Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tài liệu TỔNG QUAN ODA Ở VIỆT NAM 15 NĂM (1993-2008) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.46 KB, 12 trang )

TỔNG QUAN ODA Ở VIỆT NAM 15 NĂM (1993-2008)
Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam diễn ra tại Pa-ri, Thủ
đô nước Pháp cách đây 15 năm đã mở ra một trang sử mới trong quan hệ hợp
tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế. Mối quan hệ này ra
đời trong bối cảnh nào? Vai trò và tác động của nguồn vốn ODA đối quá trình
phát triển của Việt Nam trong thời gian qua ra sao? Có thể rút ra những kinh
nghiệm và bài học gì về công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA? Triển
vọng của nguồn vốn này trong tương lai sau 2010?,... sẽ là những nội dung
chủ yếu được đề cập trong bài viết này.
Đổi mới đã mang lại cơ hội cho hợp tác phát triển
Thực hiện công cuộc Đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo từ năm
1986, trong những năm đầu của thập kỷ 90, Việt Nam đã không những thoát
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài mà còn tạo ra
những bước tiến vượt bậc với việc cải thiện tình hình chính trị đối ngoại, xử
lý các khoản nợ nước ngoài thông qua Câu lạc bộ chủ nợ Pa-ri, kinh tế trong
nước đạt mức tăng trưởng cao, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Đây là bối cảnh dẫn đến cơ hội để Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế nối
lại quan hệ hợp tác phát triển. Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt
Nam được tổ chức tại Pa-ri dưới sự chủ trì của Ngân hàng Thế giới (WB) vào
tháng 11 năm 1993 là điểm khởi đầu cho quá trình thu hút và sử dụng ODA ở
Việt Nam.
Sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát
triển kinh tế và tiến bộ xã hội vượt bậc, được dư luận trong nước và quốc tế
thừa nhận rộng rãi: Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ bình quân
7,5%/năm, mức đói nghèo giảm từ trên 50% vào đầu những năm 90 xuống
còn trên 10% vào năm 2008, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu
bằng việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), được bầu là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc, Việt Nam là thành viên tích cực của ASEAN, APEC, và
nhiều Diễn đàn, tổ chức quốc tế khác,... Những thành tựu mà Việt Nam đạt
được trong thời gian qua có phần đóng góp quan trọng của viện trợ phát triển


như một phần trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam.
Cam kết cung cấp vốn ODA năm sau cao hơn năm trước
Theo tập quán tài trợ quốc tế, hàng năm các nhà tài trợ tổ chức Hội nghị
viện trợ quốc tế để vận động tài trợ cho các quốc gia đang phát triển. Đối với
Việt Nam, sau Hội bàn tròn về viện trợ phát triển dành cho Việt Nam diễn ra
lần đầu tiên vào năm 1993, các hội nghị viện trợ tiếp theo được đổi tên thành
Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (gọi tắt là Hội nghị
CG) và Việt Nam từ vị thế là khách mời đã trở thành Đồng chủ trì Hội nghị
CG cùng với Ngân hàng Thế giới. Địa điểm tổ chức Hội nghị CG cũng thay
đổi từ việc tổ chức tại nước tài trợ như tại Pháp, Nhật Bản,... sang về tổ chức
tại Việt Nam.
Hội nghị CG thường niên thực sự là diễn đàn đối thoại giữa Chính phủ
và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế về chiến lược, kế hoạch và chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, trong đó quan hệ hợp tác phát triển
và việc cung cấp, sử dụng viện trợ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội và xóa đói giảm nghèo là một nội dung gắn kết chặt chẽ, không tách rời.
Ngoài Hội nghị CG thường niên, còn tổ chức Hội nghị CG giữa kỳ không
chính thức tại các địa phương, tạo điều kiện cho các nhà tài trợ gần với người
dân và nắm bắt được nhu cầu phát triển cần được hỗ trợ của họ.
Là diễn đàn đối thoại về chính sách và viện trợ, song không khí chung
của tất cả các Hội nghị CG cho đến nay là dựa trên tinh thần quan hệ đối tác
và mang tính xây dựng, trong đó các nhà tài trợ tôn trọng vai trò làm chủ và
lãnh đạo quốc gia của Việt Nam trong quá trình phát triển.
Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất
nhiều và hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà
tài trợ đa phương
1
đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các
nước là thành viên của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi
như Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc,...

1
a) Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-oét, Đan Mạch, Đức, Hà Lan,
Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Lúc-xem-bua, Mỹ, Na-uy, Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp,
Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Xin-ga-po.
b) Các nhà tài trợ đa phương gồm:
- Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ
Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait;
- Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn
(UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA), Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp
quốc (UNIDO), Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của Liên hợp
quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC),
Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên
hợp quốc (UNICEF), Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực
(FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Ngoài nguồn vốn tài trợ ODA, ở Việt nam còn có khoảng 600 các tổ
chức phi Chính phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến
200 triệu USD trong nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan trực tiếp đến đời
sống người dân tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc.
Thông qua 15 Hội nghị CG thường niên, tổng vốn ODA đã được các
nhà tài trợ cam kết đạt 42,438 tỷ USD với mức cam kết năm sau cao hơn năm
trước, kể cả những năm kinh tế thế giới gặp khó khăn như khủng hoảng tài
chính khu vực châu Á vào năm 1997.
Số vốn ODA cam kết nói trên được giải ngân dựa trên tình hình thực
hiện các chương trình và dự án được ký kết giữa Chính phủ và các nhà tài trợ.
Từ năm 1993 đến nay (tính đến hết tháng 10 năm 2008), Chính phủ Việt Nam
và các nhà tài trợ đã ký các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với tổng số vốn
đạt 35,217 tỷ USD, chiếm 82,98% tổng vốn ODA cam kết trong thời kỳ này,

trong đó vốn ODA vay ưu đãi chiếm khoảng 80%, vốn ODA không hoàn lại
chiếm khoảng 20%.
Giải ngân vốn ODA có tiến bộ, song chưa đủ
Việt Nam nhận thức rằng cam kết vốn ODA mới chỉ là sự ủng hộ về
chính trị của cộng đồng tài trợ quốc tế, việc giải ngân nguồn vốn này nhằm
tạo ra các công trình, sản phẩm kinh tế - xã hội cụ thể để đóng góp vào quá
trình phát triển của đất nước mới là quan trọng.
Trong thời kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008), tổng vốn
ODA giải ngân đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và
62,65% tổng vốn ODA ký kết.
Có thể nhận thấy trong thời kỳ này tình hình giải ngân vốn ODA có
những cải thiện nhất định với chiều hướng tích cực qua các năm. Tuy nhiên,
mức giải ngân này vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của
thế giới và khu vực đối với một số nhà tài trợ cụ thể.
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008
Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội - Những ngành và lĩnh vực
ưu tiên sử dụng vốn ODA
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành,
lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách
và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất,
trên cơ sở tham vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án
thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. 5
lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao
gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi,
lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.

- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và
phát triển và một số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển
giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Cơ cấu vốn ODA theo các điều ước quốc tế về ODA đã được ký trong
thời kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008) phù hợp với những định
hướng ưu tiên sử dụng vốn ODA nêu trên.
Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA, Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án
ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD,
trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm nghèo các tỉnh vùng núi
phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng, Dự án
phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình cấp nước nông thôn, giao thông
nông thôn và điện khí hóa nông thôn, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông
Cửu Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm
nghèo khác,.... đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một
bước quan trọng đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh
vực y tế, giáo dục.
Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn
với các dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo,
nâng cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất
lớn
2
, cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng
nhu cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị
trấn, thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là
nguồn vốn lớn và có ý nghĩa trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách
còn hạn hẹp, khu vực tư nhân trong và ngoài nước trong giai đoạn phát triển

ban đầu còn chưa mặn mà với đầu tư phát triển nguồn và lưới điện vì yêu cầu
vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm.
Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn
ODA lớn nhất với tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời
kỳ 1993-2008. Nhờ nguồn vốn này, Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát
triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển
và đường thủy nội địa. Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng
để thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
3
.
2
Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công
suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy nhiệt
điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW; nhà
máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360 MW
3
Hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường xuyên Á Thành phố
Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cảng
Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như
cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy.Hệ thống thông tin liên lạc ven
biển, điện thoại nông thôn và internet cộng đồng...

×