Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tài liệu Các câu hỏi môn Triết học pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.87 KB, 12 trang )

Câu 1: Quan hệ giữa quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và sự vận dụng qui luật này vào Việt Nam.
Câu 2: Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên. Liên hệ với con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay
Câu 3:Quan điểm Macxit về bản chất của con người. Vấn đề phát huy nhân tố con người
ở nước ta hiện nay
Câu 1: Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng quy luật này ở nước ta.
I- Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong
quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển
của loài người. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng
lao động) và người lao động với kinh nghiệm sản xuất và thói quen lao động. Các yếu tố của
lực lượng sản xuất có quan hệ với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển
của tư liệu lao động thích ứng với bản thân người lao động, với trình độ văn hoá, khoa học,
kỹ thuật của họ. Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đồng thời, xét đến cùng, đó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội
mới. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa
học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sản
xuất phát triển; những tư liệu sản xuất, những tiến bộ của công nghệ và phương pháp sản
xuất là kết quả vật chất của nhận thức khoa học. Thời đại ngày nay tri thức khoa học trở
thành một bộ phận cần thiết của kinh nghiệm và tri thức của người sản xuất v.v. và được phát
triển mạnh mẽ. Đó là lực lượng sản xuất to lớn thúc đẩy quá trình phát triển tiến bộ xã hội
trên thế giới.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất được gọi là quan hệ sản xuất. Cũng
như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội. Tính
vật chấ của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan độc lập với ý thức con
người. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ chức


quản lý trong sản xuất; quan hệ phân
phối sản phẩm. Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bản chất của bất cứ kiểu quan hệ sản xuất nào trước hết
do quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định.
II. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất
1. Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của
lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức
sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương
thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình
thức.
- Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất
mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi,
phương thức sản xuất mới xuất hiện...
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau
đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, đưa loài
người trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau từ thấp lên cao, với những kiểu quan
hệ sản xuất khác nhau.
2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lựclượng sản xuất sẽ tạo địa bàn
rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc đẩy, tạo
điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất, sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển của lực

lượng sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của
quảng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và
phân công lao động, v.v..
- Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết
được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức
sản xuất và biểu hiện tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương
thức sản xuất khác cao hơn. Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm
cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
3. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất ở nước ta.Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa là một quá trình lâu dài vàđầy khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ, lực
lượng sảnxuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi
quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình
thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để xây dựng
phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm phát huy mọi
tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ
sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Từng bước xã hội hoá xã hội chủ nghĩa, quá trình đó được
thực hiện không phải bằng gò ép mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các
hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác xã
v.v. để dần dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị kinh tế quốc
doanh và tập thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã hội cũ không còn phù hợp
với xã hội mới thay thế và không đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn; chúng ta chủ
trương thực hiện sự chuyển hoá cái cũ thành cái mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 2: Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử

tự nhiên. Liên hệ với con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay
Đề cương:
- Làm rõ khái niệm hình thái kinh tế xã hội, phân tích định nghĩa hình thái kinh tế xã hội
(trong hình thái kinh tế xã hội có 3 lực lượng cơ bản cấu thành là: Lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Ngoài ba yếu tố cơ bản còn có các mối quan hệ khác, ví
dụ như quan hệ giai cấp, quan hệ gia đình)
- Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên.
+ Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động và phát triển của xã hội.
+ Sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội bị chi phối bởi các quy luật xã hội khách
quan.
Làm rõ tính khách quan của quy luật xã hội là quy luật hoạt động có mục đích của con
người nhưng tồn tại và vận động không phụ thuộc vào ý muốn của con người.
Hai quy luật cơ bản chi phối: Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; Quy luật về mối liên hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng.
+ Quá trình lịch sử tự nhiên của sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội
không chỉ diễn ra theo con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự phát triển rút ngắn,
bỏ qua (lưu ý quá trình phát triển rút ngắn bỏ qua cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nói
cách khác nó tùy thuộc vào sự phát triển cúa hoạt động sản xuất vật chất của quốc gia và thế
giới. Quá trình phát triển này vẫn phải phát triển theo quy luật khách quan. Do đó rút ngắn,
bỏ qua phải có điều kiện:
Điều kiện khách quan vốn có trong nước và trên thế giới.
Nỗ lực chủ quan ).
- Liên hệ với con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay.
+ Quan điểm của Đảng ta về con đường đã lựa chọn: Chúng ta đổi mới nhưng không đổi
mục tiêu, không đổi mới con đường.
+ So với quan điểm trước đổi mới, quan điểm mới chú ý chúng ta làm rõ quan điểm “bỏ
qua” sao cho đúng. Trước đổi mới chúng ta quan niệm bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN là
sai lầm. Theo tư duy mới bỏ qua là bỏ qua chế độ chính trị TBCN, bỏ qua quan hệ SX TBCN

với tư cách là QHSX thống trị.
+ Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan cho con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam.
Yếu tố của thời đại: Trình độ lực lượng sản xuất đã mang tính chất quốc tế ngày càng
cao, toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu.
Yếu tố chủ quan: Với chính sách mở cửa của Đảng ta tạo điều kiện để tranh thủ được
sản xuất hiện đại.
Yếu tố chính trị: Đảng và Nhà nước.
+ Kết luận con đường của Việt Nam là đúng đắn.
Trả lời:
Lịch sử loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội như hình thái kinh tế - xã hội
nguyên thủ, hình thái kinh tế - xã hội nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và hiện nay đang bước vào xây dựng hình thái kinh tế - xã
hội Cộng sản chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một “nấc thang văn minh được quy
định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng”. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra quy luật phát
triển từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế xã hội. Để minh chứng cho luận điểm này,
trước hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm hình thái kinh tế xã hội cũng như các yếu tố cấu
thành của nó.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ một
xã hội cụ thể ứng với một nấc thang phát triển cụ thể của lịch sử, với một quan hệ sản xuất
đặc trưng tồn tại trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng
tầng được thiết lập trên những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế - xã hội cấu thành từ ba yếu tố cơ bản: Lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng. Ngoài ba yếu tố cơ bản trên còn có các yếu tố không cơ bản
khác như giai cấp, dân tộc và gia đình, chúng là những yếu tố không cơ bản vì sự thay đổi
của những yếu tố này phụ thuộc vào sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội.
Lực lượng sản xuất là những phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản
xuất và kinh nghiệm lao động. Lực lượng sản xuất cấu thành từ ba yếu tố: người lao động, tư
liệu sản xuất và công cụ lao động trong đó công cụ lao động đóng vai trò quyết định. Những

yếu tố này tác động lẫn nhau làm cho lực lượng sản xuất thành yếu tố động nhất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất. Quan hệ sản
xuất cấu thành từ ba quan hệ cơ bản là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và
quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
đóng vai trò quyết định. Ba mối quan hệ này tác động làm cho quan hệ sản xuất cũng động
nhưng có tính ổn định hơn lực lượng sản xuất.
Tổng hợp các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định gọi là
cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm về chính trị, luật pháp, đạo
đức, tôn giáo, triết học, văn hoá, nghệ thuật và những thiết chế tương ứng sinh ra từ cơ sở hạ
tầng.
Theo quan điểm của triết học Mác, các hình thái kinh tế - xã hội không phải ra đời một
cách ngẫu nhiên mà nó phát sinh – phát triển dựa trên những tiền đề, những quy luật. Sự phát
triển đó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Điều này được thể hiện qua hai luận điểm sau:
Một là: Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động và phát triển của xã hội.
Triết học Mác đã tìm ra điểm xuất phát mới trong việc nghiên cứu xã hội là xuất phát từ con
người thực tiễn tức là xuất phát từ đời sống hiện thực của họ, từ đó Mác đã đi đến xác định
tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là:
“người ta phải có khả năng sống đã rời mới có thể làm ra lịch sử” nhưng muốn sống được thì
trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy,
hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy. Mác
cũng phát hiện ra các quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con
người hoạt động là nhu cầu và lợi ích, nhu cầu của con người hình thành một cách khách
quan và nhu cầu là động lực thúc đẩy con người hoạt động. Hoạt động của con người thỏa
mãn nhu cầu này lại làm nẩy sinh nhu cầu khác. Không ngừng nảy sinh nhu cầu mới là động
lực thúc đẩy con người hoạt động, là động lực phát triển của xã hội.
Hai là: Sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội bị chi phối bởi các quy luật xã hội
khách quan. Các quy luật xã hội là quy luật hoạt động có mục đích của con người nhưng tồn
tại và vận động không phụ thuộc vào ý muốn của con người.Chính sản xuất ra của cải vật
chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời
sống vật chất, tinh thần của xã hội với tất cả tính phong phú đa dạng của nó. Cho nên từ sản

xuất ra của cải vật chất để đi đến các mặt khác của đời sống xã hội tìm ra các quy luật vận
động phát triển khách quan của xã hội. Từ nghiên cứu hoạt động sản xuất vật chất, Mác đi
đến nghiên cứu các mặt khác của đời sống xã hội như chính trị, pháp quyền, các hình thái ý
thức xã hội. Trong các mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp và tác động qua lại một cách biện
chứng ông phát hiện ra: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Từ đó cho
thấy xã hội là một hệ thống trong đócác mặt là mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, làm
cho xã hội vận động, phát triển theo các quy luật khách quan. Mác cũng chỉ ra rằng lịch sử
phát triển xã hội phải thông qua hoạt động có mục đích của con người. Con người không thể
tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật khách quan nhưng có khả năng nhận thức và vận dụng trong
hoạt động thực tiễn.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội bị chi phối bởi hai quy luật, đó là Quy luật
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và Quy luật về mối
liên hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Lịch sử phát triển của xã hội
là lịch sử vận động phát triển thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao tức là loài người muốn tồn tại thì phải sản xuất, muốn sản xuất phải có lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động qua lại trong sản
xuất vật chất hình thành nên phương thức sản xuất. Sản xuất phát triển thể hiện ở sự phát
triển của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển bắt đầu từ công cụ sản xuất và từ
đó kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất, nhưng do quan hệ sản xuất vận động chậm
hơn so với lực lượng sản xuất nên tạo ra mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Khi mâu thuẫn này lên đến đỉnh điểm thì đòi hỏi khách quan phải thay quan hệ sản xuất
cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với quan hệ sản xuất nhưng doquy quy luật phát triển
nên sau một thời gian thì quan hệ sản xuất mới lại khôngcòn phù hợp nữa, tức là lại tạo nên
mâu thuẫn và quá trình này tồn tại khách quan trong mọi phương thức sản xuất của lịch sử.
Do đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng không phải là quan hệ của hai
vấn đề mà là mối quan hệ giữa hai mặt của một vấn đề. Cơ sở hạ tầng thực chất là cơ sở hạ
tầng kinh tế của một xã hội nhất định, còn kiến trúcthượng tầng là toàn bộ những quan điểm
về chính trị, luật pháp, đạo đức, tôn giáo… sinh ra từ cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng là nền tảng

sinh ra những hiện tượng của kiến trúc thượng tầng nên cơ sở hạ tầng thay đổi thì sơm muộn
gì kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. Như vậy cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc
thượng tầng. Chúng tác động qua lại, là quy luật khách quan, là quá trình lịch sử tự nhiện.
Quá trình lịch sử tự nhiên của sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội
không chỉ diễn ra theo con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự phát triển rút ngắn,
bỏ qua. Quá trình phát triển rút ngắn bỏ qua cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nói cách
khác nó tùy thuộc vào sự phát triển cúa hoạt động sản xuất vật chất của quốc gia và thế giới.
Quá trình phát triển này vẫn phải phát triển theo quy luật khách quan. Do đó rút ngắn, bỏ qua
phải có hai điều kiện, đó là điều kiện khách quan vốn có trong nước, trên thế giới.và điều
kiện phải có nỗ lực chủ quan. Lịch sử của các hình thái kinh tế - xã hội đã từng chứng kiến sự
“rút ngắn, bỏ qua” ví dụ như ở nước Mĩ từ hình thái chiếm hữu nô lệ tiến thẳng lên Chủ
nghĩa Tư bản hay ở Việt Nam chúng ta từ hình thái thực dân nửa phong kiến đã tiến lên xây
dựng Chủ nghĩa xã hội.

×