Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

02 giải pháp phát triển hoạt động XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.06 KB, 37 trang )

DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng, biểu Trang
Bảng 1 Tỷ lệ % phản ánh thói quen mua sắm các sản phẩm dệt
may nội địa của người tiêu dùng nông thôn thông qua các
loại hình bán lẻ phân theo khu vực năm 2009.
22
Bảng 2 Tỷ lệ % về mức độ hài lòng của người tiêu dùng ở nông
thôn về sản phẩm dệt may nội địa năm 2009.
23
Bảng 3 Thống kê doanh nghiệp dệt may tham gia chương trình
“Hàng Việt về nông thôn”
26
1
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 1 Lượng tiêu dùng các sản phẩm dệt may nội địa của người
dân thành thị và nông thôn năm 2009.
21
Biểu đồ 2 Mức chi tiêu trung bình cho các sản phẩm dệt may nội địa
của người tiêu dùng ở thành thị và nông thôn năm 2009.
21
Biểu đồ 3 Sự phân bố các cơ sở chuyên doanh sản phẩm dệt may nội
địa ở nông thôn các khu vực
24
2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Tên viết tắt Tên đầy đủ
1 BSA Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ Doanh
nghiệp
2 BTB&DHMT Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
3 CH Cửa hàng


4 DT Doanh thu
5 DTDM Doanh thu dệt may
6 ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
7 ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
8 ĐNB Đông Nam Bộ
9 ITC Trung tâm thương mại quốc tế
10 QĐ-BCT Quyết định – Bộ Công Thương
11 QĐ-TTg Quyết định – Thủ tướng
12 TDMNPB Trung du miền núi phía Bắc
13 TP Thành phố
14 UBND Ủy ban nhân dân
15 XTTM XTTM
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI SẢN PHẨM DỆT MAY NỘI ĐỊA
TRÊN THỊ TRƯỜNG NÔNG THÔN
1.1 Tính cấp thiết của việc nghiên cứu giải pháp hoạt động XTTM sản phẩm
dệt may nội địa trên thị trường nông thôn
Thị trường nông thôn Việt Nam là một thị trường lớn. Dân số Việt Nam
hiện nay khoảng 86 triệu người trong đó số dân sống ở nông thôn chiếm tới trên
70%. Với tốc độ tăng trưởng bán lẻ hàng năm khoảng 40% thì đây quả thực là thị
trường đầy tiềm năng để phát triển các sản phẩm nội địa nói chung và sản phẩm
dệt may nói riêng.
Dệt may được biết đến là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn
của Việt Nam, có kim ngạch xuất khẩu lớn, đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm
quốc nội mỗi năm. Trong hai năm trở lại đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã và đang nỗ lực quay trở lại chiếm
lĩnh thị trường nội địa. Nhiều thương hiệu dệt may nổi tiếng đã có mạng lưới phân
phối tương đối rộng trên thị trường nội địa, nhưng chủ yếu là ở các thành phố lớn.
Ở thị trường nông thôn, sản phẩm dệt may nội địa lại không được bày bán nhiều.

Trong khi các doanh nghiệp trong nước bỏ ngỏ thị trường này thì các sản phẩm
dệt may Trung quốc giá rẻ, các sản phẩm dệt may không rõ nguồn gốc tràn ngập
thị trường nông thôn lấn át hàng Việt. Đây là thực trạng đáng buồn cho ngành Dệt
May của Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên trong đó có hoạt động
XTTM. Việc nghiên cứu “Giải pháp phát triển hoạt động XTTM sản phẩm dệt
may nội địa trên thị trường nông thôn” là rất cần thiết và có vai trò quan trọng đối
với ngành Dệt May để có thể chiếm lĩnh thị trường nông thôn.
1.2 Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài
Từ những lý do nói trên, em chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp phát triển
hoạt động XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn”.
Để làm sáng tỏ nội dung của đề tài nghiên cứu, trước hết phải hiểu XTTM
là gì? Khái niệm sản phẩm dệt may? Đặc trưng của thương mại sản phẩm dệt
may? XTTM sản phẩm dệt may là gì? Có những hình thức XTTM sản phẩm dệt
may nào?
4
Thực trạng các doanh nghiệp dệt may gặp khó khăn gì trong thời gian qua?
Chính phủ đã làm gì để hỗ trợ ngành Dệt May thực hiện XTTM về thị trường
nông thôn? Những vướng mắc hiện nay đối với hoạt động XTTM sản phẩm dệt
may trên thị trường nông thôn?
Các phát hiện thông qua việc nghiên cứu đề tài? Giải pháp trước mắt, giải
pháp lâu dài là gì?
1.3 Các mục tiêu nghiên cứu giải pháp phát triển hoạt động XTTM sản phẩm
dệt may nội địa trên thị trường nông thôn
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Một là: Nghiên cứu tổng quan thực trạng XTTM sản phẩm dệt may nội địa
trên thị trường nông thôn.
Hai là: Đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác XTTM sản phẩm dệt may nội
địa trên thị trường nông thôn nhằm thúc đẩy tiêu dùng hàng dệt may nội địa ở
nông thôn và phát triển mạng lưới phân phối các sản phẩm này ở nông thôn trong

thời gian tới.
1.4 Phạm vi nghiên cứu giải pháp phát triển hoạt động XTTM sản phẩm dệt
may nội địa trên thị trường nông thôn
Nội dung nghiên cứu là sản phẩm dệt may mà cụ thể là sản phẩm quần áo
may sẵn do các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sản xuất và bán tại thị trường
nông thôn.
Thời gian: Nghiên cứu thực trạng XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị
trường nông thôn năm 2009 và năm 2010.
1.5 Lý thuyết về XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn
1.5.1 Một số khái niệm
1.5.1.1 Khái niệm XTTM
XTTM là hoạt động hỗ trợ để làm tăng tốc các giao dịch thương mại nhằm
đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Có nhiều quan niệm khác nhau về XTTM:
Mục 10 điều 3 - Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam đưa ra khái
niệm XTTM như sau: “XTTM là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán
hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương
mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại”.
5
Theo quan niệm của Trung tâm thương mại quốc tế (ITC), XTTM là tất cả
các biện pháp có thể tác động hỗ trợ, khuyến khích phát triển thương mại.
Trong các quan niệm trên thì quan niệm của ITC là được hiểu theo nghĩa
rộng và khá toàn diện trên cả tầm vĩ mô, vi mô với ba chủ thể tham gia hoạt động
XTTM chủ yếu là: Chính phủ, các tổ chức hoạt động XTTM và các doanh nghiệp.
Khái niệm XTTM được ghi trong Luật thương mại năm 2005 là mang ý nghĩa
hẹp, xem xét ở góc độ vi mô.
1.5.1.2 Sản phẩm dệt may và đặc trưng của thương mại hàng dệt may
Sản phẩm dệt may được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu mặc của con
người. Nhu cầu mặc cũng phát triển theo quy luật từ thấp đến cao. Trước kia, sản
phẩm dệt may chỉ đáp ứng một nhu cầu mặc duy nhất của con người. Ngày nay,
cùng với sự phát triển của xã hội, sản phẩm dệt may ngoài mục đích đáp ứng nhu

cầu mặc – nhu cầu thiết yếu hàng ngày mà nó còn đáp ứng nhu cầu thời trang từng
người. Do đó, yêu cầu của người tiêu dùng với sản phẩm dệt may ngày càng cao
hơn từ số lượng đến chất lượng, từ mặc ấm đến mặc đẹp.
Thương mại hàng dệt may có một số đặc trưng nổi bật sau:
Một là: Sản phẩm dệt may là loại sản phẩm có nhu cầu rất phong phú, đa
dạng tùy thuộc vào đối tượng tiêu dùng. Người tiêu dùng khác nhau về văn hóa,
phong tục tập quán, tôn giáo, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi
tác… luôn có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Nghiên cứu thị trường để nắm
vững nhu cầu của từng nhóm đối tượng người tiêu dùng trong các bộ phận thị
trường khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nhà sản xuất kinh
doanh sản phẩm.
Hai là: Thói quen tiêu dùng cũng là một vấn đề cần lưu ý vì nó ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả của việc tìm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của các doanh
nghiệp. Hiểu biết được những khác biệt trong thói quen tiêu dùng là điều quan
trọng đảm bảo thành công cho doanh nghiệp khi đưa sản phẩm của mình ra thị
trường.
Ba là: Sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao, vì thế các doanh nghiệp
phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng
được tâm lý thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng. Vì vậy
để tiêu thụ được sản phẩm với khối lượng lớn, việc am hiểu các xu hướng thời
trang là rất quan trọng.
6
Bốn là: Một đặc trưng nổi bật trong thương mại sản phẩm dệt may là vấn đề
nhãn mác sản phẩm. Mỗi nhà sản xuất cần tạo ra được nhãn hiệu thương mại cho
hàng hóa của riêng mình. Nhãn hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thường là
yếu tố chứng nhận chất lượng hàng hóa và uy tín của người sản xuất. Đây là vấn
đề cần quan tâm trong chiến lược sản phẩm vì người tiêu dùng không chỉ tính đến
giá cả mà còn rất coi trọng chất lượng của sản phẩm.
Năm là: Khi đưa các sản phẩm dệt may ra thị trường, nhà sản xuất cần chú
ý đến yếu tố thời vụ. Phải căn cứ chu kỳ thay đổi của thời tiết trong năm ở từng

khu vực thị trường mà cung cấp hàng hóa cho phù hợp.
Sáu là: Thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu chi tiêu cho hàng may mặc
trong tổng thu nhập dân cư, xu hướng thay đổi cơ cấu tiêu dùng trong thu nhập…
có tác dụng lớn đến xu hướng tiêu thụ hàng dệt may. Chi tiêu cho hàng may mặc
của người tiêu dùng ở thị trường thành thị khác với ở nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa…
Với thị trường nông thôn, các cửa hàng quần áo thường chỉ có tại các thị
trấn, hay tại các phiên chợ lớn ở trong vùng, vì thế để thỏa mãn nhu cầu về sản
phẩm dệt may, người dân phải ra thị trấn mua hàng tại các cửa hàng chuyên doanh
quần áo, hoặc có thể đợi tham gia các phiên chợ lớn trong vùng. Giá cả là điều đầu
tiên được quan tâm bởi thu nhập của đại bộ phận người dân nông thôn không cao.
Dù giá rẻ nhưng kiểu dáng không đẹp, không ấn tượng thì cũng sẽ bị bỏ qua; vì rất
cẩn trọng trong chi tiêu nên người tiêu dùng đều muốn quần áo mình mua phải
đẹp, khiến cho người mặc nó cảm thấy tự hào khi mặc, nếu không thì việc chi tiêu
đó trở nên vô ích và lãng phí. Dù vẫn nói là “ăn chắc mặc bền” nhưng chất lượng
quần áo là yếu tố ít được quan tâm hơn rất nhiều so với giá cả và kiểu dáng; dù sao
khoác trên người bộ quần áo đẹp được mọi người chú ý và thấy tự tin vẫn tốt hơn
mặc bộ quần áo bền chắc mà kiểu dáng không đẹp.
1.5.1.3 Khái niệm về XTTM sản phẩm dệt may trên thị trường nông thôn
XTTM sản phẩm dệt may trên thị trường nông thôn là một tổng thể các hoạt
động của các chủ thể có liên quan (chính phủ, tổ chức thực hiện XTTM, doanh
nghiệp) nhằm nghiên cứu, nhận dạng, khai thác và phát triển các cơ hội thương
mại đối với sản phẩm dệt may trên thị trường nông thôn thông qua việc phát triển
kênh phân phối, và thực hiện các biện pháp, cách thức giới thiệu, trưng bày, quảng
cáo sản phẩm, khuyến mại, tổ chức triển lãm, hội chợ nhằm thúc đẩy và tạo điều
kiện thuận lợi cho các giao dịch thương mại.
7
1.5.2 Vai trò của XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn
1.5.2.1 Đối với người tiêu dùng ở nông thôn
Hoạt động XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn có

vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm dệt may và
với người tiêu dùng ở nông thôn.
Trên thị trường nông thôn, người tiêu dùng chủ yếu biết đến và tiêu thụ sản
phẩm dệt may giá rẻ của Trung Quốc, sản phẩm dệt may nội địa rất hiếm ở khu
vực này. Thông qua hoạt động XTTM sản phẩm dệt may nội địa, người tiêu dùng
ở nông thôn sẽ biết đến nhiều thương hiệu nội địa hơn; có sự thay đổi nhận thức
về sản phẩm dệt may nội địa; được sử dụng những sản phẩm dệt may nội địa có
chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Nhiều sản phẩm dệt may về tới nông thôn phải thông
qua nhiều trung gian nên giá cả tại các trung tâm. Chương trình đưa hàng về nông
thôn, doanh nghiệp trực tiếp đưa hàng về nông thôn vì vậy giảm bớt khâu trung
gian, người dân không phải đi xa để mua hàng, nhiều doanh nghiệp tổ chức các
chương trình khuyến mại giảm giá, tặng quà nên người tiêu dùng được mua sản
phẩm với giá rẻ hơn từ 5 – 20%. Đồng thời, người tiêu dùng nông thôn được cung
cấp thêm các kiến thức để lựa chọn các sản phẩm có chất lượng, nhận biết hàng
giả, hàng kém chất lượng…
1.5.2.2 Đối với doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp
Hoạt động XTTM sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh
nghiệp dệt may. Việc cải cách và tạo thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh trên
thị trường nông thôn sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp mở rộng thị
trường. Do đó việc hướng vào thị trường nông thôn trở thành nhu cầu của các
doanh nghiệp.
Tạo áp lực để doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh
Hoạt động XTTM sẽ giúp cho các doanh nghiệp có được những thông tin
đầy đủ, chính xác về thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh… Trên cơ sở
những thông tin đó, doanh nghiệp sẽ xử lý và đưa ra những quyết định hợp lý về
lựa chọn chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả nhất nhằm giảm giá
thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm dệt may nội địa để tạo ra năng lực
cạnh tranh ngày càng mạnh hơn.
8

Hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ
Hoạt động XTTM sản phẩm dệt may trên thị trường nông thôn là công cụ
hữu hiệu để duy trì và chiếm lĩnh thị trường cho doanh nghiệp từ đó tăng nhanh
dung lượng thị trường của sản phẩm. Hoạt động XTTM này sẽ giúp doanh nghiệp
tiếp cận được thị trường nông thôn, cung cấp cho người tiêu dùng ở thị trường này
những thông tin nổi bật của sản phẩm dệt may nội địa.
Tạo điều kiện để doanh nghiệp củng cố, khẳng định được vị thế so với đối
thủ cạnh tranh
Hoạt động XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn có ý
nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm của các
doanh nghiệp Việt Nam. Thương hiệu sản phẩm dệt may nội khi đã được khẳng
định và có uy tín trên thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp mở rộng được thị
trường tiêu thụ, nâng cao vị thế của doanh nghiệp…
1.5.3 Các hình thức XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn
1.5.3.1 Các hình thức XTTM sản phẩm dệt may cấp doanh nghiệp
- Phát triển các kênh phân phối
Phát triển kênh phân phối có thể coi là biện pháp nền tảng, làm cơ sở cho
việc thực hiện các hình thức XTTM nói chung và thương mại ở thị trường nông
thôn nói riêng. Hệ thống phân phối quyết định sự phát triển của ngành Dệt May.
Hình thức này được thể hiện thông qua Nhà nước và các doanh nghiệp dệt may
trong việc đầu tư và phát triển hệ thống kênh phân phối về thị trường nông thôn
như mở cửa hàng riêng của doanh nghiệp hoặc đại lý…
Phát triển kênh phân phối là việc tập trung phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ
hoạt động phân phối sản phẩm để sản phẩm đến với người tiêu dùng theo nhiều
cách khác nhau, qua đó kích thích tiêu dùng.
- Khuyến mại
Khuyến mại là hoạt động kích thích tiêu thụ của một doanh nghiệp, làm
tăng cầu về hàng hóa và dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích
nhất định đủ mức tạo động lực đủ lớn để họ mua hàng và duy trì quan hệ lâu dài.
Hoạt động khuyến mại sẽ nhằm làm tăng sự chú ý của khách hàng vốn đã sử dụng

hàng hóa của doanh nghiệp hoặc đã từng biết đến nhưng chưa sử dụng sẽ đi đến
quyết định mua hàng của doanh nghiệp.
9
Khuyến mại là một trong những công cụ được sử dụng để kích thích tiêu
thụ thông qua việc tác động đến tâm lý người tiêu dùng.
- Quảng cáo thương mại
Quảng cáo là cách thức đưa thông tin từ người bán hàng đến người mua sao
cho nhanh nhất, đầy đủ nhất và tạo hình ảnh tốt đẹp nhất. Hoạt động quảng cáo
nhằm kích thích sự chú ý, thay đổi trạng thái tâm lý và dẫn đến hành động của
khách hàng.
Hoạt động quảng cáo nhằm thay đổi nhận thức của người tiêu dùng đặc biệt
là làm thay đổi hệ giá trị do đó cần thực hiện kiên trì, bền bỉ và với chi phí rất cao.
Tuy nhiên lợi ích mang lại cũng sẽ rất lớn và tăng doanh thu bán hàng, tăng
thương hiệu của doanh nghiệp.
Hoạt động quảng cáo có thể thực hiện thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng như: đài truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí, panô, tờ rơi…
- Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ
“Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động XTTM của thương
nhân dùng hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ để giới thiệu, quảng
cáo với khách hàng về sản phẩm hay dịch vụ nhằm XTTM” (Điều 117 Luật
Thương mại năm 2005 của Việt Nam)
Hàng hóa thường được giới thiệu ở các trung tâm thương mại, hội chợ triển
lãm hay tại các nơi vui chơi giải trí.
- Hội chợ, triển lãm thương mại
Tổ chức hội chợ thương mại là hoạt động XTTM trong đó những người sản
xuất và kinh doanh trưng bày, giới thiệu hàng hóa của mình nhằm mục đích tiếp
thị, ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Triển lãm hàng hóa là hoạt động XTTM qua việc trưng bày hàng hóa, các
tài liệu về hàng hóa để tuyên truyền quảng cáo các hàng hóa nhằm thúc đẩy tiêu
thụ.

Trong hội chợ và triển lãm thương mại người ta cũng tiến hành hoạt động
bán hàng thăm dò nhu cầu, thị trường, lấy phiếu góp ý của khách tham quan hay
mua hàng.
10
1.5.3.2 Các hình thức XTTM sản phẩm dệt may cấp Chính phủ
Hoạt động XTTM do các cơ quan chức năng của Chính phủ tổ chức
thường tạo ra những ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực thương mại của cả quốc gia
cho nên những chương trình này thường áp dụng vào những thời điểm cần có sự
mở rộng của hoạt động thương mại, nền kinh tế rơi vào suy thoái, thị trường thu
hẹp, hàng hóa sản xuất cung vượt cầu… Đặc biệt đối với các nền kinh tế thị
trường chưa phát triển thì vai trò của Chính phủ vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển hoạt động XTTM.
Hoạt động XTTM sản phẩm dệt may là một phần trong các hoạt động
XTTM quốc gia bao gồm một số nội dung chính sau:
- Một là: Xây dựng chiến lược, chính sách và biện pháp để thực hiện
XTTM cấp quốc gia trong từng giai đoạn nhất định. Xây dựng bộ máy quản lý
XTTM cấp quốc gia bao gồm cơ quan XTTM cấp quốc gia, các cơ quan quản lý ở
địa phương, ngành hàng, các cơ quan và tổ chức hữu quan khác. Xây dựng và tổ
chức thực hiện các chương trình, dự án XTTM.
- Hai là: Các hoạt động hỗ trợ năng lực của cộng đồng doanh nghiệp, thông
qua việc điều tra khảo sát thị trường để cung cấp cho doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh thông tin về người tiêu dùng, về thị phần của hàng Việt Nam, về hiện trạng
hệ thống phân phối, về năng lực của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp có
chiến lược, có chính sách, giải pháp nhằm chiếm lĩnh thị trường nội địa cũng như
giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức đào tạo, nắm bắt được nhu
cầu của doanh nghiệp tổ chức các khoá đào tạo, nâng cao kiến thức, kỹ năng kinh
doanh cho doanh nghiệp. Đồng thời, các cuộc hội thảo, toạ đàm cũng được tổ
chức để chia sẻ kinh nghiệm thành, bại; tìm kiếm hợp tác, liên kết nhằm thúc đẩy
sản xuất, phát triển hệ thống phân phối, tiêu thụ hàng Việt Nam tại thị trường nội
địa.

- Ba là: Các chương trình đưa hàng về nông thôn có sự hỗ trợ của Chính
phủ về tài chính, thông tin, thủ tục hành chính… Chương trình đưa hàng về nông
thôn có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam sản xuất và kinh doanh
các loại hàng hóa khác nhau trong đó có sản phẩm dệt may nội địa. Chương trình
được tổ chức thông qua sự phối hợp của các cơ quan đơn vị như: Bộ Công
Thương, các Sở Công Thương, các trung tâm xúc tiến thương mại các tỉnh, chính
quyền các địa phương, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dệt may Việt Nam và
hiệp hội dệt may Việt Nam.
11
- Bốn là: Các hỗ trợ các hoạt động truyền thông trên truyền hình hướng dẫn
người tiêu dùng, kinh nghiệm thành công, bài học thất bại của doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng Việt Nam; kỹ năng kinh doanh. Hỗ trợ việc biên soạn, phát
hành các ấn phẩm phổ biến các kết quả nghiên cứu thị trường, tổng kết các bài học
cả hai mặt thành công cũng như thất bại, giới thiệu các doanh nghiệp sản xuất
hàng Việt Nam có danh tiếng, các nhà phân phối được tín nhiệm của người tiêu
dùng… Các hạng mục nói trên thuộc chương trình là những hoạt động XTTM
được tiến hành đan xen, lồng ghép chắc chắn sẽ tạo ra sức tương hỗ lẫn nhau cùng
hướng tới đích chung là tạo ra không khí mới, làn sóng mới, phong trào mới, xu
hướng mới trong việc tiêu dùng hàng Việt Nam trong mỗi vùng miền cũng như
trong phạm vi toàn quốc.
12
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XTTM SẢN PHẨM DỆT MAY NỘI ĐỊA
TRÊN THỊ TRƯỜNG NÔNG THÔN
2.1 Phương pháp hệ nghiên cứu thực trạng XTTM sản phẩm dệt may nội địa
trên thị trường nông thôn
2.1.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Đề tài sử dụng số liệu thứ cấp liên quan đến hoạt động XTTM sản phẩm dệt
may nội địa trên thị trường nông thôn thông qua các ấn phẩm xuất bản của Trung
tâm thông tin công nghiệp và thương mại – Bộ Công Thương, báo cáo Chương

trình “Hàng Việt về nông thôn” của Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ
Doanh nghiệp – BSA, tài liệu khác.
* Phần lý thuyết về XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông
thôn, các tài liệu tham khảo bao gồm:
- Luật Thương mại Việt Nam năm 2005.
- Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Đánh giá khả năng thành
công của một số ngành hàng tại thị trường nội địa, NXB Công Thương - 2010.
- Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Kinh nghiệm XTTM thị
trường nội địa một số nước trên thế giới, NXB Công Thương - 2010.
* Đánh giá tổng quan thương mại dệt may trên thị trường nông thôn, các
tài liệu tham khảo bao gồm:
- Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Thực trạng hàng hóa
Trung Quốc tại thị trường Việt Nam - Một số giải pháp cho hàng Việt Nam, NXB
Công Thương - 2010.
- Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Thị trường nông thôn –
Khoảng trống của hàng Việt, NXB Công Thương - 2010.
- Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Ngành dệt may với thị
trường nội địa, NXB Công Thương - 2010.
* Thực trạng về hoạt động hỗ trợ năng lực cộng đồng doanh nghiệp, tài
liệu tham khảo:
- Chương trình XTTM thị trường trong nước năm 2009, kết quả điều tra,
khảo sát thị trường, />13
* Thực trạng hoạt động đưa sản phẩm dệt may về nông thôn, tài liệu tham
khảo bao gồm:
- Trung tâm nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ Doanh nghiệp – BSA, Báo
cáo chương trình “Hàng Việt về nông thôn”.
- Trung tâm nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ Doanh nghiệp – BSA, Theo
dõi lịch trình phiên chợ “Hàng Việt về nông thôn” năm 2009-2010-2011.
- Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Xúc tiến thương mại và
kích cầu nội địa – Thực trạng và giải pháp, NXB Công Thương - 2010.

* Giải pháp phát triển hoạt động XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị
trường nông thôn, tài liệu tham khảo:
- Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Kinh nghiệm XTTM thị
trường nội địa một số nước trên thế giới, NXB Công Thương - 2010.
2.1.2 Phương pháp phân tích dữ liệu
Trong bài nghiên cứu chủ yếu sử dụng hai phương pháp phân tích dữ liệu
chính:
- Phương pháp duy vật biện chứng được sử dụng trong nghiên cứu đặc
trưng của thương mại sản phẩm dệt may, hình thức, nội dung của hoạt động
XTTM sản phẩm dệt may. Từ đó đưa ra các đánh giá, đề xuất giải pháp phù hợp
với thực trạng hiện nay.
- Phương pháp so sánh, phân tích thống kê, sử dụng các bảng, biểu đồ để
làm sáng rõ ý nghĩa của các số liệu liên quan đến sản phẩm dệt may và hoạt động
XTTM sản phẩm thực hiện trong năm 2009 và 2010.
2.2 Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng của các nhân tố đến hoạt
động XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn năm 2009
và 2010
2.2.1 Đánh giá tổng quan thương mại dệt may trên thị trường nông thôn
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây phát triển khá nhanh, thu
nhập của người dân ở nông thôn cũng được nâng lên rõ rệt. Người dân không chỉ
đủ mặc như trước đây mà đã quan tâm nhiều đến thời trang, thay đổi kiểu dáng,
mẫu mã thường xuyên. Nhờ vậy mà chi tiêu dùng cho sản phẩm dệt may đã tăng
đáng kể. Xét về tỷ trọng trong tổng chi tiêu thì chi tiêu cho sản phẩm dệt may ở
khu vực nông thôn hiện nay chiếm khoảng 5%. Chi tiêu cho sản phẩm dệt may ở
14
khu vực nông thôn thấp hơn so với khu vực thành thị. Cụ thể năm 2008 chi tiêu
cho mặt hàng này ở thành thị đạt khoảng 46,94 nghìn đồng/tháng còn ở khu vực
nông thôn là 24,82 nghìn đồng/tháng. Tuy nhiên dân số ở khu vực nông thôn cao
hơn hẳn so với khu vực ở thành thị nên tổng mức chi tiêu cho sản phẩm dệt may ở
nông thôn vẫn có mức cao hơn: chi tiêu của khu vực thành thị chiếm khoảng 40-

43% trong khi ở khu vực nông thôn là 57-60%. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của
sản phẩm dệt may của cả nước là 28% trong đó thành thị là 30,8% và nông thôn là
26,7%.
2.2.1.1 Thương mại dệt may nội địa trên thị trường nông thôn
Thị trường nông thôn là thị trường với số dân đông. Dân số Việt Nam hiện
nay khoảng 86 triệu người thì trong đó tỷ lệ phần trăm dân số ở nông thôn chiếm
tới trên 70%. Đặc điểm của thị trường nông thôn đối với sản phẩm dệt may là khá
dễ tính, họ không đòi hỏi cao về chất lượng, độ an toàn với sức khỏe. Cũng do
phong tục tập quán, điều kiện làm việc ở nông thôn khác so với thành thị nên yếu
tố “ăn chắc, mặc bền” vẫn được người tiêu dùng đặt lên hàng đầu. Tiêu dùng của
người dân ở nông thôn đối với sản phẩm dệt may không cao, thường tập trung vào
một số thời điểm trong năm như ngày Tết, cuối thu – đầu đông…
Doanh thu của sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn có xu
hướng tăng lên. Doanh thu từ mặt hàng này trên thị trường nông thôn năm 2009 là
khoảng 1,8 tỷ USD và năm 2010 thì tăng lên là 2,54 tỷ USD chiếm khoảng 56,5%
tổng doanh thu nội địa. Tuy kết quả đạt được so với doanh thu xuất khẩu của
ngành dệt may còn thấp nhưng nó là tín hiệu vui cho các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam hiện nay có nhu cầu mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm về nông
thôn.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã dần dần nhận thức được tầm quan
trọng của thị trường nội địa và thị trường nông thôn. Các doanh nghiệp đã chú ý
tới việc sản xuất các sản phẩm phù hợp với người tiêu dùng từng khu vực. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn vào quảng bá sản phẩm, cải tiến mẫu
mã chất lượng, áp dụng công nghệ mới để hạ giá thành... nhằm mục đích tăng
doanh thu tại thị trường nông thôn, về lâu dài có thể chiếm lĩnh được thị trường
nông thôn.
Tuy nhiên, mạng lưới phân phối sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp
nội địa tại thị trường nông thôn còn yếu. Sản phẩm dệt may nội địa thường được
bán ở các chợ trung tâm tỉnh, trung tâm huyện, thị trấn – những nơi dân cư đông
15

đúc. Với ưu thế về chất lượng, nhưng giá cả cao, kiểu dáng, mẫu mã không phong
phú nên doanh nghiệp dệt may Việt Nam gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản
phẩm ở thị trường nông thôn. Sản phẩm dệt may Việt Nam có các mức giá khác
nhau: thấp nhất là từ 70-100 nghìn đồng/sản phẩm; nhóm sản phẩm có giá từ 100-
300 nghìn đồng/sản phẩm; từ 300-1000 nghìn đồng/sản phẩm và các sản phẩm
trên 1000 nghìn đồng/sản phẩm.
Trên thị trường nông thôn, thị phần hàng dệt may nội địa chỉ chiếm tỷ lệ rất
nhỏ đặc biệt là tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tại một số tỉnh ở miền Bắc,
tình hình này dường như khả quan hơn. Một số tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, do
xây dựng được hệ thống phân phối tốt, xuống tận huyện, hàng ngày có xe giao
hàng cho người bán lẻ (thông qua các công ty như công ty Nông sản xuất khẩu
tổng hợp; chi nhánh Intimex Nghệ An…) nên tỷ lệ các loại hàng may mặc giữa
hàng nội và hàng ngoại (chủ yếu là hàng Trung Quốc) là 50-50.
Nhiều hãng sản xuất và kinh doanh quần áo trong nước nhận định rằng thị
trường nông thôn là thị trường có sức mua lớn và có nhiều triển vọng. Một số
hãng may mặc có tiếng của Việt Nam đã chinh phục người tiêu dùng thành thị như
Việt Tiến, May 10, may Nhà Bè… và nay họ đang có những phương pháp, chiến
lược kinh doanh mới để dần tiếp cận với thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng
nông thôn.
Các cửa hàng may đo tư nhân nhỏ cũng là sự lựa chọn của nhiều người tiêu
dùng ở thị trường nông thôn, khoảng 15% người dân ở nông thôn lựa chọn sản
phẩm quần áo cắt may. So với hàng may sẵn của Trung Quốc, mặc dù giá cả của
quần áo đặt may tại các cửa hàng này có thể cao hơn nhưng sản chất lượng may
tốt hơn, vừa với vóc dáng người tiêu dùng. Nếu so với các sản phẩm may sẵn của
Việt Nam, nếu cùng chất lượng sản phẩm thì giá cả của quần áo đặt may vẫn thấp
hơn, kiểu dáng, mẫu mã phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
2.2.1.2 Thương mại sản phẩm dệt may của một số nước khác trên thị trường nông
thôn
Theo số liệu khảo sát của Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương
mại, khoảng 40-45% số lượng hàng may mặc trên thị trường nội địa hiện nay là

nhập khẩu, không rõ nguồn gốc. Trong đó chủ yếu là hàng nhập khẩu từ Trung
Quốc. Mặt hàng dệt may của Trung Quốc chiếm 45% thị phần ở khu vực nông
thôn và 35% ở khu vực thành thị. Ở thị trường nông thôn, các sản phẩm dệt may
16
cao cấp của Hồng Kông, các nước châu Âu, Hàn Quốc... rất hiếm và hầu như
không có, chủ yếu là hàng dệt may Trung Quốc.
Ở đây, hàng Trung Quốc giá rẻ, chất lượng trung bình và thấp được bày bán
rất nhiều tại các chợ của địa phương. Từ các chợ, cửa hàng tư nhân, cửa hàng bách
hóa, cửa hàng thời trang đến các siêu thị đều bày bán sản phẩm dệt may Trung
Quốc. Đặc điểm của sản phẩm dệt may của Trung Quốc là giá rẻ - đây là tiêu chí
quan trọng đối với người tiêu dùng nông thôn khi lựa chọn sản phẩm dệt may,
kiểu dáng, mẫu mã đa dạng phong phú, hợp thời trang. Với số tiền khoảng từ 25-
60 nghìn đồng là có thể mua được một sản phẩm dệt may của Trung Quốc. Vì vậy
với người nông thôn thì đây là sản phẩm rất phù hợp với thu nhập, nhu cầu của họ.
Hơn nữa, hàng Trung Quốc có thể mua ở bất cứ đâu nên sự lựa chọn của người
tiêu dùng với hàng dệt may giá rẻ của Trung Quốc là tất yếu.
Mặc dù để sản phẩm dệt may Trung Quốc từ nhà sản xuất đến được với
người tiêu dùng Việt Nam phải trải qua rất nhiều khâu trung gian nhưng giá của
sản phẩm vẫn rẻ hơn hàng của Việt Nam từ 10% trở lên. Người tiêu dùng nông
thôn rất nhạy cảm với vấn đề giá cả vì thế quyết định mua hàng của họ bị giá cả
sản phẩm chi phối rất nhiều.
Ngoài ra một khối lượng lớn hàng dệt may Trung Quốc vào Việt Nam
thông qua buôn lậu, trốn thuế nên giá cả sẽ thấp hơn những sản phẩm của các
doanh nghiệp hoạt động hợp pháp.
2.2.2 Các hoạt động XTTM sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn đã
và đang thực hiện
XTTM sản phẩm dệt may cũng nằm trong các hoạt động XTTM nội địa nói
chung. Các hình thức XTTM đang áp dụng ở Việt Nam được thực hiện ở 2 cấp độ
là cấp độ Chính phủ và cấp độ doanh nghiệp. Giữa các hình thức được áp dụng ở
hai cấp độ này có mối quan hệ với nhau.

Ở cấp độ Chính phủ, vấn đề XTTM được thực hiện thông qua các đợt vận
động liên quan đến việc đề cao lòng yêu nước của người Việt Nam trong việc mua
sắm hàng hóa dịch vụ nói chung và sản phẩm dệt may nói riêng. Tổ chức thực
hiện chương trình, dự án, đề án XTTM nội địa của ngành hàng dệt may trong từng
giai đoạn phát triển.
Ở cấp độ địa phương, hoạt động XTTM sản phẩm dệt may tại thị trường
nông thôn được áp dụng thông qua việc tổ chức các hoạt động điều tra, khảo sát
17
thị trường, tổ chức các hội chợ, triển lãm, quảng cáo thương mại, hội thảo về
XTTM.
2.2.2.1 Các chính sách của Chính phủ và các Bộ/Ngành đối với hoạt động XTTM
sản phẩm dệt may trên thị trường nông thôn
Trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển ngành Dệt
May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất
khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều công ăn
việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập vững chắc kinh tế khu
vực và thế giới. Do đó, ngành Dệt May Việt Nam trong thời gian tới sẽ được ưu
tiên phát triển.
Bộ Công Thương cũng xây dựng các chính sách phát triển và quản lý hệ
thống phân phối bán lẻ hàng hóa trên thị trường trong nước hiện nay và những
năm tiếp theo, hướng dẫn Sở Công Thương thực hiện việc đầu tư xây dựng chợ
trung tâm xã tại 61 huyện nghèo.
Ngày 15/7/2009, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 21/2009/TT-
BCT quy định việc xây dựng và hỗ trợ thực hiện chương trình XTTM trong nước
năm 2009. Theo đó, nhiều hoạt động XTTM thị trường trong nước được hỗ trợ
kinh phí. Cũng theo thông tư này, các hoạt động hỗ trợ năng lực cộng đồng doanh
nghiệp và truyền thông được hỗ trợ 100%. Các hoạt động tổ chức hội chợ và các
đợt bán hàng về nông thôn, khu công nghiệp, khu đô thị được hỗ trợ 70% kinh phí.
Bộ Công thương đã ban hành quyết định số 5839/QĐ-BCT – Chương trình

hành động của Bộ Công Thương thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam” của Bộ Chính Trị. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng
từng bước thực hiện chiến lược xây dựng thương hiệu quốc gia trong việc phát
triển thị trường nội địa.
2.2.2.2 Các hoạt động hỗ trợ năng lực cộng đồng doanh nghiệp
Doanh nghiệp Việt Nam có ưu thế hơn các doanh nghiệp nước ngoài ở chỗ
hiểu thị trường, hiểu thị hiếu, thói quen, văn hóa tiêu dùng nên có cơ hội để cạnh
tranh. Các hoạt động điều tra về người tiêu dùng, điều tra về mạng lưới phân phối,
điều tra thương nhân cùng với các hội thảo, tọa đàm liên quan tới vấn đề này đã
được tổ chức. Mục đích của các cuộc điều tra, khảo sát là nhằm cung cấp cho các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh những thông tin về người tiêu dùng (tâm lý,
thói quen, tập quán mua sắm, nhận xét ưu nhược điểm của hàng dệt may Việt
18
Nam…), về thị phần của hàng Việt Nam, về hiện trạng hệ thống phân phối, về
năng lực của các doanh nghiệp. Từ đó giúp các doanh nghiệp có chiến lược, chính
sách, giải pháp nhằm chiếm lĩnh thị trường nông thôn cũng như giúp các cơ quan
quản lý Nhà nước, các tổ chức đào tạo nắm bắt được nhu cầu của doanh nghiệp để
tổ chức các khóa đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ năng cho các doanh nghiệp.
19
2.2.2.3 Các hoạt động đưa sản phẩm dệt may nội địa về nông thôn
Hoạt động đưa hàng Việt nói chung và hàng dệt may nội địa về nông thôn
có ý nghĩa cấp thiết và cũng mang tính chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh cho doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam, góp phần loại bỏ hàng giả, hàng
kém chất lượng trong và ngoài nước, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
Với sự hỗ trợ của Nhà nước và chính quyền địa phương, các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh các sản phẩm dệt may phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh
toán của người tiêu dùng nông thôn về bán hàng lưu động đến tận trung tâm
huyện, xã. Trong các đợt đưa hàng về nông thôn, doanh nghiệp không chỉ bán lẻ
mà doanh nghiệp còn kết nối với tư thương bán lẻ tại các chợ nông thôn xây dựng
mạng lưới, duy trì sự có mặt bền vững và lâu dài của sản phẩm dệt may nội địa tại

thị trường này.
2.2.2.4 Các hoạt động truyền thông
Hoạt động truyền thông được thực hiện thông qua truyền hình, báo giấy và
báo điện tử, phát hành ấn phẩm, truyền thanh, panô, tờ rơi… Mục đích của các
hoạt động này nhằm tạo nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp hướng về thị
trường nông thôn, để người dân nông thôn hướng về sản phẩm dệt may nội.
Các hoạt động truyền thông qua truyền hình nhằm quảng bá hàng Việt,
hướng dẫn người tiêu dùng, những bài học thành công và thất bại của doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng Việt, các kỹ năng kinh doanh… Hoạt động này
được hỗ trợ kinh phí 100% với thời lượng phát sóng 10 phút mỗi ngày. Các hoạt
động truyền thông qua báo giấy, báo điện tử: Thực hiện cùng với nội dung truyền
thông qua truyền hình nhưng thông qua báo giấy và báo điện tử theo ngày, tuần,
tháng và cũng được hỗ trợ 100% kinh phí.
Phát hành ấn phẩm: Thực hiện với nội dung nghiên cứu thị trường, tổng kết
bài học thành công và thất bại của các doanh nhân Việt Nam, địa chỉ các doanh
nghiệp sản xuất hàng Việt có uy tín, địa chỉ của các nhà phân phối có uy tín… Các
ấn phẩm phát hành cũng được hỗ trợ 100% kinh phí biên soạn, in ấn, phát hành.
Ở khu vực nông thôn, kênh truyền thanh đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động truyền thông…
20
2.3 Kết quả phân tích và các dữ liệu thu thập về thực trạng hoạt động XTTM
sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường nông thôn
2.3.1 Các hoạt động hỗ trợ năng lực cộng đồng doanh nghiệp
2.3.1.1 Hội thảo, tọa đàm
Hội thảo, tọa đàm là một trong những hoạt động hỗ trợ năng lực cộng đồng
của doanh nghiệp. Trung tâm nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp
(BSA) là đối tác của Bộ Công Thương thực hiện chương trình “Hàng Việt về nông
thôn”. BSA đã tổ chức 4 Hội thảo về thực trạng thị trường hàng Việt ở nông thôn
– Giải pháp phát triển thị trường ở từng vùng miền; 4 Tọa đàm tìm kiếm cơ hội
hợp tác kinh doanh, chia sẻ kinh nghiệm, phát triển thị trường nội địa. Các hội

thảo, tọa đàm được tổ chức lần lượt tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng
và Cần Thơ. Các hội thảo, tọa đàm có sự tham gia của đông đảo các doanh nghiệp
Việt Nam tại các khu vực trong đó có các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
2.3.1.2 Điều tra khảo sát thị trường
“Điều tra, khảo sát thị trường trong nước năm 2009” là một trong những
nhiệm vụ của Chương trình "Xúc tiến thị trường thương mại nội địa năm 2009”
Bộ Công Thương đã giao Viện Nghiên cứu Thương mại tổ chức và triển khai với
mục đích bước đầu cung cấp thông tin để các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản
xuất, chiến lược kinh doanh, marketing và mạng lưới bán hàng của mình trong
thời gian tới.
Điều tra, khảo sát thị trường thuộc Chương trình XTTM thị trường trong
nước năm 2009“ bao gồm 3 nội dung chính: Điều tra người tiêu dùng, điều tra
mạng lưới và điều tra thương nhân.
- Điều tra người tiêu dùng: bao gồm điều tra về tâm lý, hành vi mua sắm,
nhận thức của người tiêu dùng đối với sản phẩm dệt may nội địa trên thị trường
nông thôn.
Biểu đồ 1 cho thấy: Số lượng mặt hàng dệt may tiêu dùng năm 2009 trên thị
trường nông thôn cao hơn so với thành thị. Điều này có thể lý giải là do dân số ở
nông thôn chiếm tới trên 70% dân số của cả nước. Các mặt hàng sơ mi, áo phông,
quần âu là những sản phẩm được tiêu dùng chủ yếu với số lượng lớn. Từ kết quả
điều tra về lượng tiêu dùng các sản phẩm dệt may nội địa của người dân ở nông
thôn sẽ giúp doanh nghiệp dệt may rất nhiều trong việc lựa chọn các mặt hàng chủ
lực, số lượng từng mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường nông thôn.
21

×