các thể loại du lịch công vụ và du lịch tôn giáo, một số thể loại du lịch khác được phục hồi và phát triển như du lịch chữa bệnh và du lịch vui chơi giải trí. Đặc biệt phải kể đến các chuyển đi xa, dài ngày ( có khi hàng năm) của các đoàn gồm những người sùng đạo đến các trung tâ đạo giáo ( Rôm, Reruxalem của người theo đạo Thiên chúa giáo Meca và Medina của người theo đạo Hồi giáo). Thời kỳ cuối chế độ phong kiến (thế kỷ XVI đến những năm 40 của thế kỷ XVII), những điều kiện cho việc phát triển du lịch được mở rộng, nhất là Pháp, Anh và Đức – những nước có nền kinh tế phát triển nhất bây giờ. Thời kỳ cận đại ( từ những năm 40 của thế kỷ XVII đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất), với sự ra đời và củng cố của chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế thế giới phát triển mạnh và có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động du lịch. Chuyển biến rõ nét nhất phải kể đến thời điểm từ sau cuộc bùng nổ cuộc cách mạng kỹ thuật, trong đó có cuộc các mạng giao thông và sự ra đời của đầu máy hơi nước là tiền để vật chất quan trọng cho việc phát triển của du lịch. Trong thời kỳ hiện đại, kể từ sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất với sự chuyến biến chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn thấp đến lên giao đoạn cao, đã tạo điều kiện cho thể loại du lịch thể thao mùa đông được khai sinh và phát triển ngang với số khách đi nghỉ khí hậu núi vào mùa hè, làm cho các trung tâm du lịch núi trở nên sầm uất cả về mùa đông và mùa hè. Những năm đầu sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 các mối quan hệ du lịch Quốc tế phục hồi chậm và ít có thay đổi trong đặc trưng và trong cơ cấu.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> của mối quan hệ ấy. Nhưng cùng với bước phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học – kỹ thuật từ đầu năm 1950 đến nay đã đánh dấu một cao trào vươn lên mạnh mẽ của du lịch quốc tế. Nếu như đến giữa những năm 1980, thị trường du lịch thế giới còn được phân thành du lịch ở các nước XHCN, du lịch ở các nước tư bản chủ nghĩa và du lịch ở các nước đang phát triển, sự giao lưu giữ ba thị trường trên là vô cùng hạn chế, thì đến nay hoạt động của du lịch quốc tế đã phát triển ở phạm vi toàn cầu. Nhiều thế loại du lịch mới xuất hiện và phát triển... Cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng của du lịch cũng có nhiều thay đổi và ngày càng hiện đại. Cuộc cạnh tranh trên thị trường du lịch ngày càng sâu sắc trên mọi hình phường diện. Do đó, mỗi nước phát triển du lịch đều có hướng phát triển riêng để tự khẳng định mình trên thị trường du lịch thế giới. Theo số liệu của Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) năm 2000 số lượng khách du lịch toàn cầu đã là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ USD; năm 2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt người và thu nhập là 474 tỷ USD; dự tính đến năm 2010 lượng khách là 1.006 triệu lượt và thu nhập sẽ là 900 tỷ USD. Con số này cho thấy nhu cầu du lịch có tốc độ gia tăng nhanh chóng. Vấn đề đặt ra là quốc gia nào đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng của du lịch, quốc gia đó sẻ thắng thế trong việc tìm kiếm nguồn thu từ du lịch. 1.1.2. Khái niệm về du lịch Khi nói đến du lịch, người ta thường nghĩ ngay đến những người đi đến một nơi nào đó để tham quan, thăm bạn bè và họ hàng, đi nghĩ mát và hưởng thụ. Những người này dùng thời giờ rảnh để chơi thể thao, phơi nắng,trò chuyện, xưm hát, đi dạo hay chỉ đơn giản là thưởng thức môi trường xung quanh. Nếu xem xét khía cạnh rộng hơn, trong định nghĩa du lịch có thể bao gồm những người đi lam kinh doanh, công tác, dự hội nghị, hội thảo, thực.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> hiện các hoạt động chuyên ngành (professionai activities), học giỏi hay nghiên cứu khoa học, kỹ thuật. Vấn đề định nghĩa du lịch một cách quy mô phải bao gồm các thành phần tạo ra hoạc chịu ảnh hưởng của ngành du lịch. Quan điểm của thành phần này có tầm quan trọng đến việc triển khai một định nghĩa bao quát. Trên thế giới, du lịch đã được đánh giá là một ngành kinh tế đặc thù, vai trò của du lịch đã được các quốc gia và các nền kinh tế nhận thức đúng đắn. Ngày nay du lịch đã được trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính phổ biến, du lịch là ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả các ngành sản xuất ô tô, điện tử và nông nghiệp. Một số quốc gia coi du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương, là một ngành kinh tế hàng đầu, coi chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng cuộc sống, nên nhanh chóng phát triển nó trở thành ngành kinh tế. Trong quá trình hình thành và phát triển du lịch, cho đến nay có khá nhiều định nghĩa về du lịch. Trước đây, người ta chỉ mới quan niệm du lịch là một loại hình hoạt động mang tính văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí và những nhu cầu hiểu biết của con người, du lịch không được coi là một hoạt động kinh tế, không mang tính chất kinh doanh và ít được đầu tư để phát triển bởi du khách hầu hết là những người hành hương, thương nhân...cho đến đầu thể kỷ XX, du lịch vẫn còn dành riêng cho một nhóm người giàu có, họ đi du lịch với mục đích giải trí và được coi là những kỳ nghỉ bình thường. Kể từ những năm 50 của thể kỷ XX đổ lại đây, khái niệm về du lịch luôn được đưa ra tranh luận. Thuật ngữ “du lịch” bắt đầu từ từ “TOUR” trong tiếng Pháp, có nghĩa là di vòng quanh, cuộc dạo chơi. Như vậy về bản chất, du lịch gắn liền với việc nghỉ ngơi, giải trí nhằm phục hồi sức khỏe và khả năng lao động của con người, và gắn với việc di chuyển địa điểm..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Thực tiễn chứng minh rằng, số người đi du lịch rất hạn chế và ngày càng tăng dần lên. Cùng với việc phát triển hạ tầng giao thông, những chuyến đi ngày càng xa hơn và dài ngày hơn. Rõ ràng, du lịch ngày nay đã trở thành một đề tài khá hấp dẫn và mang tính toàn cầu, nên việc có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và có nhiều cách định nghĩa khác nhau về du lịch, đó cũng là điều bình thường của một khái niệm đang còn mới và phát triển. Cho đén nay mặc dù khái nệm du lịch có nhiều định nghĩa. Định nghĩa du lịch một cách quy mô phải bao gồm các thành phần tạo ra hoạc chịu ảnh hưởng của hoạt động du lịch. Quan điểm của các thành phần này có tầm quan trọng đến một triển khai một định nghĩa bao quát, nhưng dưới gốc độ nghiên cứu của luận văn, chỉ xin được hệ thống hóa một số định nghĩa chủ yếu là: Thứ nhất, theo quan điểm của du khách. Đay là đi tìm các trải nghiệm (experiences) và thõa mãn (satisfaction) về vật chất hay tinh thần khác nhau. Ước muốn củ các đối tượng này sẻ xác định địa điểm du lịch được lựa chọn và các hoạt động được thực hiện tại địa điểm đó. Thứ hai, theo quan điểm của người kinh doanh du lịch. Du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thõa mãn, đáp ứng các nhu cầu của người đi du lịch. Các doanh nghiệp du lịch coi du lịch như là một cơ hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách (người đi du lịch), đòng thời qua đó đạt được mục đích số một của mình là tối đa hóa lợi nhuận. Thứ ba, theo quan điểm của bộ máy chính quyền địa phương. Theo quan điểm này du lịch được hiểu là việc tổ chức các điều kiện về hành chính, về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỷ thuật đẻ phục vụ du khách. Du lịch là tổng hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng được tổ chức nhằm giúp đỡ việc hành trình và lưu trú tạm thời của cá thể. Du lịch là cơ hội để bán sản phẩm địa phương, tăng thu ngoại tệ, tăng các nguồn thu nhập từ các khoản thuế trực.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> tiếp và gián tiếp, đẩy mạnh cán cân thanh toán và nâng cao sức sống vật chất và tinh thần cho địa phương. Thứ tư, trên góc độ cộng đồng dân cư sở tại. du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội. Trong trong giai đoạn hiện nay, có được đặc trưng bởi sự tăng nhanh khối lượng và mỡ rộng phạm vi, cơ cấu dân cư tham gia vào qua trình du lịch tại địa phương mình vừa đem lại những cơ hội để tìm hiểu về nền văn hóa và phong cách của người ngoài địa phương, người nước ngoài; là cơ hội để tìm kiếm việc làm, để phát sinh và phát triển các nghề cổ truyền, các nghề thủ công truyền thống của dân tộc. Thông qua du lịch, một mặt có thể tăng thu nhập nhưng mặt khác cũng gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân sở tại như: Vấn đề về môi trường, trật tự an ninh, xã hội... Ngoài ra, ở thời đại sự nhìn nhận về du lịch cũng có khác nhau Điều đó phản ánh mức độ phát triển của du lịch. Năm 1811, lần đầu tiên tại Anh có định nghĩa về du lịch: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục đích giải trí”. Năm 1930 Ông Glusman, người Thụy Sỹ định nghĩa: “ Du lịch là sự chinh phục không gian của những người đến một địa điể mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên”. Sau này, giáo sư, tiến sĩ Hunziker và giáo sư, tiến sỹ Krapf- hai người được coi là những người đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như sau: “ Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời”. Theo Từ điển bách khoa quốc tế về du lịch – Le Dictionnaire internationnal du tourisme, do Việt hàn lâm khoa học quốc tế về du lịch xuất bản: “ Du lịch là tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện một dạng hành trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch...Du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> hành với mục đích đã được chọn trước và một bên là những công cụ làm thỏa mãn các nhu cầu của họ”. Nhìn chung, các định nghĩa này không được nhiều nước chấp nhận, bởi lẽ, các định nghĩa này chỉ xem xét chung hiện tượng xã hội mà ít phân tích nó như một hiện tượng kinh tế. Nên, Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa – Canada được tổ chức vào tháng 6/1991 đã đưa ra định nghĩa: “ Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên ( nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm” Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam đã đưa ra hai khái niệm cơ bản: Một là, du lịch là “ một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con người ở ngoài nơi cư trú với mục đích: Nghỉ ngơi, giải trí, xem dannh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa, nghệ thuật...vv Hai là, du lịch là “ một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: Nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình . Về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và lao động dịch vụ tại chỗ. Hầu như nước nào cũng coi trọng phát triển hoạt động du lịch. Nói chung trên thế giới, du lịch ra nước ngoài có xu hướng phát triển nhanh và Việt Nam có tiềm năng du lịch rất lớn”. Theo Luật Du lịch của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005: “ Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời đại nhất định”; “ Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch” , và “.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Dịch vụ là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch”. Từ tổng quan các định nghĩa về du lịch, cho thấy mỗi định nghĩa đều muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh nhất định có liên quan đến hoạt động du lịch, cần phải đặt vấn đề khi nghiên cứu khái niệm, định nghĩa về hoạt động du lịch, song vì chúng ta nghiên cứu khái niệm du lịch trong điều kiện kinh tế thị trường và vận dụng trong môi trường cụ thể và trên quan điểm quản lý Nhà nước, khái niệm du lịch cần nhấn mạnh theo định nghĩa là một ngành kinh tế. Do vậy, tác giả luận văn xin đưa ra nét định nghĩa cơ bản: Du lịch là một hoạt động kinh tế bao gồm các hoạt động của những đơn vị kinh doanh và phục vụ du lịch, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho khách du lịch, cho quốc gia và cho chính bản thân các doanh nghiệp. Việc nhấn mạnh khái niệm du lịch nói trên không đồng nghĩa với việc kinh doanh du lịch đơn thuần mà còn coi trọng đến hiệu quả về kinh tế, chính trị - văn hóa – xã hội của tất cả các chủ thể liên quan đến du lịch; tạo điều kiện cho du lịch tái đầu tư, bảo tồn và phát triển du lịch bền vững nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch ngày một tốt hơn. 1.1.3 Các đặc diểm của hoạt động du lịch: Từ những quan niệm trên đây về du lịch, chúng ta có thể đưa ra một số đặc điểm cơ bản về hoạt động du lịch như sau: Thứ nhất, hoạt động du lịch mang tính chất của ngành dịch vụ Đặc trưng nỗi bật nhất là sản phẩm của các ngành dịch vụ được coi là hàng hóa vô hình, và luôn là hàng hóa cuối cùng. Do đó, kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hoàn hảo từ những khâu nhỏ nhất bởi nó không có cơ hội sửa chữa.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> hay bảo hành như các hàng hóa thông thường khác. Đặc điểm đó cũng đưa tới yêu cầu riêng đối với công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Trước đây, quan niệm về ngành dịch vụ còn khá hạn hẹp, nó chỉ bao gồm các hoạt động kinh tế nhằm thỏa mãn nhu cầu đơn giản của con người như: Sửa chữa đồ dùng gia đình, chăm sóc sức khỏe,...mang tính phục vụ một cá nhân hay một nhóm nhỏ dân cư và được coi là một hoạt động phụ, chủ yếu có tính phục vụ đơn thuần. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học kỹ thuật, nền sản xuất của cải vật chất phát triển với tốc độ cao, gia tăng quá trình phân công lao động xã hội rõ rệt, nảy sinh ra các hoạt động dịch vụ sản xuất, cung ứng nhu cầu lao động có tính chất phục vụ hoạt động sản xuất, hoạt động phục vụ đời sống con người. Trước thực tiễn đó, ngành kinh tế dịch vụ đã phát triển song song với sự phát triển kinh tế, xã hội nhằm đáp nhu cầu chung cho nhân loài đóng vai trò là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất; sản xuất với khoa học kỹ thuật và đời sống con người trong môi trường nhân loại ngày càng văn minh, hiện đại. Thứ hai, Hoạt động du lịch vừa phải thỏa mãn nhu cầu vật chất, vừa thỏa mãn nhu cầu tinh thần của khách hàng. Song song với sự tiến bộ xã hội, đời sống con người ngày càng cao và nhu cầu cuộc sống cũng ngày càng lớn. Du lịch là một trong những nhu cầu không thể thiếu tỏng đời sống hiện đại, với ý nghĩa là yếu tố cần thiết trong việc nghỉ ngơi, nhằm tái tạo sức lao động của con người. Khi tham gia quá trình du lịch, khách du lịch thường có nhu cầu nhiều hơn thường ngày do tâm lý hưởng thụ để bù đắp xứng đắp xứng đáng cho thời gian làm việc. Ngành kinh doanh du lịch và địa chỉ để khách hàng chuyển yêu cầu của họ đến. Việc cung cấp các sản phẩm vật chất để thỏa mãn nhu cầu ăn, ở, nghỉ ngơi của khách sạn luôn gắn liền với sự tiện nghi và bản sắc văn hóa quốc gia,.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> địa phương. Tính độc đáo ở mỗi nơi khách đến là một trong những động lực tạo nên chuyển du lịch. Để khách hàng được thỏa mãn các nhu cầu khi đi du lịch, nhà kinh doanh và nhà quản lý cần quan tâm tới việc phối hợp với các nghành sản xuất vật chất, thương mại, vận tải, các cơ sở văn hóa...Đến lượt nó các ngành phụ trợ này lại mang về nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia cũng như góp phần thu hút nhiều khách hơn cho du lịch. Một số nhà nghiên cứu cho răng du lịch vừa có tính chất như một ngành dịch vụ khi nó tạo ra sản phẩm vô hình thỏa mãn trực tiếp nhu cầu từng khách hàng cụ thể, vừa có tính chất của một ngành sản xuất vật chất khi nó cung cấp các sản phẩm hàng hóa hữu hình cho cuộc du lịch của khách hàng như thế biến các món ăn chẳng hạn, vừa có tính chất của ngành văn hóa khi thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của khách hàng bằng những nét văn hóa dân tộc hay địa phương. Thứ ba, hoạt động du lịch có ảnh hưởng ngoại biên đa chiều tới phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, ở những nước, hoạt động du lịch không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn đem lại giá trị chính trị, văn hóa, xã hội to lớn. Đơn cử, ở Việt Nam, vào những năm của thập kỷ 90 thế kỷ trước, trong chương trình mục tiêu xúc tiến du lịch tại các quốc gia trên thế giới, tại một số nước phát triển của châu âu, có những cá nhân đã từng đặt câu hỏi rằng: “đất nước Việt Nam của các bạn còn chiến tranh không”. Điều này cho thấy rằng với cách tiếp cận thông qua hoạt động du lịch, sẽ đem lại những nhìn nhận, hiểu biết chính trị, xã hội, thậm chí, về thế chế và nước của các quốc gia mà các hoạt động kinh tế khác không đem lại. Du lịch còn được gọi là ngành công nghiệp không khỏi với hàm ý ít gây ô nhiễm môi trường sống. Trong những năm 1960, với chiến lược “xanh”, Thái Lan đã có khởi động hệ thống du lịch một cách rầm rộ và mang về cho.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> quốc gia này nguồn thu ngoại tệ lớn. Tuy nhiên, không thể không kể đến những ảnh hướng tiêu cực cho xã hội và môi trường do đẩy mạnh quá đà hay buông lỏng quản lý hoạt động ngành công nghiệp này. Bài học đắt giá của các nước đi trước là cánh báo cho Việt Nam về công tác QLNL trong lĩnh vực du lịch. 1.1.4 Vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân 1.1.4.1 Du lịch đóng góp phần quan trọng vào việc tạo ra giá trị mới. Sản phẩm du lịch được tiêu dùng trực tiếp, không có hàng hóa trung gian. Một đặc điểm quan trọng khác biệt giữa việc tiêu dùng du lịch và tiêu dùng các hàng hóa khác là việc sản xuất ra chúng. Thực tế, để thực hiện được quá trình tiêu thụ sản phẩm, người hưởng thụ được đưa đến nơi sản xuất và tiêu dùng tại chỗ. Vì vậy, sản phẩm du lịch trực tiếp đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội với tư cách giá trị gia tăng. 1.1.4.2 Du lịch tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế khác Du lịch ngày nay không chỉ là ngành kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế qua mà còn là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác thông qua việc tiêu dùng của du khách trong chuyến du lịch, trước hết, ở nhu cầu vận tải khi khách hàng di chuyến tới các địa điểm du lịch. Tiếp theo là việc tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa cho nhu cầu sinh hoạt tại nơi du lịch, gồm chỗ ở, các vật dụng sinh hoạt, thực phẩm ...vv. Bên cạnh đó, không thể không nói tới các nhu cầu tinh thần. nỗi bật trong lĩnh vực này phải kể đến các đặc trưng văn hóa, xã hội của địa phương. Điều này liên quan đến việc đầu tư các khu vui chơi, giải trí, bãi tắm, tuyên truyền và khai thác các di tích, danh lam thắng cảnh và không loại trừ những sản phẩm truyền thống. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, đặc biệt nghệ thuật truyền thống cũng có cơ hội phát triển. Điều thú vị ở đây là, phần lớn khách du lịch là những người có mức sống cao. Khái niệm khách du lịch vì thế thường gắn liền với khả năng chi trả.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> cao. Việc phát triển các ngành sản xuất, các hoạt động văn hóa theo hướng phục vụ du lịch cũng vì thế tất yếu phải hướng vào vấn đề chất lượng và tính đặc sắc, tính độc đáo của sản phẩm. 1.1.4.3 Du lịch thúc đẩy lưu thông hàng hóa- tiền tệ giữa các vùng miền trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu chi của khu vực và của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước mà họ đi du lịch, làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước đến. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động du lịch làm xảo động hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hóa. Du lịch có tác dụng điều hòa thu nhập từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kém phát triển hơn, kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng sâu, vùng xa. Khi khu vực nào đó trở thành một điểm du lịch, du khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hóa tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số lượng lớn vật tư, hàng hóa các loại kích thích mạnh mẽ các ngành kinh tế có liên quan, đặc biệt là nông nghiệp, công nghiệp chế biến..vv. Bên cạnh đó, các hàng hóa vật tư cho du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp và hấp dẫn. Điều này có nghĩa là yêu cầu hàng hóa phải được sản xuất trên mọi công nghệ cao, trình độ tiên tiến...vv Để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của du khách. So với ngoại thương ngành du lịch cũng có nhiều ưu thế nỗi bật. Du lịch xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu, nên tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người mua không quá cao. Ở Việt Nam với chủ trương mở cửa “làm bạn với tất cả các nước” nên kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng, thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp nước ngoài vào hợp tác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập cao, thúc đẩy nền kinh tể phát triển của đất nước tăng trưởng với nhịp độ cao, cùng với sự phát triển nền kinh tế của đất nước ở.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, giá cả trong nước ổn định, chỉ số của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành du lịch nói riêng. 1.1.4.4 Du lịch góp phần đẩy nhanh quá trình mở cửa nền kinh tế: Du lịch quốc tế làm tăng du lịch ngoại tệ của đất nước ( ở một số nước, con số này vượt quá 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước), đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán. Việc bán hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch nước ngoài là một hình thức xuất khẩu tại chỗ. Việc bán hàng hóa cho khách du lịch nước ngoài mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với xuất khẩu thương mại vì giá bán xuất khẩu thương mại là giá bán buôn còn giá bán cho khách du lịch nước ngoài trong phạm vi biên giới lãnh thổ của quốc gia là giá bán lẻ và không phải chịu thuế quan hàng rào quốc tế. Việc bán hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch trên tiết kiệm đáng kể các chi phí đóng gói, bảo quản, chi phí vận chuyển, thuế xuất nhập khẩu, thời gian quay vòng vốn nhanh, lãi suất cao vì nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp và có khả năng chi trả cao và kết quả là tiền nhàn rỗi trong lưu thông có thế được sử dụng vào các mục đích khác trong nên kinh tế quốc dân. Hàng hóa xuất khẩu phải chi trả tiền bảo hiểm hàng hóa cho các cơ quan bảo hiểm. Hàng hóa xuất khẩu tại chỗ qua kênh du lịch thì sự rủi ro hạn chế hơn, tỉ lệ cho bảo hiểm ít hơn vì thời gian vận chuyển ngắn hơn, hàng hóa được bảo quản hơn, ít rủi ro hơn. Các hàng hóa bán cho du khách quốc tế đa phần không phải là hàng hóa thuộc đối tượng xuất khẩu của ngoại thương, trong trường hợp này du lịch đã mở rộng danh sách các mặt hàng xuất khẩu. Du lịch còn góp phần khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thông qua du lịch, nhà đầu tư nước ngoài dễ tiếp cận hơn với thực tiễn nước sở tại. Nhờ đó đẩy nhanh hơn việc ra quyêt định đầu tư, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Du lịch góp phần củng cố và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Các tổ chức du lịch quốc tế mang tính chính phủ và phi chính phủ có tác động tích cực trong việc hình thành các quan hệ kinh tế quốc tế. Phát triển du lịch quốc tế giúp cho giao thông quốc tế phát triển. Lượng hành khách được coi là yếu tố quyết định cuối cùng tới việc mở các tuyến giao thông mới, số lượng, lịch trình các chuyến bay hay tàu biến và các phương tiện giao thông khác. 1.1.4.5 Du lịch góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia Ngoài những tác trực tiếp tới kinh tế, văn hóa, du khách còn có ảnh hưởng ngoại hiện tích cực tới đời sống xã hội có thể nêu một số nét điển hình như sau: Thứ nhất, du lịch tạo việc làm, thu nhập cho xã hội nói chung địa phương nói riêng góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới, tổng số lao động trong các hoạt động du lịch và liên quan chiếm 10,7% so với tổng số lao động toàn cầu. Cứ 2,5 giây du lịch tạo ra một việc làm mới và trong số 8 lao động thì sẽ có 1 lao động trong ngành du lịch. Một phòng khách sạn 3 sao trung bình trên thế giới hiện nay thu hút 1,3 lao động và khoảng 5 lao động trong các dịch vụ bổ xung. Số lượng lao động trong các dịch vụ bổ xung có thể tăng lên nếu dịch vụ bổ chất lượng cao và phong phú về chủng loại. Thứ hai, du lịch góp phần làm thay đổi bộ mặt địa phương nhờ những công trình đầu tư phục vụ du lịch. Hơn nữa, giao lưu với khách du lịch góp phần nâng cao dân trí địa phương. Du lịch làm giảm quá trình đô thị hóa và sự di cứ đến các thành phố, đô thị lớn. Thông thường tài nguyên du lịch thiên nhiên thường có ở các vùng xa xôi héo lánh như các vùng núi, vùng biển hay các vùng xa xôi héo lánh khác. Khai thác tài nguyên phát triển du lịch ở các vung này làm cải thiện cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt của vùng, địa phương..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Phát triển du lịch làm tăng lòng yêu Tổ quốc, lòng tự hào dân tộc. Du lịch góp phần bảo tồn, tôn tạo phát triển tài nguyên các giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh việc bảo tồn, tôn tạo tài nguyên các giá trị văn hóa truyền thống có các điều kiện phục hồi phát triển. Du lịch làm tăng tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc, tăng cường giao lưu văn hóa và sự hiểu biết giữa các dân tộc, các nền văn hóa. Thứ ba, du lịch góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương nhờ gián tiếp làm phát triển một số ngành nghề phục vụ du lịch, đặc biệt các ngành, nghề truyền thống sử dụng nhiều lao động và có giá trị văn hóa dân tộc Thứ tư, du lịch tạo điều kiện cho việc hình thành các hợp đồng kinh tế mới, nhờ đó phát triển thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh. Điều này đặc biệt cần thiết trong điều kiện một nền kinh tế chưa phát triển như nước ta. Thứ năm, du lịch góp phần khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực tiềm ẩn của quốc gia và địa phương. Bằng việc thu hút khách du lịch, ngoài nguồn thu từ dịch vụ du lịch của các cơ sở kinh doanh hình thức, địa phương còn có cơ hội phát triển các cơ sở sản xuất hàng truyền thống, dân cư trên địa bàn có thu nhập từ các hoạt động phụ trợ như biểu diễn văn hóa truyền thống, bán hàng, cho thuê nhà nghỉ...vv. Ngày nay, có hình thức ,các hình thức du lich sinh thái với những hoạt động nghỉ ngơi,giải trí,thể thao ,kết hợp khám phá cảnh quan môi trường đang trở thành mốt.Đây thực sự tạo điều kiện cho tất cả các địa phương khai thác được nguồn thu từ các di tích lịch sử ,tôn giáo ,di tích kiến trúc ,địa hình và môi trường. Du lịch với những thế mạnh của nó đang ngày càng được nhiều nhà kinh doanh chú ý, thị trường du lịch vì thế trở nên sôi động ở tất cả các dẳng cấp .Song ,mặt trái của hoạt động du lịch cũng làm phat sinh nhiều vấn đề trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội . Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch vì thế được đánh giá là công tác hết sức khó khăn,phức tạp..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> 1.2 Quản lý nhà nước về du lịch 1.2.1. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước về du lịch Quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh liên tục bằng quyền lực pháp luật nhà nước dựa trên cơ sở nền tảng của thể chế chính trị nhất định đối với các quá trình, các hoạt động du lịch của can người để duy trì và phát triển ngày càng cao các hoạt động du lịch trong nước và du lịch quốc tế nhằm đạt được các hiệu quả kinh tế xã hội do nhà nước đó đặt ra. Quản lý nhà nước đói với hoạt động du lịch là phương thức chỉ đạo, ddiieuf hành, điều chỉnh các mối quan hệ thông qua hệ thống pháp luật, các chủ thể quản lý (cơ quan quản lý được nhà nước ủy quyền)tác động tới các đối tượng bị quản lý tham gia trong quá trình kinh doanh nhằm định hướng cho hoạt đọng du lịch theo sự vận động, phát triển có mục đích. Những lý do chủ yếu để khẳng định sự cần thiết khách quan của việc quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch bao gồm: Thứ nhất, du lịch cần được phát triển nhanh và hiệu quả. Tạo ra mức lợi nhuận hấp dẫn, du lịch thu hút được số lượng lớn nhà đầu tư, cũng khó thống kê đầy đủ số lượng cơ sở kinh doanh nhỏ. Áp lực cạnh tranh khốc liệt trên thị trường du lịch ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ doanh nghiệp thất bại và rút khỏi thị trường, gây tình trạng bất ổn trong kinh doanh và phân bboos nguồn lực kém hiệu quả. Đẻ tạo ddiieuf kiện cho hoạt động du lịch phát triển thuận lợi, cung cấp thông tin và tư vấn trong đầu tư kinh doanh du lịch, cần thiết có sự điều tiết từ phía cơ quan quản lý nhf nước có thẩm quyền. Thứ hai, du lịch cần có sự phối hợp đòng bộ với các nghành khác để dạt mục tiêu phát triển bền vững. Với tư cách một ngành tạo ra giá trị mới ,đóng góp vào tổng sản phẩm xã hội ,du lịch cần được phat triển phù hợp định hướng phát triển thống nhất.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> của quôc gia . Hoạt động du lịch là bộ phận cấu thành không tách rời trong tổng thể nền kinh tế. Một mặt, du lịch góp phần thúc đẩy phát triển các nghành sản xuất, thương mại, dịch vụ khác có liên quan, một mặt, du lịch chỉ có thể phát triển tốt khi các nghành đó đáp úng được các nhu cầu của khách du lịch. Quan hệ tương hỗ này giúp cho du lịch có thu hút được khách hàng không phải một ma nhiều lần đến với điểm du lịch, và hơn nữa, đó là mức thu cho quốc gia hay địa phương từ các khoản chi tiêu cho các dịch vụ phụ trợ của khách du lịch. Thứ ba, quản lý nhà nước còn năm hạn chế ảnh hưởng ngoại hiện tiêu cực từ hoạt động du lịch trong giới hạn cho phép. Kinh doanh du lịch và hoạt động của khách du lịch luôn tiềm ẩn nguy cơ gây phương hại tới địa phương và quốc gia. Trước hết, các hoạt động trong sinh hoạt thường nhật của khách du lịch làm biến đổi cảnh quan môi trường. Chỉ riêng sự có mặt của con người cũng làm mất đi nhiều nét đặc trưng của thiên nhiên cả về thực và động vật, cộng thêm rác thải và các hành vi vô ý thức rất dễ ô nhiễm cho điểm du lịch. Tiếp đến, mức viếng thăm các di tích quá cao cũng dễ cũng gây hiện tượng xuống cấp. Ngoài ra, không thể không kể đến các ảnh hưởng về mặt xã hội, dịch tễ. Về mặt kinh tế, tác động rõ ràng nhất là tình trạng lạm phát cục bộ hay giá cả hàng hóa tăng cao, nhiều khi vượt quá khả năng chi tiêu của người dân địa phương, nhất là của những người mà thu nhập của họ không liên quan đến hoạt động du lịch. 1.2.2. Các nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về du lịch 1.2.2.1 Mục tiêu của quản lý nhà nước về du lịch Mục tiêu tổng quát là phát triển du lịch bền vững. Trong đó, du lịch phải đóng góp phần quan trọng vào tổng sản phẩm xã hội, giải quyết việc làm, góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện thu nhập và mức.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> sống của dân cư, xóa đói giảm nghèo, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước ở các cấp để tạo nguồn cho các khoản đầu tư xây dựng địa phương, bảo vệ tài nguyên môi trường. Như vậy, du lịch không chỉ nhằm vào mục tiêu kinh tế, du lịch phải góp phần ổn định chính trị, quốc phòng, bảo vệ những giá trị vô hình khác của quốc gia và địa phương. 1.2.2.2 Yêu cầu đối với công tác quản lý nhà nước về du lịch Xuất phát từ tính chất của loại hoạt động kinh doanh du lịch, công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đặc thù này cần đáp ứng những yêu cầu sau: Thứ nhất, đảm bảo ổn định và phát triển thị trường du lịch theo hướng khai thác tối ưu các nguồn lực quốc gia và địa phương. Thứ hai, quản lý và hướng các hoạt động kinh doanh du lịch đúng pháp luật, cạnh tranh lành mạnh, có hiệu quả. Thứ ba, đảm bảo ổn định chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn, giữ gìn cảnh quan, môi trường , các di tích, điểm du lịch. Thứ tư, phát triển các ngành phụ trợ một cách cân đối và đáp ứng các tiêu chuẩn hiện đại. Thứ năm, hướng hoạt động du lịch vào việc thực hiện các mục tiêu quốc gia và địa phương. 1.2.2.3 NHững nội dung chủ yếu của công tác QLNN về du lịch Thứ nhất, quản lý nhà nước về định hướng, chiến lược phát triển du lịch Kinh doanh du lịch là công việc trước hết thuộc về doanh . Ngày nay, công việc kinh doanh không đơn giản. Những toan tính ban đầu khác xa với thực tiễn gây hiện tượng di chuyển đầu tư lòng vòng, phá sản và nhiều hậu quả khác. NGười gánh chịu cuối cùng là xã hội. Có thể điểm một số thiệt hại chủ yếu do đầu tư không hiệu quả: 1- lãng phí tài nguyên ( đất và các vật liệu.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> có nguồn gốc từ tài nguyên) cho các công trình, ví dụ điển hình là hàng loạt ngôi chùa giả bị phá đi do sự yếu kém trong quản lý nhà nước về du lịch; 2lãng phí vốn (tất nhiên); 3- lãng phí nguồn nhân lực, và do đó gây thiệt hại về thu nhập cho người lao động khi doanh nghiệp rút khỏi thị trường; 4-gây ảnh hưởng tiêu cực về mặt xã hội và y tế. Ví dụ một số cơ sở kinh doanh du lịch đã có những hoạt động trái pháp luật để bù đắp doanh số và thu hút khách hàng, số khác có hành vi lừa đảo khách hàng, vv... Thiếu thông tin, không đủ điều kiện và năng lực kinh doanh là những nguyên nhân chủ yếu của các doanh nghiệp này. Thực tế có thế giải quyết được khi có “ bàn tay chính phủ” phối hợp với “ bàn tay vô hình” của thị trường bằng việc xây dựng định hướng phát triển ngành du lịch, các quy hoạch, kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn với nội dung tìm con đường đi nhanh nhất, có hiệu quả nhất. Thứ hai, quản lý nhà nước đối với các cơ sở hoạt động kinh doanh du lịch, gồm các doanh nghiệp và các cơ sở kinh doanh ngành kinh tế này. Thị trường là phương thức tốt để phân bố một cách có hiệu quả các nguồn nhân lực khan hiếm của xã hội. Nhưng thị trường không tự nó là một phương thức hoàn hảo. Thực tế, sự thiếu thông tin, phân tích và dự báo không xác các dữ liệu từ thị trường đã đưa không ít doanh nghiệp đến bờ vực phá sản. trong trường hợp các sự bất chấp những lợi ích chung của xã hội để mưu cầu lợi nhuận tối đa. Nhà nước với tư cách người quản lý vĩ mô nền kinh tế có thể can thiệp để sửa chữa những khuyết tật cố hữu của thị trường. Thị trường du lịch luôn hấp hẫn nhà kinh doanh ngay từ khi mới ra đời. Mức độ cạnh tranh trong thị trường này gay gắt cao độ. Trong điều kiện một nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, áp lực cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Hoạt động vô chính phủ, vi phạm các lợi ích cộng đồng, xâm phạm và lãng phí tài nguyên thiên nhiên, các công trình lịch sử, di tích văn hóa,v.v.luôn tiềm ẩn trong quá trình mỡ rộng phạm vi hoạt động kinh doanh du lịch là tạo điều.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> kiện thuận lợi nhất cho khách bao gồm từ cơ sở vật chất tới các phương tiện đi lại, nghe, nhìn, môi trường cảnh quan và các đối tượng hưởng thụ khác. Trong khi cố gắng thõa mãn nhu cầu của khách, doanh nghiệp thường bỏ qua việc bảo vệ và phát triển nguồn lực cho du lịch. mâu thuẫn này chỉ có thể được giãi quyết thông qua việc hoạch định và triển khai các chính sách từ phía Chính phủ. Quan hệ doanh nghiệp du lịch – nhà nước mà đại diện là các cơ quan quản lý ngành, cơ quan quản lý chức năng trong nền kinh tế thị trường vì vậy trở nên một mắt xích quan trọng trong hoạt động kinh doanh du lịch. Thứ ba, QLNN đối với luông khách và hoạt động củ khách du lịch. Thu hút khách là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Song này vượt qua khả năng của họ khi tồn tại trong một thể chế nhất định. Doanh nghiệp có các kênh marketinh của riêng họ, nhưng không được vượt qua phạm vi cho phép về mặt hành chính. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp hay gián tiếp khơi thông các kênh đó bằng chính sách. Trong nước, đó là mở mang giao thông là tự do đi lại, tự do cư trú, nới rộng hành lang pháp lý về kinh doanh du lịch,...vv. Đối với nước ngoài là tham gia các điều ước quốc tế về việc đi lại,cư trú của công dân, khuyến khích đầu tư, cải cách các thủ tục hành chính trong xuất, nhập cảnh và xuất khẩu, quảng bả hình ảnh quốc gia...vv. Ngoài ra, còn bao gồm việc quản lý số lượng, thành phần, quốc tịch các luồng khách...vv. Hoạt động của khách du lịch có ảnh hưởng lớn đến môi trường, kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia hay địa phương nơi họ đến. Đặc biệt trong trường hợp khách nước ngoài còn liên quan đến các vấn đề văn hoá. Quản lý luồng khách, các vấn đề liên quan đến nhu cầu của khách để vừa đảm bảo phục vụ khách tốt hơn, tăng khả năng thu hút lượng khách, vừa thực hiện được các chức năng của quản lý nhà nước về con người và trật tự, an toàn xã hội..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Công việc này không thể tự doanh nghiệp thực hiện và trên thực tế họ không có khả năng, cũng không muốn làm. Với chức năng quản lý nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra các chính sách, quy chế quản lý thích hợp có tác dụng buộc các doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc hợp tác với nhà chức trách trong việc bảo vệ các lợi ích chung. Thứ tư, quản lý nhà nước đối với các tuyến, các điểm du lịch Mục đích của hầu hết các tuyến du lịch là kết hợp giữa nghỉ ngơi, hưởng thụ với tham quan. Các tuyến, điểm du lịch được hình thành và phát triển làm phong phú thêm danh mục nhu cầu cho khách. Duy trì, bảo tồn các tuyến, điểm du lịch và khai thác đúng mức các cơ sở đó là một trong những nhiệm vụ thuộc thẩm quyền các cơ quan quản lý nhà nước. Song, sự tổn hại tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường trong kinh doanh du lịch không giống như việc khai thác tài nguyên hay làm ảnh hưởng đến tài nguyên, môi trường do sản xuất vật chất gây r. Du lịch không trực tiếp làm cạn kiệt nguồn tài nguyên do phá núi, chặt cây hay khai khoáng. Sự tiếp cận của con người (du khách), chỉ giản tiếp làm tổn hại tài nguyên, môi trường, nhưng khi bị tác động với tần suất cao thì sự tổn hại này rất nhanh chóng trở thành thảm hoạ cho đối tượng bị xâm hại. Ví dụ, lượng khách tham quan đông, liên tục làm biến mất các bãi chim tự nhiên, làm giảm lượng động vật hoang dã trong rừng hay biển và ngay cả vườn thú do môi trường sống của chúng bị thay đổi. Các di tích lịch sử, văn hoá bị xâm hại bởi sự hiếu kỳ của du khách ( ngày cả rùa đá, bia cũng bị mòn, bị biến dạng khỏi dáng vẻ ban đầu do bàn tay con người xoa lên). Bên cạnh đó, rác thải từ sinh hoạt của con người, việc mở rộng các tuyến giao thông đến các điểm du lịch làm biến đổi môi trường, tăng lưu lượng xe cộ và khí thải từ động cơ của chúng cũng góp phần không nhỏ vào việc biến đổi khí hậu, môi trường của điểm du lịch. Ngoài ra, sự di chuyến của du khách và các đồ dung, phương tiện cá nhân của họ còn góp phần vào việc phát tán dịch bệnh. Không những thế, lối sống của.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> địa phương có thể bị thay đổi theo chiều hướng thiếu lành mạnh, nhất là đối với các thế hệ trẻ. Các chính sách, quy định về khai thác, bảo tồn và phát triển các tuyến điểm du lịch, vì vậy, phải song hành với việc khai thác thực tế để đảm bảo nuôi dưỡng nguồn lực cho du lịch. Thứ năm, điều tiết việc phối hợp giữa các ngành, các cơ quan quản lý thuộc thẩm quyền có liên quan đến du lịch. Bao gồm các ngành vận tải, thương mại, thông tin, văn hoá, thể thao và cả các ngành sản xuất vật chất. Sự phát triển đồng bộ các cơ sở thuộc nhiều ngành như vậy đảm bảo cho doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc thoả mãn nhu cầu khách hàng. Ngược lại, lượng khách mà ngành du lịch mang đến chính là lượng cầu cho thị trường địa phương. Song, nếu không quan tâm đến việc phát triển cơ sở sản xuất hàng truyền thống, hàng xuất khẩu đặc thù hay các mặt hàng thế mạnh khác của quốc gia hay địa phương, nếu không chú ý điều tiết ngành hàng, xuất xử hàng, sẽ rơi vào tình trạng bán hàng hộ cho nước ngoài hoặc bán đỗ bán tháo các nguồn tài nguyên, các di sản quý của quốc gia. Bằng chứng là, hiện nay không ít hàng hoá bán cho du khách là hàng nhập khẩu (bao gồm cả nhập lậu) từ Trung Quốc, Hàn Quốc như các loại thuốc bắc, nấm linh chi, các tân dược có nguồn gốc cây cỏ Bắc Á, hàng tiêu dùng công nghiệp khác như lụa tơ tằm Trung Quốc và các sản phẩm từ chúng, ngoài ra, thực đơn các khách sạn hàng sang sử dụng chủ yếu thực phẩm Thái Lan, hoa tươi Hà Lan, sữa các sản phẩm từ sữa nhập khẩu từ Châu Âu hay Châu Úc, ngoài ra, một số cổ vật quý hiếm, kim khí quý, đá quý cũng thất thoát theo con đường du lịch. Một hoạt động hết sức cần thiết nữa cho du lịch là văn hoá, nghệ thuật, y học dân gian và địa phương. Đây là phương thức thoã mãn nhu cầu tìm tòi của khách du lịch đồng thời tranh thủ tuyên truyền về đất nước, con người và văn hoá lại có nguồn thu..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Phối hợp giữa du lịch với truyền bá văn hoá, nghệ thuật dân tộc, phát triển các ngành nghể thủ công, mỹ nghệ, các ngành truyền thống đảm bảo cả về chất lượng và mẫu mã, cộng với kỹ nghệ markerting, địa phương sẽ có nguồn thu vững chắc từ du lịch, giải quyết tốt vấn đề việc làm và cả các vấn đề xã hội. Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch Với tư cách là người sử dụng lao động, doanh nghiệp tiến hành tuyển chọn lao động dự trên các yêu cầu về chuyên môn công việc. Trong khi đó, người lao động rất khó biết các yêu cầu của từng doanh nghiệp cụ thể và số lượng lao động họ cần tại những thời điểm nhất định. Càng trở nên khó khăn hơn về phía người lao động khi họ chưa quyết định làm việc trong ngành kinh tế quốc dân nào. Vì thế, năng lực lao động của họ thường chưa đáp ứng yêu cầu của việc tuyển dụng là trình độ ngoại ngữ của người lao động không đi đôi với trình độ nghiệp vụ du lịch. Thường người lao động chỉ có một trong hai yêu cầu trên, kể cả người có bằng cử nhân. Tiếp đến là hạn chế của họ về những hiểu biết rộng cần thiết cho công tác du lịch, như kiến thức về lịch sử quốc gia địa phương, về văn hoá nước xuất xứ của khách du lịch ( không ít cử nhân kém hiểu biết ngay cả văn hoá truyền thống Việt Nam). Thực tế, không ít doanh nghiệp phải tự đào tạo một mặt còn hạn chế đó cho lao động của mình. Nhưng mặt trái của vấn đề là ở chỗ chi phí cao, không chính quy và luôn kèm theo rủi ro sau đào tạo. Rủi ro đầu tiên là năng lực của người lao động, không tiếp thu đủ lượng kiến thức cần thiết hoặc không sử dụng được vào thực tiễn, rủi ro tiếp theo là họ sẵn sàng rời bỏ doanh nghiệp khi có cơ hội, trong điều kiện nghành du lịch thiếu lao động có trình độ như hiện nay, thì nguy cơ này lớn hơn nguy cơ thứ nhất. Đưa ra một phương thức phù hợp để phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch thuộc về nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước. Đào tạo chính quy, bài bản, có kiểm định chất lượng bằng các tiêu chuẩn thống nhất,.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> sàng lọc qua thực tập, điều đó chỉ có thể được thể hiện bởi một tổ chức ngoài doanh nghiệp, đó là hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp. Đứng trên và điều hành công việc này là nhà nước với tư cách nhà quản lý ở tầm vĩ mô đối với tổng thể nền kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, nhiệm vụ quản lý nhà nước về du lịch tập trung vào một số điểm sau đây: Một là, tổ chức công tác nghiên cứu, dự báo, về thị trường, tiềm năng tài nguyên du lịch Hai là, xây dựng cơ chế, chính sách phát triển phù hợp, và giám sát việc thực hiện nhằm khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động du lịch phát triển theo mục đích, định hướng chung phù hợp với nhu cầu của khách du lịch; Ba là, tạo môi trường pháp lý rõ ràng, thông thoáng, ổn định và phù hợp với các thông lệ quốc tế cho hoạt động du lịch phát triển được năng động (bán chất của hoạt động du lịch là rất năng động) nhưng có tiến trình cụ thể; ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kinh tế kỹ thuật hướng dẫn chuyên ngành nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Bốn là, hỗ trợ tạo điều kiệ để phát triển đa dạng các loại hình du lịch; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển về nhiều mặt: Quy hoạch, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực...trong ngành du lịch. Năm là, giải quyết công bằng về lợi ích giữa các bên có liên quan cũng như tiến hành xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực du lịch. Với các quan điểm chủ đạo này, những công việ cụ thể của quản lý nhà nước về du lịch đã được xác định là: - Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển du lịch..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> - Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động du lịch - Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch - Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ - Tổ chức điều tra, đáng giá tài nguyên du lịch để xây dựng quy hoạch phát triển du lịch, xác định khu du lịch,điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch - Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; hoạt động xúc tiến du lịch ở trong nước và nước ngoài. - Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước về du lịch - Cấp thu hồi giấy phép, giấy chứng về hoạt động du lịch. - Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về du lịch. 1.3 Kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch ở một số quốc gia 1.3.1 Kinh nghiệm QLNN về du lịch của một số nước trên thế giới Kinh doanh du lịch hàng đầu thế giới thuộc về các quốc gia công nghiệp phát triển. Những thành công của họ rất lớn lao và đã trở thành hình mẫu cho toàn thế giới. Khác nhau về điều kiện tự nhiên, địa lý, lịch sử, văn hoá Việt Nam vẫn có thể học hỏi từ họ rất lớn lao và đã trở thành hình mẫu cho toàn thế giới. Khác nhau về điều kiện tự nhiên ,địa lý ,lịch sử ,văn hoá ,Việt Nam vẫn có thể học hỏi từ họ nhiều bài học quý giá ,truớc hết trong nghệ thuật kinh doanh du lịch ,tiếp đến là tổ chức qảun lý ,lịch sử ,văn hoá ,Việt Nam vẫn có thể học hỏi từ họ nhiều bài học quý giá,trước hết trong nghệ thuật kinh doanh du lịch ,tiếp đến là tổ chức quản lý nghành kinh tế này. Tuy nhiên ,trong luận văn này ,tác giả muốn giới thiệu một số nét chủ yếu trong tổ chức quản lý ngành du lịch ở một số nước có điểu kiện tương đồng trong khu.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> vực. Những thành công và thất bại của họ đã trải qua sẽ có thể là của Việt Nam ngày mai. Nhưng nếu biết tận dụng lợi thế đi sau, Việt Nam sẽ tránh được nguy cơ và cái giá phải trả cho thành công. 1.3.1.1 Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch Việc giao cho cơ quan nào thẩm quyền quản lý về du lịch khá khác nhau giữa các nước. Điều đó quan niệm của chính phủ về thực tế của quốc gia quyết định. Điểm chung thứ nhất của tất cả các quốc gia là đều trao cho môt cơ quan nhà nước thẩm quyền quản lý lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm này. Tiếp đến, việc giao thẩm quyền cho cơ quan quản lý du lịch ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào yêu cầu, điều kiện, nội luật và có thể thay đổi được theo nhu cầu và đặc thù quản lý kinh tế của các nước. Ví dụ, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Thụy Điển là Ủy ban du lịch thuộc Bộ du lịch – Thể thao và thanh niên; Nhật Bản: Ban du lịch thuộc Bộ Giao thông vận tải; Thái Lan: Bộ du lịch thể thao; Malaysia: Bộ văn hóa – Nghệ thuật và Du lịch, hiện nay là Bộ Du lịch; Trung Quốc: Cục Du lịch Quốc gia Cộng hòa nhân dân Trung Hoa dưới sự chỉ đạo của Quốc Vụ viện ( Chính phủ); Hoa kỳ: Cục du lịch và Lữ hành Mỹ trực thuộc Bộ thương mại; Canada: Cơ quan Du lịch Quốc gia Canada thuộc Bộ Công nghiệp – khoa học và Công nghệ; Úc: Ủy ban du lịch nằm trong Bộ thể thao – Giải trí và Du lịch; New Zealand: Cơ quan quản lý du lịch quốc gia New Zealand thuộc Bộ du lịch và Công cộng; Vương quốc Anh: Cục du lịch Anh trực thuộc Bộ việc làm Pháp: Bộ giao thông, thiết bị nhà ở và du lịch; Phần Lan: Văn phòng du lịch Phần Lan thuộc Bộ thương mại; Fiji: Bộ kinh tế, du lịch, di sản và Hàng không dân dụng. 1.3.1.2 Một số kinh nghiệm QLNN về du lịch ở các nước trong khu vực a. Thái Lan: Hầu hết các quốc gia trong khu vực đều chú trọng phát triển du lịch nhờ được thiên nhiên ưu đãi về các điều kiện tự nhiên và khí hậu. Vào những năm 1960, Thái Lan với chiến dịch Xanh đã nỗi bật lên như một quốc gia.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> hàng đầu trong khu vực du lịch. Thuật ngữ “ Ngành công nghiệp không khói” được ra đời để mô tả đầy đủ quy mô và kỹ nghệ kinh doanh du lịch ở đất nước Chùa Vàng này. Khách đỗ về đây từ khắp nơi trên thế giới nhờ giá rẻ, những ấn tượng mới trong phục vụ và văn hóa phương đông. Nhờ các dự án đầu tư tốn kém, Thái Lan có những khu du lịch nỗi tiếng thế giới. Với chủ trưng chú trọng vào kinh doanh lớn, lợi dụng quy luật lợi thế theo quy mô, Thái Lan nhanh chóng đáp ứng nhu cầu mọi mặt của một lượng khổng lồ du khách, và cũng thu về nguồn ngoại tệ tương ứng. Du khách đến Thái Lan không chỉ đươc hưởng thụ về vật chất mà còn cả được thưởng thức nghệ thuật dân gian, tham quan đền chùa và các di tích, tắm biến với đầy đủ tiện nghi, mà còn mua sắm thoải mái. Hàng hóa xuất khẩu tại chỗ của nền kinh tế này chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng doanh số bán hàng, điển hình là hàng dệt, da, may mặc, hàng điện tử, hàng cơ khí tiêu dùng, ngoài ra du khách còn tiêu thụ một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm và các sản phẩm và các sản phẩm công nghiệp ngành chế biến thực phẩm. Ngành hàng không, tàu biển cũng vì thế được mở mang nhanh chóng. Trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính, ngành du lịch Thailand được biết đến như một thiên đường dành cho khách du lịch. Ngày nay, tuy không còn là hình mẫu số một của khu vực, ngành du lịch Thailand vẫn còn là đổi thủ cạnh tranh đáng nể của các quốc gia lân cận. Thành công của quốc gia du lịch này có được nhờ chiến lược tăng tốc vào những năm 1960-1970, các kế hoạch 5 năm liên tiếp, bắt đầu từ kế hoạch năm năm lần thứ nhất 1961-1965, đã vạch ra con đường và tiến độ thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh ở các khu vực trung tâm, mà điển hình là Bangkok, với kỳ vọng tạo sức mạnh “lan tỏa” sang các vùng lân cận. Trên thực tế Thailand đã tăng trưởng nhanh bằng mọi giá. Cái giá phải trả cho tốc độ tăng trưởng cao là các vấn đề xã hội, y tế trên toàn quốc, và vấn đề kinh tế, đời sống ở phần bên ngoài Bangkok và một số ít trung tâm du lịch của đất nước rộng lớn này..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Khi bàn về nguyên nhân của “ cái giá của tăng trưởng kiểu Thailand”, trong đó có du lịch, nhiều nhà phân tích đã cho rằng, tăng trưởng và tăng trưởng nhanh là mục tiêu duy nhất trong chiến lược phát triển của Thasiland. Tiếp đến là họ thiếu đầu tư cho các yếu tố nền tảng của tăng trưởng, mà trước hết là con người. Hoạt động kinh doanh du lịch ở đất nước này theo quy mô lớn, tập trung vào tay các tập đoàn và doanh nghiệp lớn. Trong khi Thailand chú trọng tăng trưởng trước, bình đẳng sau, thì vấn đề phân phối thu thập hoàn toàn do thị trường quyết định. Đại đa số dân chúng không được tiếp cận giáo dục. Công nghiệp, thương mại và du lịch lấn át nông nghiệp và các ngành nghề truyền thống, cũng đồng thời tước bỏ việc làm và thu thập ở hầu hết các tầng lớp dân cư. Thất nghiệp và nghèo đói đẩy người lao động chấp nhận kiếm sống bằng mọi hình thức kể cả từ bỏ đạo đức và các quy tắc cộng đồng. Ngoài ra, không thể không nói đến nguyên nhân từ sự buông lỏng trong quản lý của các cấp chính quyền. Tại Thailand, tham nhũng là hiện tượng phổ biến, luồng du khách dồi dào đã khó quản lý cộng với sự thờ ơ của chính quyền càng làm tăng các vấn đề xã hội. Khi cuộc khủng hoảng tài chính cuối những năm 1990 xảy ra ở đây, người ta không thấy ngạc nhiên vì những dấu hiệu đe dọa dường như đã lộ quá rõ ràng từ trước đó rồi. b. Malaysia Bán đảo rộng lớn với những công trình nhân tạo nổi tiếng này có chiến lược phát triển du lịch điềm đạm hơn người láng giềng Thailand của họ. Từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đầu tiên 1957 – 1970, đến các chiến lược tiếp theo, và ngày nay là “ Tầm nhìn 2020”, chính phủ Malaysia xã định con đường phát triển không nôn nóng, không ồn ào, Malaysia dần chiếm các điểm chốt trên con đường tiến tới mục tiêu trở thành nước công nghiệp phát triển. Du lịch của Malaysia được đánh giá cao trong khu vực. Sự thay đổi trong chính sách kinh tế của Malaysia được thể hiện rõ trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bắt đầu từ hình thức kinh doanh (trong mọi ngành.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> kể cả du lịch) Kiểu Ali-bab thời chưa dung hòa quyền lợi các sắc tộc (Ali là người Mã Lai, đứng tên kinh doanh, Baba là người Hoa, đứng đằng sau), kinh tế Malaysia trì trệ, phân chia đẳng cấp rõ rệt. Tình hình thay đổi khi chính phủ đưa ra chính sách kinh tế mới trong chiến lược 20 năm 1970-1990 mang tên kế hoạch triển vọng lần thứ nhất. Đến lúc này sự phân biệt sắc tộc không còn nữa, các ngành dịch vụ du lịch, thương mại, sản xuất vật chất ở bán đảo này đều được điều chỉnh bởi các chính sách dựa trên quan điểm thống nhất đó là tăng trưởng đi đôi với công bằng xã hội. Sau 20 năm thực hiện chiến lược này, Malaysia đã trở thành nước xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo lớn thứ sáu Châu Á sau Nhật Bản và 4 nền kinh tế công nghiệp hóa mới. Vì thế, khách du lịch vào Malaysia có thể hưởng thụ kỳ nghỉ tại các khu vui chơi hiện đại, tham quan các công trình nỗi tiếng, và đặc biệt kết hợp mua sắm với giá cả rất rẻ. Không thể bỏ qua chi tiết cuối cùng này vì hàng hóa của quốc gia Châu Á này đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Phát triển vững chắc bắt đầu từ nông nghiệp, trong bước thực hiện công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, đảm bảo ổn định chính trị là chìa khóa thành công của Malaysia. Tuy nhiên, đến Malaysia, du khách chưa hoàn toàn bằng lòng với các thủ tục hành chính, nạn tham nhũng và sự phiền hà vẫn chưa rời bỏ đội ngũ công thức ở đây. Vì vậy, khách có xu hướng chuyển sự chú ý dạng đảo quốc láng giềng của quốc gia này nhiều hơn, đó là Singapore. c- Singapore Ra đời muộn mằn hơn, quốc gia nhỏ bé này lại có những bước đi mạnh mẽ hơn trên tất cả các lĩnh vực. Nhờ lợi thế về vị trí địa lý, du lịch Singapore có sức hút mạnh. Nhưng một hòn đảo nhỏ bé liệu giữ chân du khách được bao lâu nêu không có phương thức triển khai độc đáo. Nét nỗi bật trong hành trình đến đảo quốc này là du khách cảm thấy được quan tâm đến từng chi tiết, đến mức người ta có cảm tưởng rằng ngành du lịch Singapore đang phục vụ du.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> khách một cách miễn phí. Những chuyến bay giá vé bằng không là ví dụ điển hình cho bí quyết thành công trong quản lý và kinh doanh du lịch của họ. Singapore đã biết kết hợp khéo léo, điều chuyến doanh thu giữa các ngành hàng không, dịch vụ, du lịch, thương mại, môi trường, văn hóa, nghệ thuật,vv... Để tạo thành một chuỗi dịch vụ du lịch – mua sắm đan xen với tiện lợi nhất cho du khách. Tất nhiên, hạn chế về diện tích không cho phép Singapore khai thác thị trường một cách tối đa. Ý tưởng hợp tác các quốc gia láng giềng được đưa ra để khai thác tối ưu tiềm năng của từng nước và hạn chế nhất những phiền hà thủ tục hành chính ở hai quốc gia nói trên. Ngày nay, một tuor du lịch Singapore – Malaysia – Thailand cung cấp cho du khách chuyến đầy thú vị. 1.3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam a. Có chiến lược phát triển ngành du lịch bền vững Phát triển du lịch phải tuân thủ một lộ trình được xây dựng trên những căn cứ khoa học. Việc nóng vội đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng du lịch đã trở thành nguyên nhân gây hiệu ứng tiêu cực về xã hội ở một số quốc gia. Chiến lược phát triển bền vững ngành du lịch phải được xây dựng phù hợp với các đặc điểm dân tộc, các nguồn lực cho du lịch, các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và địa phương. b. Phát triển du lịch kết hợp phát triển sản xuất, thương mại và dịch vụ đồng bộ. Du lịch không thể phát triển đơn độc.Các ngành phụ trợ cho nó là sản xuất vật chất, dịch vụ, thương mại, giao thông vận tải, văn hóa , nghệ thuật. Đến lượt nó, du lịch lại thúc đẩy kinh tế phát triển, gia tăng việc làm và thu nhập cho dân cư. Nếu chính phủ không chú ý tạo điều kiện du lịch và các ngành kinh tế khác phát triển tương xướng, các quan hệ kinh tế sẽ bị biến dạng, phát triển du lịch sex ở Thailand là một ví dụ. Để thực hiện được điều đó, cần có sự.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý ngành và được điều chỉnh bởi và quy định thống nhất. c. Không buông lỏng quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh du lịch của doanh nghiệp, các hoạt động của du khách, nhằm bảo vệ những giá trị quốc gia, giá trị dân tộc truyền thống. Tính đa dạng trong thành phần du khách, mục tiêu lợi nhuận tối đa của doanh nghiệp dễ dẫn đến những hậu quả bất lợi cho xã hội. Có chính sách phù hợp triển khai đồng bộ các lĩnh vực coi trọng công tác quản lý nhà nước là cơ sở để đảm bảo ổn định xã hội. d. Có chính sách bảo vệ tài nguyên, môi trường, các điểm du lịch Đây cũng là một trong những yếu tố tạo nền tảng cho phát triển du lịch bền vững. Singapore với màu xanh thảm thực vật nhân tạo giữa biến khơi là quốc gia có lượng du khách đông hơn dân số cả đảo quốc. Việc tôn tạo, gìn giữ cảnh quan thiên nhiên và chú ý phát triển các điểm vui chơi, nghỉ ngơi, giải trí là một bộ phận không tác rời du lịch. e. Phát triển du lịch rộng khắp ở các địa phương để khai thác tối ưu tiềm năng du lịch, giải quyết việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Đây là một trong những giải pháp xóa đói giảm nghẻo. Du lịch không thể đứng ngoài chiến lược phát triển của nền kinh tế, phát triển du lịch cần góp phần thực hiện mục tiêu của quốc gia. Nhiều địa phương có tiềm năng cho du lịch, biết khai thác, nuôi dưỡng tiềm năng đó là công việc của các cấp chính quyền, Kết hợp phát triển du lịch với phát triển các ngành kinh tế, địa phương có cơ hội nhanh chóng gia tăng việc làm và thu nhập cho dân cư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi bộ mặt nông thôn. Phân cấp QLNN về du lịch có thể tạo điều kiện tốt hơn cho việc triển khai công tác này ở các cấp chính quyền địa phương..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Những bài học rút ra từ thành công cũng như thất bại của các nước trong khu vực ít nhiều có tác dụng đối với công tác quản lý nhà nước về du lịch ở nước ta. Tuy không thể dập khuôn những giải pháp đã được kiểm định ở nước ngoài, song sẽ là tham khảo cho các chính sách ở nước ta..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1 Khái quát tình hình Du lịch Việt Nam và Hà Nội 2.1.1. Tiềm năng, lợi thế cơ bản của Du lịch Việt Nam Năm ở trung tâm Đông Nam Á, lãnh thổ Việt Nam vừa gắn liền với lục địa vừa thông rộng với đại dương, có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi cả về đường biển, đường sông, đường sắt, đường bộ và đường hàng không. Đó chính là tiềm năng, lợi thế và tiền đề rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển du lịch của nước ta. Bên cạnh đó, với chế độ chính trị ổn định, nguồn nhân lực dồi dào, dân tộc Việt Nam thông minh, cần cù, mến khách đó cũng là yếu tố quan trọng đảm bảo cho du lịch phát triển. Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của Việt Nam phong phú và đa dạng. Các đặc điểm đa dạng về cấu trúc địa hình biển và hải đảo, đồng bằng, đồi núi, cao nguyên đã cho Việt Nam sự đa dạng, phong phú về cảnh quan và các hệ sinh thái có giá trị để phát triển nhiều loại hình du lịch, đặc biệt là hệ sinh thái biển – đảo, hệ sinh thái sông, hồ, hệ sinh thái rừng... Tài nguyên du lịch nhân văn của Việt Nam phong phú với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong số khoảng 40.000 di tích, đến nay có hơn 2.500 di tích được Nhà nước chính thức xếp hạng. Tiêu biểu là quần thể di tích triều Nguyễn có cố đô Huế ( Thừa Thiên – Huế); đô thị cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn (Quảng Nam) đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới và sắp tới đây có thể là Hoàng Thành, Thành cổ Hà Nội ( hiện đang làm hồ sơ trình UNESCO)... Bên cạnh đó, với đặc điểm đi lên từ nước công nghiệp. Việt Nam có nhiều làng nghề và nhiều nghẻ thủ công nghiệp truyền thống với sản phẩm độc đáo; nhiều lễ hội gắn liền với các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc cùng với những nét riêng, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực được hòa quyện, đan xen tạo cho du lịch Việt Nam có nhiều điều kiện khai thác thế mạnh về du lịch văn hóa – lịch sử, làng nghề, sinh hoạt cộng đồng... Song song các hoạt động du lịch nghỉ dưỡng mạo hiểm...Việt Nam còn có rất nhiều điểm đến là các bảo tàng, các di tích hấp dẫn du khách. Thực tế cho thấy, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa để phát huy mối quan hệ này. Những năm gần đây, các bảo tàng và di tích lịch sử thu hút khá đông du khác tới tham quan bởi tới đó du khách có cơ hội tìm hiểu về truyền thống cũng như những nét văn hóa của dân tộc Việt Nam. Nhìn chung, tài nguyên du lịch Việt Nam vừa phân bố tương đối đều trong toàn quốc, vừa tập trung thành từng cụm gần các đô thị lớn, các trục giao thông quan trọng thuận tiện cho việc tổ chức khai thác, hình thành các tuyến du lịch bổ sung cho nhau giữa các vùng miền có giá trị sử dụng cho mục đích du lịch và tạo sức hấp dẫn cao đối với du khách. 2.1.2. Khái quát kết quả kinh doanh của ngành Du lịch Hà Nội giai đoạn 2003-2007 Là một trong những trung tâm du lịch trọng điểm của cả nước, Thủ đô Hà Nội đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch của cả nước nói chúng và của khu vực Bắc Bộ nói riêng, làm gia tăng đáng kế lượng khách của cả nước cũng như đóng góp lượng lớn ngoại tệ từ hoạt động du lịch Hoạt động du lịch của Hà Nội được phản ánh tập trung vào một số chỉ tiêu chủ yếu sau: Năm 2007, doanh thu từ hoạt động du lịch tăng gấp 5.17 lần so với năm 1998 và tăng xấp xỉ 4,2 lần so với năm 2003. Doanh thu xã hội và xuất khẩu tại chỗ từ du lịch đã tăng lên tương ứng với sự tăng trưởng của lượng khách. Du lịch Hà Nội phát triển đã góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho cả lao.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> động phổ thông cũng như lao động có trình độ cao, thu hút hàng vạn lao động trực tiếp và hàng trăm ngàn lao động gián tiếp từ các dịch vụ khác..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Bảng 2.1. Kết quả kinh doanh Du lịch STT 1. 2. Chỉ tiêu Tổng lượng khách du lịch Khách du lịch quốc tế Số ngày lưu trú trung bình. Đơn vị Lượt Lượt Ngày. 2003 3.880.000 850.000 3,10. 2004 4.450.000 950.000 3,10. 2005 5.340.000 1.109.635 3,10. 2006 6.010.000 1.110.000 3,15. 2007 6.700.000 1.300.000 4,00. của khách quốc tế Khách du lịch nội địa Tổng doanh thu xã hội. Lượt Tỷ. 3.030.000 4.600. 3.500.000 5.300. 4.230.365 11.248. 4.900.000 13.950. 5.400.000 19.160. Doanh thu Nhà hàng –. đồng Nt. 2.000. 2.300. 4.955. 5.870. 8.064. khách sạn. (Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội) Ngành Du lịch Hà Nội có bước phát triển cả về quy mô và chất lượng, trở thành kinh tế quan trọng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và đang trên đà phát triển mạnh trong thời gian qua. Nhìn chung, thu nhập từ du lịch Hà Nội tuy khá cao, năm sau cao hơn năm trước, tương xứng với tiềm năng du lịch và vị thế của một đô thị đặc biệt, trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội của một quốc gia Bảng 2.2 Lượng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội và Việt Nam thời k ỳ 2003 -2007. Chỉ tiêu Hà Nội Việt Nam Tỷ lệ HN/VN. Đơn vị Lượt nt %. 2003 2004 2005 2006 2007 850.000 950.000 1.109.635 1.110.000 1.300.000 2.428.735 2.927.876 3.467.757 3.600.000 4.200.000 35,0 32,4 32,0 30,8 31,0. (Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội) Hà Nội là trung tâm thu hút khác du lịch quốc tế lớn thứ hai của cả nước, chỉ đứng sau Thành phố Hồ Chí Minh. Thị phần khách quốc tế của Hà Nội ngày càng lớn, từ chỗ chiếm 20% của cả nước giai đoạn 1998-2000, đã tăng lên trên 30% giai đoạn 2003-2007 và luôn chiếm xấp xỉ 1/3 của cả nước. 2.1.3. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho du lịch Trong đô thị, kết cấu hạ tầng góp phần không nhỏ cho mục tiêu phát triển du lịch và có tính tổng hợp, được lồng ghép vào hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. Do đó, việc đánh giá thực trạng về hạ tầng du lịch Hà Nội cần.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> thiết phải gắn với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, gồm : Giao thông, cấp thoát nước, chiếu sáng, thông tin liên lạc, vệ sinh môi trường…của thành phố. 2.1.3.1 Về giao thông : Hà Nội là đầu mối đón khách du lịch khu vực phía Bắc hệ thống giao thông liên vùng đường không, đường bộ, đường sắt và đường thủy giữa Hà Nội với vùng lân cận và cả nước. Hà Nội có 3 tuyến đường vành đai gôm vành đai I, vành đai II, vành đai III và mạng lưới giao thông nội thị với chiều dài 624km, với mật độ 0,47km/km2 được đầu tư, nâng cấp và mở rộng tạo điều kiện cho khách du lịch tiếp cận các điểm tham quan du lịch và các cơ sở du lịch trong và ngoài Hà Nội. Tuy nhiên, thực trạng giao thông đô thị vẫn còn một số bất cập ảnh hưởng đến hoạt động du lịch trên địa bàn như mạng lưới giao thông chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho khách du lịch tiếp cận các điểm du lịch tham quan và phát triển các tuyến du lịch đô thị. Quỹ đất giao thông đô thi thấp ( bằng 1,9% đất xây dựng đô thị) , dẫn đến tình trạng thiếu bãi đỗ xe vận chuyến khách du lịch. Tình trạng tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường đô thị doa hoạt động giao thông ảnh hưởng lớn đến sức thu hút khách du lịch Thủ đô. 2.1.3.2 Cấp nước, thông tin, chiếu sáng đô thị - Điều kiện cấp nước đô thị đã được cải thiện, hiện bảo đảm cung cấp nước máy cho 62% dân số và diện tích Hà Nội. Các khu du lịch điểm du lịch, tham quan, hệ thống cơ sở lưu trú, vui chơi giải trí được cấp nước với tiêu chuẩn, chất lượng theo quy định của Nhà nước. - Hệ thống thông tin liên lạc : Được phát triển rất nhanh, năm 2005 mật độ điện thoại đạt 24 máy/100 dân, điện thoại cố đinh 10 máy, di động 12 máy/100 dân, gấp 2 lần so với bình quân cả nước. Tỷ lệ dân cư sử dụng Internet đạt 33%. Phần lớn các cơ sở dịch vụ công cộng và dịch vụ du lịch đều nối mạng tạo điều kiện cung cấp dịch vụ thông tin cho du khách..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> - Hệ thống chiếu sáng đô thị : Sự hấp dẫn du lịch của cảnh quan đô thị và du lịch phụ thuộc nhiều mức độ và chất lượng chiếu sáng. Các trực tuyến phố lớn, công viên, hệ thống tượng đài, công trình công cộng chủ yếu, khu vực trung tâm chính trị Ba Đình, trung tâm dịch vụ, thương mại…được chiếu sáng nổi bật. 2.2 Thực trạng công tác QLNN về du lịch của Hà Nội Trong nhiều năm qua cùng với sự phát của hoạt động du lịch, công tác quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương đến các địa phương đã từng bước biến chuyển mạnh mẽ, góp phần trong công tác quản lý nhà nước nói chung của thành phố. Cùng với đó, sự ra đời của Luật Du lịch cũng đã tạo bước ngoặt mới cho hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương tới các cấp cơ sở cũng được kiện toàn và thực hiện bước đầu có hiệu quả. Mặc dù là một ngành kinh tế non trẻ ( hình thành từ năm 1994), song đã thực hiện khá tốt các nhiệm vụ được giao, đánh dấu cho sự phát triển của một ngành kinh tế bền vững, đầy kỳ vọng. Công tác quản lý nhà nước về du lịch của thành phố Hà Nội trong những năm gần đây tập trung vào một số vấn đề sau : 2.2.1 Quản lý nhà nước đối với quy hoạch phát triển tổng thể ngành : Được quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền thành phố với những đổi mới về chính sách đối ngoại, với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế,ngành du lịch đã có những bước phát triển mạnh mẽ và ngày càng có tác động tích cực hơn đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội Thủ đô. Xác định vị trí quan trọng của Ngành Du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô và để khai thác hợp lý các tiềm năng du lịch phong phú, Hà Nội đã coi phát triển du lịch là một trong những thế mạnh chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế Thủ đô. Vì vậy, quy hoạch tổng thể phát triển du.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> lịch Hà Nội đã được xây dựng và điều chỉnh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội chung của Thủ đô. Trong quy hoạch đã đưa ra những các dự báo, phương án phát triển du lịch trong 20 năm tiếp theo và xây dựng định hướng, xu thế phát triển một cachs đồng bộ, mặt khác cũng đưa ra những giải pháp phù hợp trong từng thời kỳ, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội Thủ đô tương lai Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà Nội là căn cứ để xây dựng kế hoạch phát triển du lịch hàng năm và triển khau các chương trình, dự án đầu tư cho du lịch theo hướng thúc đẩy du lịch Thủ đô phát triển nhanh, bền vững, đạt hiệu quả cao trên cơ sở khai thác hợp lý tài nguyên du lịch và các nguồn lực, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, du khách trong và ngoài nước, trên cơ sở giữ gìn các giá trị văn hóa lịch sử và môi trường ; góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thủ đô. Quy hoạch cũng là cơ sở vững chắc giúp lãnh đạo Thành phố hoạch định chính sách đầu tư phát triển và quản lý các hoạt động du lịch phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của Hà Nội và chiến lược phát triển du lịch của cả nước. Trên cơ sở quy hoạch du lịch đã được phê duyệt, cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước theo đúng định hướng và hoàn thành các chỉ tiêu mang tính chiến lược của ngành, đồng thời đây cũng là cơ sở để các ngành có liên quan khác như : Thương mại, công nghiệp, giao thông, bưa chính viễn thông, dịch vụ, ngân hàng….phối hợp đồng bộ để thực hiện quy hoạch phát triển của ngành mình và có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng đối với từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương có liên quan cùng phối hợp tham gia thực hiện. Trong quá trình thực quy hoạch du lịch, cũng đề cập nhiều vấn đề phát triển hạ tầng cơ sở phục vụ du lịch, phân bố cụ thể tại từng địa bàn quận huyện, từ đó, làm nền tảng cho việc hoạch chiến lược kinh tế của từng địa.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> phương. Đồng thời, thành phố cũng đã có chính sách chiến lược khôi phục, phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống…phục vụ du lịch. Mặt khác, dựa trên cơ sở quy hoạch phát triển du lịch Hà Nội, bản thân từng địa phương (quân, huyện) cũng xây dựng chiến lược phát triển các hoạt động phụ trợ phục vụ du lịch như : Quy hoạch phát triển các khu thương mại, khu trồng hoa, rau, quả… Thành phố Hà Nội đã rất quan tâm đến việc thực hiện quy hoạch phát triển du lịch, được thể hiện các chỉ tiêu quy hoạch sau : 2.2.1.1 Chỉ tiêu về khách du lịch Quản lý thị trương khách là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của công tác quản lý nhà nước. Trên cơ sở thực trạng của thị trường khách du lịch, các nhà quản lý nghiên cứu, đánh giá thị hiếu, nhu cầu… của thị trường khách, nhằm xây dựng phương hướng, hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển ngành, phát triển thị trường, cũng như thực hiện việc quảng bá, thu hút du khách đến với Hà Nội. a. Thị trường khác du lịch quốc tế Nắm rõ thị trường du lịch quốc tế là một tất yếu và là yêu cầu hàng đầu về công tác quản lý nhà nước. Trên cơ sở các phân tích, đánh giá các thị trường khách (phụ lục 1) là cơ sở nhằm định hướng cho các hoạt động có liên quan đến việc quản lý khách du lịch quốc tế trên địa bàn Thành phố. Giai đoạn 2003-2007, khách du lịch quốc tế đến Hà Nội từ hơn 162 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt mức tăng trưởng bình quân 16,5%/năm. Năm 2007, khách quốc tế tăng 3 lần, khách nội địa tăng 5,2 lần so với năm 1998. Một trong những yêu cầu về quản lý đối với khách du lịch là nghiên cứu mục đích chuyến đi của khách du lịch quốc tế đến Thủ đô. Khách du lịch quốc tế đến Hà Nội có nhiều mục đích nhưng tập trung ở một số mục đích chính là du lịch hội thảo, hội nghị ; du lịch văn hóa, lịch sử, tham quan lễ hội,.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> thắng cảnh, làng nghề chiếm trên 72% tổng số khách ; khách du lịch theo mục đích khác chiếm gần 28% tổng số khách. Khách quốc tế đến Hà Nội tăng nhanh về số lượng và tăng cao về chất lượng. Khách du lịch từ các thị trường có khả năng chi trả như Tây Âu, Đông Bắc Á, Úc…chiếm tương đối lớn. Riêng 10 thị trường hàng đầu đã chiếm 5780%, tổng số khách vào Hà Nội. Trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2007, tốc độ tăng trưởng của khách du lịch đến Hà Nội tăng nhanh rõ rệt, trên 2 con số như thị trường khách Mỹ, Đức, Hàn Quốc, Thái Lan, Bỉ…thị trường khách du lịch Châu Á chiếm tỷ trọng hàng đầu (phụ lục 2) và thị trường Châu Úc chiếm tỷ trọng thấp nhất..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Bảng 2.3 . Lượng khách của các thị trường hàng đầu đến Hà Nội TT. I 1 2 3. Tên nước. 2003 Lượng khác. Tổng số Trung Quốc Nhật Pháp. 850.000 257.477 71.570 70.574. 2004 % so với năm trước. 2005 % so với năm trước. 2006 % so với năm trước. 111,2 95,8 116,8 95,3. 116,8 71,7 128,4 140,3. 100,3 79,1 97,2 90,0. 2007 Lượng % so với khách năm trước. 1.300.000 188.964 111.006 upload.12. 117,2 135,0 106,4 139,6. 3doc.net. 4 5 6 7 8 9 10. Anh Úc Hàn Quốc Mỹ Đức Đài Loan Thái Lan Cộng. 31.421 35.637 28.948 36.678 26.272 23.240 16.292 598.109. 114.9 144.5 212.7 135.4 113.9 123.3 105.0 112.4. 126.0 144.4 232.7 131.7 132.7 111.0 106.8 upload.1. 101.2 97.3 100.4 95.5 109.3 82.2 218.1 95.8. 623 54.874 104.520 111.797 87.750 55.354 40.582 59.141 932.611. 119.2 144.5 77.7 140.5 127.5 155.3 148.4 122.2. 146.8 121.7 114.7 104.0 93.3. 54.750 35.056 22.298 28.760 24.126. 199.3 145.7 130.8 139.7 115.6. 23doc.n 11 12 13 14 15. Malaysia Singapore Hà Lan Canada Tây Ban Nha. 13.711 12.156 11.896 11.657 5.677. 88.7 115.7 104.8 134.9 175.1. et.6 154.0 140.6 119.2 125.9 224.9. (Nguồn : Sở Du lịch Hà Nội) Việc phân tích, các thị trường khách du lịch đã giúp cho các cơ quan QLNN nhận định được tình hình, triển khai các hoạt động thu hút khác du lịch tại các khu vực, từ đó đưa ra các chính sách quảng bá, định hướng phát triển kinh doanh cho các doanh nghiệp khai thác luồng khách hợp lý. Hà Nội hiện nay còn thiếu số lượng các phòng lưu trú phuc vụ khách du lịch, một phần do công tác đầu tư chưa đáp ứng kịp thời, một phần do tốc độ tăng trưởng của khách du lịch đến Hà Nội khá nhanh, trước tình hình đó, công tác quản lý nhà nước cần tập trung các thị trường có lượng khách không nhiều nhưng có khả năng chi tiêu cao, tăng mức thu nhập du lịch phù hợp, đó.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> chính là thị trường Châu Âu, Châu Mỹ, đặc biệt tập trung quảng bá, thu hút khách du lịch quốc tế tại các quốc gia phát triển của khu vực này. Đôi với các thị trường có tỷ trọng khách du lịch quốc tế đông, nhưng khá năng chi tiêu không nhiều, thì việc định hướng thu hút một lượng khách vừa phải, hoặc tập trung thu hút quảng bá tại một số quốc gia cụ thể, đảm bảo cân đối cung – cầu trong hoạt động du lịch. Đồng thời, tiến hành các hoạt động lưu giữ trở thành lượng khách tiềm năng. Đây chính là một trong những kinh nghiệm thực tiễn quan trọng của giai đoạn khủng hoảng kinh tế Châu Á những năm 1997-1998. Trong thời gian này, số lượng khách du lịch toàn thế giới giảm sút nghiêm trọng, song các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch của Việt Nam phân tích tình hình chung, xây dựng một số biện pháp cấp bách, trong đó có biện pháp tiến hành xúc tiến quảng bá mạnh mẽ tại một số quốc gia trong khu vực, nơi có đời sống không cao, nhưng có nhu cầu du lịch lớn, mức chi tiêu không nhiều, nên đã thu hút hấp dẫn được rất đông du khách, do vậy, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và Hà Nội giảm không đáng kể so với các năm trước và so với các nước khác. Đê nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của từng loại khách, giúp cho các nhà quản lý và doanh nghiệp định hướng trong việc phát triển kinh doanh và đáp ứng được nhu cầu của du khách các nước đang phát triển. Điều đó, rất hữu ích cho chủ trương phát triển du lịch trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Thủ đô. Việc phân tích các thị trường khách cũng giúp cho cơ quan quản lý và các doanh nghiệp xác định được điểm khai thác khách thông qua hoạt động quảng bá du lịch. Xúc tiến quảng bá du lịch của Hà Nội đã được quan tâm đầu tư dưới nhiều hình thức với nội dung phong phú, giúp thế giới biết nhiều hơn về du lịch Hà Nội, tạo hiệu quả kích cầu du lịch.Năm 2003-2007, thành phố Hà Nội đã chi trên 30 tỷ đồng cho công tác này.Ngoài ra, còn hoạt động xúc tiến của hàng trăm doanh nghiệp du lịch lữ hành, khách sạn,… và các tổ chức.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> khác cho hoạt động này. Hoạt động xúc tiến là một hoạt động thường xuyên, liên tục. Thông qua các hoạt động này mà hàng năm ngành du lịch sẽ gửi tới các thị trường và có những thông tin trao đổi về sự kiện trong năm của ngành du lịch và có những chiến dịch thu hút khách đến với Hà Nội. Hà Nội – Việt Nam được tuyên truyền là địa điểm thuận lợi cho du lịch MICE phát triển với số khách đông, chất lượng dịch vụ cao, từ đó bắt đầu xuất hiện hướng dịch chuyển dần hoạt động du lịch MICE từ các vùng Thái Lan – Indonesia sang. Đồng thời, Hà Nội đã đạt được một số danh hiệu cao như : Uneco bình chọn là Thành phố Hòa bình năm 2000, điểm đến an toàn và thân thiện – năm 2001, thường xuyên được bạn đọc của tạp chí Travel and Leisure (Hoa Kỳ) bình chọn là 1 trong Top 5 điểm du lịch hấp dẫn của Châu Á, và Tp 15 trên thế giới, tổ chức du lịch thế giới nhận định 1 trong 10 điểm đến được chú ý nhất đã trở thành một trong những điểm đến có thể thu hút thêm thị trường các nước giàu có như Trung Đông, Ả rập Xê út, Nam Phi…đã và đang làm chuyển hướng luồng khách du lịch tới Việt Nam và Hà Nội. Đây cũng là kết quả đáng khích lệ của ngành du lịch Thủ đô trong việc xây dựng thương hiệu một điểm đến hiệu quả trong kinh doanh. b. Khách du lịch nội địa Thủ đô Hà Nội là một trong những trung tâm du lịch đón nhiều khách nội địa với lượng khách trung bình chiếm trên 25% tổng lượng khác du lịch hàng năm của cả nước, khoảng xấp xỉ 50% tổng lượng khách khu vực phía Bắc. Trong nhiều năm gần đây, với lợi thế là Thủ đô, thị trường khách nội địa cũng tăng trung bình 15%/năm, Hà Nội trở thành trung tâm phân phối khách chủ yếu của vùng phía Bắc, đặc biệt đối với các tỉnh khu vực đồng bằng Sông Hồng : Hà Nội đón 80-90% khách du lịch đến Hà Tây (cũ), 50% khách đến Quảng Ninh và 90% số khách đến các tỉnh khác ở khu vực phía Bắc. Tốc độ tăng trưởng khách nội địa tương đối ổn định. Nếu năm 2003 mới.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> chỉ đón 3 triệu lượt thì đến 2007, Hà Nội đã đón 5,4 triệu lượt tăng gấp 2 lần tương đương với khoảng 30% tổng số lượt khách du lịch nội địa của cả nước. Việc quản lý nhà nước đối với thị trường nội địa cũng rất đáng quan tâm, bởi lẽ đây chính là thị trường tiềm năng của ngành Du lịch, vì : Thứ nhất, đời sống của nhân dân ngày càng cao, nhu cầu đi du lịch, thăm thân, mua sắm, trao đổi sản phẩm giữa các vùng miền ngày càng lớn tạo điều kiện phát triển cho ngành Du lịch ngày càng nhiều. Thứ hai, Việt Nam hiện co 54 dân tộc cùng sinh sống, việc trao đổi, học hỏi và khai thác, thụ hưởng các nét đặc trưng và văn hóa giữa các dân tộc, các vùng miền chính là một trong những sản phẩm của ngành du lịch, cũng tạo đà cho hoạt động du lịch phát triển. Thứ ba, trong những thời điểm cụ thể, việc khai thác nguồ khách du lịch nội địa đã đem lại cho ngành du lịch những kết quả nhất định. Thực tế đó cho thấy, lượng khách du lịch nội địa phát triển ổn định và đôi khi là cứu cánh cho du lịch Hà Nội, nhất là khi có những biến động chính trị - kinh tế ngoài biên giới, làm ảnh hướng đến luồng khách du lịch quốc tế, ví dụ : Vào năm 2002 và quý I/2003, trung bình mỗi ngày Hà Nội đón 10.500 lượt khách tham quan, du lịch, trong đó có 2.600 người khách nước ngoài, nhưng tại thời điểm trung tuần tháng 3/2003 đã xảy ra các sự kiện nghiêm trọng, có tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của căn bệnh SARS và đại dịch cúm gia cầm tại Hà Nội và một số nước trên thế giới đã ảnh hưởng mạnh đến kết quả kinh doanh của ngành du lịch. Lượng khách quốc tế giảm sút nghiêm trọng. Lượng khách quốc tế đến Hà Nội năm 2003 giảm 35% so với năm 2002 (tương đương với giảm 400.000 lượt khách). Các cơ quan QLNN đã nhanh chóng chỉ đạo các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh chuyển hướng khai thác nguồn khách nội địa và tập trung vào một số hoạt động đầu tư phát triển sản phẩm, kịp thời phục vụ khách ngay sau khi tình hình ổn định. Lượng khách du lịch nội địa trong các năm đó vẫn.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> giữ mức tăng trưởng ổn định trong khi thị trường khách du lịch quốc tế đến năm 2006 mới dần được phục hồi. Từ năm 2003 đến nay, du lịch Hà Nội đã phát triển đến một tầm cao mới, thị trường được mở rộng. Các hoạt động quảng bá xúc tiến đã dần dần chuyên nghiệp và có hiệu quả hơn. Hà Nội được biết đến như một điểm đến đặc sắc, hấp dẫn với khách du lịch trong nước. Với những cố gắng nỗ lực của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và các doanh nghiệp lữ hành, lượng khách du lịch nội địa tăng nhanh, các dịch vụ du lịch mở rộng, có nhiều chương trình mới được mở thêm đáp ứng yêu cầu cao của du khách như open tour (tour du lịch mở), city tour (du lịch nội địa), thăm làng nghề, làng cổ…nên doanh thu và nộp ngân sách cho nhà nước vẫn đạt mức tăng trưởng khá vững chắc. Trong những năm gần đây, lượng khách nội địa tăng nhanh do mức sống của người dân đã được cải thiện, vượt qua ngưỡng cửa "đủ ăn, đủ mặc", đặc biệt nhà nước cho phép làm việc 40h/tuần (nghỉ cuối tuần 2 ngày) với ngày khách trung bình đạt 2 ngày. Mục đích các chuyến đi của khách từ các tỉnh tới Hà Nội chủ yếu là thăm thân, công vụ kết hợp tham quan các địa danh văn hóa, lịch sử và các danh thắng cảnh nổi tiếng của Thủ đô như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà sàn Bác Hồ, các đền chùa trong khu vực Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm…và cuối cùng , mục đích đi du lịch của người Hà Nội chủ yếu là đi nghỉ mát ở biển, tham quan các danh thắng, di tích, tham quan lễ hội, nghỉ núi,một số người đi công tác kết hợp du lịch…cũng đã trở thành nguồn thu không nhỏ của hoạt động du lịch Thủ đô. Tỉ lệ người đi công tác đích thuần túy là du lịch, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí ngày càng cao điều này phản ánh mức sống của người dân Việt Nam đã được nâng cao đáng kể, họ đã chú ý nhiều hơn đến vấn đề nghỉ ngơi, giải trí, du lịch sau những ngày lao động mệt nhọc. Bên cạnh đó, Hà Nội còn là một Thủ đô ngàn năm văn hiến với nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> đẹp thu hút ngày càng nhiều du khách trong nước đến đây tham quan, nghỉ dưỡng. Điều này cũng góp phần làm cho tỉ lệ khách du lịch Hà Nội với mục đích thuần túy là du lịch, vui chơi, giải trí chiếm tỉ lệ ngày càng cao. Như vậy, qua việc phân tích đánh giá một số nội dung cơ bản về thị trường khách nội địa và quốc tế, tạo điều kiện cho cơ quan quản lý, thậm chí đối với tất cả các doanh nghiệp, làm nền tảng xây dựng chiến lược quảng bá, xúc tiến đầu tư nhằm phát triển kinh doanh. Đó chính là thể hiện công tác quản lý Nhà nước đối với khách du lịch thông qua việc khai thác khả năng của du khách, tận dụng tiềm năng, lợi thế của Thủ đô nhằm thu hút khách du lịch của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch của Hà Nội, là một trong những địa phương hiện đã và đang thực hiện tốt công tác này. 2.2.1.2 Doanh thu thu nhập từ du lịch Doanh thu từ du lịch là tất cả các khoản thu do khách du lịch chi trả trên địa bàn trong chuyến du lịch. Mức chi tiêu bình quân của khách quyết định đến chỉ số doanh thu du lịch. Doanh thu xã hội từ du lịch tăng đáng kế, trung bình đạt trên 16,6%/ năm : Năm 2003 đạt 4.600 tỷ đồng, năm 2007 là 19.160 tỷ đồng, tăng gấp 4,2 lần. Mức chi tiêu của khách du lịch quốc tế cũng có nhiều vận động tích cực. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê công bố, mức chi tiêu của khách quốc tế là 902,1 USD, trong đó, khoảng 60% được chi tiêu trực tiếp tại Hà Nội. Tuy nhiên cơ cấu chi tiêu của khách chưa đạt được mức mong muốn của các nhà quản lý bởi các khoản chi của khách mới tập trung vào phục vụ cho nhu cầu cần thiết yếu (ăn, nghỉ) trong chuyến đi mà chưa chi tiêu cho các khoản khác (mua sắm, tiêu dùng, chữa bệnh…). Việc khai thác khả năng chi tiêu của du khách chưa đáp ứng được mục tiêu tăng cao khả năng xuất khẩu tại chỗ của thành phố Hà Nội. Nhóm khách có mức chi trả cao gồm khách từ các thị trường Bắc Mỹ, Nhật, Đài Loan đạt trên 100USD/ ngày/ khách ; thị trường khách Anh, NewZeland, Úc, Tây Âu.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> khoảng 80-100USD/ngày/ khách ; Việt Kiều nằm trong nhóm chi tiêu dưới 30USD/ngày/khách, chưa khẳng định được mục tiêu xuất khẩu tại chỗ đối với các ngành hàng khác mà du lịch là chiếc cầu nối. Việc phân tích khoản chi giúp các nhà quản lý phân định được nhu cầu, đòi hỏi của du khác, hoạch định kế hoạch phát triển thị trường rất hiệu quả. Biểu đồ về cơ cấu chỉ tiêu của du khách tại Hà Nội Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá mức chi tiêu của khách, các cơ quan quản lý nhà nước nhận định, cơ cấu chi tiết hiện nay của du khách chưa cân đối, chỉ tiêu cho dịch vụ lưu trú du lịch và dịch vụ ăn uống chiến tỷ trọng cao nhất so với các dịch vụ du lịch khác : Khách tập trung cho chi lưu trú 66% ; ăn uống 15% ; mua sắm thương mại đạt 1% ; đi lại 7% còn lại chi cho các dịch vụ khác là 11% .Như vậy ,2/3 khoản chi của du khách là cho nghành du lịch (lưu trú) ,ngành thương mại chiếm 1% (mua sắm) là qáu thấp ,chúng tỏ các ngành hàng, mặt hàng của ta chưa đáp ứng được nhu cầu mau sắm của du khách. 2.22. Quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là một yếu tố cấu thành qaun trọng của sản phẩm du lịch ,góp phần tạo ra sự độc đáo và hấp dẫn của điểm du lịch ,tạo dựng hình ảnh của điểm du lịch, tiêu chí quan trọng cho sự lựa chọn của du lịch khách.Cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm các cơ sở lưu trú ,ăn uống ,các tiện nghi thể thao và vui chơi giải trí ,phương tiện vận chuyển và các tiện nghi phục vụ du lịch khác. Thành phố Hà Nội là trung tâm văn hóa ,kinh tế cũng như trung tâm công nghiệp, thương mại, tài chính và khoa học kỹ thuật của cả nước, có cơ sở hạ tầng phát triển, lại được tập trung đầu tư xây dựng mạng trong những năm gần đây nên điều kiện cơ sỏ vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch phát triển tương đối tốt. 2.2.2.1 Quản lý nhà nước đối với cơ sở lưu trú.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Trong giai đoạn 1999-2004 khách du lịch quốc tế đến Hà Nội tăng gấp 2,5 lần và khách nội địa tăng gấp hơn 3 lần, trong khi đó số phòng khách sạn chỉ tăng gần 1,3 lần ( số liệu này chưa tính đến số lượng các nhà khách của các bộ ,ngành trên địa bàn Hà Nội ,đến Năm 2010 sẽ đón 1,6 ,khách du lịch quốc tế ,gần 6 triệu khách du lịch nội địa và sẽ cần khoảng 22.000 phòng khách sạn .Với số lượng hiện có là 13.392 phòng. Hà Nội cần có thêm khoảng 8.500 phòng khách sạn có qui mô từ 3 sao trở lên .Điều đó đặt ra yêu cầu cần giải quyết của nghành du lịch Thủ đô. Tính đến hết năm 2007, toàn Thành phố có 543 cơ sở lưu trú với 13.392 phòng đạt tiêu chuẩn và các hạng sao theo quy định, gồm có 183 khách sạn đã xếp hạng từ 3 sao trở lên với 8.674 phòng (8 khách sạn 5 sao, 6 khách sạn 4 sao, 20 khách sạn 3 sao), chiếm tỷ lệ 38% tổng cơ sở lưu trú và 65% tổng số phòng. Số lượng phòng của Hà Nội chiếm xấp xỉ 10% so với cả nước, trên 50% so với 12 tỉnh lân cận. Về phân bố, các cơ sở lưu trú được bố trí tập trung nội đô cũ với 87% cơ sở lưu trú và 85% tổng lượng phòng mật độ cao nhất là quận Hoàn Kiếm với 50% tổng số cơ sở và xấp xỉ 40% số phòng lưu trú toàn thành phố ; 3 quận nội thành cũ ( Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng) chiếm 37% số cơ sở lưu trú và chiếm 45% số phòng. Chất lượng phục vụ trong các khách sạn, đặc biệt là các khách sạn từ 4 -5 sao, các khách sạn liên doanh khá tốt, tương đương các khách sạn cùng hạnh trên thế giới và trong khu vực. Liên tục từ năm 1999 đến nay, Hà Nội luôn có từ 2-3 khách sạn đạt danh hiệu Topten trong các cơ sở lưu trú hàng đầu Việt Nam. Các dịch vụ hỗ trợ cho trong các cơ sở lưu trú của Hà Nội cũng bước đầu được nâng cấp và hoàn thiện hơn.Tổng số phòng họp hội nghị trong khách sạn đạt 97 phòng với 6.950 ghế. Các trung tâm hội nghị, hội thảo bên ngoài khách sạn gồm :Trung tâm hội nghị, hội thảo quốc tế 1 Lê Hồng Phong.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Hà Nội : Sức chứa 3.500 ghế ngồi và Trung tâm hội nghị hội thảo quốc gia đã đi vào hoạt động từ năm 2006 với sức chứa khoảng 4.000 chỗ ngồi. Được đánh giá là một ngành kinh doanh khá hấp dẫn và đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao, những năm qua ngành du lịch Hà Nội đã có sự phát triển mạnh mẽ về quy mô lẫn chất lượng dịch vụ, thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia có hiệu quả. Có thể nói từ chỗ thiếu buồng phòng phục vụ cho khách du lịch trong những năm 1990-1993 đến chỗ bão hòa trong những năm 1994-1996, là "cung" nhiều hơn "cầu" trong những năm 1997-2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu của các nước Đông Nam Á và đủ để cung cấp cho lượng khách du lịch quốc tế và nội địa những năm 2003-2005. Số lượng khách du lịch quốc tế và trong nước tăng lên nhanh chóng đã tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh du lịch trong đó có hoạt động kinh doanh khách sạn của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng sôi động và phát triển. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của khách du lịch quốc tế và trong nước, hệ thống khách sạn Hà Nội đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Việc ra đời nhiều liên doanh với nước ngoài, các khách sạn tư nhân, các nhà khách, nhà nghỉ chuyển sang kinh doanh khách sạn đã làm. Bảng 2.3 Số lượng cơ sở lưu trú trên địa bàn thành phố Hà Nội. TT. Chỉ tiêu. * * 1 2 3 4 5 6. Tổng số Trong đó : Khách sạn 5 sao Khách sạn 4 sao Khách sạn 3 sao Khách sạn 2 sao Khách sạn 1 sao Khách sạn đạt tiêu chuẩn tổi thiếu. Năm 2003 Số lượng Số phòng CSLT. Năm 2005 Số lượng Số phòng CSLT. Năm 2007 Số lượng Số phòng CSLT. 360. 10.773. 427. 12.425. 543. 13.392. 7 5 22 55 34 5. 3.062 817 1.542 1.597 677 51. 8 5 22 81 53 10. 2.344 840 1.956 2.547 922 113. 8 6 20 83 57 9. 2.457 1.080 1.697 2.412 925 1.0.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> (Nguồn: Sở du lịch Hà Nội ) Thay đổi diện mạo hệ thống khách sạn và tình hinh kinh doanh vụ khách sạn tại Hà Nội, đó là nét đặc trưng của hệ thống khách sạn tại Hà Nội trong hơn gần hai thập niên trở lại đây. 2.2.2.2. Quản lý nhà nước đối với cơ sở dịch ăn uống, ẩm thực Bên cạnh các tiện nghi ăn uống phong phú như các nhà hàng ăn Âu, Á, caffe, bar và các cơ quan dịch vụ khác được xây dựng riêng, các tiện nghi dịch vụ ăn uống, phục vụ đám cưới, hội nghị trong khách sạn phát triển nhanh phong phú và đa dạng. Các đối tượng du khách đến từ các quốc gia trên thế giới, các địa phương trong cả nước với thị hiếu và khẩu vị ăn khác nhau đều được phục vụ với nhiều loại sản phẩm ẩm thực dân tộc và quốc tế. Các loại hình cơ sở ăn uống mới như nhà hàng ăn nhanh bắt đầu hoạt động tại các trung tâm dịch vụ, thương mại, tăng tính đa dạng của sản phẩm dịch vụ ẩm thực Hà Nội. Hệ thống nhà hàng, quán bar ở Hà Nội ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng dịch vụ, phục vụ món ăn của cả 3 miền ở Việt Nam cũng như của nhiều nước như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nga, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Mêhicô… Nói chung hoạt động du lịch ẩm thực của Hà Nội đã được phát triển khá mạnh, tính xã hội khá cao, đã đem lại cho Thủ đô vị thế cao trong hệ thống du lịch ẩm thực thế giới và khu vực. Thành phố rất quan tâm, khuyến khích đầu tư, phát triển các cơ sở ăn uống, ẩm thực như thực hiện xây dựng thí điểm một số điểm dịch vụ ăn uống, phố ẩm thực Tống Duy Tân nhằm giới thiệu nghệ thuật ẩm thực Việt Nam Và Hà Nội…Tuy nhiên cũng tăng cường công tác quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường của các cơ sở này. Mặc dù vậy, việc đầu tư phát triển hệ thống nhà hàng, cơ sở dịch vụ ẩm thực của Hà Nội chủ yếu dựa vào nguồn xã hội hóa, do các tổ chức cá nhân thực hiện nên việc phát triển chưa theo đúng quy hoạch đã phê duyệt, bố trí.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> phân tán, tự phát, quy mô nhỏ lẻ, do đó, thiếu điều kiện hạ tầng cần thiết như bãi đỗ xe, không gian cảnh quan ; điều kiện vệ sinh môi trường tại một số cơ sở dịch vụ chưa được kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm phục vụ nhu cầu của du khách ; tính chuyên nghiệp trong phong cách phục vụ chưa cao, cũng ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ. 2.2.2.3 Quản lý nhà nhà nước đối với cơ sở dịch vụ mua sắm, hàng lưu niệm và dịch vụ liên quan : Mua sắm là hoạt động quan trọng của đô thị du lịch, mục tiêu quan trọng của du khách hiện nay đi du lịch đến các Thành phố lớn. Hà Nội có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hoạt động dịch vụ mua sắm với hệ thống mua sắm với các trung tâm thương mại, siêu thị đang hình thành ;một số đường phố thuộc khu phố cổ Hà Nội được cải tạo, nâng cấp thành các tuyến đi bộ, mua sắm, chợ đêm… đang là những điểm đến hấp dẫn, tăng thêm tính phong phú, đa dạng cho du lịch Thủ đô. Hà Nội đã có chính sách phát triển nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống như đồ gốm sứ, thêu, thổ cẩm, sơn mài, khảm trai, tranh sơn dầu được khách du lịch ưa chuộng, mua sắm làm quà tặng, đồ lưu niệm. Việc tổ chức các dịch vụ bán đồ lưu niệm, mua sắm hàng lưu niệm được quan tâm triển khai đầu tư gắn với việc bảo tồn nâng cấp các làng nghề truyền thống như làng gốm, làng dệt và các làng nghề khác thành những điểm du lịch thu hút khách mua sắm. Tuy nhiên hệ thống cơ sở dịch vụ mua sắm phát triển còn nhanh mún, chưa thực hiện theo quy hoạch, nhiều tuyến phố mua sắm các hàng hóa, đồ lưu niệm hình thành tự phát, có quy mô nhỏ, ảnh hưởng đến trật tự quản lý đô thị làm giảm tính hiệu quả của du lịch mua sắm ; sản phẩm dịch vụ, hàng hóa chưa phong phú, thiếu hấp dãn du khách. 2.2.2.4 Quản lý nhà nước đối với cơ sở dịch vụ vui chơi, giải trí, văn hóa thể thao.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Các khu vực vui chơi giải trí công cộng hiện nay của Thành phố Hà Nội được thực hiên theo quy hoạch chưa nhiều, cơ sở vật chất, trang thiết bị vui chơi còn nghèo nàn ,chưa có sức hấp dẫn du khách,bước đầu mới chỉ đáp ứng được một phần không nhiều nhu cầu của nhân dân Thủ đô .Cụ thể là : a.Về giải trí văn hóa : tại Hà Nội tập trung hệ thống cơ sở văn hóa,thông tin của cả nước như trung tâm phát thanh, truyền hình,nhà hát lớn, Trung tâm chiếu phim quốc gia, thư viện quôc gia,các bảo tàng lớn,các nhà biểu diễn nghệ thuật dân gian như nhà hát chèo,múa rối nước rất hấp dẫn đối với du khách đặc biệt là khách quôc tế.Tuy nhiên,việc khai thác các tiềm năng này chưa hiệu quả , mặc dù doanh thu tương đối cao, song vì lợi nhuận, các nhà quản lý hầu như chưa quan tâm và bất lực với hiện tượng này. b. Về thể thao : Thành phố có hệ thống công trình thể thao được đầu tư xây dựng phục vụ thi đấu trong nước và quôc tế như khu liên hợp Thể thao quốc gai Mỹ đình, sân vận động Hà Nội,các trung tâm thể thao,nhà thi đấu,huyện tương đối tốt,đạt chuẩn quốc gia và quốc tế, nhưng việc khai thác chưa hiệu quả,mặc dù vài năm gần đây, Việt Nam đã tổ chức đăng cai một số giải thi đấu quốc tế và khu vực, song chưa khẳng định được là một tâm điểm thu hút các hoạt động thể thao. Các tiện nghi thể thao vui chơi giải trí ngoài cơ sở lưu trú phục vụ khách du lịch vừa phục nhu cầu vui chơi giải trí của dân cư đô thị phát triển còn manh mún, quy mô nhỏ lẻ quy hoạch không khoa học, hợp lý. c. Cơ sở vui chơi giải trí : Các tiện nghi,trang thiết bị phục vụ vui chơi giải trí được bố trí tại các khách sạn tứ 4 sao trở lên như bể bơi,sân tennis centre ,quầy ba,câu lạc bộ đêm,vũ trường, phòng karaoke,masage… chủ yếu phục vụ khách lưu trú tại khách sạn. Các điểm du lịch vui chơi giải trí khác đang được triển khai đầu tư gắn với các khu du lịch, điểm du lịch như khu du lịch Sóc sơn,Cổ Loa ,Ba Vì … Sân golf là loại hình vui chơi gải trí cao cấp mới đang được đầu tư phát triển tại một số khu vực ngoại thành và các tỉnh.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> lân cận mới đang được đầu tư phát triển tại một số khu vực ngoại thành và các tỉnh lân cận Hà Nội như : Sân golf Sóc Sơn,Đông Mô ,Lương sơn (HN),Tam đảo (Vĩnh Phúc), Chí linh (Hải Dương)… nhung việc khai thác còn chưa thiếu quả ,do chi phí cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. d. Công việc cây xanh giải trí : Hệ thống công viên cây xanh của Hà Nội có vai trò quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí chủ yếu phục vụ nhu cầu giải trí của nhân dân Thành phố .Một số công viện giải trí chủ yếu phục vụ nhu cầu giải trí như công viên nước Hồ Tây,công viên giải trí tại khu du lịch Sóc Sơn ,khu du lịch văn hóa Cổ loa… đang được đầu tư xây dựng với nhiều sản phẩm vui chơi, giải trí đa dạng phong phú,phục vụ nhu cầu của khách du lịch và dân cư đô thị .Nhiều vùng đất trống đồi trọc của Thành phố đã được phủ xanh từng bước tạo cảnh quan để phát triển thành các khu du lịch cuối tuần.Tuy nhiên, bình quân diện tích cây xanh còn thấp, toàn thành phố chỉ đạt 4,7m2 / người và khu vực nội thành đạt 0,9m2/ người.Tại các hồ Nước của Hà Nội với cảnh quan đẹp như hồ tây,hồ Linh Đàm,hồ Thuyên Quang ,hồ Bảy Mẫu … đang hình thành một số dịch vụ thể thao nước và các hoạt động tiêu khiển khác phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi thư giản của người dân.Nhưng các hoạt động tiêu khiển khác phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi thư giãn của người dân. Nhưng các hoạt động này phát triển chưa đồng bộ,đặc biệt là du khách,những người có nhu cầu cao về hoạt động giải trí. 2.2.3.Quản lý tuyển, điểm ,sản phẩm du lịch Sản phẩm du lịch Hà Nội đang được đa dạng hóa,từng bước nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh. Đẩy mạnh việc khai thác tiềm năng và thế mạnh về tài nguyên du lịch, bảo tồn và phục hồi các lễ hội truyền thống , tổ chức nhiều hoạt động du lịch với nhiều chủ đề độc đáo,hấp dẫn . Nhiều sản phẩm du lịch mới được xây dựng đưa vào khai thác như : các tuyên du lịch sinh thái,du lịch văn hóa dân tộc ít người,khảo cứu đồng quê,du lịch trang trại.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> nhà vườn… và một số sản phẩm du lịch có giá trị độc đáo về văn hóa lịch sử nhằm thu hút khách du lịch,thúc đẩy sự hấp dẫn của du lịch Hà Nội. 2.2.3.1 . Tuyến , điểm, sản phẩm du lịch tại khu vực nội thành Tuyến, điểm du lịch tại các khu vực nội thành phục vụ du khách chủ yếu là tham quan các di tích văn hóa,lịch sử, tham quan phố cổ, các điểm danh thắng của Thủ đô với các sản phẩm chủ yếu gồm : Du lịch tham quan,mua sắm hàng thủ công,mỹ nghệ các làng nghề ; du lịch lễ hội ; du lịch ẩm thực; du lịch hội thảo, hội nghị(MICE) ; thăm thân… Phần cơ bản,việc quản lý các tuyến,điểm du lịch được phân cấp triệt để cho các địa phương, trong sự giám sát chung của các cơ quan quản lý nhà nước để thẩm quyền của Thành phố. Thực hiện theo luật Di Sản văn hóa và sự phân cấp của Thành phố, cấp Thành phố chỉ quản lý các khu, điểm di tích, danh lam thắng cảnh đã dược xếp hạng theo quy định của nhà nước theo phân cấp. Mặt khác, hiện nay, để tăng cường thực hiện xã hội hóa trong chính sách đầu tư, việc quản lý các khu, điểm du lịch, các làng nghề truyền thống…, các tổ chức , cá nhân có quyền được sở hữu hoạc được giao quản lý, bao thầu khai thác, sử dụng di tích, sưu tập, bảo tàng được thu phí tham quan và lệ phí sử dụng di tích, sưu tập, bảo tàng…,mà hầu hết các cá nhân,tổ chức này đều triệt để tận thu một cách vô tội vạ nên anh hưởng rất lớn đến quá trình bảo quản, duy trì và đảm bảo các điều kiện khác đối với các giá trị văn hóa này. Các tuyến du lịch Hà Nội được thể hiện rất rõ trong quy hoạch của nghành du lịch, tuy nhiên để thực hiện tốt quy hoạch lại liên quan đến vấn đề tổ chức quản lý, khai thác, sử dụng. Ngay bản thân trong nội bộ Thành phố Hà Nội,cơ chế quản khai thác sử ụng của các quận,huyện và tập tục của người dân địa phương cũng có sự khác biệt, bởi vậy, công tác quản lý nàh nước về du lịch cũng gặp nhiều bất cập khi bàn tay chính quyền muốn can thiêp vào việc quản lý, khai thác này..

<span class='text_page_counter'>(60)</span> 2.2.3.2. Tuyến, điểm, sản phẩm du lịch tại khu vực ngoại thành và các tỉnh lân cận Trong thời gian qua,nghành du lịch Hà Nội đã tổ chức,phối hợp với các địa phương vùng lân cận như : các tỉnh Hưng nguyên, Bắc Ninh ,Vĩnh phúc ,Ninh Bình, Hải Phòng ,Quảng Ninh ,Hòa Bình ,Nam định… xây dựng và triển khai phát triển các sản phẩm du lịch chủ yếu gồm : - Du lịch tổng hợp sinh thái, giải trí, thể thao, nghĩ dưỡng, nghĩ cuối tuần, du lịch làng nghề, du lịch văn hóa lâu đời, các làng nghề, dân tộc với những phong tục đặc trưng của vùng Hà Nội ; các tour dã ngoại bằng xe đạp về các làng quê lân cận góp phần làm phong phú các sản phẩm của địa phương ; du lịch biển Seacano, chương trình ngủ đêm câu mực, thăm các làng chìa và rừng nguyên sinh ; du lịch tàu biển tại Hạ Long, Hải Phòng… Nói chung sản phẩm du lịch Hà Nội đã được phát triển đáng kể về thể loại, chất lượng dịch vụ, góp phần đưa Hà Nội từ năm 2003 đến nay trở thành một trong nhóm các đô thị hấp dẫn du lịch nhất của Châu Á. Tuy nhiên, xem xét trên cơ sở thời gian lưu trú của khách tại Hà Nội còn thấp so với trung bình của cả nước và tỷ trọng, mức chi tiêu của khách du lịch, trong thời gian qua, tập trung ở dịch vụ lưu trú cho thấy sản phẩm du lịch của Thủ đô chưa thực sự phong phú và hấp dẫn, tương xướng với tiềm năng đa dạng tài nguyên. Các sản phẩm chủ yếu mới chỉ tập trung ở các sản phẩm du lịch tham quan di tích lịch sử, văn hóa, hội thảo, hội nghị, thương mại trong thời gian gần đây. Nh cầu của khách du lịch về giải trí, thưởng thức cac dịch vụ vui chơi khác, mà Hà Nội có tiềm năng đáp ứng lại chưa nhiều. Việc quản lý các tuyến, điểm du lịch tại các tỉnh thành phố khác cũng gây khó khăn cho đầu mối cung cấp khách (các doanh nghiệp du lịch tại Hà Nội), do mỗi địa phương, mỗi tỉnh thành lại có cơ chế quản lý riêng biệt, vì vậy, khi du khách đến mỗi điểm du lịch tại các địa phương khác nhau, du khách lại chịu tác động về phương thức quản lý khác nhau tạo nên cảm giác.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> phải cảm về hoạt động quản lý, khai thác cùng sản phẩm ở từng địa phương khác nhau. Đây cũng là một trong những ấn tượng chưa đồng bộ, thống nhất về hoạt động quản lý nhà nước của Việt Nam đối với du khách, đồng thời cũng gây ảnh hưởng không tốt đến yêu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp. 2.2.4 Quản lý các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh trong lĩnh vực du lịch : Tính đến hết năm 2007, tại Hà Nội có trên 4.320 doanh nghiệp đăng ký tham gia kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, tuy nhiên trong thực tế, mới chỉ có trên 100 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa, 277 doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế (đứng thứ hai toàn quốc, chiếm trên 30% tổng số doanh nghiệp lữ hành quốc tế của cả nước), 543 cơ sở lưu trú và gần 100 doanh nghiệp và hộ cá thể kinh doanh vận chuyển khách du lịch. Các hãng lữ hành ở Hà Nội phát triển nhanh về số lượng, có quan hệ chặt chẽ với các đối tác nước ngoài trên khắp thế giới và dần khẳng định được về uy tín, chất lượng phục vụ với du khách quốc tế. Việc khai thác luồng khách được thực hiện qua nhiều hình thức : Qua mạng, website, qua các hãng gửi khách nước ngoài...Hàng năm ( kể năm 1998 đến nay), Hà Nội thường có 2-3 doanh nghiệp đạt danh hiệu Topten doanh nghiệp lữ hành hàng đầu Việt Nam. Bảng 2.4 Số lượng doanh nghiệp lữ hành và vận chuyển khách du lịch. Loại DN 2003 2004 Tổng số DN đăng ký 775 1.130 Trong đó : - DN lữ hành quốc tế 61 84 - DN lữ hành nội địa và dịch vụ khác 678 998 - DN vận chuyển khách DL 37 48 (Nguồn : Sở Du lịch Hà Nội). 2005 2.276. 2006 4.000. 2007 4.320. 115 2.092 69. 136 3.789 75. 277 3.943 100. Các phương tiện vận chuyển thuộc ngành du lịch quản lý có 100 doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch bằng ô tô với trên 1.000 xe các loại, 01 doanh nghiệp có đội tàu vận chuyển khách trên Sông Hồng, 01 doanh.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> nghiệp có du thuyền trên Tây Hồ, 02 doanh nghiệp đầu tư toa tàu du lịch chất lượng cao. Đặc biệt, có 04 doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển bằng xe xích lô du lịch. Quản lý các doanh nghiệp, cá nhân tham gia trong hoạt động kinh doanh du lịch cũng là một nhiệm vụ quan trọng, phức tạp. Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp, là tiền để cho các văn bản, chính sách quản lý theo mô hình quản lý : Tiền cấp – hậu kiểm, là cơ hội thuận lợi cho việc hình thành hình thức kinh doanh của các tổ chức, cá nhân. Trước bối cảnh đó, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đối tượng tham gia kinh doanh trong ngành du lịch trở nên rất đông, "mọc lên như nấm sau cơn mưa", đặc biệt là sau 15 năm, nhà nước tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, đã đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước những thử thách to lớn. Trong ngành du lịch Hà Nội thời gian qua, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có doanh thu và tốc độ tăng doanh thu cao nhất (đạt trên 5.000 tỷ đồng, chiếm 62% doanh thu toàn ngành). Hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là tập trung ở lĩnh vực kinh doanh lưu trú, doanh thu lưu trú chiếm 65,2% doanh thu du lịch. Có đến 13 trong tổng số 14 cơ sở lưu trú du lịch đạt tiêu chuẩn từ 4 sao đến 5 sao đều thuộc sở hữu của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này. Đây là những cơ sở lưu trú du lịch có cơ sở vật chất hiện đại, chất lượng dịch vụ cao, sản phẩm đồng bộ và trình độ quản lý kinh doanh tiên tiến. Với đối tượng phục vụ chủ yếu là khách du lịch quốc tế có thu nhập cao và thời gian lưu trú bình quân tương đối dài (2,1 ngày/ khách) đã đem lại nguồn thu lớn cho loại hình doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp có vốn đần tư nước ngoài mặc dù khá khiêm tốn về số lượng song lại được đầu tư lớn và có trình độ quản lý, kinh doanh tiên tiến nhắm tới đối tượng là các gói sản phẩm cao cấp dành cho khách du lịch quốc tế, và khách du lịch trong nước có thu nhập cao, hoặc các nhà đầu tư hoặc.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> khách tham dự hội nghị quốc tế. Vì vậy, khi luồng khách du lịch đi vào ổn định và tăng trưởng nhanh trong giai đoạn 2003-2007, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này đã có sự bứt phá mạnh mẽ. Các chỉ tiêu về số ngày lưu lại trung bình đối với cả hoạt động lưu trú và hoạt động lữ hành đều được duy trì ở mức khá cao so với các doanh nghiệp khác (7,8 ngày đối với hoạt động động lữ hành và 2,3 ngày đối với hoạt động lưu trú). Do chú trọng đầu tư và sử dụng lao động có chất lượng cao, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng đạt mức năng suất lao động cao nhất trong các thành phần kinh tế. Có thế nói khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển khá vững chắc với việc duy trì các chỉ tiêu phán ánh hiệu quả kinh doanh ở mức cao sao với toàn ngành và có chuyển biến so với năm 2003. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu ở 2 lĩnh vực : Lữ hành và lưu trú. Các doanh nghiệp nhà nước, năm 2007, có doanh thu du lịch đạt 2.540 tỷ đồng chiếm 35% tổng doanh thu ngành. Tuy cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự hiện đại nhưng lại có được vị trí thuận lợi rộng rãi bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu về nghỉ ngơi, ăn uống, tổ chức hội nghị, hội thảo…để có thế đón tiếp những đoàn khách lớn. Hiện nay, ngoài việc tiếp tục củng cố phát triển mạng lưới cơ sở lưu trú du lịch thì các doanh nghiệp nhà nước đang đẩy mạnh hoạt động kinh doanh lữ hành. Hoạt động lữ hành đang trở thành một lĩnh vực kinh doanh chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước. Doanh thu lữ hành chiếm 40% doanh thu của khu vực này, trong khi doanh thu lưu trú chiếm 30%. Như vậy, có thể thấy là các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động tương đối đều, ổn định ở cả lĩnh vực lưu trú và lữ hành. Năm 2007, các doanh nghiệp nhà nước đón 2,8 triệu lượt khách, trong đó có 1,1 triệu lượt khách quốc tế. Nói chung, các doanh nghiệp nhà nước mặc dù vẫn chiếm thị phần lớn nhất (52,9% đối với khách lữ hành, 36,5% đối với khách lưu trú và 69,7% đối với khách ra nước ngoài), song hiệu quả kinh doanh duy trì ở mức trung bình và không có cải thiện nhiều qua.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> hai năm . Đối tượng phục vụ của các doanh nghiệp này cũng chủ yếu nhằm vào tầng lớp dân cư có thu nhập trung bình và tương đối ổn định về số lượng. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước hoạt động ở nhiều : lĩnh vực lữ hành và lưu trú, vận chuyển khách và phục vụ du lịch. Tuy nhiên doanh số đạt không cao do quy mô nhỏ, manh mún. Năm 2007, doanh thu của khu vực kinh tế ngoài nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực du lịch đạt xấp xỉ 400 tỷ đồng chiếm 2% tổng doanh thu. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước tuy có số lượng cơ sở lưu trú lớn nhưng quy mô nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, chất lượng dịch vụ chưa cao, chỉ mới đáp ứng được nhu cầu đơn lẻ của khách du lịch, Doanh thu lữ hành đạt 180 tỷ đồng chiếm 45% doanh thu của khu vực ngoài nhà nước. Hiện nay, các doanh nghiệp lữ hành bước đầu đã nắm bắt được nhu cầu về du lịch của nhân dân nên đã và đang đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của mình. Trong thời gian tới khi mà đời sống nhân dân được cải thiện, nhu cầu đi du lịch trở thành một thói quen tiêu dùng của dân chúng thì hoạt động lữ hành sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nói chung thường nhằm đến đối tượng khách du lịch có mức chi tiêu thấp, đồng thời cũng có đủ nguồn lực để đầu tư và trang bị cơ sở vật chất hiện đại, nhằm cung cấp những sản phẩm có chất lượng cao đến khách hàng. Tuy nhiên, là thành phần kinh tế khá năng động và nhạy bén trong cơ chế thị trường, hiệu quả kinh doanh của các đơn vị này cũng có chuyến biến rõ nét. Số ngày phục vụ đối với khách lữ hành tăng từ 2,9 ngày năm 2003 lên tới 3,3 ngày vào năm 2007, với khách lưu trú là từ 1,9 lên đến 2,3 ngày. Đáng chú ý là các doanh nghiệp này đang hướng tới các sản phẩm du lịch ra nước ngoài và đã đạt được một số kết quả khả quan hơn, tuy nhiên xu hướng này không được ngành du lịch khuyến khích. Mặc dù có cải thiện đáng kể song nhìn chung hiệu quả kinh doanh cũng chỉ ở mức trung bình so với toàn ngành. Do chủ yếu phục vụ khách nội địa đi tham quan nên.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> sản xuất kinh doanh còn mang nặng tính thời vụ, dẫn đến công suất sử dụng buồng phòng không cao. Hiện nay, trong công tác quản lý nhà nước tồn tại hiện tượng thực tế đó là các công ty và các cá nhân nước ngoài (chủ yếu mang quốc tịch Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản) không đăng ký kinh doanh, cũng không đăng ký bảng hiệu tại Việt Nam, nhưng lại thu hút khá thành công đối với khách du lịch ở nước họ và đưa được nhiều khách du lịch vào Hà Nội nói riêng, Việt Nam nói chung. Về chủ trương, việc đưa nhiều khách du lịch đến Việt Nam được Chính phủ rất khuyến khích, nhưng với hình thức bất hợp pháp thì lại gây ra những ảnh hưởng không tốt tới công tác quản lý nhà nước cũng như đối với chính du khách. Một mặt, nhà nước không quản lý được hoạt động của các công ty nước ngoài này. Mặt khác, tính an toàn của du khách sẽ không được đảm bảo khi họ vào Việt Nam thông qua những công ty bất hợp pháp. Kèm theo đó gây thất thu cho ngân sách Nhà nước (vì hầu hết hoạt động "chui" này nhằm mục đích trốn thuế). Ngoài ra, việu đưa khách du lịch vào Hà Nội theo hình thức này còn có thể dẫn đến những hành vi tiêu cực, phạm pháp khác như môi gới hôn nhân, mại dâm, buôn lậu, rử tiền… Các công ty nước ngoài kinh doanh du lịch "chui" không phải là hiện tượng mới ở Việt Nam, nó đã xuất hiện từ vai năm nay, chủ yếu nhắm vào đối tượng khách Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là nhóm khách ngày càng ưa thích du lịch Việt Nam. Trước thực trạng nêu trên, Thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để các ca nhân, doanh nghiệp nước ngoài có thể hợp thức hoạt động, tạo bình đẵng giữa các công ty du lịch trong và ngoài nước,đảm bảo an toàn cho du khách, là một vấn đề đang được cơ quan quản lý nhà nước về du lịch của Thành phố đặt trong tâm khi hoạch định chính sách phát triển du lịch. * Qua hoạt động quản lý nhà nước đối với các thành phần tham gia kinh tế du lịch Hà Nội các năm 2003 – 2007 cho thấy một số nhận xét sau :.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> Thứ nhất, về mặt mạnh, doanh thu kinh doanh du lịch đã tăng nhanh về quy mô ở tất cả các loại hình doanh nghiệp. Tốc đọ tăng về doanh thu bước đầu là tương xứng với tốc độ tăng về số lượng doanh nghiệp và tỷ trong doanh thu đã có sự chuyển ở các loại hình doanh nghiệp, mặc dù chưa đáng kể. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để gia tăng dáng kể doanh thu cũng như đẻ tạo sự phát triển mạnh mẽ mang tính bứt phá của ngành du lịch thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, mỡ rộng thị trường, đào tạo và bồi dưỡng đọi ngũ lao động có trình độ đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh. Đa số các doanh nghiệp ngoài nước mặc dù mới thành lập có quy mô nhỏ nhưng đã tương đối ổn đinh hoạt đọng sản xuất kinh doanh. Điều này một lần nữa khảng định tính năng hoạt đọng của khu vực kinh tế này. Vai trò quan trọng của doang nghiệp có vốn đầu tư trong nước ngoài trong lĩnh vực du lịch của Hà Nội vẫn được thể hiện rỏ nét. Cho thấy, vẩn phải có những chính sách phù hợp để đẩy mạnh hoạt động thu hts vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực du lịch. Hiệu quả và xu hướng cải thiện hiệu quả cũng như năng lực cạnh tranh củ các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn Thủ đô chỉ mang tính tương đối. Nhìn nhận một cách khách quan, mỗi loại hinh doanh nghiệp, mặc dù còn có hạn chế nhất định, song đều có xu hướng cải thiện hiệu quả sản xuất kinh doanh ở mức độ khác nhau. Quan trong hơn là mỗi thành phần kinh tế đã biết dụa vào thế mạnh của mình để lựa chọn, cung cấp những sản phẩm dịch vụ có chất lượng, giá cả phù hợp với từng nhóm đối tương khách hàng, và do đó đã có sự bổ sung, hỗ trợ cho nhau nhăm khai thác tối đa tiềm năng du lịch của Hà Nội cũng như các địa phương lân cận. Thư hai, thực lực của các doanh nghiệp Hà Nội chưa đủ mạnh để có thể cạnh tranh mạnh mẽ với doanh nghiệp nước ngoài hay một số doanh nghiệp.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> lớn của Thành phố Hồ Chí Minh, thể hiện nét ở một số yếu tố cơ bản là : Thu hút nguồn vốn đầu tư còn nhỏ lẻ, chế độ đãi ngộ cán bộ nhân viên, đào tạo nguồn nhân lực chưa phù hợp... Mặc dù đã hình thành Hiệp hội Du lịch Hà Nội, nhưng bản thân các doanh nghiệp chưa nhận thức rỏ được ví trí, vai trò của Hiệp hội nên tham gia còn hời hợt, chưa thực sự "bắt tay nhau"cùng phát triển và đề xuất những cơ chế, chính sách mới với thành phố, mà vẫn phát triển theo quan điểm "mạnh ai, nấy làm". Đây cũng là một nguyên nhân tác động đến quy hoạch phát triển nghành chưa đi theo đúng định hướng. Thứ ba, bản thân các doanh nghiệp cũng chưa nhận thức rõ vai trò của công tác quảng bá, xúc tiến, do đó chiến lược marketinh của các doanh nghiệp chưa được chú trọng, tập trung đầu tư. Thứ tư,việc quản lý khai thác tài nguyên du lịch của các doanh nghiệp chưa hiệu quả, thiếu tính bền vững. 2.2.5. Quản lý nguồn nhân lực du lịch. Lao động nghành du lịch thời gian qua được tăng nhanh về số lượng và tương đối đảm bảo về mặt chất lượng, số lượng lao động đạt xấp xỉ dự báo của quy hoạch : năm 2003, Hà Nội có trên 20 ngàn lao động, trong đó có 11,7 ngàn lao động trực tiếp ; 2005 có xấp xỉ 30 ngàn lao động, trong đó có khoảng hơn 21 ngàn lao đọng trực tiếp, nă 2007 có tới 40 ngàn lao động (tăng gấp 2,2 lần so với năm 2003). Bảng 2.5. Thống kê số lượng lao động củ ngành Du lịch Hà Nội Đơn vị tính : Người Chỉ tiêu Tổng số lao động. 2002 18.000. 2003 20.000. 2004 222000. 2005 30.000. 2006 35.000. 2007 40.000. (Nguồn : Sở Du lịch Hà Nội) Trong sự nghiệp đổi mới phát triển du lịch thời gian vừa qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã được chú trọng và đạt được những tiến.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> bộ đáng ghi nhận : Quy mô tuyển sinh ngày càng tăng, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tế ; mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,dày nghề (trên 30 trường) và nhiều trung tâm dạy nghề được hình thành và phát triển nhanh ; cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch được nâng cấp, xây dựng mới, trang bị ngày càng đồng bộ và hiện đại ; đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên tăng nhanh về số lượng, nâng dần về kiến thức nghiệp vụ, ngoại ngữ. Chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng được xây dựng, từng bước được chuẩn hóa ; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên. Lực lượng lao động có tay nghề cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế đã được hình thành. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ mới được ngành Du lịch Hà Nội thực hiện gần đây cho thấy, đã có 86,3% lao động trực tiếp được đào tạo (1,65% cán bộ đạt trình độ trên đại học ; 42,75% đại học và cao đẳng ; 23,8% trung cấp và 18,1% sơ cấp nghề). Có 32% lao động phục vụ trực tiếp biết tiếng Anh ; 13,2 biết tiếng Pháp ; 3,6% biết tiếng Trung Quốc ở các mức độ khác nhau ; các ngoại ngữ khác cũng đã được quan tâm đào tạo, đặc biệt là một số ngoại ngữ hiếm như : Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức, Tây Ban Nha… Đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức nghành du lịch mặc dù với biên chế rất hạn hẹp, nhưng đã nổ lực hoàn thành được chức năng quản lý nhà nước về du lịch ở cả tầm chiến lược và các tác nghiệp cụ thể. 2.2.6. Một số kết quă điển hình trong quản lý nhà nước với sự nghiệp phát triển du lịch. Trong thời gian qua, sự phối hợp của các cấp, các nghành, xét về hiện tượng hay một hoạt động cụ thể, còn bộc lộ một vài hạn chế, song, chúng ta cũng không thể phủ nhận được giá trị thực tiễn đã đạt được của các cơ quan quản lý nhà nước của Hà Nội. Với các thành phần cụ thể là : + Khắc họa hình ảnh về điểm đến nhiều hứa hẹn, cải tạo hiểu biết về một đất nước, một Thủ đô : đã xây dựng nên hình tượng một điểm đến du lịch.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> của quốc gia, đồng thời, cũng nhiều tour ( chương trình) du lịch đặc sắc, gắn kết với nhiều địa phương. Việc xay dựng một hình ảnh đẹp bao giờ cũng là mối quan tâm của mọi điểm đến và trong trường hợp du khách muốt lựa chọn một địa điểm du lịch còn mới mẻ với họ, quyết định của họ hiển nhiên sẻ chịu ảnh hưởng của một số yếu tố khuyến mại, quảng bá và chiến lược tiếp thị là trọng tâm của phát triển du lịch Hà Nội đã thành công trong sự phối hợp có hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, kế hoạch đầu tư, thương mại. Trong đó có phần đóng góp to lớn của các doanh nghiệp du lịch Hà Nội. + Tăng cường thu hút ngoại tệ, xuất khẩu tại chỗ : Phần lớn du khavhs quốc tế đều xuất phát từ các nước giàu hơn để đén những đất nước ngheo hơn. Xét trên khía cạnh tích cực , xu hướng này góp phần tái phân phối thu nhập trên bình diện quốc tế và điều tiết lợi nhuận kinh tế tại nước chủ nhà. Về mặt xã hội, xu hướng này giúp Hà Nội tiếp cận với nhũng nền văn hóa và lối sông mới. Đồng thời, cũng tăng khoản thu ngoại tệ từ du khách mà ít phải bỏ ra các chi phí gián tiếp như quảng bá sản phẩm, vận chuyển…và được coi là hình thức xuất khẩu tại chổ rất hiệu quả. + Góp phần phát huy các giá trị văn hóa :Sự phát triển du lịch hiễn nhiên có tác động đến nền vă hóa của nhân dân địa phương. Tạo ra một mối giao lưu văn hóa khác nhau giữa khách du lịch và người dân bản địa về văn hóa. Qúa trình giao lưu các giá trị văn hóa không diễn ra trong một sớm một chiều mà phải trải qua một quá trình lâu dài. Háp thụ và phát huy một giá trị văn hóa của các khu vực, các dân tộc không chỉ diễn ra bởi các tác nhân biieeur hiện xã hội (bắt trước hành động, trang phục, phong cách của khách…)mà còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế (ví dụ :thu hút lượng không nhỏ phụ nữ tham gia vào các lực lượng hoạt động trong ngành du lịch thường được xem như biểu hiện giải phóng phụ nữ tích cực,…). Những biểu.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> hiện rõ ràng hơn về sự tăng cường các giá trị văn hóa là việc tập trung đầu tư, bảo tồn, tôn tạo các di tích và công trình lịch sử ngày càng nhiều. Việc nâng cao nhận thức và tăng cường phát huy các giá trị về văn hóa trong du lịch, với mục tiêu giữ gìn bản sắc dân tộc là cần thiết nhằm tránh những biến đổi tiêu cực có ảnh hướn lớn đến nền vă hóa riêng biệt của người Tràng an. + Góp phần bảo toàn tài nguyên vốn có : Tốc độ phát triển mạnh của du lịch mang lại cho một nguồn kinh tế lớn nhưng cũng đồng thời đặt ra nhiệm vụ khôi phục các nguồn tài nguyên hiện có. Du lịch tiêu thụ một phần lớn tài nguyên thiên nhiên (nước sạch đất xây dựng…), buộc phải cá những giải pháp tích cực để khôi phục, từ đó, góp phần tác động đến cuộc sống của cộng đồng cư dân mà chính quyền Thành phố Hà Nội rất chú trọng đến các kế hoạch bảo tồn, duy trì phù hợp mà vẫn thu hút được khách du lịch đến với thủ đô. + Phát triển du lịch gắn với giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo :tốc độ tăng trưởng đội ngũ lao động du lịch trung bình đạt 8.05% năm, là mức tăng tưởng tương đối cao. Năm 1994, Du lịch Hà Nội chỉ có hơn 7.000 lao động trong toàn ngành, nhưng đến nay, nguồn nhân lực du lịch Hà NỘI đã có khoảng 4vạn người chiếm khoảng 2.3% lao động của Thành phố. 2.3. Đánh giá công tác quản lý nhà nước về du lịch của Hà Nội. Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Hà Nội nói riêng vừa có ưu điểm nổi trội là hiệu quả cao, thúc đẩy sản xuất phát triển lại vừa có điểm yếu là tự phát, phân hóa hai cực rõ rệt. Việt Nam đang trải qua thời kỳ phát triển kinh tế thị trường, phát triển kinh tế du lịch, có điều kiện và lợi thế để thu hút một phần thị trường thế giới về du lịch, nắm vai trò nhất định trong việc tổ chức sản xuất, phân luồng và giao lưu văn hóa, dịch vụ, nhưng cũng đặt ra nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động du lịch cao hơn, cấp thiết hơn. Các cơ quan quản lý nhà nước các cấp từ trung ương đến cơ sở càn có sự phối hợp.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> nhịp nhàng, linh hoạt, thống nhất nhằm hướng đến một ngành kinh tế phát triển hiệu quả, năng đông và bền vững. 2.3.1 Ưu điểm của công tác QLNN về du lịch của Hà Nội Với những kết quả đã đạt được của Ngành du lịch Thủ đô đã cho thấy rằng : * Thứ nhất : Xây dựng và điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kịp thời Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà Nội là nên tảng cơ bản để xây dựng chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh du lịch trên toàn Thành phố, trong đó có mô hình, mục tiêu thực hiện các tuyến, điểm du lịch Thủ đô (Hà Nội cũ) đã được xây dựng và một số khu, tuyến, điểm du lịch của du lịch Hà Tây (cũ) cũng đã có quy hoạch. Hàng trăm dự án quy hoạch chi tiết du lịch và hàng chục dự án quy hoạch du lịch khác đang được khẩn trương thực hiện, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần quản lý, khai thác tài nguyên du lịch ngày một hiệu quả đối với du lịch của Hà Nội mới. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội những năm vừa qua có nhiều yếu tố mới xuất hiện, các quy hoạch kinh tế xã hội mới được xây dựng cho vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,… đặt ra phương hướng và nhiệm vụ mới cho định hướng phát triển của Thủ đô Hà Nội. Đối với du lịch của cả nước nói chung và của Thủ đô Hà Nội nói riêng, cũng có nhiều yếu tố mới như : Xu thế hội nhập khu vực, sự thay đổi hành trình luồng khách du lịch quốc tế, Luật Du lịch được công bố, hệ thống cơ sở hạ tầng của Thủ đô được nâng cấp, Việt Nam gia nhập WTO…cũng đặt ra cho du lịch Hà Nội những cơ hội thách thức mới đòi hỏi phải có những kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô, nhanh chóng hòa nhập với sự phát triển của Hà Nội đã kịp thời tiến hành khảo sát và xây.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> dựng kế hoạch điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển ngành du lịch Hà Nội nhằm bắt kịp thời với tình hình mới. * Thứ hai : Môi trường chính sách, cơ chế QLNN về du lịch cải thiện Luật du lịch ra đời là khung pháp lý cao nhất, là bước ngoặt quan trọng khẳng định vai trò của ngành và thể chế hóa đường lối phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho hoạt động du lịch Hà Nội phát triển đi vào nề nếp và có định hướng mục tiêu rõ ràng góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch. Hành lang pháp lý về du lịch nói chung đã được hoàn thiện dần. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến du lịch như xuất, nhập khẩu, cư trú đi lại cho người Việt Nam, cho người nước ngoài và các văn bản liên quan khác được bổ sung. Thủ tục xuất, nhập cảnh, cư trú, đi lại, hải quan liên tục được cải thiện thuận lợi hơn cho khách và các nhà đầu tư.Việc áp dụng miễn phí thực song phương cho công dân các nước Asean và một số quốc gia khác, miễn thị thực đơn phương cho công dân Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước Bắc Âu là giải pháp chủ động, tích cực và mạnh bạo trong bối cảnh an ninh hiện nay để thu hút khách du lịch quốc tế đến Hà Nội. * Thứ ba : Cơ sở vật chất cho khách kinh doanh dần được nâng cao Theo số liệu thống kê hơn 10 năm lại đây, cả nước đã nâng cấp xây mới 50.000 phòng khách sạn, trong đó, Hà Nội cũng đã tăng trên 6.000 phòng ( tăng gấp 2 lần). Đến năm 2010, Hà Nội có thể đáp ứng được nhu cầu đón 1,6 triệu lượt khách quốc tế và khoảng 6 triệu lượt khách du lịch nội địa. Phương tiện vận chuyển khách du lịch phát triển đa dạng ở cả đường hàng không, đường ô tô, đường sắt, đường thủy dần được hiện đại hóa. Năng lực vận chuyển khách du lịch tăng, chất lượng được nâng lên. Phương tiện vận chuyển khách du lịch chuyên ngành với hàng nghìn ô tô, tàu thuyền các loại, chất lượng phương tiện được tăng cường đổi mới thường xuyên ; đội ngũ xe taxi ở các điểm du lịch được thành lập, phục vụ kịp thời nhu cầu đi lại của khách du lịch ; một số khu du lịch nghỉ dưỡng, sân golf, công viên chủ đề.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> và cơ sở giải trí được đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch quốc tế và trong nước. Với cơ sở vật chất kỹ thuật như hiện nay, ngành du lịch Hà Nội đã đảm bảo phục vụ hàng triệu lượt khách quốc tế, nội địa và tổ chức được các sự kiện hội nghị quốc tế lớn. Toàn ngành đã chú trọng nghiên cứu xây dựng và phát triển nhiều loại hình, sản phẩm du lịch độc đáo, có sức hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Xây dựng các tuyến mới cả đường bộ, đường sông, đường biển, nối các điểm du lịch, khu du lịch ở cả các vùng trong khu vực phía Bắc. Hình thành các loại hình du lịch mới, đặc thù như du lịch đường bộ xuyên Việt, du lịch trở về cuội nguồn, du lịch sinh thái, du lịch hang động, sông nước, giải trí, thể thao, chữa bệnh…và đặc biệt là du lịch rất hấp dẫn khách du lịch quốc tế. * Thứ tư : tăng khả năng thu hút vốn đầu tư cho phát triển du lịch Hà Nội huy động ngày một nhiều nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất , nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm du lịch : Toàn ngành du lịch Thủ đô đã phát huy nội lực, huy động vốn từ nhiều nguồn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Hà Nội đã chi nhiều tỷ đồng hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch ở các khi du lịch trọng điểm, khu du lịch quốc gia ; khai thác và gắn kết hoạt động du lịch với hoạt động kinh tế - xã hội các quận, huyện. Vốn hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng từ ngân sách nhà nước đã được khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho các hoạt động xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành. Thành phố cũng thu hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc tăng cường mở rộng hợp tác thu hút vốn đầu tư, tài trợ của quốc tế thời gian qua đã đạt được những thành quả đáng khích lệ. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang đánh giá Việt Nam, trong đó có Hà Nội, là một điểm đầu tư nhiều tiền năng. Theo khảo sát của hội đồng kinh doanh châu Á cho thấy Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về hấp dẫn đầu tư đối với các tập đoàn châu á trong giai đoạn 2007-2009. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam xếp thứ 6 trong.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> 141 nền kinh tế được khảo sát về triển vọng thu hút đầu tư, sau Trung Quốc (52%), Ấn Độ (42%), Mỹ (36%), Nga (22%), và Brazil (12%). Ngành du lịch Hà Nội đã tranh thủ được nhiều tổ chức quốc tế, các chính phủ và tổ chức phi chính phủ tài trợ cho phát triển du lịch trong các lĩnh vực : Quy hoạch, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, cải cách hành chính, xây dựng văn bản pháp luật…và Hà Nội cũng là địa phương đứng thứ hai, sau thành phố Hồ Chí Minh về thu hút nhiều dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. * Thứ năm : Lực lượng kinh doanh du lịch từng bước phát triển Do những thông thoáng về Luật doanh nghiệp, Luật Du lịch, giấy phép kinh doanh lữ hành nội địa và khách sạn được bãi bỏ, số doanh nghiệp du lịch mới ra đời bùng phát, đặc biệt là ngoài quốc doanh. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Quá trình đổi mới nền kinh tế theo hướng thị trường đã tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực du lịch (kể cả liên doanh 100% vốn nước ngoài). Đi đôi với lực lượng hoạt động du lịch phát triển bùng phát, công tác quản lý cũng trở nên nặng nề hơn rất nhiều. Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp du lịch cũng rất được quan tâm. Đến nay, các doanh nghiệp du lịch sau cổ phần hóa của Hà Nội hoạt động hiệu quả hơn, đời sống người lao động được nâng lên những mức đáng kể, hàng chục đơn vị du lịch đã được cổ phần hóa và sự ra đời của Tổng công ty Du lịch Hà Nội đã tạo cho du lịch Thủ đô có những điều kiện về tài sản, nguồn vốn, nguồn nhân lực…tạm thời đủ mạnh để có thể tham gia cạnh tranh trong môi trường hội nhập. *Thứ sáu : Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch dần được hoàn thiện Nhìn chung, giai đoạn từ 1994 trở về trước, hệ thống tổ chức bộ máy ngành du lịch chưa thực sự định hình và thiếu tính thống nhất dẫn đến quản lý nhà nước về du lịch ở các cấp còn lỏng lẻo, kém hiệu lực dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao. Sau năm 2003, công tác quản lý nhà nước các dịch vụ.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> công trong du lịch bước đầu đã có nhiều hiệu quả ; để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, hoạt động du lịch đã tập trung về một đầu mối quản lý, là Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch, từ đó đã kết hợp được du lịch và văn hóa trong cùng một nhiệm vụ quản lý nhà nước, là một bước quan trọng, là điều kiện để phát huy giá trị văn hóa, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch. Bộ quản lý nhà nước về du lịch của Thành phố cũng được củng cố. 2.3.2 Hạn chế Bên cạnh những thành tựu rất đáng trân trọng đã được, song nếu xem xét một cách nghiêm túc và đặt sự phát triển du lịch của Hà Nội so với tiềm năng, lợi thế vẫn còn hạn chế và bất cập về công tác QLNN, thể hiện ở một số vấn đề chủ yếu sau đây : 2.3.2.1 Nhận thức xã hội về kinh tế du lịch chưa đầy đủ, thuận lợi Nhận thức của xã hội nói chung và một số cơ quan, ban, ngành của Thành phố Hà Nội đổi mới chưa đồng đều. Phần lớn vẫn còn tồn tại quan niệm du lịch là một hoạt động vui chơi giải trí của một nhóm người có tiền, có của, chứ chưa nhận thức được đây là một loại hình kinh tế rất hiệu quả. Vì vậy, việc quan tâm cho sự nghiệp phát triển du lịch chưa đúng mức. Thậm chí, có những cán bộ của một số cơ quan quản lý nhà nước khác của thành phố còn tồn tại suy nghĩ rằng, các đợt hoạt động quảng bá xúc tiến của ngành du lịch ở trong nước và nước ngoài là việc sử dụng ngân sách nhà nước để đi chơi. Đó là một suy nghĩ hoàn toàn sai lệch, bởi hiệu quả hoạt động xúc tiến của ngành du lịch là một hoạt động không nhìn thấy bằng các định lượng cụ thể, mà hiệu quả của nó tiềm ẩn bằng giá trị định tính, trong việc thu hút du khách đến với Hà Nội, sẽ tăng cường xuất khẩu tại chỗ, tăng việc làm, thu nhập cho người lao động…, dẫn đến thiếu sự thống nhất trong xây dựng, chỉ đạo, quản lý và thực hiện phát triển du lịch song song với phát triển các ngành kinh tế khác như : Thường mại, công nghiệp...

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Đồng thời, trên cơ sở quy hoạch phát triển ngành đã có, nhưng các cơ chế, chính sách của Nhà nước và Thành phố, là tiêu chí vận dụng quy hoạch còn ban hành chậm trễ, chưa kịp thời cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện quy hoạch phát triển của ngành. Trong điều kiện toàn cầu hóa, xã hội hóa ngày càng mạnh mẽ, nền kinh tế đa thành phần, các quan hệ kinh tế liên tục biến đổi, trong khi đó, công tác quy hoạch, dự báo xu hướng vận động chưa được làm tốt, chưa phát huy được hiệu quả kịp thời, dẫn tới việc áp dụng các quy phạm pháp luật còn nhiều hạn chế. 2.3.2.2. Hệ thống chính sách chưa hoàn thiện và bất kịp với sự phát triển của hoạt động du lịch; Chính sách, cơ chế chung để đào tạo nền tảng thúc đẩy du lịch phát triển đã được hình thành phù hợp dần với điều kiện và xu hướng phát triển du lịch thế giới và trong nước, tuy nhiên, cũng chưa bắt kịp với sự phát triển chung. Du lịch là hình thức kinh doanh mang tính xã hội cao, vì vậy, bên cạnh việc điều chỉnh các cơ quan quản lý về du lịch còn có hệ thống văn bản quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, bởi vậy, nếu có nhận thức về du lịch chưa đúng đắn, hoàn toàn có thể làm sai lệch chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước. Là một ngành kinh tế mới, non trẻ, do vậy, các quy định pháp luật có liên quan đang trong thời gian được hoàn chỉnh, nên chưa có cách hiểu thống nhất và bản thân các cơ quan quản lý nhà nước chưa triệt để triển khai có hiệu quả, đôi khi còn buông lỏng quản lý. Chế tài quản lý chưa bắt kịp với nhu cầu phát triển, mà một trong những ví dụn điển hình, là chế tài xử lý người nước ngoài đến du lịch và phạm tội tại Việt Nam trong thời gian qua có chiều hướng gia tăng, hay du lịch luôn đồi hỏi phát triển sản phẩm,loại hình du lịch mới( du lịch lặn biển, du lịch thể thao, du lịch chữa bệnh…), song để triển khai, còn gặp nhiều khó.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> khăn do các quy định, chế tài để thực hiện được các chương trình du lịch này quá chặt chẽ. Do văn bản pháp luật chưa theo kịp sự biến động phát triển nhanh, nhạy của một ngành kinh tế mới, năng động, ngành du lịch đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh du lịch Hà Nội nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung. Các chính sách về tài chính( thếu, hạch toán chi phí quảng bá,..); chính sách về công tác đầu tư, chính sách bảo vệ, tôn tạo các điểm khu vui chơi du lịch…của nhà nước đã tác động đã tác động không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của hoạt động du lịch. Hoạt động tiếp thị(marketing) là một biểu hiện cụ thể về sự vướng mắc đối với cơ chế, chính sách của nhà nước trong kinh doanh du lịch. Hoạt động này gặp hạn chế về mặt ngân sách, đối với các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và chính sách khẩu trừ lợi nhuận của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp cũng tác động mạnh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí quảng bá, xúc tiến du lịch không chỉ là điểm yếu của riêng Hà Nội mà còn của cả ngành du lịch Việt Nam. Trên thế giới, kinh phí cho việc quảng bá, xúc tiến thường chiếm 10%, thậm chí 20% thu nhập từ du lịch, nhằm hỗ trợ phát triển kinh doanh của các ngành hàng khác. Nếu tính theo mức độ đó thì lẽ ra Hà Nội phải có được ngân quỹ 1.800 tỉ đồng/năm cho hoạt động này. Song hiện nay số tiền chi cho quảng bá du lịch ở Hà Nội ước tính ở mức…2.000 đồng cho mỗi du khách(tương đương 13 tỉ đồng). Bản thân các doanh nghiệp cũng chưa nhận thức rõ vấn đề này, điều đó thể hiện ở chiến lược marketing của các doanh nghiệp chưa được tập trung, chú trọng và việc quản lý khai thác tài nguyên du lịch của các doanh nghiệp, đơn vị không hiệu quả, thiếu tính bền vững. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ là tiền nhiều hay ít mà còn là quảng bá như thế nào, ví dụ như: cơn sốt khách du lịch pháp ồ ạt vào Việt Nam những năm 1990 sau thành công của các bộ phim Đông Dương, Nguời tình, Điện Biên Phủ…là một chứng minh rất hiệu quả..

<span class='text_page_counter'>(78)</span> Chính sách quản lý khách du lịch quốc tế, gần đây có một số vấn đề nổi cộm. Thực tế cho thấy, taih Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, trong thời gian gần đây đã phát sinh tình trạng người nước ngoài vi phạm pháp luật ngày càng gia tăng theo chiều hướng diễn biến phức tạp, chủ yếu là người đến từ các nước chậm phát triển(Châu phi), nhập cảnh trái phép, không đăng ký tạm trú, sống lang thang, tụ tập gây mất trật tự. Nhiều đối tượng vi phạm pháp luật nghiêm trọng(lừ đảo, trộm cắp, cướp giật…), nhưng do bất đồng ngôn ngữ, không có người phiên dịch, gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc thu thập chứng cứ nên chưa thể xử lý hình sự. Nhiều vụ án, trong quá trình điều tra, truy tố diễn ra suôn sẻ vì bị can sử dụng tiếng Anh và chấp thuận ngôn ngữ đó là ngôn ngữ chính trong quá trình tố tụng, nhưng đến khi ra tòa lại đổi ý, giả vờ không hiểu tiếng Anh, thông dịch giải thích kiểu nào cũng lắc đầu ra dấu không hiểu nên tòa đành phải hoãn xử để thông dịch tiếng mẹ đẻ của bị cáo. Rất nhiều tội phạm không có giấy tờ tùy thân, thậm chí, vứt bỏ sau khi qua của khẩu Việt Nam, nên không làm thủ tục trục xuất họ; trong khi đó, đại diện cơ quan ngoại giao của những người này thường từ chối tiếp nhận, hỗ trợ. Đây cũng là một hạn chế không nhỏ trong công tác quản lý nhà nước đối với khách quốc tế nhập cảnh qua con đường du lịch, do vấn đề xử lý tội phạm liên quan đến yếu tố nước ngoài của chúng ta vẫn còn hạn chế do các quy định trong hệ thống văn bản pháp luật chưa hoàn thiện, khó áp dụng để tiến hành khởi tố. Thực tiễn này chưa được khắc phục kịp thời, bởi một phần là do chính sách phá luật còn kẽ hở, một phần do các cơ quan quản lý nhà nước còn buông lỏng, chưa thuacj sự phối hợp có hiệu quả để xử lý nghiêm minh, triệt để. Sự phối hợp quản lý giữa các ngành, các cấp, các địa phương chưa thực hiện nhịp nhàng, hiệu quả. Điều này được thể hiện rõ ở chỗ, sự phối hợp với các cơ quan quản lý có liên quan đến hoạt động du lịch còn chưa đồng bộ,.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> chặt chẽ, thieus tính linh hoạt giữa các nghiệp vụ quản lý nhà nước theo lĩnh vực được giao, do đòi hỏi về công tác quản lý của từng ngành, từng lĩnh vực khác nhau, còn thiếu sự chỉ đạo thống nhất để hài hòa cho lợi ích các bên trong hoạt động quản lý. Mặc dù đã thành lập “Ban Chỉ Đạo Nhà Nước về Du Lịch Thành Phố” với sự tham gia của nhiều ban, ngành , quận, huyện nhưng sự tham gia còn chậm trễ, ý lại lẫn nhau, hoạt động chưa hiệu quả trong việc thực hiện quản lý, tạo lập và thực hiện các chế tài được phân công. 2.3.2.3. Sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa có sự hấp dẫn, thu hút du khách. Khi đánh giá cơ cấu chi tiêu của khách du lịch(như đã nói phần trên) cho thấy các khoản chi tiêu của du khách chủ yếu tập trung vào du lịch lưu trú chứng tỏ rằng, Hà Nội còn thiếu những sản phẩm du lịch đặc sắc có sức cạnh tranh và hấp dẫn cao, thiếu những khu du lịch, điểm du lịch tầm cỡ quốc gia và quốc tế; những loại hình hoạt động du lịch mới hấp dẫn, các dịch vụ hỗ trợ du lịch tại đô thị để thu hút khách kéo dài thời gian lưu trú và tăng thu nhập từ hoạt động du lịch . Tài nguyên du lịch và môi trường đang có sự suy giảm do việc khai thác, sử dụng thiếu hợp lý và những tác động của thiên tai ngày càng tăng. Ngoài ra,cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật cảu du lịch Hà Tây (cũ) hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Đây cũng là những khó khăn không nhỏ đối với hoạt động du lịch của Thủ đô mới. Hệ thống sản phẩm và các loại hình dịch vụ còn nghèo nàn, kết cấu hạ tầng kỷ thuật đo thị, chất lượng phục vụ chưa cao cũng là một trong những yếu tố đánh giá trình độ phục vụ, thu hút du khách của du lịch Hà Nội hiện tại. 2.3.3. Nguyên nhân: 2.3.3.1. Quy cách phát triển nghành khai thác chưa hiệu quả.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> Mặc dù quy hoạch phát triển ngành đã được xây dựng và áp dụng nhưng chưa phát huy hết tác dụng đối với các nghành, các cấp, do vậy,việc thực hiện quy hoạch chưa khoa học, còn mang nặng tính hình thức, đồng thời, ngay cả đối với các ngành doanh nghiệp thì với mục tiêu phát triển du lịch chung của thành phố; việc khai thác triệt để những lợi thế du lịch ở một số điểm du lịch (do tư nhân hay doanh nghiệp ngoài quốc doanh khai thác) bộc lộ một cách “ thái quá” và chưa đảm bảo các điều kiện cần thiết đã làm đến cảnh quan, môi trường ,gây mất cân bằng sinh thái. Ngay kể cả các sản phẩm du lịch có quy mô lớn như hệ thống cơ sở vui chơi gải trí Hà Nội và phụ cận cũng phân bố chưa hợp lý,quy mô còn nhỏ lẻ, không tuân thủ theo định hướng phát triển chung của quy hoạch,loại hình hoạt động và sản phẩm vui chơi giải trí đơn điệu,thiếu hấp dẫn, chất lượng chưa cao. Phần lớn các khu, điểm du lịch trong, ngoài thành phố hiện đang ở trong giai đoạn đầu tư, xây dựng; điều kiện cơ sở vật chất,hạ tầng chưa đồng bộ và hoàn thiện, thiếu các tiện nghi hấp dẫn và có chất lượng cao phục vụ các hoạt động vui chơi giải trí của du khách du lịch. Những bất cập trên là một trong những lý do khiến số ngày lưu trú khách du lịch ở Hà Nội thấp. Số ngày khách,công suất sử dụng buồng phòng và các tiêu chí khác phản ánh tính hiệu quả đã có cải thiện, song tính bền vững chưa cao. Thể hiện chỗ tỷ lệ khách quay alij còn thấp. Có thông tin cho rằng 85% khách du lịch trả lời không muốn quay lại Việt Nam lần thứ hai. 2.3.3.2. Hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch của Hà Nội còn hạn chế, chưa phù hợp với thực tiễn, dẫn tới sự bó hẹp hoặc quá chặt chẻ, hạn chế quyền can thiệp bằng bàn tay vô hình của nhà nước vào thị trường du lịch và hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân mà điển hình là một số hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân mà điển hình là một số hoạt động không quản được thi cấm như: dừng cấp phép kinh doanh các sàn nhảy, song bài, karaoke, hướng dẫn viên du lịch, doanh nghiệp du lịch có yếu tố.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, cấm một số loại hình phương tiện vận chuyển vào các tuyến phố nội thành hoặc theo giờ,… Khách du lịch gai tăng tạo ra thách thức về mô hình quản lý,quy định pháp luật,kết cấu hạ tầng ,giữ gìn môi trường, cảnh quan tự nhiên,tác động đến phong tục,tập quán,văn hóa truyền thống v.v … mà công tác quản lý chưa đáp ứng kịp thời với sự phát triển nhanh, mạnh của một ngành kinh tế năng động. Hoạt động kinh doanh trên địa bàn được phân cấp cho các quận, huyện và đơn vị sự nghiệp quản lý, khai thác còn thể hiện sự manh mún, thiếu đồng bộ, thậm chí các quận, huyện còn thả nổi dưới hình thức khoán thu tại hầu hết các điểm du lịch cơ sở. Việc này có điểm mạnh là tăng được nguồn thu cho ngân sách địa phương song,mặt trái của nó tiếp tay cho các cá nhân, đơn vị trực tiếp quản lý cơ sở, điểm du lịch “ tận thu”, khai thác vô tội vạ các cơ sở vật chất phục vụ du lịch, thiếu quan tâm đến vấn đề khai thác tiềm năng du lịch. Gắn với khai thác một cách bền vững và đảm bảo cảnh quan, môi trường. Để đảm bảo cho hoạt động du lịch được hiệu quả, kịp thời, ngoài tăng cương quản lý, còn cần có chính sách khuyến khích phát triển, song, thực tế còn tồn tại nhiều hạn chế, chổng chéo trong công tác quản lý giữa các ngành. Ví dụ: Các cơ sở lưu trú, đặc biệt là khách sạn cao sao, chủ yếu tập trung trong 4 quận nội thành Hà Nội cũ, những việc bố trí, vị trí đón trả khách bằng phương tiện ô tô gặp nhiều bất cập do quy định của các ngành quản lý còn chồng chéo ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp du lịch như: Công an quy định giờ lưu thông ô tô trong nội thành rất khắt khe; Sở giao thông vận tải quy định một số tuyến phố cấm phương tiên trên 24 chỗ lưu thông, cấm dừng , đỗ, một số quận, huyện quy định tuyến phố không để xe máy và cả điểm trông giữ xa cơ sở dịch vụ phục vụ du lịch...Do đó, ảnh hưởng đến quá trình đó, trả khách tại các khách sạn cơ sở lưu trú. Các quy.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> định này do từng cơ quan, từng cấp thực hiện mà không cần có ý kiến đóng góp của cơ quan quản lý về du lịch, bởi vậy, cơ quan quản lý du lịch lại phải giải quyết đơn thư của các doanh nghiệp khá phức tạp, đồng thời, phải làm việc cụ thể với các cơ quan quản lý khác để đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Điều đó, thể hiện sự phối hợp thiếu đồng bộ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan QLNN. - Thành phố còn thiếu các chế tài cụ thể nhằm định hướng, quy định, hướng dẫn các cấp, các ngành, trong việc xử lý các hiện tượng vi phạm, xử phạm đối với các doanh nghiệp, cá nhân vi phạm quy mô, phạm vi hoạt động và các hoạt động trái với quy hoạch phát triển chung. Các cơ quan quản lý chưa thực sự phối hợp để ban hành được tiêu chí, quy chuẩn chung cho các đối tượng tham gia kinh doanh,mặc nhiên thả nổi cho các cá nhân, doanh nghiệp, chủ đơn vị tự do thực hiện, ví dụ: Quy đinh về tiêu chí cho khách sạn, nhà hàng đặc chuẩn; tiêu chí cấp, xét hạng cho các khu điểm du lịch...vv là cơ sở để đánh giá chất lượng dịch vụ, chất lượng lao động của các cơ sở du lịch. - Môi trường du lịch chưa thực sự thông thoáng còn tồn tại tình trạng lộn xộn trong kinh doanh, công tác quản lý, điều hành thiếu đồng bộ và chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành,địa phương, đã tác động mạnh đến kết quả kinh doanh toàn ngành. 2.3.3.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật đã được đầu tư cải thiện song chưa tương xứng với tiềm năng, vì thế vẫn có. Cạnh tranh du lịch trong khu vực và thế giới ngày càng gay gắt trong khi đó khả năng cạnh tranh của du lịch trong Hà Nội còn rất hạn chế trên bình diện quốc tế và trong khu vực nhất là trong môi trường hội nhập WTO. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và theo đó mức sống của người dân nhìn chung còn thấp so với các nước trong khu vực, ảnh hưởng đến quan hệ cung – cầu đối với sự phát triển các thị trường du lịch. Mặc dù đã bước sang năm thứ ba, chúng ta tham gia tổ chức WTO nhưng đời sống xã hội chưa bắt.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> kịp được với các quốc gia thành viên, trình độ khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế, do đó, một số vấn đề thường từng kiến trúc, hạn tầng kỹ thuật, giao thông đo thi chưa đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững. Phát triển du lịch đã gắn với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo đúng định hướng của ngành và đồng bộ với các giải pháp cụ thể để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế du lịch Thủ đô theo dình hướng CNH – HĐH, vì vậy, vốn đầu tư phát triển du lịch còn rất nhiều, trong khi đó đầu tu lại chưa có đồng bộ, kém hiệu quả. Hệ thống kết quả hạ tầng hiện nay còn yếu kém chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển ngày càng cao theo hướng hiện đại của du lịch. Thành phố đãcoi việc tập trung đầu tư phát triển hạ tầng đô thị đó là sự giản tiếp tạo điều kiện cho phát triển du lịch, nhưng chưa chú trọng đến các du lịch đầu tư trực tiếp cho ngành du lịch. Đồng thời, Hà Nội là một trong 5 địa phương nằm trong danh sách các địa phương được chính phủ cấp vốn đầu tư cho phát triển du lịch mà chỉ được đầu tư bằng nguồn ngân sách của thành phố. Hà Nội đang hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long -Hà Nội nên rất cần các khoán đầu tư lớn cho cơ sở hạ tầng của ngành, (mà đầu tư cho du lịch là một hoạt động đầu tư đòi hỏi khối lượng lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài) mà nguồn thu của thành phố không chưa đủ tầm để thực hiện. Các chủ đầu tư cũng gặp nhiều khó khăn do thủ tục thực hiện đầu tư còn phức tạp, chậm trễ, thủ tục thuê đất rườm rà, việc giảm phóng mặt bằng khá khó khăn. Ở thị trường các nước phát triển các nhà đầu tư có thể lựa chọn bất kỳ hình thức tổ chức kinh doanh nào để thực hiện đầu tư, song với Việt Nam, buộc phải thành lập doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư trước ngoài nên cũng hạn chế khá năng đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài. Mặt khác, công tác đầu tư của các doanh nghiệp còn bộc lộ tính bất cập thiếu đồng nhất về mục tiêu phát triển cho kinh doanh trong lĩnh vực du lịch của doanh nghiệp mà nỗi bật nhất ở đây là chủ yếu hướng đến mục đích kiếm.

<span class='text_page_counter'>(84)</span> lời, hầu hết các doanh nghiệp chưa chú trọng đến phát triển sản phẩm du lịch mà là “tận thu” từ hoạt động du lịch. 2.3.3.4 Nguồn nhân lực du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch còn hạn chế, thể hiện ở chỗ, năng suất lao động chưa thực sự cao so với các nước trong khu vực, thậm chí là ngay giữa các thành phần kinh tế khác nhau trong tùng địa bàn cũng có sự khác biệt rõ rệt. Điều này xuất phát từ chất lượng nguồn nhân lực du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, việc sử dụng lao động của các doanh nghiệp chưa hợp lý. Số lao động được đào tạo một cách chuyên môn hóa chiếm tỷ lệ thấp cơ cấu lao động của các doanh nghiệp, là do các nguyên nhân: Thứ nhất, việc tuyển chọn nhân viên còn chủ yếu dựa trên bằng cấp, chưa chú trọng đến chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo. Thứ hai, do tính chất kinh doanh của các doanh nghiệp còn mang tính chụp giật, chạy theo lợi nhuận chưa quan tâm phát triển bền vững, cụ thể là, vào giai đoạn cao điểm (từ tháng 10 đến tháng 4), do lượng khách du lịch quá thời gian làm việc với mức chi trả thấp và dễ dàng cắt việc, cắt hợp đồng theo thời vụ là một vấn đề thực tế. Thứ ba, nguồn nhân lực bố trí chưa đồng đều ở các loại hình doanh nghiệp, đã tạo ra sự chênh lệch trình độ tương đối lớn. Mức lương của các doanh nghiệp liên doanh, có vốn đầu tư nước ngoài thường rất cao so với các loại hình doanh nghiệp khác, đã thu hút lao động có trình độ cao của ngành nhiều hơn, vì vây, cá loại hình doanh nghiệp khác , thường có mức doanh thu không cao, tạo lỗ hổng lớn trong cơ cấu lao động. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn được trình bày trên, tác giả sẽ đưa ra một số giải pháp khắc phục tại phần tiếp sau..

<span class='text_page_counter'>(85)</span> Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI CÁC DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỤC DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 3.1. Dự báo phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2020 3.1.1. Một số chỉ tiêu phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2020 Giai đoạn 2009 – 2010, diện mạo Hà Nội sẽ thay đổi nhiều, các công trình văn hóa và hạ tầng cơ sở được cải thiện, nâng cấp và xây dựng lại theo chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội; nhiều sản phẩm du lịch mới theo các dự án và các khu nghỉ ngơi, vui chơi đã đi vào hoạt động. Nhờ đó tạo điều kiện thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến Hà Nội. a) Lượng khách - Từ nay đến năm 2010 Hà Nội sẽ có nhiều chương trình để chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thang Long, đây sẽ là điều kiện để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. - Trên cơ sở phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến du lịch, Thành phố đã xây dựng 3 phương án(xem bảnh 3.1). Dự kiến tốc độ tăng trưởng khách từ nay đến năm 2020 khoản 10%, trong đó, thời kỳ 2003 – 2010 tăng khoảng 12 - 15%. Như vậy, theo phương án 2 dự báo đến năm 2010 Hà Nội sẽ đón khoảng trên một triệu rưỡi khách quốc tế; ngày lưu trú bình quân laf,15 ngày. Đến năm 2020, các con số này đã là 4 triệu và 4,65. b) Doanh thu từ du lịch Hiên nay mỗi du khách tại Hà Nội chi tiêu bình quân là100 USD/ ngày và kháh nội địa là 200.000 đồng/ ngày. Trong những năm tới khi sản phẩm du lịch được đa dạng hóa, chất lượng nâng cao thì thì mức độ chi tiêu của du khách cũng dần được nâng lên. Dự kiến đến năm 2010, mỗi du khách quốc tế sẽ chỉ khoảng 130 USD/ngày và du khách nội địa là 400.000 đồng/ngày(có.

<span class='text_page_counter'>(86)</span> tính đến tỉ lệ lạm phát). Các chỉ tiêu cho năm 2020 sẽ là 200 USD và 800.000 đồng.. Bảng 3.1. Dự báo số lượng khách đến 2010 và tầm nhìn 2020. Phương án. Phương án 1. Phương án 2. Phương án 3. Khách Chỉ tiêu Quốc tế Số lượng khách(ngàn) Ngày lưu trú bình quân Tổng ngày khách(ngàn) Nội địa Số lượng khách(ngàn) Ngày lưu trú trung bình Tổng ngày khách(ngàn) Quốc tế Số lượng khách(ngàn) Ngày lưu trú trung bình Tổng ngày khách(ngàn) Nội địa Số lượng khách(ngàn) Ngày lưu trú trung bình Tổng ngày khách(ngàn) Quốc tế Số lượng khách(ngàn) Ngày lưu trú trung bình Tổng ngày khách(ngàn) Nội địa Số lượng khách(ngàn) Ngày lưu trú trung bình Tổng ngày khách(ngàn) (Nguồn: sở Du Lịch Hà Nội). 2010 1,375 3.87 5,321 5,002 2.5 12,304 1,562.00 4.15 3,482 6,124 2.70 16,535 1,796 4.25 7,633 7,226 3.10 22,401. 2015 2,300 4.00 9,200 7,000 2.4 16,800 2,500 4.45 11,125 7,500 3.10 23,250 2,700 4.50 12,150 8,000 3.30 26,400. 2020 4,000 4.50 18,000 9,000 3.1 27,900 4,000 4.46 18,600 11,000 3.50 38,500 4,500 4.70 21,150 12,000 3.60 43,200. Để đạt được những chỉ tiêu cơ bản trong định hướng phát triển ngành du lịch Thủ đô đến năm 2020, vấn đề đầu tư vào cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật, các cơ sở vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyện khách, các cơ sở sản xuất hàng lưu niệm, các cơ sở đầu tư ngành du lịch với vai trò hết sức quan trọng. Nếu không có đâu tư hay đầu tư không đồng bộ thì việc thực hiện quy hoạch sẽ gặp nhiều khó khăn. Việc tính toán nhu cầu đầu tư trong từng giai đoạn sẽ căn cứ trên giá trị GDP đầu và cuối kỳ và chỉ số ICOR xác định hiệu quả của đầu tư. Đây là lượng vốn đầu tư lớn đối với một ngành kinh tế..

<span class='text_page_counter'>(87)</span> Nguồn vốn ngân sách nhà nước chủ yếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cho việc bảo tồn và nâng cấp các di tích lịch sử, văn hóa, cho công tác tuyên truyền quáng cáo, cho các cơ sở đào tạo nghiệp vụ du lịch…Còn vốn đầu tư cho việc xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch như khách sạn – nhà hàng, các khu du lịch tổng hợp, vui chơi giải trí, các cơ sở dịch vụ du lịch khác…thì phải huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau cả trong và ngoài nước. Bảng 3.2. Dự báo doanh thu từ du lịch ( Đơn vị tính: triệu USD). Năm. 2010. 2015. Doanh thu từ du lịch quốc tế 391,0 1.668 Doanh thu từ du lịch nội địa 278,1 871 Tổng doanh thu 869,1 2.539 (Nguồn: Sở Du Lịch Hà Nội). 2020 3.500 1.812 5.312. Dự kiến mức độ chí tiêu cảu khách: Theo tính toán của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch của Hà Nội thì hiện nay khách du lịch đến Hà Nội dành phần lớn chi tiêu của mình do lưu trú( như đã phân tích ở phần 2.2.1.2). Việc chuyển dịch cơ cấu chi tiêu của khách là một yêu cầu quan trọng trong kinh doanh du lịch. Muốn tăng nguồn thu thì phải bổ sung và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, hướng chi tiêu của du khách vào các dịch vụ vui chơi giải trí và các dịch vụ bổ sung khác. c) Nhu cầu khách sạn Dự báo số khách sạn cần có được xây dựng theo công thức sau: (số lượt khách) X (số ngày lưu trú bình quân) Số phòng cần có = (365 ngày) X (công suất sử dụng trung bình/năm) X số khách TB/phòng) Trong đó:.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> Số giường trung bình cho một phòng khách quốc tế là 1,5 – 2,0 và cho khách nội địa từ 2,0 đến 2,5 Công suất sử dụng phòng trung bình năm từ 55 – 65% Theo tầm nhìn 2020, nhu cầu về cơ sở lưu trú sẽ gia tăng cả trong khách nội địa,. trong khi đó nhu cầu khách sạn nhà nghỉ bình dân( 2 sao trở xuống sẽ giảm dần). Như vậy nyhu cầu buồng phòng khách sạn được dự báo sau: Bảng 3.3. Dự báo về số phòng khách sạn cần có 2010 – 2020. Năm 2010 Nhu cầu khách sạn tiêu chuẩn quốc tế 9.800 Nhu cầu cho khách sạn bình dân 12.400 Tổng cộng 22.200 (Nguồn: Sở Du Lịch Hà Nội). 2015 14.000 14.000 28.000. 2020 19.000 13.000 32.000. d) Nhu cầu lao động Nhu cầu lao động trực tiếp phục vụ trong ngành du lịch được tính toán dựa trên phép hồi quy bội sử dụng 2 biến độc lập là ngày khách quốc tế và ngày khách nội địa đã được dự báo và các số liệu khảo sát về nguồn nhân lực phục vụ cho du lịch được quan sát trong giai đoạn 1995 – 2001 và được điều chỉnh bằng phương pháp chuyên gia. Hàm số biểu diễn sự tương quan giữa nhân lực trực tiếp trong du lịch và ngày khách quốc tế và nôi địa được biểu diễn bằng hàm số: LDTT = 0.00455 NKQT + 0.00206 NKND Trong đó: - LDTT : số lao động trực tiếp cần có trong năm của Hà Nội - NKQT : tổng số ngày khách quốc tế trong một năm của Hà Nội - NKND : tổng số ngày khách nội địa trong mọt năm của Hà Nội Theo những tính toán hiện nay, một lao động trực tiếp trong ngành du lịch của Hà Nội sẽ kéo theo khoảng 2,2 lao động gián tiếp. Dự báo về nhu cầu lao động trong du lịch được thể hiện trong bàng dưới đây..

<span class='text_page_counter'>(89)</span> Bảng 3.4. Nhu cầu lao động trong ngành du lịch 2010 – 2020 (Đơn vị tính: ngàn người) Năm Lao động trực tiếp Lao động gián tiếp Tổng cộng. 2010 2015 63,5 98,5 139,8 216,7 203,3 315,2 (Nguồn: Sở Du Lịch Hà Nội). 2020 163,9 360,6 624,5. e) Nhu cầu về các khu vui chơi giải trí Hà Nội vẫn còn thiếu các khu vui chwoi giải trí, vì vậy việc xây dựng các khu vui chơi giải trí cảu người dan càng ngày càng cao nên cần tăng mạnh việc xây dựng các khu vui chơi giải trí mới. Đố với hoạt động du lịch, các khu vui chơi giải trí chính là phương thức kéo dài thêm thời gian lưu trú cảu khách, đông thời tăng thêm mức chi tiêu của khách du lịch. Tuy nhiên trong việc xây dựng các khu vui chơi giải trí cần tránh nội dung trùng lặp, cần phải có đặc thù riêng để tránh sự nhàm chán của du khách. 3.1.2. Quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2020 vằ những năm tiếp theo 3.1.2.1. Quan điểm chủ đạo về phát triển bền vững du lịch Hà Nội a- Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng nguồn đóng góp cho ngân sách nhà nước từ các loại hình du lịch quốc tế và du lịch cao cấp đi đôi với việc tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp xã hội tham gia và hưởng lợi từ các hoạt động du lịch như tăng cường đến du lịch xã hội, du lịch giáo dục tình yêu quê hương đất nước và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. b- Song song với việc mở rộng các loại hình du lịch, các tuyến điểm du lịch là việc tập trung cao độ vào bảo vệ môi trường thiên nhiên và giữ gìn môi trường văn hóa xã hội, phát huy bản sắc dân tộc. Phát triển các không gian du lịch gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường xã hội nhân văn với môi trường thiên nhiên..

<span class='text_page_counter'>(90)</span> c- Phát triển du lịch phải đặt trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Thủ đô, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích trước mắt và lấu dài, giữa lợi ích kinh tế và việc giữ gìn bản sắc và truyền thống văn hóa của thủ đô ngàn năm văn hi d- Phát triển du lịch theo hướng CNH-HĐH, Rút ngắn khoảng cách tiến tới đạt ngang bằng trình độ du lịch ở Thủ đô các nước trong khu vực và thế giới. 3.1.2.2. Mục tiêu phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2020 Mục tiêu hàng đầu là, phát triển du lịch thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Một là, sự cần thiết phải thúc đẩy du lịch Hà Nội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn bắt nguồn từ các yêu cầu sau đây: - Do yêu cầu phải thực hiện vị trí trung tâm du lịch của Thủ đô Hà Nội đối với cả nước và đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Do yêu cầu phải khai thác lợi thế so sánh về tiềm năng du lịch vốn có của Hà Nội. - Do yêu cầu thúc đẩy sự phát triển các ngành khác như ngành văn hóa, công nghiệp, xây dựng, kết cấu hạ tầng kinh tế - xẫ hội. - Do yêu cầu của việc phát huy sức mạnh nội lực làm cơ sở cho việc thu hút ngoại lực thông qua các hình thức liên doanh trong lĩnh vực du lịch; thay đổ nhanh chóng bộ mặt của Thủ đô; tăng nguồn thu cho ngân sách Thành Phố và cả nước. - Do yêu cầu phải thực hiện vait rò hạt nhân thúc đẩy kinh tế du lịch các địa phương của vùng tam giác tăng trưởng phía Bắc và cả nước. - Do yêu cầu nhanh chóng trở thành trung tâm du lịch ngang từng với Thủ đô các nước trong khu vực, nhât là các nước trong ASEAN. Hai là, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiệ tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng.

<span class='text_page_counter'>(91)</span> nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển của khu vực. Ba là, xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước. Du lịch Việt Nam nói chung, du lịch Hà Nội nói riêng phải góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đáp ứng sự phát triển về số lượng và chất lượng của nhu cầu nghỉ ngơi du lịch đối với Thủ đo của một nước về căn bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, phấn đấu để GDP của du lịch chiếm 35% - 37% GDP của toàn ngành dịch vụ Thành Phố. Du lcihj góp phần phát huy truyền thống bản sắc dân tộc, tôn tạo và giữ gìn các di tích lịch sử - văn hóa, các lễ hội truyền thống, cảnh quan , môi trường. 3.1.2.3 Định hướng phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2020 Để thực hiên các mục tiêu chiến lược nêu trên, Du lịch Hà Nội cần: - Tăng dần tỉ trọng đóng góp của ngành du lịch hà nội vào tổng thu nhập nội địa của thành phố, bước vào thể kỷ 21 du lịch trở thành một ngành kinh tế quan trọng của Hà Nội, tương xứng với tiềm năng và vị trí của một trung tâm du lịch vào loại lớn của nhà nước. - Góp phần nâng cao vị trí của đất nước, của Hà Nội trên trường quốc tế, giới thiệu với thế giới về truyền thống văn hóa, đất nước và con người Việt Nam. - lưu giữ giá trị vốn có của nền văn hóa Việt Nam, nâng cao và làm lan toàn không ngừng để giao lưu rộng rãi với các nền văn hóa trên thế giới. - Tạo điều kiện cho các ngành văn hóa Việt Nam, nâng cao và làm lan tỏa không ngừng đẻ giao lưu rộng rãi với các nền văn hóa trên thế giới. - Góp phần kiến tạo môi trường sinh thái, môi trường sống trong lành, phục hồi sức khỏe nhân dân. - Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch - Xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo, đặc trưng cho Hà Nội..

<span class='text_page_counter'>(92)</span> - Xây dựng các loại hình du lịch chuyên đề như: Nghiên cứu các di tích lịch sử kiến trúc qua các thời đại; tham quan phố cổ, làng nghề, làng cổ; nghỉ dưỡng kết hợp với các hoạt động thể thao.. - Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, các cơ sở vui chơi giải trí, tạo dựng các sản phẩm du lịch mới. - Nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. - Đào tạo và đào tạo lại cán bộ du lịch. - Hội nhập khu vực và thế giới đang trở thành một xu hướng phát triển tất yếu khách quan và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Việt Nam là một quốc gia độc lập nhưng cũng không thể tác khỏi xu hướng phát triển này, đặc biệt là trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế. Là một trong những ngành kinh tế đối ngoại mang tính tổng hợp, liên ngành liên vùng và xã hội hóa cao, ngành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Hà Nội nói riêng chịu ảnh hướng rất mạnh và nhanh chóng của tiến trình hội nhập ngay từ thời kì đầu. Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, ngành du lịch Hà Nội có cơ hội từng bước thâm nhập vào thị trường thế giới để thu hút khách, vốn đầu tư, tranh thủ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, chia sẽ kinh nghiệm quản lý phát triể du lịch, tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch…,đồng thời góp phần tích cực tuyên truyền, thực hiện và khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tăng cường giao lưu văn hóa, giữ gìn và giới thiệu bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Vấn đề quan trọng và trước hết phải làm là thay đổi nhận thức về ngành du lịch. Như đã phân tích ở các phần trên, du lịch không phải là một ngành kinh tế dịch vụ đơn thuần như nhiều ngành kinh tế khác. Phải thấy rõ vai trò và chức năng xã hội to lớn của nó trong mọi mặt của đời sống xã hội. Du lịch phải được coi là ngành kinh tế có tính xã hội sâu sắc. Thực ra cho đến nay, nay cả nhiều người làm trong ngành du lịch vẫn chưa ý thức được điều đó. Đối với các cấp chính quyền và các cơ quan quản lý cấp rên, ngành du lịch.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> phải chỉ rõ được chức năng xã hội to lớn của mình. Tại hầu hết các nước, trong đó có nước ta, rất nhiều ngành đươc bao cấp như giáo dục, y tế, tuyên truyền chính sách, ngoại giao. Trong khi đó, hầu như trong chuyến du lịch nào cũng mang lại những hiệu quả về giáo dục, nâng cao dân trí, giáo dục lòng yêu nước, bảo vệ hòa bình…nhưng những đóng góp này của du lịch ít được nhìn nhận. Xét về hiệu quả kinh tế, không nên đánh giá du lịch chỉ thông qua các chỉ tiêu kinh tế đơn thuần như GDP, đóng góp cho ngân sách nhà nước phải nhìn nhận nó như chiếc cầu nối hay như một ngòi nổ, một chất xúc tác quan trọng cho các ngành kinh tế khác phát triển, mà nhìn nhận về du lịch thái lan là một ví dụ. Nhiệm vụ chính của du lịch Thái Lan là thu hút khách. Chính vì vậy giá tour vào Thái Lan rất rẻ. Tuy nhiên, các tour này được kết nối với các trng tâm thương mại như một điểm du lịch trong chương trình. Các trung tâm thương mại có trách nhiệm chia sẻ lợi nhuận của mình cho du lịch. 3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về du lịch của Hà Nội Nhà nước giữ vai trò phát triển, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý nhằm tạo ra môi trường phát triển kinh doanh du lịch thuận lợi. Công tác xây dựng kế hoạch của Hà Nội cũng đã được xây dựng nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, đầu tư du lịch, cũng như đảm bảo cho sự phát triển bền vững của du lịch Hà Nội trong tương lai. Tuy nhiên, để thực hiện các kế hoạch phát triển du lịch, các chính sách và cơ chế quản lý phải được hoàn thiện. Hệ thống chính sách pháp luật về du lịch tuy đã được hoàn thiện gần đầy đủ, nhưng nhiều lĩnh vực và nội dung chưa kịp thời đồng bộ. Cơ chế đàu tư cho phát triển du lịch, doanh nghiệp du lịch cần được ưu đãi đầu tư như các ngành sản xuấn khác, phải tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế kinh doanh du lịch.

<span class='text_page_counter'>(94)</span> Sau đây, tác giả xin đề xuất một số giải pháp về QLNN nhằm nâng cao vị thế ngành du lịch Hà Nội, để du lịch đóng góp phần xứng đáng vào các mcj tiêu quốc gia và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội. 3.2.1. Giải pháp thứ nhất: Hà Nội cần có quy hoạch phát triển đồng bộ các ngành du lịch, thương mại, đặc biệt các ngành sản xuất vật chất phụ trợ cho du lịch Thủ đô. a- Cơ sở khoa học của giải pháp Du lịch chỉ có thể phát triển khi có phụ trợ hoàn hảo. Hà Nội vừa là trung tâm chính trị, Vừa là trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước. Vì thế, mô hình du lịch đồng bộ sẽ có tính tiền phong, làm hình mẫu, điển hình nhân rộng cho các địa phương. Hà Nội có các trung tâm thương mại lớn, song cái mà khách du lịch cần không chỉ có hàng hóa thông thường, cũng không chỉ các hàng hóa mang tính phổ biến. Hà Nội cần cung cấp cho khách du lịch những mặt hàng mang tính cách Hà Nội. Với những langg nghề truyền thống của Hà Nội cũ và mới, lượng hàng, chủng loại mặt hàng rất dồi dào. Cộng thêm phong cách phục vụ đặc trưng Hà Nội, du khách chắc chắn sẽ hài lòng. Hà Nội cũng có các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như công nghiệp dệt, may, da, giày với giá cạnh tranh quốc tế. Khuyến khích khach du lịch quốc tế mua, thậm chi, mua với số lượng lớn tất cả các loại hàng hóa sản xuất trong nước vừa mang lại doanh thu cho nhà sản xuất, vừa tạo động lực thu hút khách và kéo dài ngày lưu trú của khách. b- Nội dung của giải pháp Cơ quan quản lý nhà nước cấp thành phố cần có phương thức điều hành mềm dẻo để phối hợp hoạt động giữa di lịch với các ngành khác trên địa bàn. Có thể thực hiện trên các nội dung sau:.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> Thứ nhất, cũng cố các làng nghề truyền thống, tập trung vào sản xuất các mặt hàng có giá trị kinh tế cao, chú ý áp dụng công nghệ mới vào nhưng công đoạn có thể thay sức lao động. Đặc trưng của nghề truyền thống là sử dụng nhiều nhân công, sử dụng nhiều tài nguyên như đất, nước, lâm thổ sản, đông thời nhiều ngành còn gây ô nhiễm cho môi trường như đúc đồng, nung gốm, làm bún, bánh, v.v. Hướng sản xuất vào các mặt hàng có giá trị kinh tế cao làm giảm mức sử dụng tài nguyên đông thời có tích lũy để đổi mới công nghệ ở những công đoạn cho phép nhằm giảm mức tiêu hao năng lượng, giảm ô nhiễm môi trường. Sau cùng là việc xây dựng và triển khai chiến lược marketing đồng bộ từ du lịch đến tham quan và mua sắm. Trong đó, cần chú ý đến công tác tuyên truyền để tiêu thụ các sản phẩm làng nghề. Cụ thể với một số làng nghề, phố nghề đang được khai thác, cần thực hiện tu bổ, nâng cấp: - Làng Bát Tràng: đã là điểm du lịch hấp dẫn của Hà Nội. Cần đầu tư xây dựng bến tàu vào làng, xây dựng tuyến đường trên đê vào làng, đầu tư cho bãi đỗ xe lớn hơn. - Khu phố nghề Hà Nội đã trở thành điểm du lịch nôi tiếng. Cần nghiên cứu lại các nghề trong khu phố cổ Hà Nội để hình thành những bài thuyết minh chuẩn. Tiến tới cho tuyến phố đi bộ Hàng Đào – Đồng Xuân hoạt động thêm có thể các tối trong tuần hoặc các ngày cuối tuần chứ không phải chỉ 2 ngày cuối tuần như hiện nay. Mở thêm các tuyến phố đi bộ trong khu vực này. Đồng thời liên kết nơi bán hàng trên các phố nghề và nơi sản xuất tại các làng ở ngoại thành Hà Nội hoạc ở các địa phương khác như Hà Tây, Bắc Ninh, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình…thành những chuyến du lịch. - Chợ đêm đồng xuân cần cải tiến lại về tổ chức các quầy hàng, bổ sung thêm biểu diễn văn hóa nghệ thuật. - Làng hoa, làng đúc đồng Ngũ Xã, làng làm vàng Kiêu Ky – Gia Lâm và một số làng nghề khác hiện chỉ thu hút được ít khách. Cần tổ chức nghuên.

<span class='text_page_counter'>(96)</span> cứu đầy đủ để xây dựng thành chương trình hấp dẫn phục vụ du khách, đồng thời, gìn giữ nghề truyền thống, tạo việc làm và đầu ra cho sản phẩm. Thứ hai, phát triển vành đai rau sạch, thực phẩm sạch quanh Hà Nội. Đây là một trong những vấn đề sống còn của du lịch. Từng bước thực hiện được giải pháp này trên toàn quốc là điều kiện bắt buộc trong những năm tới. Một số khách sạn cao cấp của Hà Nội hiện nay đang phải nhập khẩu thực phẩm, rau quả từ nước ngoài. Hiện thực này vừa làm hao tốn nguồn thu ngoại tệ, vừa làm giảm vị thế ngành du lịch của một quốc gia nông nghiệp. Khắc phục tình trạng này tuy khó nhưng hoàn toàn trong tầm tay nhà quản lý. c- Đánh giả khả thi của giải pháp Để thực hiện giải pháp này, không chỉ riêng ngành du lịch. Cần có sự phối hợp giữa các ban, ngành, các cấp chính quyền của Thành phố. Tuy nhiên, đây là công việc phù hợp quy luật phát triển. Vì vậy, không có lý do để các cơ quan quản lý né tránh. 3.2.2 Giải Pháp thứ hai : Có chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành du lịch một cách hợp lý ,đảm bảo phát triển bền vững. a- cơ sở khoa học của giải pháp Đầu tư và kinh doanh là công việc trước hết thuộc về doanh nghiệp .song công việc đó có tầm ảnh hưởng không chỉ đến bản thân doanh nghiệp và các đối tác của họ ,mà có tác động đến toàn bộ xã hội. Một trong nhũng nội dung của QLNN là quản lý hiệu quả của các hoạt động kinh tế . Tính hiệu quả đó vừa xét trên phương diện kinh tế, vừa trên phương diện xã hội. về mặt kinh tế, sự tăng trưởng của các doanh nghiệp du lịch đóng góp vào tăng trưởng kinh tế quốc dân, tạo ra việc làm và thu nhập cho dân cư. Doanh nghiệp phát triển còn tạo ra ảnh hưởng ngoại hiện cho xung quanh ; các hoạt động kinh tế có liên quan cũng phát triển theo. Ngược lại, những khoản đầu tư không hiệ quả do đầu tư tràn lan, ngoài việc gây thiệt hại cho nhà đầu tư, nó còn làm lãng phí nguồn nhân lực xã hội.Trong kinh doanh du.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> lịch,tính không hiệu quả bao gồm cả các khoản đầu tư thất bại và chi phí cơ hội của việc khai thác các nguồn lực khác .Ví dụ các danh lam thắng cảnh, các di tích kiến trúc, lịch sử, nghệ thuật,v.v ...không đưa vào khia thác được. Hiện tượng này rất phổ biến ở nước ta hiện nay . Các chỉ tiêu hiệu quả không dừng ở các chỉ số hiệu quả tài chính, kinh tế. Cần phải xem xét rộng hơn về mạt xã hội .Đó là các chỉ số liên quan đến việc làm ,thu nhập, tài nguyên môi trường .Chi phí vô hình từ sự hao mòn các di tích ,các công trình lịch sử ,v.v không được tính vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng tương tự như vậy với sự xuống cấp các giá trị văn hóa , đạo đức, v.v... Chính vì vậy, với tư cách nhà quản lý của quốc gia, cơ quan quản lý nhà nước phải có chính sách thích hợp nhằm khuyến khích đầu tư vào ngành du lịch theo định hướng trật tự tiên tiến. b- Nội dung của giai pháp Thứ nhất, cần có một chiến lược phát triển bền vững . Trong đó không chỉ xây dựng các phương án về lượng khách ,số phòng nghỉ, điểm, tuyến du lịch, mà cần tính toán cả lượng hàng truyền thống, lượng hàng tiêu dùng công nghiệp có ưu thế xuất khẩu của Việt Nam mà khách có thể mua làm lưu niệm, làm quà tặng, như sản phẩm các làng nghề Hà Nội, sản phẩm dệt may, da giày,… Thứ hai .xây dựng quy hoạch tổng thể phat triển du lịch Thành Phố (đặc biệt là trong điều kiện Hà Nội mở rộng như hiện nay),làm cơ sở cho việc xây dựng cơ bản ,đầu tư theo hướng bền vững .Đồng thời công khai quy hoạch đó theo các hình thức nhất định .Trong đó chú trọng vào: - Các điểm du lịch và quy mô của chúng tương ứng lượng khách dư kiến. Hiện nay,hiện tượng quá tải đang phổ biến ,nhất là trong các dịp lễ hội .Với lượng khách tăng vài lần theo các phương án nêu trên ,các tuyến ,điểm du lịch càng trở nên lạc hậu và nhỏ bé..

<span class='text_page_counter'>(98)</span> - Các khu nghỉ có đi kèm khu vui chơi ,giải trí ,nhà nghỉ ,công viên cây xanh ,tạo thành một tổ hợp đồng bộ ,đảm bảo các nhu cầu nghỉ ngơi để lưu khách dài ngày hơn. - Quy hoạch về các tuyến giao thông ,dịch vụ giao thông công cộng ,các dịch vụ phụ trợ khác; - Đặc biệt, trong quản lý ngành còn cần chú ý đến việc phân luồng khách theo nhiều chí khác nhau để phục vụ tốt hơn, có hiệu quả hơn. Ví dụ, các khu và các phân giành cho khách cao cấp, khách từ vùng có nhu cầu khác nhau (người đạo hồi chẳng hạn,…)tạo thành một tổng thể hợp lý trong phân bố doanh nghiệp của ngành. Thứ ba, thực hiện tư vấn cho doanh nghiệp Công việc này do các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch của thành phố kết hợp với các cơ quan, tổ chức thực hiện. Doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập thị trường, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, rất thiếu thông tin, thiếu vốn và hạn chế về năng lục, kể cả năng lực của chủ sở hửu. Vài trò của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này là cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh ngành du lịch trong nước, ngoài nước và trên địa bàn Thành phô; các dự báo về ngành, các chỉ dẫn cần thiết cho hoạt đông kinh doanh ngành nhạy cảm này. Trong những trường hợp nhất định, có thể giúp đỡ doanh nghiệp về mặt kỷ thuật, kỷ năng chuyên môn, tạo điều kiện thuận lợi về các thủ tục có liên quan,v.v để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển ổn định. Thứ tư, có cơ chế thu hút đầu tư hợp lý để nhanh chóng phát triển các tuyến, điểm du lịch, các cơ sở hạ tầng cần thiết tương ứng với lượng khách và mức độ nhu cầu của khách. Cần chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng chuyển mạnh từ đầu tư chiều rộng sang đầu tư chiều sâu vào các khu, điểm du lịch mang tính chất trọng điểm đã được phê duyệt theo quy hoạch, thu hút mạnh vốn đầu tư trực tiếp.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> nước ngoài và đầu tư trong nước vào các khu, điểm du lịch, cơ sở vui chơi giải trí để tăng cường thu hút khách, lưu giữ khách lâu hơn và chi tiêu nhiều. Nghiên cứu áp dụng thuê các hãnh, các tập đoàn quản lý nổi tiếng, có thương hiệu uy tín trên thế giới quản lý khách sạn để tăng lượng khách vào Thủ đô, tâng nguồn thu và tranh thủ học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đầu tư xây dựng sản phẩm du lịch trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của Thành phố Hà Nội, đẩy mạnh các dự án du lịch do ngành du lịch chủ trì để tạo lập các sản phẩm văn hóa du lịch nhằm thu hút khách. Huy đọng mọi nguồn lực để xây dựng các sản phẩm du lịch thông qua các Công ty lớn. Phối hợp với các ban, ngành, quận, huyện trong thành phố để xây dựng thêm các sản phẩm du lịch tại Văn Miếu – Quốc Tử Giam, Hồ Hoàn Kiếm và các quận khác, đầu tư về cơ sở hạ từng và giao thông cho thuận tiện. Ban đầu có thể đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách của thành phố làm “vốn mồi” để thu hút các nguồn vốn nọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỷ thuật của ngành du lịch. Hoàn thiện cơ sở hậ tầng như đường xá, cấp thoát nước, điện, điện thoại…bắt kịp với trình độ tiến bộ trên thế giới. Cùng với tăng số lương vốn đầu tư cần chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng chuyển mạnh từ đầu tư chiều rộng sang đầu tư chiều sâu vào các khu, điểm du lịch mang tính chất trọng điểm đã được phê duyệt theo quy hoạch, thu hút mạnh vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và đầu tư trong nước vào các khu, điểm du lịch, cơ sở vui chơi giải trí để tăng cường thu hút khách, lưu giữ khách lâu hơn và chi tiêu nhiều. Nghiên cứu áp dụng thuê các hãng, các tập đoàn quản lýnổi tiếng, có thương hiệu uy tín trên thế giới quản lý khách sạn để tăng lượng khách vào Thủ đô, tăng nguồn thu nhập tranh thủ học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Thành phố có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư xây dựng các khu đô thị mới, các dự án hạ tầng đô thị (cầu, đường), giao thông công cộng bằng xe điện, xe buýt, xây dựng.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> các công trình xã hội (bệnh viện quốc tế, trường phổ thông trung học và đại học quốc tế)tạo điều kiện phát triển hạ tầng phục vụ du lịch. Từng bước dầu tư cải thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng các vùng ngoại thành nhằm chuyển hướng thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội các khu vực này. Đầu tư xây dựng một số điểm thông quan, kho ngoại quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi, giảm chi phí xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố và địa phương lân cận. Thành phố hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào (đường giao thông, hệ thống cung cấp nước, điện, thông tin liên lạc…)đối với các khu du lịch; thực hiện hoàn trả cho các nhà đầu tư chi phí đã ứng trước để xây dựng cơ sở hạ tầng. Kêu gọi đầu tư và thực hiện đầu tư tôn tạo, bbaor vệ môi trường tài nguyên du lịch. Đảy mạnh xã hội hóa công tác đầu tư tôn tạo, bảo vệ và phát triển các di tích, danh lam thắng cảnh, các lể hội, hoạt động văn hóa dân gian, các ngành nghề trên địa bàn. Huy động nhiều nguồn vốn (kết hợp tốt việc sử dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước ngoài và huy động nguồn lực trong dân theo phương châm xã hội hóa phát triển du lịch)đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, xây dựng một số khu du lịch tổng hợp (Sóc Sơn, Cổ Loa…). c – Đánh giá tính khả thi Đầu tủ yếu tố tiên quyết tạo nền tảng vật chất cho hoạt động kinh doanh.Trong kinh doanh du lịch, càng ngày vai trò của các công trình hạ tầng càng trở nền quan trọng. Nhiều quốc gia không có phong cảnh tự nhiên, các di tích cổ…, song, các công trình nhân tạo đọc đáo và hiện đại vẩn cho quốc gia đóng nguồn thu khổng lồ từ du lịch. Hà nội mới sáp nhập còn rất hoang sợ, song nếu không có quy hoạch rõ ràng, khoa học, thì việc ra đời hàng loạt cơ sở kinh doanh du lịch trong nay.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> mai sẽ đưa Thành phố vào tình trạng hỗn độn trong kinh doanh, chắp vá về xây dựng, và đặc biệt là vô tổ chức trong khai thác các điểm du lịch. Chính vì vậy, giải pháp này được coi là một trong những giải pháp trụ cột để phát triển du lịch Hà Nội. 3.2.3. Giải pháp thứ ba: Có chính sách cụ thể về bảo vệ, tôn tạo các điểm du lịch, cảnh quan, môi trường, quản lý dịch lễ, các vấn đề xã hội. a- Cơ sở khoa học của giải pháp điểm du lịch, cảnh quan, môi trường là đối tượng khai thác chủ yếu của du lịch. Bảo vệ, tôn tạo chúng không chỉ thuộc trách nhiệm của địa phương sở tại. Trong khai thác du lịch, du khách đi đến rất nhiều địa phương, mức lưu chuyển lớn luôn tiềm tàng các nguy cơ về hành vi vô ý hay cố ý xâm hại môi trường, các di tính,..v..v…, và là những tác nhân truyền dịch vệnh hoặc văn hóa không lành mạnh. Hiện nay, công tác này ở ta chưa triển khai sâu, rộng đến từng địa phương do nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề dân trí. Vì vậy, có chính sách cụ thể về các vấn đề này sẽ cho phép khai thác hợp lý, bảo tồn bền vững các công trình khai thác, cũng như ổn định đời sống kinh tế, xã hội của địa phương. b- Nội dung của giải pháp Tài nguyên du lịch là thuộc sở hữu toàn dân, song cần nghiên cứu đề xuất chính sách giao quyền quản lý và khai thác cho địa phương nơi có địa phương. Các đối tác khác có thể cùng hợp tác đầu tư khai thác với chính quyền địa phương trên cơ sở mang lại lợi ích cho cộng đông địa phương và các đối tác khác, khuyến khích các địa phương có biện pháp thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào khai thác và bảo vệ tài nguyên của mình. UBND các cấp cần có cơ chế thông thoáng và bảo đảm sự công bằng cho mọi thành phần kinh tế trong việc đầu tư, bảo vệ, tôn tạo và khai thác tài nguyên du lịch. Tham khảo, học tập chính sách đầu tư của các nước trên thế.

<span class='text_page_counter'>(102)</span> giớ, nhất là các nước trong khu vực để tạo ra được hành lang pháp lý phù hợp với pháp luật Việt Nam, song cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp chúng ta hòa nhập với xu thế chung. Để gắn nghĩa vụ với lợi ích trong kinh doanh du lịch cần có các quy định về bảo vệ cảnh quan, vệ sinh môi trường, an toàn xã hội rất cụ thể. Kinh nghiệp các nước cho thấy, có thể áp dụng từ những quy định mang tính nguyên tắc tới các quy định rất chi tiết. Ví dụ, Trung Quốc nhổ bậy ở nơi công cộng. Một trong những yêu cầu hội nhập là phải tiến độ ngang bằng về cơ bản về các nước trong khối. Vì vậy, ngay từ bây giờ, cần có các quy định bằng văn bản có giá trị pháp lý ở tầm cao (ví dụ: Nghị định, thông tư) để áp dụng rộng rãi trong cả nước. Các quy định này có thể theo hướng: - Quy định mức phí chung về bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên hay di tích. Các địa phương hay cơ quan có trách nhiệm phải hạch toán cụ thể. HIện nay mỗi địa phương một mức giá, tiền thu được rất khó thấy chi vào việc bảo vệ thế nào vì môi trường vẫn xuống cấp rất nhanh, còn các di tích thì được tôn tạo bằng ngân sách nhà nước cấp trên. Từ đó nảy ra tình trang “xin” được xếp hạng di tích, vừa có tiếng cho việc khai thác, vừa được cấp kinh phí tu bổ. - Các quy tác xử phạt bằng tiền cho những hành vi xâm hại kể cả việc vứt giác thải. Các hướng dẫn viên phải chịu trách nhiệm nếu không phổ biến các quy định cho du khách. - v…v.. Mội số vấn đề cần triển khai cụ thể: a- Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên môi trường du lịch Với nhiều tài nguyên du lịch phong phú và đặc sắc, Hà Nội có sức thu hút du lịch rất lớn, đặc biệt từ khi có chủ trương mở cửa nền kinh tế của Nhà nước trong những năm gần đây. Thực tế cho thấy, các chỉ số phát triển du lịch.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> của Hà Nội không ngừng tăng trưởng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, ngành du lịch không trách khỏi có những tác động tiêu cực tới môi trường và tài nguyên du lịch, nhìn chung, các hoạt động du lịch hiện nay chưa gây ra các vấn đề nghiêm trọng về môi trường, ngoại trừ một số trường hợp ô nhiễm nước do hệ thống thu gom, xử lý nước thải kém hiệu quả, nhưng nếu không có kế hoạch quản lý tốt sẽ gây ra ảnh hưởng không tốt đến môi trường, đến sự phát triển bền vững của mọi ngành kinh tế, trong đó có chính bản thân ngành du lịch. Vì vậy cần: - Giao cho sở Tài nguyên & Môi trường phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đánh giá toàn diện tiềm năng, tài nguyên và môi trường du lịch, (cả tự nhiên và xã hội), đặc biệt ở các khu vực trọng điểm phát triển du lịch, ở các vùng sâu vùng xa. Đây là nhiệm vụ rất lớn, đòi hỏi đầu tư thời gian, công sức và cả tài chính. Tuy nhiên, việc đánh giá này là cần thiết. Cần xây dựng hệ thống các tiêu trí đánh giá và phân loại tài nguyên du lịch, xây dựng tiêu chuẩn môi trường du lịch, trên cơ sở đó, thực thiện rà soát và đánh giá, kiểm kê và phân hạng tài nguyên du lịch về tiềm năng giá trị và yêu cầu đối với việc bảo tồn phát triển tài nguyên phục vụ phát triển du lịch. - Sở văn hóa – Thể thao và du lịch thường xuyên theo dõi biến động để có những giải pháp kịp thời cùng với các ban, ngành và địa phương liên quan khắc phục sự cố tình trạng xuống cấp về tài nguyên và môi trường du lịch Hà Nội. Xác định các khu vực nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ về môi trường, là những khu vực mà tài nguyên môi trường xuống cấp, cần có các biện phấp bảo vệ nghiêm ngặt và có các biện pháp xử lý cấp bách để bảo vệ tài nguyên, môi trường. - Thành phố xây dựng tiêu chí quản lý Tài nguyên và môi trường du lịch (cả tự nhiên và xã hội), cần áp dụng các công nghệ hiện đại như: Công.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> nghệ thông tin, địa lý (GIS), công nghệ viễn thám. Viện xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin hiện trạng môi trường du lịch cần sớm đươc ưu tiên, triển khai. - Quy định vấn đề đánh gái tác động môi trường phải được tiến hành trong tất cả các quy hoạch. Cần sớm nghiên cứu, xây dựng và ban hành tiêu chuẩn ngành về thiết kế và xây dựng các công trình du lịch phù hợp lịch phù hợp với cảnh quan, môi trường. - Giao cho các cơ quan hữu quan chú trọng việc theo dõi, kiểm tra xử lý nước thải chất thải ở các khách sạn, các điểm du lịch, khu du lịch và khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ thân thiện với môi trường, “du lịch xanh”, Bên cạnh đó cũng cần áp dụng chế độ xử phạt rõ ràng đối với doanh nghiệp gây ô nhiểm môi trường. - Đối với các yếu tố văn hóa phi vật thể, cần nghiêm cứu về sức chứa và quản lý sức chứa trong khía cạnh văn hóa, môi trường; tạo điều kiện và nâng cao mức sống cho người dân để họ có khả năng duy trì các ngành, nghề truyền thống; xây dựng quy chế quản lý khách du lịch, giá dục du khách tôn trọng tập tục, thuần phong mỹ tục bản địa trong mối quan hệ với người dân địa phương. - Chỉ đạo tăng cường sự phối hợp với các ngành, các cấp trong một nổ lực chung để đảm bảo môi trường cho phát triển du lịch. Huy động sự tham dự đóng góp của cộng đồng dân cư, doanh nghiệp, hiệp hội du lịch, khách du lịch, cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội. - Giao cho Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tiến hành khảo sát, lựa chọn các di tích cách mạng và lịch sử văn hóa, di tích đã xếp hạng để xây dựng các chương trình tham quan cho du khách nội địa và quốc tế và phối hợp với cơ quan sẽ đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo di tích..

<span class='text_page_counter'>(105)</span> - Thành phố cần tích cực kêu gọi tài trợ của các tổ chức nước ngoài và trong nước bảo tồn, khôi phục lại những di tích đã xuống cấp. Tập trung vào các di tích hấp dẫn khách du lịch. Thực hiện xã hội hóa trong tôn tạo, phát triển các di tích danh thắng. b- Đối với các tài nguyên thiên nhiên - Thành phố quan tâm, khẩn trương thực hiện việc kè sông Hông và các hồ ở Hà Nội, đặc biệt là Hồ Tây để tránh việc lấn chiếm, giữ gìn tài nguyên phục vụ cho hoạt động du lịch. - Chỉ đạo đầu tư xây dựng các bến bãi cho chương trình du lịch bằng tàu thủy trên sông Hồng. Trước mắt tập trung đầu tư vào các bến Chương Dương, bến Bát Tràng, bến Chèm… - Chỉ đạo các cơ quan chức năng có biện pháp xử lý kiên quyết những tổ chức cá nhân kinh doanh vứt rác thải, đổ nước thải chưa xử lý bừa bãi xuống sông, hồ cũng như ở các nơi công cộng khác. - Nhanh chóng hoàn thành dự án khu du lịch sinh thái Sóc Sơn để phát triển tài nguyên thiên nhiên ở khu vực này. c- Đánh giá tính khả thi Công tác này hiện chúng ta cũng đang thực hiện nhưng rất hình thức. Tuy nhiên, để thực hiện nghiêm chỉnh cần cso nhiều điều kiện kèm theo, trước hết là người thi hành công vụ. Về vấn đề này, các chương trình cải cách hành chính sẽ góp phần thực hiện. 3.2.4. Giải pháp thứ tư: Có chính sách phát triển nguồn nhân lực hợp lý cho ngành du lịch a- Cơ sơ khoa học của giải pháp Về nguyên lý, con người là yếu tố đầu vào mang tính quyết định cho hoạt động kinh doanh. Mỗi chuyên ngành có những yêu cầu nhất định đối với người lao động. Du lịch, do tính chất riêng có của nó, có yêu cầu cao đối với lao động chuyên môn ngành này..

<span class='text_page_counter'>(106)</span> Trong điều kiện nguồn nhân lực Việt Nam nói chung chưa có trình độ sánh ngang tầm nhiều nước trong khu vực, thì nhân lực có trình độ cao cho ngành du lịch càng khó tuyển dụng. Sự “chảy máu” nhân lực có trình độ là hiện tượng phổ biến ở các cơ sở kinh doanh du lịch của cả ngành. Đối với Hà Nội, việc tuyển dụng cơ đỡ khó khăn hơn nhưng không dễ dàng. Như đã phân tích trong phần lý luận cơ sở, một số doanh nghiệp tự đào tạo mảng kiến thức còn thếu của người mới được tuyển dụng gặp khó khăn về tính chuyên nghiệp, về chi phí và nhất là chi phí cơ hội. Mội đội ngũ nhà chuyên môn không đồng đềi về trình độ và kinh nghiệm đang là khó khăn lớn cho doanh nghiệp du lịch. Giải bài toán này không thể đơn độc trong doanh nghiệp. Nó cần được nhà quản lý đúng mức hơn trong thời gian trước mắt. b- Nội dung của giải pháp Thứ nhất, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực ngành du lịch ở các trường du lịch, các khoa du lịch của một số trường đại học theo hướng chú trọng vào nghiệp vụ du lịch và ngoại ngữ. Với thời gian đào tạo có hạn, có thể giảm một số mon phụ trợ để nâng cao chất lượng chuyên môn. Bên canhk đó, cần có lược lượng thầy có chất lượng cao. Và như vậy, gắn liền với nó là thù lao cho thầy phải xứng đáng. Thứ hai, chuyển đào tạo đại trà sang đào tạo theo đơn đặt hang của doanh nghiệp. Cách làm này vừa gắn lý luận với thực tế, vừa gắn trách nhiệm với quyền lợi của doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp chỉ trả chi phí đào tạo, là cơ sở để trẻ thù lao giảng dạy cho các chuyên goa, kể cả các chuyên gia nước ngoài. Thứ ba, đổi mới quan niệm về bằng cấp. Hiện nay, hầu hết dân Việt Nam đánh giá năng lực con người qua bằng cấp. Đó là hạn chế rất lớn, ảnh hưởng tới hướng nghiệp của thế hệ trẻ. Câu hỏi ngược lại là tại sao ta không mở rộng hệ đại học xuống còn ba năm như hệ Barchelor các nước phương tây, thay vì gọi là trường cao đẳng như hện nay. Trong khi ở ta hiện đã thị.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> trường háo quan hệ động rồi, vieejcnafy hoàn toàn có thể dễ dàng đi vào cuộc sống. Trước mắt, càn triển khai một số công việc sau: - Thành phố có kế hoạch đào tọa nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu về cán bộ quản lý dự án (kể cả quản lý nhà nước cũng như quản lý doanh nghiệp), cán bộ, nhân viên trình độ cao cho các doanh nghiệp trên địa bàn. - Quan tâm nâng cao chất lượng đào tạo và bố trí cán bộ tham gia các dự án FDI. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại và đổi mới công tác bố trí cán bộ: cán bộ phải có bằng cấp, trình độ học vấn tương đương với các nhà đầu tư nước ngoài mới được bố trí vào các cương vị lãnh đạo trong công ty liên doanh. - Xây dụng một số trung tâm đòa tạo nghề cho du lịch có chất lượng cao cho Thành phố từ nhiều nguồn vống: vốn ngân sách hỗ trợ, vốn trong nước, vốn nước ngoài… - Hàng năm bố trí kinh phí phù hợp để thực hiện công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ. Kiểm tra, đánh giá chất lượng hiệu quả công việc của từng cá nhân hang năm,, cử người đi học những khóa học bồi dưỡng nâng cao kiến thức, tiếp thu ứng dụng kỹ thuật mới để không bị lạc hậu với thời cuộc, nhất là đội ngũ hướng dẫn viên du lich và những nhà quản lý lữ hành, khác sạn, marketing du lịch, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của du khách. c- Đánh giá tính khả thi của giải pháp việc đưa ra và thực thi một chính sách đào tạo mới trong điều kiện hiện tại của Hà Nội là hoàn toàn khả thi. Hiện nay, sinh viên các trường du lịch còn yếu về ngoại ngữ, rất khó khăn cho người sử dụng. Trong khi đó, các em rất khó tự học ngoại ngữ khi đang học ở trường trung cấp hay cao đẳng, thậm trí đại học do thiếu động lực và nhất là nguồn tài chính. Một mô hình mới sẽ giúp sinh viên định hướng phấn đấu tốt hơn. 3.2.5. Giải pháp thứ năm : Cần có chính sách thuế riêng đối với từng giai đoạn khai thác hoạt động kinh doanh du lịch..

<span class='text_page_counter'>(108)</span> a- Cơ sở khoa học của giải pháp Thuế luôn phải hướng tới hai mục tiêu : Một là, đảm bảo thu đúng, thu đủ cho ngân sách nhà nước và hai là, đảm bảo tốc độ tăng số thu theo thời gian. Các lý thuyết quản lý vi mô về thuế cho thấy, khi đưa ra chính sách nhằm tận thu các nguồn thuế trên những thị trường riêng lẻ nhất định sẽ vấp phải hiện tượng giảm tải trọng, biểu hiện trên thực tế là khi tăng thuế đến một giới hạn nhất định sẽ gây áp lực khiến các tác nhân rời bỏ thị trường đó do thuế làm tăng chi phí và do đó tăng giá cả. Việc tận thu thuế vì thé có thể đưa lại mức thu cao trong ngắn hạn, song sẽ giảm sút nguồn thu trong dài hạn. Do đó, mục tiêu thứ hai tỏ ra quan trọng không kém mục tiêu thứ nhất. Vấn đề là các nhà hoạch định cần cân nhắc độ thuế phù hợp để nuôi dưỡng lâu dài nguồn thu. Như đã phân tích trong phần trên, du lịch không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà là ngành kinh tế mang tính xã hội sâu sắc, ngoài mục tiêu kinh tế, ngành du lịch còn gáp phần nâng cao dân trí, tăng cường sức khỏe cử dân, tăng cường tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục lòng yêu nước, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, giải quyết công ăn việc làm, làm động lực các ngành kinh tế khác phát triển. Chính vì vậy, cần có cơ chế khuyến khích phát triển du lịch. Chính sách thuế là một vấn đề đang cần được chú ý cải thiện trong thời gian tới. Những lý do chủ yếu để quan tâm đến việc đưa ra một chính sách thuế đặc thù cho ngành du lịch là: Trước hết, các dự án du lịch có thời gian thu hồi vốn khá dài. Một trong những đặc điểm nổi bật của đầu tư phát triển sản phẩm du lịch là sử dụng một khối lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài. Trong những điều kiện trung bình, ổn đinh, để thu hồi vốn xây dựng khách sạn 4 – 5 sao, sau 15 – 20 năm đưa vào khai thác mới thu hồi hết vốn. Tiếp đến là những rủi do trong kinh doanh du lịch. Kinh doanh ở ngành kinh tế nhạy cảm này có xuất lợi nhuận rất cao và người bạn song hành của.

<span class='text_page_counter'>(109)</span> mức lợi nhuận cao là độ rủi do cao. Tính chất các loại rủi do cũng rất đa dạng. Điều đó bắt nguồn từ các vấn đề lien quan đến đối tượng kinh doanh: nhu cầu du lịch và những nhu cầu liên quan trong chuyến du lịch của con người. Cuối cùng là vấn đề mang tính quyết định cho việc đề xuất giải pháp này. Đó là tính chất vòng đời của sản phẩm du lịch cho việc đề xuất giải pháp này. Đó là tính chất vòng đời của sản phẩm du lịch khác hẳn với các loại sản phẩm khác. Mô hình chữ U ngượi của các giai đoạn tiêu thụ những sản phẩm hàng hóa thông thường không hoàn toàn đúng với sản phẩm du lịch. Nét đặc biệt trong thị hiếu của con người là tính nghịch lý. Nếu như các sản phẩm thong thường sự ra đời mới một sản phẩm có sức hút dễ dàng từ bỏ sản phẩm cũ trở nên nhàm chán cho dù chất lượng của nó không giảm sút, thì ngượi lại sản phẩm du lịch sẽ có tính bền vững một khi đã được khách hàng chấp nhân. Điều này được xác nhận bởi số lần quay trở lại của du khách. Sự lôi cuốn của lối kiến trúc, phong cách bày trí, cảnh quan của điểm du lịch, đặc biệt hơn là phong cách phụ vụ và văn hóa địa phương cho du khác cảm giác ngỡ ngàng ban đầu và chuyển thành thân thiết về sau, phù hợp với tâm lý “quen thuộc” trong thói quen tiêu dung. Các sản phẩm phụ trợ cũng thế. Ưu điểm của chúng là các vật lưu niệm càng mang tích cổ xưa, và tính mộc mạc địa phương càng hấp dẫn tính tương đối bất biến của nó là dấu ấn lưu giữ về chuyến đi và đương nhiên trở thành niềm tự hào cho chủ nhân. Ví dụ, tranh đông hồ, gốm bát tràng Hà Nội, vì thế, để Hà Nội trở thành điểm đến thường xuyên của khách, doanh nghiệp cần có thời gian thể hiện thương hiệu của mình, trong đó có cả vấn đề giá cả. Trong những năm đầu khởi sự, doanh nghiệp có được thị trường chấp nhận hay không tùy thuộc một phần vào năng lực của họ, phần còn lại nhờ vào các chính sách, trong đó có thuế do nó ảnh hưởng đến chi phí và giá cả..

<span class='text_page_counter'>(110)</span> Có thể nói sản phẩm du lịch cần nhiều thời gian định vị trên thị trường, nhung mức tiêu thụ của nó có quy luật là tăng dần không giới hạn về thời gian. Vì vậy, có chính sách thuế hợp lý đối với loại hình kinh doanh đặc thù này sẽ cho phép các doanh nghiệp được thuận lợi hơn trong việc định hướng hoạt động trên thị trường. b- Nội dung của giải pháp Về nguyên tắc, doanh nghiệp du lịch cũng là một loại doanh nghiệp, nó phải được điều chỉnh thống nhất bởi các quy phạm pháp luật cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong những giai đoạn nhất định, việc đưa ra chính sách cho mỗi ngành có thể được cân nhắc để phục vụ mục tiêu quốc gia. Xuất phát từ những đặc điểm riêng có của ngành du lịch, chính sách thuế cần mềm dẻo nhằm hai mục tiêu riêng cso của ngành lu lịch, chính sách thuế cần mềm dẻo nhằm tiêu không tác rời: một là, đảm bảo khai thác nguồn thu cho ngân sách nhà nước và hai là, đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại dài lâu và phát triển ổn định, nuôi dưỡng nguồn thu cho ngành thuế. Nội dung chính sách này gồm các vấn đề sau: Thứ nhất, có chính sách miễn, giản thuế trong một vài năm đầu cho những doanh nghiệp mới khởi nghiệp và áp thuế cáo trong các gia đoạn sau. Miễn thuế hoặc áp mức thuế thấp trong mộ vài năm đầu không phải nhất thiết tất cả các doanh nghiệp mới thành lập đều được hưởng. Sự ưu đãi này phải có điều kiện ràng buộc bằng các chỉ số về hiệu quả kinh tế - xã hội của doanh nghiệp, các chỉ số về vệ sinh, an toàn, v. v. Ưu đãi có chọn lọc nhằm gạt bỏ những hiện tượng lợi dụng chính sách hoặc mạo hiểm quá năng lực, dẫn đến tình trạng thành lập doanh nghiệp trang lan, gây tổn thất nguồn lực xã hội. Thứ hai, đối với các dự án phát triển du lịch, nhất là du lịch sinh thái và đặc biệt là ở những vùng đất còn hoang sơ, nơi có cơ sở hạ tang còn chưa phát.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> triển, Nhà nước cần có những chính sách thus hỗ trợ cụ thể và thiết thực cho từng dự án đầu tư hạ tầng, dự án phát triển sản phẩm du lịch. c- Đánh giá tính khả thi của giải pháp Trên thực tế có nhiều cơ sở kinh doanh không tôn trọng các quy định về thuế và nghiệp vụ bán hang thì vừa tránh được thuế, vừa có cơ hội thu hút khách hang hơn. Một chính sách mở cso thể đạt được kết quả lớn hơn trong tương lai so với những tính toán cụ thể trước mắt. Điều đó có được nhờ kinh doanh không quá lo sợ về các khoản thuế phải nộp, và nhất là khi chi phí cơ hội và những rủi ro về pháp luật anh ta phải chịu khi tìm cách trốn thuế trở nên cao hơn chi phí thực cho việc đóng thuế, nhà kinh doanh sẽ lựa chọn giải pháp ít tốn kém hơn, đó là nộp thuế. Tuy nhiên, để thực hiện được chính sách một cách hiệu quả, tránh việc bị lợi dụng, cần có một hệ thống giải pháp cụ thể để đi kèm. 3.3. Đề xuất, kiến nghị và lộ trình thực hiện 3.3.1. Các đề xuất, kiến nghị với Nhà nước Một là, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, ban hành các chính sách, văn bản pháp quy kịp thời, tránh chồng chéo; Cần có luật bảo vệ người tiêu dung, luật cạnh tranh và chống độc quyeenfm cải tiến thủ tục xuất nhập cảnh thuận tiện hơn nữa. Hai là, có chính sách đầu tư thỏa đáng cho phát triền du lịch, cụ thể là chính sách đầu tư hạ tầng du lịch, đầu tư phát triển các khu du lịch, các điểm tham quan du lịch. Cho ngành du lịch được hưởng những ưu tiên cho phát triển như như các ngành sản xuất như cho vay với lãi suất ưu đãi, giảm giá cho các dịch vụ bưu chính, điện nước, hàng không…,áp dụng chính sách một giá. Có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp du lịch (cơ chế, chính sách một giá. Có chính sách các sản phẩm du lịch đặc thù). Hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Xem xét lại thuế VAT chưa hợp lý với kinh doanh lữ hành (hiện nay là 10% thuế dịch vụ +5% thuế vận chuyển), vận chuyển khách du.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> lịch (xe nhập vào hiện nay phải chịu thuế nhập khẩu (100%) và thuế tiêu thụ đặc biệt (45%) quá cao làm cho giá dịch vụ cao gây khó khăn cho doanh nghiệp triển khai việc trả nợ Đông Âu và Nga bằng các dịch vụ du lịch. Giảm thuế thu nhập đối với người Việt Nam để kích cầu du lịch. Giảm thuế thu nhập đối với người Việt Nam để kích cầu du lịch nội địa. Có các chính sách khuyến khích hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và trẻ. Đặt ra các chế tài xử lý những trường hợp vi phạm quy định bảo tồn di tích, danh lam thắng cảnh các điểm du lich, vui chơi giải trí. 3.3.2. Các đề xuất và kiến nghị với Tổng cục du lịch Tăng cường hoạt động của cục Xúc tiến du lịch để quảng bá du lịch Việt Nam ra nước ngoài trong đó có các hoạt động xúc tiến của du lịch Hà Nội. Kết hợp với các đại Xứ Quán để lập các văn phòng đại diện du lịch ở một số thị trường nước ngoài trọng điểm nhằm thu hút khách. - Đầu tư kinh phí thỏa đáng và hỗ trợ kinh phí cho Hà Nội để tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch. - Đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường du lịch thế giới, cung cấp thongo tin cho các địa phương và doanh nghiệp. - Ban hành và hoàn thiện các văn bản quản lý nhà nước về du lịch, hướng dẫn các địa phương, các doanh nghiệp thực hiện. - Tăng cường kiểm tra nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch của các cơ sở lưu trú cũng như công ty lữ hành, đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên. - Hỗ trợ các địa phương, đặc biệt là Hà Nội trong việc đào tạo nguồn nhân lực (hướng dẫn chương trình, nội dung). Bộ Văn hóa – Thể Thao – Du lịch, nghiên cứu trình chính phủ về việc thành lập Học viện du lịch; xây dựng chương trình nội dung đào tạo thống nhất về lĩnh vực du lịch tại các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề; tổ chức đào tạo lại và đào tạo mới lực lượng lao.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> động có kỹ năng nhiệm vụ du lịch theo định hướng phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế. - Cần xúc tiến thành lập các tổng công ty du lịch với quy mô lớn, không nên để các công ty, doanh nghiệp nhỏ lẻ, manh mún như hiện nay, tích cực triển khai cổ phần hóa các doanh nghiệp trực thuộc làm động cơ để tăng cường thu hút khách, để nâng cao chất lượng, giảm chi phí, tăng hiệu quả. 3.3.3. Các đề xuất, kiến nghị với Thành phố Hà Nội. Đề nghị UBND xem xét, quan tâm bố trí các khu đất còn trống cho phép quy hoạch xây dựng khách sạn và phân bổ đều tại các quận – huyện. UBND Thành phố có chủ trương di dời các nhà máy công nghiệp ra khỏi khu vực nội đô. Phần lớn các khu đất này đều nằm tại vị trí trung tâm, diện tích lớn phù hợp để xây dựng các khách sạn 4 – 5 sao, đề nghị chuyển đổi mục đích sử dụng để kêu gọi đầu tư xây dựng khách sạn , trung tâm hội nghị, hội thảo quốc tế. Đề nghị Thành Phố có chính sách cụ thể trong phạm vi chức năng để hỗ trợ cho du lịch phát triển: - Cho Du lịch được nằm trong diện ưu đãi đầu tư, có những chính sách ưu đãi về lãi xuất vay, miễn giảm thuế cho các công trình đầu tư du lịch… Hiện nay quỹ hỗ trợ phát triển không cho ngành du lịch được vay, việc vay vốn để xây dựng khách sạn và các sản phẩm du lịch không được hưởng lãi xuất ưu đãi. - Cho các doanh nghiệp được đưa xe chở khách du lịch vào tham quan thàh phố, đặc biệt là khu vực phố cổ. - tạo môi trường văn hóa lành mạnh tại các điểm du lịch, thực hiện nghiêm văn bản và kế hoạch của thành phố để dẹp tệ nàn ăn xin, bán hàng rong tại các điểm du lịch ở Hà Nội, từng bước triển khai có hiệu quả..

<span class='text_page_counter'>(114)</span> - Cho du lịch được áp dụng biểu giá điện, nước, điện thoại áp dụng cho du lịch tương đương với các đơn vi sản xuất để giảm chi phí đầu tư cho du lịch và khuyến khích đầu tư nước ngoài vào du lịch. 3.3.4 Các đề xuất, kiến nghị với các ban, ngành của Hà Nội - Với Ngành Ngoài giao và Công an: cần cải tiến thủ tục cấp thị thực cho khách vào Việt Nam du lịch dễ dang hơn, chi phí thấp hơn; khuyến khích những nhà báo nước ngoài viết bài quay phim giớ thiệu về du lịch Việt Nam, không nên thu lệ phí quay phim của họ. - Ngành Giao thông – Vận tải chú ý đến việc xây dựng hạ tầng dẫn đến điểm tham quan du lịch, tạo điều kiện nhanh chóng về thủ tục với những đoàn khách đi ô tô qua cửa khẩu. Tăng cường năng lực của Hàng không Việt Nam hơn nữa , tăng cường năng lực của Hàng không Việt Nam hơn nữa, tăng chuyến bay thẳng quốc tế vào Hà nội, tráng hủy chuyến, hoãn chuyến. Cải tiến thiết bị, các dịch vụ đón khách tại cửa khẩu Nội Bài phù hợp với thông lệ quốc tế. Nâng cao chất lượng đội ngũ tiếp viên, cán bộ giao dịch. Hiện nay việc xác nhận đặt chỗ cho các đoàn từ 10 khách trở lên trên các chuyến bay nội địa đang là trở ngại vì chính sách của hàng không là không xác nhận đặt chỗ cho các đoàn như đặt chỗ cho khách lẽ, vì vậy rất khó cho các doanh nghiệp lữ hành xác nhận chương trình đoàn động với các hãng nước ngoài. Hàng không Việt Nam chưa có chính sách thỏa đáng, chậm xác nhận chỗ nội địa (dưới 45 ngày) với những đoàn không đi chặng quốc tế của họ, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động của công ty lữ hành trong nước. Thực tế tuyến bay quốc tế thường do đối tác nước ngoài thực hiện hoạch khác đề nghị, các công ty của Việt Nam không quyết định được. Đối với khách phải chờ chuyến bay tiếp (transit) tại cửa khẩu, thời gian tương đối lâu, đề nghị cho phép tổ chức các tour ngày vào thành phố để tránh gây ức chế cho du khách trong thời gian chờ đợi. Việc áp dụng giá vé máy bay trong nước như người Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài rất phức tạp khi phải đi xin thẻ cho các nhà đầu tư,.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> thủ tục làm thẻ chưa rõ ràng, việc xóa bỏ mức giá phân biệt trong một số trường hợp vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc… - Ngành Tài chính: Thông tư 01/1998/TT-BTC ngày 3/01/19998 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chi phí dịch vụ, hoa hồng môi giới trong doanh nghiệp nhà nước: “mức chi hoa hồng môi giớ, chi phí dịch vụ được khống chế không quá 3% doanh thu” – qua thấp đối với thực tế phải chi hiện nay. Trong bối cảnh cạnh tranh, các doanh nghiệp nhiều khi phải chi hoa hồng môi giới từ 15-20% doanh thu mới có khách nhưng không được trừ vào chi phí khi tính thuế. Hiện nay phí môi giới ở các đơn vị quốc doanh phải áp dụng mức theo quy định của nhà nước quá thấp so với thực tế, tư nhan thường trả phí hoa hồng mức cao, khiến cạnh tranh bất bình đẳng. Cách thức thu thuế vận dụng khác nhau, không công bằng giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, ví dụ như các khách sạn quốc doanh khi hoạch toán phải chịu giá thành rất cao nên lợi nhuận thu vén thấp, còn các khoản này khách sạn tư nhân lại được vận dụng mức thuế khoán nên họ có thể áp dụng mức giá thấp gây thế cạnh tranh bất bình đẳng giữa các khách sạn. Việc khấu trừ thuế ở các đơn vị quốc doanh phải thực hiện với đầy đủ chứng từ hợp lý, hợp lệ do đó khó khăn trong việc hoạch toán thực hiện do quá trình hoạt động kinh doanh phải đến các vùng xâu, vùng xa, mau bán nhỏ, lặt vặt nên không có đủ chứng từ chứng từ hợp lệ. Phân phối lợi nhuận chưa hợp lý, tỷ lệ lợi nhuận trích trở lại vào quỹ phát triển sản xuất lớn. Đề nghị Bộ Tài nguyên xem xét giải quyết các vướng mắc trên. - Ngành Tài nguyên – Môi trường: có hướng và hỗ trợ địa phương và chủ quản lý tài nguyên bảo vệ môi trường tại các khu du lịch , điểm du lịch. - Ngành Ngân hàng cần áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại thuận tiện cho khách hàng trong mua hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn Thủ đô..

<span class='text_page_counter'>(116)</span> - Các ngành điện, nước, bưu chính viễn thông cần phối hợp với ngành Du lịch nghiên cứu giảm giá điện, nước, dịch vụ viễn thông,….

<span class='text_page_counter'>(117)</span> KẾT LUẬN Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế, trong đó có kinh tế du lịch là thuộc tính vốn có của các nhà nước, bởi lẽ, hoạt động du lịch là một trong hoạt động nền tảng của xã hội mà bất kỳ nhà nước nào cũng phải quan tâm. Thực tiễn quản lý nhà nước về du lịch, hiện nay, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mà để giải quyết phải có hệ thống lý luận sâu sắc và hoàn chỉnh. Trên cơ sở, những vấn lý luận và thực tiễn đã được trình bày tại luận văn này, chúng tôi xin rút ra một số kết luân cơ bản sau dây: 1. không thể có một sự phát triển du lịch bền vững mà không có một bộ máy quản lý có hiệu quả ( một nhà nước có nền chính trị ổn định, có hệ thống pháp luật, bộ máy điều hành có hiệu lực và các công cụ quản lý hiệu quả). 2. Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch, cần phải tiến hành đổi mới sâu sắc về nhận thức, cải cách mạnh mẽ hệ thống tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan quản lý du lịch nói riêng; đề cao trách nhiệm công vụ đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước nhằm đảm bảo khơi thông các nguồn lực, tạo điều kiện tốt nhất để phát triển du lịch một cách hiệu quả, bền vững. 3. Sau hơn 20 năm đổi mới, về cơ bản, nền kinh tế đã thoát khỏi cơ chế kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp tạo lập những cơ sở ban đầu của một nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Theo đó, hoạt động du lịch cũng có nhiều khởi sắc, góp phần thúc đẩy nền kinh thế tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, tham quan giải trí và giao lưu các nền văn hóa trong và ngoài nước. 4. Ngành du lịch Hà Nội đã từng bước khẳng định được vai trò kinh tế của mình trong quá trình đổi mới, hội nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô, góp phần không nhỏ trong sự nghiệp CNH – HDH đất nước..

<span class='text_page_counter'>(118)</span> Mặc dù vậy, với những kết quả đã đạt được, du lịch Hà Nội vẫn chưa đạt được hiệu quả xứng tầm là trung tâm du lịch của quốc gia và trong khu vực với những tiềm năng, lợi thế hiện có. Để hoạt động du lịch thủ đô tiếp tục trên đà tăng trưởng, cần phải tích cực thực hiện liên tục, không ngừng các hoaatj động, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước nhằm phấn đấu trong thời gian ngán tới, du lịch Thủ đô sẽ trở thành ngành kinh tế đầy triển vọng, ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của Hà Nội. muốn đạt được điều đó, Du lịch Hà nội phải thực hiện tốt mấy điểm sau đây: - Tiếp tục nâng cao nhận thức của các tầng lớp dân cư, một bộ phận các cấp, các ngành về vai trò của hoạt động du lịch trong cơ cấu kinh tế xã hội. - Cụ thể hóa các giai pháp phát triển du lịch Thủ đô trong thực tiễn, trong đó có giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch tại Hà nội; tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch của Hà nội. - Phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành phố lân cận cùng phát triển hoạt động du lịch, thực hiện tốt chủ trương phát triển liên vùng, liên ngành, là động cơ cho các hoạt động đầu tư phát triển sản phẩm du lịch trong khu vực. - Tích cực phát huy nội lực, tăng cường đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực du lịch Thủ đô để đáp ứng kịp thời với những đòi hỏi ngày càng cao của du khách trong và ngoài nước. Trên đây là một số nội dung cơ bản về thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch của Hà nội và những nhận định, đánh giá của cá nhân tác giả, một cán bộ, công chức hiện đang công tác trong ngành du lịch. Do trình độ nhận thức, kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, trong khuôn khổ một luận văn, có vấn đề gì chưa được hoàn thiện, rất mong các thầy cô giáo chỉ bảo, hướng dẫn, góp ý để hoàn thiện hơn. Đồng thời, tôi cũng rất cám ơn: Lãnh đạo Sở Du Lịch Hà Nội ( nay là sở văn hóa – Thể thao và Du Lịch), Cục thống kê Hà Nội, cô giáo – TS.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> Trương Thị Thu Hà và các cá nhân có liên quan đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này. Chân thành cảm ơn !.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> Phụ lục 1. PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ ĐẾN HÀ NỘI * Thị trường châu Á chiếm tỷ trọng cao nhất, tổng thị phần của thị trường châu Á là hơn 50 % trong đó, lớn nhất là thị trường Đông Bắc Á chiếm thị phần khoảng 45% vào năm 2003, nhưng đến năm 2007 dã giảm gần 10% là do sự giảm sút mạnh của thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, đến năm 2007 thị trường khách du lịch vào hà nội nói chung và đến các thị trường nói riêng đều tăng đáng kể, 4/6 thị trường Đông Bắc Á đều nằm trong top 10 thị trường hàng đầu (cụ thể được phân tích tại phụ biểu 1 ) * Thị trường ASEAN tăng trưởng nhanh, năm 2006 tăng 59% so với 2005 tức tăng gần 38.000 khách, thị phần tăng từ 6% năm 2005 lên 10% năm 2006,tổng số lượt khách đạt gần 120.000 lượt người. Việc tăng trưởng này do sự xuất hiện các hãng hàng không giá rẻ nối Hà nội – Việt nam với một số quốc gia trong khu vực như: Thái Lan, Malaysia, Singapore và việc đi lại qua những cửa khẩu đường bộ cũng được mở rộng, thuận lợi hơn. Thị trường này có xu hướng tăng mạnh trong thời gian tới. Hiện nay khoảng 18% khách từ các nước ASEAN đến Việt Nam vào Ha Nội. * Thị trường châu Âu tăng nhẹ. Tổng thị phần châu Âu xếp thứ 2 sau châu Á đạt khoảng 30% . Phần lớn hơn 50% khách Châu Âu đến Việt Nam là vào Hà Nộ, đặc biệt khách Tây Ban Nha hơn 90% đến Việt Nam đến Hà Nội. Khách Pháp vào Hà Nội nhiều hơn vào TP Hồ Chí Minh. Khối Tây Âu tăng 1,5% riêng Pháp, Tây Ban Nha, Áo năm 2007 tăng gần 50.000 lượt khách so với năm 2006 và tăng trên 150.000 lượt khách so với năm 2003 Năm 2007, khối Bắc Âu tăng 7% so với năm 2003, đặc biệt Đan Mạch tăng cao nhất 12%, do những thuận lợi về vía và chất lượng du lịch được kết nối giữa 2 quốc gia đã cao hơn..

<span class='text_page_counter'>(121)</span> Khối Đông Âu tăng trên 30% tức tăng gần 100.000 lượt khách, do kinh tế trong khu vực tăng cao và chính sách thu hút khách của Hà Nội tại Đông Âu đã đạt hiệu quả cao, đặc biệt là Nga tăng mạnh gần 100% tức tăng gần 11.000 khách. * Thị trường Châu Mỹ: Khu vực Bắc Mỹ chiếm khoảng 8% thị phần có xu hướng và tốc độ tăng trưởng cao hơn thị trường Châu Âu, năm 2007 tăng 25% so với năm 2003, tương đương với khoảng 70.000 người. Trên 20% khách Mỹ đến Việt Nam vào Hà Nội, tăng gần 51.000 lượt. thi trường này tăng do quan hệ Việt Nam và Mỹ có chiều hướng phát triển thuận lợi và chính sách Việt Kiều, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có nhiều thuận lợi.ư * Thị trường Úc năm 2007 gấp 3 lần, tức hơn 68.900 khách, thị phần chiếm khoảng 8%. Gần 50% khách Úc đến Việt Nam là vào Hà Nội..

<span class='text_page_counter'>(122)</span> Phụ lục 2: PHÂN TÍCH LƯỢNG KHÁCH DU LỊCH CHÂU Á ĐẾN HÀ NỘI Trung Quốc năm 2016 giảm 46% (tức giảm hơn 117.000 khách) so với năm 2003, mặc dù năm 2007 đã tăng là 35% so với năm 2006, thị phần chiếm hơn 13%, thị trường Trung Quốc đã phục hồi trở lại sau khi có nhiều nổ lực của VIệt Nam với Trung Quốc trong kế hoạch gửi khách của cả hai bên. Khoảng 27% khách Trung Quốc đến Việt Nam vào Hà Nội, khách Trung Quốc vào Hà Nội cao hơn vào Thành phố HCM. Lý do: những hạn chế từ phía Chính phủ Trung Quốc. Năm 2007 thị trường khách Trung Quốc đã phục hồi, tăng trưởng mạnh và đã vươn lên đứng đầu. * Thị trường Hàn Quốc giai đoạn 2004 – 2005 tăng mạnh nhưng đến 2007 đã tăng lên gần gấp 3 năm 2003, thị phần chiếm 14%. Năm 2007 lượng khách Hàn Quốc đến Hà Nội tăng đã đạt mức gần 112.000 người và tăng xấp xỉ 83.000 lượt so với năm 2003. * Thị trường Nhật, năm 2007 tăng 55% so với năm 2003, (tương đương với gần 40.000 lượt khách), chiếm 8,5% thị phần. Trong đó khoảng 27%khách nhật đến Việt Nam là vào Hà Nội. lý do thị trường này tăng mạnh trong giai đoạn 2005 – 2007 do những thuận lợi về visa, đến nay đã ở mức tương đối cao. * Thị trường Đài loan năm 2007 tăng 55% so với năm 2006 và tăng 75% so với năm 2003. Mức độ tăng tương đối cao như vậy là do trong giai đoạn 2004 – 2005, thị trường này có phần suy giảm bởi các dịch bệnh phát sinh tại khu vực châu Á như dịch cúm gia cầm tại Việt Nam và do chính phủ Việt Nam hạn chế lượt khách du lịch trong năm tổ chức APEC – 2005 tại Hà Nội. * Thị trường Hồng Kông tăng cao 26I% nhưng dung lượng thị trường không lớn, tăng 370 khách. Khoảng 43% khách Hồng Kông đến Việt Nam.

<span class='text_page_counter'>(123)</span> vào Hà Nội, Lý do: những chiến lược xúc tiến của hãng hàng không Cathay Pacific đã tạo hiệu quả tốt trong việc gửi khách sang Việt Nam..

<span class='text_page_counter'>(124)</span> Phụ lục 3. PHÂN TÍCH LƯỢNG KHÁCH DU LỊCH ASEAN ĐÊN HÀ NỘI Năm 2006 tăng 59% so với nưm 2005 tức tăng gần 38.000 khách, thì phần tăng từ 6% năm 2005 lên 10% năm 2006, tổng số lượng khách đạt gần 120.000 lượt người. Thị trường này có xu hướng tăng mạnh trong thời gian tới. Hiện nay khoảng 18% khách từ các nước ASEAN đên Việt Nam vào Hà Nội. Cụ thể là: Thị trường Thái Lan gần tăng 365% so với năm 2003 (tăng hơn 42.850 lượt khách) và 1/3 khách Thái Lan đến Việt Nam đều đến Hà Nội. Thị trường Malaysia tăng 4 lần so với năm 2003 tương đương với tăng 41.000 lượt khách. Thị trường Singapore tăng gần 3 lần với lượng khách tăng tương đương là 22.900 lượt. Khoảng 23% khách Singapore đến Việt Nam vào Hà Nội. Thị trường Indonesia tăng 13% tức tăng 409 khách. Khoảng 17% khách Indonesia đến Việt Nam vào Hà Nội. Thị trường Lao tăng 26% tắc tăng 769 khách. Thị trường Campuchia tăng 16% tức tăng 167 khách. Theo nghiên cứu, chỉ 0,8% khách đến Việt Nam vào Hà Nội. Thị trường này đến Hà Nội chủ yếu là kết hợp với hoạt động thăm thân, kết hợp làm việc, học tập. Thị trường Philippin tăng 12% tức tăng 483 khách. Theo nghiên cứu, khoảng 16% khách Philipin đến Việt Nam vào Hà Nội. Thì trường Miama tăng 60% tức tăng 259 khách so với năm 2003. Thị trường Brunei tăng 45%, tức tăng 100 khách..

<span class='text_page_counter'>(125)</span> DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1.. Ban chấp hành TRung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1998),. “Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010”, Hà Nội. 2.. Ban kinh tế Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1998) “Kết. luận của Bộ Chính trị về phát triển Du lịch trong tình hình mới”, Hà Nội. 3.. Bộ kế hoach và Đầu tư – Bộ Tư pháp – Bộ Ngoại giao – Bộ. Công an (2005), “Thông tư liên tịch ngày 25/5/2005 về hướng dưỡng việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đối) số 03?1998/QH10”, Hà Nội. 4.. Bộ Nội vụ (2005), “Thông tư 48/2005/TT-BNV ngày 29/4/2005. hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn giúp UBND quận, huyện, phường, xã, thì trấn quản lý nhà nước về du lịch”, Hà Nội. 5.. Bộ Văn Hóa, Thể thao và Du lịch (2008), “Tài liệu Hội thảo. phát triển nguồn nhân lực du lịch trong điều kiện nước ta gia nhập WTO”, Hà Nội. 6.. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007),. “Nghị định 92/2007/NĐ-CP ngày 1/6/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật của Luật Du lịch”, Hà Nôi. 7.. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2007),. “Nghị định 149/2007/NĐ-CP ngày 09/10/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch”, Hà Nội. 8.. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), ”Văn kiện Đại biểu toàn quốc. lần thứ X”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội..

<span class='text_page_counter'>(126)</span> 9.. Đinh Trng Kiên (2004), “Một số đề về Du lịch Việt Nam”, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. 10.. Nguyễn Văn Đính, Trần Minh Hòa (2004), “Giáo trình kinh tế. du lịch”, Nxb Lao động, Hà Nội. 11.. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2006), “Việt Nam 20 năm đổi. mới”, Hà Nội. 12.. Quố hội nước cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI. (2005), “Luật Du lịch số 44/2005/QH11 ngày 14/6/2005”, Hà Nội. 13.. Tổng cục Du lịch (10/2007), “Đề cương phát triển Du lịch trên. nền tảng phát triển Văn hóa”, Hà Nội. 14.. Tổng cục Du lịch (2006), “Chiến lược phát triển Du lịch trên. nền tảng phát triển Văn hóa”, Hà Nội. 15.. Tổng cục Du lịch (2007),” Giải pháp tăng trưởng khách quốc tế. đến Việt Nam”, Tài liệu Hội nghị chuyên đề, TP. Hồ Chí Minh. 16.. Tổng cục Du lịch (4/1999), “Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. trong lĩnh vực du lịch”, Hà Nội. 17.. Tổng cục Du lịch (4/1999), “ Một số định hướng và giải pháp. phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”, Hà Nội. 18.. Sở Du lịch Hà Nội, “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà. Nội”, Hà Nội. 19.. Sở du lịch Hà Nội, Báo cáo các năm, Hà Nội.. 20.. Website của Tổ chức Du lịch Thể giới: ..

<span class='text_page_counter'>(127)</span>

<span class='text_page_counter'>(128)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×