Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

VĂN HỌC GIỌNG ĐIỆU CHỦ ĐẠO CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ THÁI ĐỘ CỦA NHÀ VĂN TRONG TÁC PHẨM “CON ĐẦM PÍCH”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.23 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM
Khoa Ngữ Văn



Đề tài thuyết trình:

Giọng điệu chủ đạo của người kể
chuyện và thái độ của nhà văn
trong tác phẩm “Con đầm pích”

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Phương
SVTH: Nhóm 3

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 02 năm 2012


DANH SÁCH NHĨM
1. Đồn Thị Tuyết Trinh
2. Hồng Thị Cẩm Vân
3. Nguyễn Thị Tuyết Nhung
4. Hà Thị Ngân
5. Trần Thị Duyên
6. Từ Thị Mỹ Hạnh
7. Nguyễn Phương Hồng Đức
8. Vũ Thị Ngọc Mai
9. Nguyễn Hoài Phương
10. Nguyễn Thị Thương
11. Đặng Ngọc Ngận



1. Giọng điệu chủ đạo của người kể chuyện.
Trong nghệ thuật kể chuyện, giọng điệu (voice) là một yếu tố cơ bản.
Phản ánh quan điểm, thị hiếu thẩm mĩ của người sáng tạo, giọng điệu có vai
trị quan trọng trong việc thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả (gián tiếp qua
hình tượng người kể chuyện). Giọng điệu được thiết lập từ mối quan hệ giữa
người kể với người nghe từ thế giới sự kiện được miêu tả và tạo thành giọng
điệu trần thuật.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm,
lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả
thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hơ, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình
cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay
châm biếm. Ngồi ra, giọng điệu cịn phản ánh lập trường xã hội, thái độ
tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trị rất lớn trong việc tạo
nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một
giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có
đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật”1.
Quả thật, mỗi tác phẩm văn học đều có một giọng điệu chủ đạo, có
giọng thương cảm, trữ tình; có giọng chua chát, bi thương, giọng ỡm ờ,
giọng suy tưởng, triết lí…
Và cũng khơng ngoại lệ, tác phẩm Con đầm pích của Pushkin cũng có
một giọng điệu riêng, đó là giọng điệu châm biếm2 và giễu cợt3.
1. 1. Châm biếm Gherman: Người Đức, tiết kiệm đến mức hà tiện.

Một tân khách chỉ một sĩ quan công binh trẻ tuổi nói:
1

Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2010), Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB Giáo dục, tr. 134-135.

2
3

Chế giễu một cách hóm hỉnh nhằm phê phán. Từ điển Tiếng Việt, Tr.182.
Nêu thành trị cười nhằm chế nhạo, đả kích. Vd: giễu cợt thói háo danh, bị giễu là hèn nhát, …

Từ điển Tiếng Việt, Tr.501.


- Các anh thấy Gherman thế nào? Suốt đời, cậu ta chưa hề cầm một
quân bài, chưa hề chơi một ván bài, thế mà chịu khó ngồi xem bọn
mình đánh đến năm giờ sáng.
Gherman nói:
- Tơi cũng thích đánh bạc, nhưng tôi không phải là người máu mê đến
nỗi mang những đồng tiền cần dùng ra để liều lĩnh mong vơ được
những đồng tiền thừa vơ ích...
1.2. Châm biếm bà bá tước.
1.2.1. Châm biếm lối ăn mặc:
Những thứ trang phục quen thuộc của bà bá tước là cái mũ chụp

trang điểm hoa hồng, cái mớ tóc giả rắc phấn ...
Bá tước phu nhân khơng hề mảy may có một ảo tưởng gì về sắc
đẹp đã tàn tạ từ lâu của mình, nhưng bà vẫn giữ những thói quen ngày
cịn trẻ, phục sức theo thời trang khoảng những năm bảy mươi và ăn
mặc trang điểm một cách cẩn thận tỉ mỉ, mất nhiều thời giờ như sáu
mươi năm về trước vậy.
Và những điều đó khơng phù hợp với bà,… khi thay đồ xong, bá tước
chỉ cịn lại trên mình một chiếc áo ngủ và cái mũ đội đêm. Ăn mặc như vậy
hợp với tuổi của bà ta hơn, nên trông cũng đỡ sợ và bớt quái dị một chút.
1.2.2 Châm biếm về ngoại hình già nua của bà bá tước:


Bá tước phu nhân ngồi đó, mặt mũi vàng khè, nhăn nhăn, nhúm
nhúm, đôi môi chảy thõng xuống, người khe khẽ lắc lư sang phải, rồi
sang trái. Trong đôi mắt đã mất hết tinh anh của bà, khơng cịn một vết
tích gì báo hiệu rằng con người kia hãy còn suy nghĩ.
… Đột nhiên, bộ mặt của người chết này biến sắc. Đôi môi
ngừng run rẩy, đôi mắt sinh động lên. Đứng trước bá tước phu nhân là
một người đàn ông lạ mặt vừa xuất hiện.


Thật vậy, giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành
nét đặc trưng của thể loại, phong cách mỗi nhà văn, giọng điệu văn học là
một hiện tượng “siêu ngơn ngữ”, nó biểu hiện thái độ cảm xúc của chủ thể
đối với đời sống. Và ở đây, có thể nói chế giễu, châm biếm là phong cách
của Pushkin, song, rõ ràng ông chỉ châm biếm một cách nhẹ nhàng, hài hịa
chứ khơng đã kích sâu cay. Lối châm biếm này tạo một mạch văn vui tươi,
hóm hỉnh, thể hiện sự khôi hài của tác giả, đồng thời sự cảm thông của tác
giả với nhân vật và xã hội trong tác phẩm cũng được thể hiện rõ nét, đơi lúc
ta cịn bắt gặp một sự nâng niu, âu yếm có giới hạn của nhà văn.

(Trơng bà ta lắc lư như vậy, người ta tưởng rằng những cử động
này khơng phải là do ý chí tạo ra, mà có lẽ bởi một cơ chế bí mật nào
khác chi phối).
2. Thái độ của Pushkin trong tác phẩm “Con đầm pích”.
2.1. Đối với giới quý tộc thượng lưu cũ:
Pushkin xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhưng ông đã thẳng thắn phơi
bày sự già nua, mục nát của chính tầng lớp mình.
Thái độ đó được thể hiện qua nhân vật bá tước phu nhân Anna

Phêđơtốpna.

Nhưng, Pushkin cũng đồng tình với lối sống giàu tình cảm của xã hội
cũ, cụ thể qua viêc bà bá tước muốn Gherman lấy Lida con gái ni của bà.
Pushkin có thái độ phê phán sự ăn chơi phung phí của giới thượng
lưu: những canh bạc thâu đêm, những buổi tiệc, những buổi dạ hội, … bá
tước phu nhân là đại diện cho lớp người đó.
Cuộc sống hiện tại của bà bá tước khơng cịn gì thú vị, đến những nơi
tiệc tùng khơng cịn ai coi trọng bà ta nữa. Vì vậy, phải chăng tác giả muốn


nói rằng những nghi thức của xã hội cũ khơng còn phù hợp nữa, nên cái chết
của bá tước phu nhân là một quy luật tất yếu.
2.2 Thái độ của tác giả với giai cấp mới đang lên:
Phê phán, chỉ trích lối sống của giai cấp mới đang lên, và Gherman là
một ví dụ điển hình.
Gherman là một người bất chấp thủ đoạn, thực dụng đến đáng sợ.
Xây dựng nên Gherman phải chăng Pushkin muốn cảnh báo về sự tha
hóa của một bộ phận con người mới đang hình thành trong xã hội Nga lúc
bấy giờ.
Bên cạnh đó, Pushkin vẫn nhận ra Gherman có nhữung mặt tốt: khơng
ăn chơi xa hoa, phung phí, phá tan gia sản của cha chàng để lại.
Anh ta biết coi trọng đồng tiền.
Nhưng tất cả những cái đó khơng là gì, trong con người Gherman, cái
xấu vẫn luôn ngự trị. Điều quan trọng là Pushkin nhận thấy sự giả tạo, tính
chất hai mặt của con người tư sản.
2.3. Thái độ của nhà văn trước thế lực của đồng tiền.
2.3.1. Phẫn nộ trước ma lực của đồng tiền:
 Trong xã hội Nga lúc bấy giờ, đồng tiền đang lên ngơi. Theo
Gherman, có tiền là có tất cả.
 Đồng tiền đã làm cho Gherman thay đổi và anh đã trở thành nơ
lệ của nó.

 Và Pushkin đã cho rằng: Tất cả mọi thứ đều cần có tiền, nhưng
muốn kiếm tiền phải bằng lao động.
2.3.2. xót xa trước lối sống chạy theo đồng tiền:
 Lên án thế lực đồng tiền, nó làm cho con người điên đảo.
 Gherman phải trả một cái giá rất đắt: bị điên.


 Pushkin rung lên hồi chuông báo động và cảnh tỉnh cho cả
nước Nga lúc bấy giờ, không nên tuyệt đối háo vai trò của đồng
tiền trong cuộc sống.
3. Thái độ của tác giả về tình yêu
3.1 Phê phán tình yêu vụ lợi:
Gherman tiếp cận với Lida, và coi cô như phương tiện để thực hiện
mục đích của mình.
Gherman diễn kịch rất giỏi: “đứng ngây người ra”, “đôi mắt sáng
ngời long lanh dưới vành mũ”, rồi “đôi mắt như hai hịn than rừng
rực nhìn cơ khơng chớp”, khiến cho Lida tưởng lầm đó là ánh mắt
của chàng trai si tình.
Tình yêu của Gherman không phát riển theo lẽ tự nhiên, mà xuất
phát từ mục đích: tiếp cận bá tước để lấy bí quyết về 3 con bài ăn
tiền.
3.2. Ca ngợi một tình yêu trong sáng:
Tình yêu của Lida xuất phát từ một tâm hồn nhiều ước mơ “của
một cô gái lãng mạn kiểu Pháp”. Khơng tính tốn, khơng vụ lợi.
Tình yêu của Lida trong sáng, thánh thiện, trái ngược hoàn toàn
với Gherman.
4. Thái độ của nhà văn đối với số phận và khát vọng của con
người.
4.1. Thái độ xót thương trước số phận con người nhỏ bé:
Thơng qua hình ảnh của Lida: bị bá tước phu nhân coi như người

giúp việc, khơng có cơ hội làm quen với những chàng trai, bị
Gherman biến thành công cụ để anh ta thực hiện mục đích của
mình.


4.2. Thái độ đồng cảm với những khát vọng chính đáng của con
người.
 Đồng cảm với ước mưo của Lida, ước mơ bình dị, “chờ đợi
một chàng quân tử” đến giải thốt cơ khỏi kiếp tù túng.
 Đồng tình với khát vọng làm giàu của Gherman, mong
muốn có một cuộc sống sung túc. Nhưng không phải làm
giàu bằng cách bất chấp thủ đoạn, đánh đổi cuộc đời bằng
canh bạc đỏ đen.
5. Thái độ của tác giả đối với văn chương Nga đương thời.
5.1. Đối với người cầm bút:
 Sáng tác những tác phẩm hời hợt, xa lạ với những vấn đề
của đất nước, của nhân dân nên không được biết đến nhiều.
Thể hiện qua thái độ ngạc nhiên của bá tước phu nhân: “A,
lại có cả tiểu thuyết Nga nữa à?”.
 Nội dung không đủ hấp dẫn để thu hút người đọc: “Đừng
gửi loại tiểu thuyết bây giờ, nghe không.”
5.2. Đối với độc giả:
 Bá tước phu nhân đại diện cho lối suy nghĩ của độc giả Nga
bấy giờ.
 Pushkin muốn thức tỉnh lối tưu duy đã sáo mòn của người
tiếp nhận văn học .
Pushkin đã làm được điều đó, chính ơng là người đã tạo ra một
bước ngoặt lớn cho nền văn chương Nga. Và rõ ràng Alêcxanđrơ
Xecgâyevich Puskin (1799 - 1837) là một hiện tượng kỳ diệu vô
song của văn học Nga và văn học thế giới. Ông được coi là “khởi

đầu của mọi khởi đầu” (Gorki), là “nhà cải cách vĩ đại của văn học


Nga” (Bielinxki), là “con người của tinh thần Nga” (Gôgôn), người
đưa văn học Nga lên một tầm cao mới trong lịch sử phát triển của
văn học nhân loại.
… và chính vì thế mà ơng khơng chỉ thuộc về nhân dân Nga mà đã trở
thành một trong những thiên tài của thế giới. Nhà thơ Chi-lê Pablo Neruđa
trân trọng gọi Puskin là “người anh cả của thơ ca và tự do”, là “ngọn nến của
tất cả các dân tộc trên toàn thế giới”(20). Vinh quang của Puskin sẽ tiếp tục
tỏa sáng, bởi vì “Puskin thuộc về hiện tượng vĩnh viễn sống, vĩnh viễn vận
động động không ngừng” (Belinxki).


Đọc thêm
Trong tác phẩm xuất hiện hai ngôi kể.
Mở đầu tác phẩm người kể chuyện dẫn dắt câu chuyện rất tự nhiên
bằng cách sử dụng ngôi kể là thứ nhất. Người kể chuyện là một nhân vật
trong truyện kể về câu chuyện là người bà của mình. ⇒ cách kể chuyện
như vậy tạo cảm giác rất tự nhiên cho độc giả.
Nhưng ở các chương còn lại của tác phẩm người kể chuyện lại
giấu mình ở ngơi thứ ba. Tức người kể chuyện đứng ở vị trí bên ngồi
biết hết tất cả mọi chuyện về nhân sinh quan ( ở đây là mối quan hệ biện
chứng giữa các nhân vật ). Người kể chuyện trong các chương còn lại
đứng ở tiêu điểm hay điểm nhìn trần thuật là bên ngồi kể về những
chuyện mà nhân vật không biết ( chuyện của nàng Lidaveta Ivanopna).
Tuy nhiên ở trong truyện tác giả không đơn thuần sử dụng một
kiểu kể chuyện hay một điểm nhìn trần truật mà tác giả sử dụng đa dạng,
kết hợp nhiều kiểu có cả ngơi kể chuyện là thứ nhất và nhân vật kể
chuyện là ở trong tác phẩm kể về những việc mà mình biết và chứng kiến

( nhân vật Toomxxki kể về ba lá bài của bá tước phu nhân ). Điểm nhìn
trần thuật cũng đa dạng lúc thì tác gỉa đứng ở điểm nhìn trần thuật bên
ngồi kể về những chuyện mà nhân vật khơng biết( câu chuyện của nàng
Lidaveta ivanopna). Điểm nhìn bên trong: tác giả sử dụng để nói về cuộc
đời của các nhân vật, những suy nghĩ của các nhân vật (sự bất hạnh của
nàng Lidaveta Ivanopna hay những suy nghĩ của nhân vật Ghermam…).
Điểm nhìn thời gian: đi từ hiện tại trở về quá khứ, từ quá khứ hướng tới
tương lai.⇒tác giả sử dụng ngôi kể thứ nhất và người kể chuyện là một
nhân vật trong truyện ở trong phần một. Còn những chương cịn lại ngơi
kể chuyện là ngơi thứ ba, người kể chuyện giấu mình.


(T.T.D)



×