Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 36 tháng tuổi thông qua hoạt động (NBTN) ở trường mầm non liên lộc, năm học 2020 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 27 trang )

MỤC LỤC
1. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2.Nội dung
2.1.Cơ sở lý luận:
2.2. Thực trạng
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.4. Hiệu quả sau khi áp dụng một số biện pháp
3.Kết luận kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị:
Tài liệu tham khảo
Danh mục sáng kiến
Phụ lục

Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
5
18
19
19


20


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do lựa chọn đề tài
Như chúng ta đã biết ngơn ngữ có vai trị rất quan trọng trong sự hình
thànhvà phát triển nhân cách của trẻ. “Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp và là
phương tiện để phát triển tư duy”. Trong giao tiếp nhờ có ngơn ngữ mà con
người mới có khả năng hiểu biết lẫn nhau, cho dù lời nói của con người có bị
hạn chế về khơng gian và thời gian, cho dù ngồi ngơn ngữ ra con người có thể
dùng những phương tiện giao tiếp khác nữa như: cử chỉ, điệu bộ, tín hiệu, âm
thanh, tranh ảnh, nhưng ở vị trí trên hết và trước hết vẫn phải là ngôn ngữ. Ngơn
ngữ là chìa khố mở ra kiến thức của nhân loại.Khơng có ngơn ngữ khơng thể
giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại được nhất là trẻ em, một sinh thể yếu
ớt cần được chăm sóc, bảo vệ của người lớn. Ngơn ngữ chính là một trong
những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một thành viên của xã hội, phát triển
tốt ngơn ngữ cho trẻ cịn góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Trẻ lứa tuổi 25-36 tháng, là giai đoạn tập nói của trẻ, Chính vì vậy cần có
sự uốn nắn kịp thời của người lớn, nhất là cô giáo mầm non. Ngày xưa ông cha
ta đã có câu “Trẻ lên ba cả nhà tập nói”. Là cơ giáo mầm non tơi có những suy
nghĩ và trăn trở làm sao để dạy cho các cháu phát âm chuẩn, chính xác đúng
tiếng Việt thơng qua các hoạt động học tập như: Làm quen với tác phẩm văn
học, phát triển vận động, hoạt động với đồ vật, nhận biết tập nói… và dạy trẻ ở
mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngàyđặc biệt là lĩnh vực phát triển ngơn
ngữ, qua đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung
quanh, phát triển tư duy cho trẻ.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, phần lớn các bố mẹ đều bận rộn lo
toan cho cuộc sống, thời gian bố mẹ trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ cịn
ít. Một số cha mẹ của trẻ nhận thức về tầm quan trọng của ngơn ngữ cịn hạn
chế. Do vậy vốn từ của trẻ em ngày càng phát triển chậm và ít đi, chủ yếu trẻ

được tiếp xúc và phát triển ngôn ngữ thông qua ti vi, phim ảnh… chưa được sự
chỉ bảo, uốn nắn của người lớn. Quaquá trình quan sát trẻ ở những giờ hoạt động
chung đặc biệt là qua hoạt động“nhận biết tập nói”tơi thấy các cháu rất thích
được trị chuyện, thích được giao tiếp và thích được nói nhưng vì ngơn ngữ của
trẻ cịn hạn chế, các cháu sử dụng ngơn ngữ cịn thụ động nhiều đa số các cháu
cịn nói ngọng, nói lắp, nói khơng rõ chữ, rõ ý, hay lặp lại các câu nói của cơ.
Mặt khác các cháu cịn nhỏ nên thường có phản ứng chậm chạp hoặc rất khó
khăn để hiểu những yêu cầu của cô giáo. Do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải rõ
ràng và chính xác và ngay cả người lớn trong nhà cũng phải là tấm gương để trẻ
noi theo. Sự phát triển chậm về mặt ngơn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của trẻ đặc biệt là trẻ 25-36 tháng tuổi. Do đó chúng ta cần phải đề ra
những giải pháp cụ thể nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngay từ giai đoạn này
saocho phù hợp với lứa tuổivì vậy ngay từ nhữngngày đầu vào nhà trẻ cơ giáo
cần gần gũi trị chuyện với trẻ, yêu thương và tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc
với các loại đồ chơi, đồ vật, con vật thông qua hoạt động “Nhận biết tập
nói”giúp trẻ lĩnh hội được các kiến thức cần thiết và thông qua đồ vật, đồ chơi
trẻ hiểu và gọi được tên một cách chính xác. Mặt khác thông qua giờ “Nhận biết
1


tập nói” cịn giúp cho trẻ phát triển một cách tồn diện: Đức, Trí, Thể mỹ, Lao
động. Khơng những thế nó cịn là phương tiện cần thiết trong giao tiếp giúp trẻ
mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, hình thành cho trẻ những tư tưởng
tình cảm tốt đẹp, góp phần tích cựcvào việc hình thành và phát triển nhân cách
trẻ .
Là giáo viên dạy nhóm trẻ 25 - 36 tháng tuổi tơi ln trăn trở tìm ra những
giải pháp phù hợp để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Tuy nhiên việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ không phải là một sớm, một chiều mà tôi xác định đây là
nhiệm vụ khó khăn và lâu dài địi hỏi người giáo viên phải kiên trì, đổi mới
phương pháp giáo dục và hình thức tổ chức hoạt động phù hợp sẽ đem lại hiệu

quả cao. Chính vì vậy tơi chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường
mầm non Liên Lộc năm học 2020 - 2021”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề ra một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi
thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường mầm non Liên Lộc năm học
2020-2021.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
17 học sinh lớp 25- 36 tháng tuổi trường mầm non xã Liên Lộc - Huyện Hậu
Lộc - Tỉnh Thanh Hóa, năm học 2020 - 2021.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tham khảo các văn bản, tài liệu về hoạt
động nhận biết tập nói
- Phương pháp quan sát: Quan sát ghi chép những biểu hiện hứng thú của trẻ đối
với hoạt động nhận biết tập nói
- Phương pháp khảo sát: Khảo sát thực trạng hoạt động nhận biết tập nói của trẻ
và kết quả trên trẻ
- Phương pháp trực quan: Sử dụng các đồ dùng, đồ chơi vào hoạt động
- Phương pháp sử lý số liệu: Xử lý các tài liệu, số liệu thu nhập được phù hợp
với thực trạng và sự tiếp thu từ trẻ
- Phương pháp nêu gương, đánh giá: Kiểm tra, đánh giá chất lượng hoạt động
nhận biết tập nói hàng ngày của trẻ trong lớp.
- Nhóm phương pháp dùng lời (Trò chuyện, đàm thoại, giảng giải, đọc thơ, kể
chuyện)
- Nhóm phương pháp thực hành: (Trị chơi học tập, lao động)
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận.
Giáo dục mầm non là nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, Điều 23
mục 1 chương 2 Luật giáo dục có chỉ rõ “nội dung giáo dục mầm non là phải
bảođảm phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em, hài hồ giữa ni

dưỡng,chăm sóc và giáo dục giúp trẻ em phát triển cân đối, khoẻ mạnh, nhanh
nhẹn biếtkính trọng, yêu mến, lễ phép với người lớn, bạn bè…thật thà, mạnh
dạn, hồn nhiên yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết, thích đi học”. Điều 24 có quy
định “Chươngtrình giáo dục mầm non thể hiện mục tiêu giáo dục mầm non, cụ
thể hoá các yêu cầu về ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ tuổi,
2


quy định việc tổchức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ phát triển về thể
chất, tình cảm, trítuệ, thẩm mĩ hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển của
trẻ em ở tuổi mầmnon”.Trong giáo dục hiện nay muốn thực hiện tốt mục tiêu và
nội dung trên đòi hỏi mỗi giáo viên mầm non nghiên cứu học tập để nâng cao
chất lượng chăm sóc, giáo dục từng độ tuổi.
Việc nâng cao tạo ra chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở từng độ
tuổi đòi hỏi người giáo viên hoặc người chăm sóc trẻ phải thật sự am hiểu
chương trình, phương pháp giáo dục mầm non mang tính quốc gia. Cơ sở vật
chất, trang thiết bị và sự linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động cho trẻ, bố trí
thời gian hợp lý sự nhạy bén yêu nghề, mến trẻ hiểu được tâm sinh lý của trẻ ở
từng độ tuổi của mỗi giáo viên là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công của
việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục từng độ tuổi. Ngơn ngữ là một hệ
thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của lồi người, phương tiện tư
duy và cơng cụ giao tiếp xã hội.Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngơn ngữ
viết, trong thời đại hiện nay, nó là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi văn
hố giữa các dân tộc.
Ngơn ngữ có vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống của con người.
“Ngôn ngữ là cái vỏ của tư duy”. Hiểu và truyền đạt tri thức đều thông qua ngôn
ngữ. Con người sống trong xã hội cần phải giao tiếp với nhau. Ngôn ngữ là
phương tiện giao tiếp chính. Bất đồng ngơn ngữ là một trở ngại to lớn trong việc
giao tiếp, giao lưu, phổ biến khoa học…Ngôn ngữ nảy sinh từ nhu cầu giao tiếp,
từ hoạt động giao tiếp của con người. Điều đó có nghĩa là việc trẻ cần giao lưu,

trao đổi với mọi người xung quanh trong những năm đầu đời là quan trọng. Nếu
trẻ khơng được thường xun nói chuyện, khơng thường xun giao lưu với
người khác thì trẻ sẽ khơng có nhiều vốn từ ngữ, cũng như khơng biết cách biểu
đạt những mong muốn của bản thân mình bằng lời nói mà chỉ bằng hành động.
Khơng có ngơn ngữ con người không thể giao tiếp được.
Với trẻ em, ngôn ngữ có vai trị quyết định đến sự phát triển tồn diện với
trẻ. Ngơn ngữ làm cho đứa trẻ trở thành một thành viên của xã hội lồi người.
Ngơn ngữ là một cơng cụ hữu hiệu để trẻ có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục
trẻ, là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt
động hình thành nhân cách của trẻ. Ngơn ngữ là một công cụ để phát triển tư
duy, nhận thức. Ngơn ngữ chính là hiện thực của tư duy. Tư duy của con người
có thể hoạt động đươc chính là nhờ có phương tiện ngơn ngữ. Giống như việc
dạy tiếng mẹ đẻ ở các cấp học khác, phát triển lời nói cho trẻ ở trường mầm non
thực hiện mục tiêu “kép” đó là trẻ học để biết tiếng mẹ đẻ đồng thời sử dụng nó
như một cơng cụ vui chơi, học tập bước sang tuổi thứ hai, trẻ bước sang giai
đoạn bùng phát về mặt ngôn ngữ trên cả phương diện từ vựng lẫn phương diện
tổ chức ngôn ngữ. (Cũng bắt đầu từ đây, cá tính của trẻ đã được bộc lộ). Ở giai
đoạn này, trẻ học từ mới rất nhanh. Năng lực sử dụng từ ngữ cũng được cải thiện
đáng kể, có thể gây ngạc nhiên cho người lớn. Đặc biệt đối với trẻ 25 - 36 tháng
cần giúp trẻ phát triển mở rộng các loại vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng
cách thường xuyên nói chuyện với trẻ thơng quacác sự vật, hiện tượng, hình
ảnh... mà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính
chất, cơng dụng của chúng từ đó hình thành ngơn ngữ cho trẻ giúp trẻ tiếp cận
3


một cách hồn nhiên và nhanh nhất với chương trình giáo dục mầm non hiện nay.
2.2. Thực trạng vấn đề.
2.2.1.Thuận lợi.
Trường Mầm non Liên Lộc là một trường nằm ngay trung tâm của xã.

Trường có 10 lớp học (04 nhóm trẻ và 06 lớp mẫu giáo trong đó có 02 lớp 3- 4
tuổi, 02 lớp 4 - 5 tuổi và 2 lớp 5 - 6 tuổi) được sự quan tâm của các cấp lãnh
đạo, trường được xây dựng khang trang và đầu tư đầy đủ về cơ sở vật chất. Với
đội ngũ cán bộ giáo viên luôn tâm huyết với nghề đa số đều đạt trình độ chuẩn
và trên chuẩn. Các nhóm lớp được phân chia theo độ tuổi, cơng tác chăm sóc
giáo dục trẻ ở nhà trường tạo được niềm tin đối với các bậc phụ huynh và nhân
dân trong xã. Điều đó cũng góp phần thuận lợi cho việc học hỏi kinh nghiệm.
- Đối với nhà trường: Ban giám hiệu nhà trường luôn sát sao quản lý và điều
hành trong mọi công việc trong trường.Luôn quan tâm đến công tac bồi dưỡng
chuyên môn cho giáo viên.
- Đối với giáo viên: Với đội ngũ cán bộ giáo viên luôn tâm huyết với nghề, đa
số đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, luôn giúp đỡ lẫn nhau, tạo điều kiện
cho việc học hỏi kinh nghiệm.
- Đối với bản thân: là một giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác
giảng dạy, không ngừng học hỏi, tham khảo tài liệu, dự giờ đồng nghiệp để rút
ra kinh nghiệm cho bản thân.
- Đối với trẻ: Trẻ khỏe mạnh, tích cực học tập và hứng thú hoạt động. Một lớp
có chung một độ tuổi nên nhận thức của trẻ tương đối đồng đều, đa số trẻ đến
lớp chuyên cần. Phụ huynh quan tâm đến con em mình, nhiệt tình ủng hộ
trong việc dạy dỗ các cháu.
2.2.2. Khó khăn.
- Trẻ đến lớp học cịn nói tiếng địa phương, phát âm sai lệch, ngơn ngữ
mạnh lạc của trẻ cịn hạn chế (nói chưa đủ câu, nói trống khơng, nói lắp, nói
ngọng, nói tiếng địa phương) nên rất ảnh hưởng đến việc giao tiếp và dạy trẻ
trên lớp.
- Vốn từ của trẻ còn rất ít.
- Các cháu lần đầu làm quen với mơi trường lớp học cho nên chưa có thói
quen tập thể hay nói tự do, phát âm chưa chính xác trẻ còn rụt rè chưa mạnh dạn
tự tin trong các hoạt động. Tuy cùng độ tuổi nhưng nhận thức, và khả năng phát
triển ngơn ngữ của trẻ chưa đồng đều.

- Trí nhớ của trẻ cịn hạn chế chính vì vậy mà trẻ chưa biết cách sắp xếp trật
tự các từ trong câu nên khi phát âm trẻ thường bỏ bớt từ. cách diễn đạt lời nói
của trẻ chưa tốt.
- Do dịch bệnh covid vẫn diễn biến phức tạp trẻ phải nghỉ học 2 tuần làm
gián đoạn việc dạy và học, ảnh hưởng đến quá trình học của trẻ.
- Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học hành của con em
mình.
Đứng trước tình hình thực tế chung như vậy, tơi ln trăn trở suy nghĩ để
tìm ra phương pháp, biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ và tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng ngơn ngữ tại nhóm lớp.
2.2.3. Kết quả thực trạng.
4


Nội dung
đánh giá
Khả năng nghe,
hiểu lời nói
Khả năng nghe và
nhắc lại các âm,
tiếng, câu
Trẻ biết sử dụng
ngôn ngữ phù hợp
giao tiếp (phát âm
rõ ràng mạch lạc)
Trẻ tự tin giao
tiếp

Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng
Kết quả

Tổng
Đạt
số
Tốt
Khá
TB
trẻ
SL % SL % SL %

Chưa đạt
Yếu
Kém
SL % SL %

3

18

6

35

7

41

1

6


0

2

12

6

35

8

47

1

6

0

3

18

5

29

7


41

2

12

0

3

18

5

29

7

41

2

12

0

17

Nhìn vào bảng kết quả khảo sát thực trạng trên cho ta thấy tình hình thực
tế về chất lượng của hoạt động phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận

biết tỷ lệ tốt rất ít, số cháu trung bình cịn nhiều, cháu yếu vẫn cịn.
2.2.4. Ngun nhân:
- Đối với cơ
+ Các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho giảng dạy chưa sinh động
sáng tạo vì vậy chưa thu hút được trẻ tham gia hoạt động.
+ Cô chưa linh hoạt, sáng tạo trong việc đổi mới hình thức tổ chức hoạt động
+ Nội dung phát triển ngơn ngữ cho trẻ cịn đơn điệu, chưa có một hệ thống
lơgíc nhất định.
- Đối với trẻ
+ Do cơ quan phát âm chậm phát triển.
+ Do phạm vi mơi trường sống hẹp trong gia đình đối tượng giao tiếp
chỉ với người thân.
+Vốn từ q ít
+Trẻ cịn nhút nhát, sợ hãi.
- Đối với phụ huynh:
Thời gian bố mẹ trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ cịn ít. Một số cha mẹ
của trẻ nhận thức về tầm quan trọng của ngơn ngữ cịn hạn chế. Do vậy vốn từ
của trẻ em ngày nay phát triển chậm và ít, chủ yếu trẻ được tiếp xúc và phát
triển ngôn ngữ thông qua ti vi, phim ảnh… chưa được sự chỉ bảo, uốn nắn của
người lớn.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
* Giải pháp 1: Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của trẻ.
- Đối với tuổi mầm non trẻ rất hiếu động tư duy của trẻ là tư duy cụ thể
việc “Học bằng chơi – chơi mà học” bởi vì thế giới xung quanh trẻ cái gì cũng
mới lạ, trẻ thích tìm tịi, khám phá những sự vật hiện tượng xung quanh. Trẻ
thường hỏicác câu hỏi: Tại sao? Như thế nào? Nhưng cũng còn một số cháu
5


nhút nhát, ít nói, sợ hãi khi lên trả lời câu hỏi.

Lứa tuổi 25-36 tháng trẻ đã phát âm được những âm khác nhau, phát âm
được những âm của lời nói nhưng vẫn cịn ê a, trẻ hay phát âm sai ở những từ
khó, những từ có 2-3 âm tiết như lựu/lịu, hươu/hiu. Vốn từ của trẻ cịn rất ít,
danh từ và động từ ở trẻ chiếm ưu thế, trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ đồ
vật, con vật hành động trong giao tiếp quen thuộc hàng ngày. Những từ chỉ khái
niệm tương đối như: Hôm qua, hôm nay…trẻ sử dụng chưa chính xác.
Cách diễn đạt nội dung ở lứa tuổi này cịn ê a, ấp úng, đơi khi chưa diễn
đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản.
Ví dụ: Cháu Anh Khoa, Minh Châu, Bảo Trâm thường hay nhút nhát, phát
âm chưa chính xác, rõ ràng, cô cần tạo nhiều cơ hội để trẻ được quan sát các con
vật, đồ vật, đồ chơi để phát triển lời nói cho trẻ, tự nói chuyện có tinh thần thoải
mái, khuyến khích động viên, khen gợi trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp
gợi cho trẻ những việc mà trẻ thích hoặc muốn làm, vì vậy cần phải chú ý đến
từng đặc điểm tâm sinh lý cá nhân của trẻ, để có những giải pháp phù hợp với
trẻ, từ đó phát huy hết khả năng của trẻ, có các phương pháp dạy cho trẻ hứng
thú hơn trong mọi hoạt động. (Ảnh 1: Cô gần gũi yêu thương trẻ)
* Giải pháp 2: Tạo môi trường, nề nếp cho trẻ 25- 36 tháng hoạt động nhận
biết tập nói.
Bước vào năm học đầu tiên ở nhà trẻ, khi đến lớp trẻ phải tạm xa gia đình
đến với vịng tay cô giáo với các bạn cùng lứa tuổi với đầy bỡ ngỡ. Trẻ chủ yếu
quấy khóc, nhớ nhà và rất cần sự vỗ về của cô giáo, các cô cũng rất vất vả trong
giai đoạn đầu đến lớp. Nhất là tạo lịng tin cho phụ huynh cũng như khích lệ trẻ
thích đến lớp.
Những ngày học đầu tiên trẻ chưa có nề nếp, chưa có thói quen ngồi vào
chỗ học bài. Trẻ thì khóc, trẻ thì chạy, trẻ thì đứng, trẻ thì ngồi. Những này đầu
trẻ mới đến trường, khơng thể đưa trẻ vào thói quen học tập ngay được. Vì vậy
nhiệm vụ đầu tiên là giáo viên phải tạo cho trẻ sự gần gũi, yêu thương trẻ như
chính trẻ đang có mẹ và người thân bên cạnh. Khi trẻ ngoan hơn thì tơi tiến hành
rèn luyện nề nếp học tập của trẻ. Trong nhóm lớp mỗi cháu 1 tính cách, các cháu
nam thường hiếu động hơn, các cháu nữ rụt rè hơn, có cháu nói rõ, có cháu nói

cịn ngọng, nhiều cháu nói chưa đủ câu vì vậy tơi đã ghi chép nhật ký theo dõi
hàng ngày để xây dựng kế hoạch đặt ra biện pháp chăm sóc, giáo dục trẻ cho
phù hợp với đặc điểm cá nhân của trẻ. Dựa trên đặc điểm đó để bắt đầu tiến
hành xếp chỗ ngồi cho trẻ hợp lý.
- Trẻ hiếu động ngồi với trẻ nhút nhát.
- Trẻ nói rõ ràng mạch lạc ngồi với trẻ nói chậm, chưa rõ câu.
- Khi trẻ có nề nếp học tập, trẻ bắt đầu quan sát xung quanh lớp học.
Vì vậy tơi có kế hoạch thay đổi đồ dùng thường xuyên và trang trí chủ đề
chính, các góc chơi trong lớp theo từng chủ đề nhánh để cung cấp thêm cho trẻ
những hình ảnh mới lạ, phong phú, tạo cho trẻ lịng ham muốn tìm tịi, muốn
khám phá giúp trẻ nói đúng, nói đủ câu và nhất là khi trẻ quan sát trẻ sẽ phát
triển được ngơn ngữ ở mọi lúc mọi nơi.
Ví dụ: Trong chủ đề “Bé và các bạn”. Ở chủ đề nhánh 1 “Lớp học của bé”
Tơi trang trí các khu vực chơi có nội dung về lớp học, như góc thao tác vai là
6


của hàng bán các loại đồ dùng học tập. Khu vực xây dựng là xây dựng trường
mầm non; khu âm nhạc là bài “Cô và mẹ”; khu vực sách là xem tranh sách về
các loại đồ dùng học tập, gắn lô tô đồ dùng học tập lên khu vực chơi…Đến chủ
đề nhánh 2 “Bé biết nhiều thứ”, cũng các khu vực chơi đó nhưng tơi thay đổi các
đồ dùng, tranh ảnh trên các khu vực để trẻ được làm quen với kiến thức mới và
trẻ hứng thú vào hoạt động. khu thao tác vai tôi cho trẻ vào vai người bán hàng,
nấu ăn; khu xây dựng thì cho trẻ xây dựng lớp học. Khu vực âm nhạc thì cho trẻ
tìm tranh ảnh về bài hát “Cháu đi mẫu giáo” dán lên khu vực…Nhờ sự thay đổi
đó mà trẻ hứng thú hơn, tích cực hơn khi tham gia hoạt động “Nhận biết tập nói”
Với những biện pháp trên tơi thấy hầu hết trẻ trong lớp tơi đã có thói quen tốt
trong việc xây dựng nề nếp học tập.
Qua quá trình thực hiện tơi dần dần ổn định được nhóm, đưa trẻ vào nề
nếp và thói quen tốt. Từ đó động viên khuyến khích trẻ tập chung chú ý, say sưa

hứng thú trong giờ hoạt động đạt kết quả cao hơn.
* Giải pháp 3:Lấy trẻ làm trung tâm trong hoạt động “Nhận biết tập nói”
Để phương pháp phát huy tối đa hiệu quả, tôi đã quan tâm đến việc tạo
môi trường thuận lợi để trẻ học tập, vui chơi. Tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu, hứng
thú, khả năng của từng trẻ để có cách dạy phù hợp. Mơi trường ở đây khơng chỉ
dừng lại trong lớp học, mà phải tận dụng tất cả khơng gian trong, ngồi lớp để
trẻ được trải nghiệm, khám phá. Tơi trang trí các góc đẹp, hấp dẫn với trẻ, sáng
tạo trong việc làm đồ dùng, đồ chơi những góc chơi để lơi cuốn trẻ. Đồng thời,
tận dụng các thiết bị, đồ dùng sẵn có, đồ chơi tự làm từ các vật liệu thân thiện để
kích thích trẻ hoạt động sáng tạo. Qua đó giúp trẻ phát huy năng khiếu cá nhân,
mở rộng các mối quan hệ qua lại giữa các nhóm, tăng cường kỹ năng hoạt động
nhóm trong trẻ…
Không chỉ vậy, tôi đầu tư việc lập kế hoạch, thiết kế hoạt động phù hợp với
khả năng, nhu cầu thực tiễn, kinh nghiệm sống của từng trẻ. Khi tổ chức các
hoạt động cần đặt trẻ vào trung tâm của quá trình giáo dục, tạo mọi cơ hội cho
trẻ tham gia vào hoạt động, để trẻ được tự do trải nghiệm, chia sẻ với bạn bè và
học hỏi, suy nghĩ, vận dụng những điều đã học vào giải quyết các tình huống sẽ
xảy ra trong cuộc sống. Đặc biệt, trong quá trình tổ chức hoạt động, việc đặt câu
hỏi là cách tốt nhất để giúp trẻ phát triển trí tuệ, kích thích tư duy, hứng thú
trong trẻ.
Bên cạnh đó, tôi quan tâm việc tăng cường các hoạt động cá nhân trẻ thơng
qua hoạt động trong ngày. Ví dụ như tận dụng thời gian gần gũi, trò chuyện với
trẻ, phân công công việc để trẻ thực hiện. Điều này không chỉ giúp giáo viên
nắm được điểm mạnh, yếu của từng trẻ. Từ đó giúp trẻ điều chỉnh tính cách của
mình. Giáo viên nên tạo cơ hội để trẻ được trả lời để trẻ được tư duy, thêm tự
tin, mạnh dạn khi nêu lên chính kiến của mình.
Ví dụ : Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động “nhận biết tập nói” khơng chỉ
dạy trẻ ởtrong lớp mà tơi cịn dạy trẻ “nhận biết tập nói” ở góc thiên nhiên ngồi
khn viên như : Cho trẻ nhận biết tập nói “ Hoa hồng, hoa cúc” cô cho trẻ quan
sát và hỏi trẻ đây là hoa gì? Màu gì? Hoa để làm gì ... Hoặc cho trẻ nhận biết tập

nói con trâu, con bị tơi cho trẻ ra vườn cổ tích cho trẻ quan sát con trâu, con bò,
trò chuyện với trẻ, trẻ rất hứng thú nhìn vào tưởng trẻ đang chơi
7


nhưng đó là trẻđang hoạt động nhận biết tập nói con trâu, con bò.
Hãy để tự trẻ miêu tả những gì trẻ biết và có thể làm. Nhằm giúp trẻ tăng
trí thơng minh, khả năng ghi nhớ, nhận biết mơi trường tự nhiên. Không những
thế qua những bài tập trẻ có cơ hội khám phá, học hỏi những kiến thức căn bản.
Từ đó một số tính cách của trẻ như sự kiên trì, nhẫn nại, ham học và đặc biệt là
ngơn ngữ dần hình thành phát triển.
* Giải pháp 4: Luyện phát âm cho trẻ.
- Rèn luyện thính giác ngơn ngữ cho trẻ: Trẻ học nói được là nhờ vào sự
vận động của thính giác (Trẻ bị điếc sẽ khơng thể học nói được). Vì vậy việc rèn
luyện thính giác ngôn ngữ cho trẻ là nội dung hàng đầu trong q trình dạy trẻ
nói. Rèn luyện thính giác ngơn ngữ là rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn
ngữ, giúp trẻ phân biệt được âm thanh nói chung.
Ví dụ: Âm thanh của từ “Hoa” khác âm thanh của từ “Lá”
Muốn trẻ rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ được tốt cần đặt trẻ vào
trong môi trường âm thanh (Bao gồm âm thanh nói chung và âm thanh ngơn ngữ
nói riêng). Trẻ càng thu nhận được tín hiệu ngơn ngữ bao nhiêu thì sự phát triển
lời nói càng nhanh chóng bấy nhiêu vì vậy chúng ta cần phải lặp đi, lặp lại nhiều
lần để giúp trẻ phát âm đúng.
Ví dụ: Khi dạy nhận biết tập nói “Hoa Hồng, Hoa Cúc” khi trẻ phát âm từ
“Cúc” một số trẻ phát âm sai, vì vậy cơ giáo cần chú ý kiên trì sửa sai cho trẻ
bằng cách (khơng lặp lại lỗi mắc sai của trẻ), không cáu gắt làm trẻ mất hứng
thú mà cô sẽ phát âm lại chậm, rõ và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần.
- Luyện cơ quan phát âm cho trẻ: Cơ quan phát âm đóng vai trị quan trọng
trong q trình trẻ nói, nó điều khiển bộ máy phát âm của trẻ, quá trình giáo dục
sẽ tác động đến bộ máy phát âm của trẻ. Vì vậy chúng ta cần luyện cơ quan phát

âm cho trẻ theo 2 nội dung sau:
Luyện vận động tự do nhằm giúp các bộ phận môi, răng, lưỡi chuyển
động nhịp nhàng, linh hoạt. Đối với trẻ mầm non “Trẻ học mà chơi, chơi mà
học” vì vậy tơi ln vận dụng khéo léo và linh hoạt các phương pháp, biện pháp
phù hợp để lôi cuốn trẻ. Tôi đã suy nghĩ và lựa chọn phương pháp sử dụng trò
chơi để luyện bộ máy phát âm cho trẻ.
Ví dụ: Cơ nói: Trời sắp tối rồi các con hãy “Gọi gà” để cho gà ăn nào! cô
hướng dẫn cho trẻ bặm 2 môi vào nhau thật chặt và phát âm (Bập..Bập...Bập)
Như thế tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều khiển hoạt động của môi và hàm. Hoặc
cho trẻ làm động tác “Nhai kẹo cao su”, hay cho trẻ “Chậc lưỡi”…tôi đã luyện
tập cho trẻ biết điều khiển hàm theo 2 hướng…
- Luyện thở ngơn ngữ cho trẻ: Qua q trình quan sát và tiếp xúc với trẻ tôi nhận
thấy đặc điểm của trẻ là chưa biết điều khiển nhịp thở của mình khi nói cho phù
hợp, có nhiều trẻ nói rất nhanh vừa nói vừa thở. Hoặc ngược lại có những trẻ nói
rất chậm ê..a.. Vì vậy điều khiển sự thở là khơng thể thiếu được trong q trình
rèn luyện phát âm cho trẻ. Trò chơi được sử dụng rất nhiều, đa dạng phong phú
trong q trình giáo dục ngơn ngữ cho trẻ.
Ví dụ: Để luyện thở ngơn ngữ cho trẻ, trong khi cho trẻ tập thể dục tơicó
thể cho trẻ khởi động bằng các trò chơi như: Thổi nơ bay cao, bay xa; thổi chong
chóng; gà gáy…Thơng qua các trị chơi này giúp cho trẻ hít thở được đều đặn
8


dần dần trẻ sẽ biết cách lấy hơi khi nói.
- Luyện giọng: Giọng nói giúp trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình trong từng
lời nói như: âu yếm, thủ thỉ, to, nhỏ…
Ví dụ: Khi cho trẻ đọc câu đố về "Hoa hồng- Hoa cúc"
Giáo viên cần đọc mẫu cho trẻ nghe 1lần, cô đọc chậm và rõ, sau đó cho
trẻ đọc theo cơ. Trong khi trẻ đọc cơ sẽ giúp trẻ điều chỉnh giọng đọc của trẻ.
Đến khi phát âm về tên gọi, đặc điểm của hoa cô cũng phát âm mẫu và cho trẻ

phát âm nhiều lần. Trong q trình trẻ phát âm cơ chú ý sữa sai lỗi phát âm cho
trẻ.
* Biện pháp 5: Sử dụng có hiệu quả đồ dùng trực quan trong tổ chức hoạt
động nhận biết tập nói.
Có thể nói đồ dùng trực quan được xem là “Quy tắc vàng” Trong chương trình
giáo dục mầm non. Trong các bài dạy của trẻ không thể khơng có đồ dùng trực
quan vì trẻ mầm non chủ yếu là tư duy hình tượng. Vì vậy tơi luôn chú ý đến
việc làm và sử dụng giáo cụ, đồ dùng trực quan thế nào cho đẹp, cho chính xác,
sáng tạo, an toàn và sử dụng thế nào cho đúng lúc, đúng chỗ.
Muốn làm được điều đó, tơi ln xác định mục đích, yêu cầu của việc làm
và sử dụng giáo cụ trực quan cho hoạt động, nắm được cách làm và cách sử
dụng giáo cụ trực quan hiệu quả trên từng tiết học, biết khéo léo, sáng tạo, nhiệt
tình sưu tầm nguyên vật liệu để tạo nên những đồ dùng giáo cụ trực quan phong
phú, đa dạng, có thẩm mỹ, bền, đẹp.
Trong cuộc sống có rất nhiều những phế liệu tưởng chừng như bỏ đi như
vỏ cây, rơm rạ, vỏ chai nhựa, lõi giấy vệ sinh, những sợi len dư thừa, hộp sữa, ly
nhựa, muỗng gỗ, vỏ chai, nắp chai, vải vụn, xốp màu, mo cau…Nhưng đây lại là
nguồn nguyên vật liệu vô cùng dồi dào để giáo viên khai thác, sáng tạo ra những
đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp dẫn phục vụ cho hoạt động học, vui chơi của trẻ. Từ
những phế liệu đó tơi làm ra những con vật, đồ vật, vật phẩm thật ngộ nghĩnh,
đáng yêu và gần gũi như con gà, con vịt, gấu, hổ, voi, xe đạp, xe máy, ô tô, bàn
ghế, tủ, giường… (ảnh 2- Đồ dùng đồ chơi cơ tự làm)
Ví dụ 1: Khi làm đồ dùng cho đề tài “Gia đình của bé” tơi dùng mo cau,
xốp cắt làm bàn, ghế để ngồi, dùng xốp màu vẽ hình các nhân vật trong gia đình
như ơng đang trồng cây, bà đang uống nước, bố đọc báo, mẹ dạy chị học bài,
em chơi xếp hình. Tất cả các khơng gian đó, khung cảnh đó, các nhân vật đã tạo
nên một gia đình ấm cúng giúp trẻ hồi tưởng lại như trẻ đang ở nhà mình vậy.
Ví dụ 2: Cũng là làm đồ dùng ô tô xe máy nhưng để trẻ hứng thú hơn
trong hoạt động, tơi gắn thêm con chíp điện tử để giúp ơ tơ, xe máy có thể di
chuyển được; làm rối tay với nhiều màu sắc khác nhau để phục vụ cho trẻ chơi

trị chơi…
- Khơng những bản thân tơi làm giáo cụ trực quan mà tơi cịn kết hợp với các
bậc phụ huynh cùng làm với tôi. Qua đó giúp phụ huynh hiểu rõ hơn tầm quan
trọng của đồ dùng trực quan đối với việc học của trẻ.
- Khi đã hồn thành được đồ dùng thì việc sử dụng đồ dùng trực quan cho hợp
lý vào các hoạt động là vô cùng quan trọng. Tôi đắn đo kỹ lưỡng cho việc lựa
chọn đồ dùng trên tiết học để làm sao trẻ tiếp thu bài có hiệu quả cao nhất. Mỗi
tiết học tôi đều đặt ra câu hỏi: Tiết học này cần sử dụng đồ dùng gì? Tranh vẽ
9


hay đồ dùng bằng nhựa, đồ dùng tự làm.
Ví dụ 3:Với chủ đề “Các con vật ni trong gia đình” thì tơi lựa chọn 3 loại giáo
cụ trực quan để dạy cho trẻ. Đó là tranh các con vật - tranh lô tô - các con vật tự
làm giống như thật.
Lựa chọn đồ dùng trực quan phù hợp với nội dung của bài học, nhưng muốn đồ
dùng trực quan đó sống động để đi vào lịng con trẻ thì địi hỏi cơ giáo phải sử
dụng một cách có nghệ thuật, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác với lời
nói, câu đố, trò chơi linh hoạt, sáng tạo khi các đồ dùng xuất hiện vào bài, xử lý
khéo léo các tình huống có thể xảy ra khi sử dụng và phải biết thay đổi hình
thức, thay đổi đồ dùng theo chủ đề. Ngoài ra việc xắp xếp đặt đồ dùng trực
quan ở vị trínào sao cho phù hợp cho trẻ dễ nhìn, dễ thấy, dễ lấy và dễ cất.
Khi tổ chức cho trẻ quan sát, đàm thoại, trả lời các câu hỏi mà tôi đặt ra, việc sử
dụng dồ dùng trực quan đẹp sinh động không những giúp trẻ hứng thú chú ý
vào tiết học mà cịn giúp trẻ tìm hiểu và nắm bắt được các đặc điểm, cấu tạo, ích
lợi, của các con vật qua đồ dùng trực quan. Giúp trẻ phát triển thêm về ngôn
ngữ, khả năng tư duy...(ảnh 3- Các loại trái cây cô làm bằng nỉ)
Như vậy, đối với trẻ mầm non có thể nói đồ dùng trực quan ln là “món ăn tinh
thần” khơng thể thiếu trong mỗi bài dạy.
* Giải pháp 6. Linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động nhận biết tập

nói và lựa chọn một số trị chơi cho trẻ.
Thay đổi hình thức cũng là một trong những giải pháp tốt nhằm lôi cuốn
sự chú ý của trẻ vào giờ học. Có thể nói hình thức tổ chức hoạt động chiếm một
vị trí quan trọng bài dạy của giáo viên, hay nói cách khác nó là “Con đường để
đi tới đích”. Trong hoạt động “Nhận biết tập nói” nếu giáo viên chỉ theo một lối
dạy đơn giản cho trẻ nhận biết tập nói thì tiết dạy sẽ bị khơ khan, nhàm chán đối
với trẻ. Vì vậy để thu hút trẻ vào hoạt động tôi đưa trẻ vào hoạt động một cách
nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái bằng cách dùng các hình thức như “Bé khám
phá”; “Du lịch vườn bác thú” trong chủ đề động vật…; sử dụng các thủ thuật
như bài thơ, câu đố, trị chơi, tạo tình huống bất ngờ để dẫn dắt trẻ vào hoạt
động.
* Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động học nhận biết tập nói
Trong giáo dục, truyền đạt kiến thức cho trẻ khơng phải sự vật hiện tượng
nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với hoạt động khám phá
khoa học như tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan sát máy bay, các hiện
tượng tự nhiên…hay chúng ta khơng thể có thời gian để chứng kiến những hiện
tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu về cách sinh sản của một số loại vật
ni, q trình phát triển của cây…chính vì vậy để trẻ được tìm hiểu thế giới
xung quanh một cách bao quát nhất, rõ ràng nhất tơi cịn ứng dụng cơng nghệ
thơng tin vào tiết học là một việc cần thiết. Là một giáo viên tôi rất quan tâm và
thường xuyên học hỏi sử dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động học.
(ảnh 4- Cô ứng dụng công nghệ TT vào hoạt động học)
Tôi nhận thấy khi sử dụng công nghệ thông tin vào hoạt động nhận biết (tập
nói) cho trẻ tỏ ra rất hào hứng, thích thú.
Ví dụ: Áp dụng cơng nghệ thông tin vào hoạt động học
- Chủ đề: Động vật
10


- Đề tài: Nhận biết tập nói: “Con gà-con vịt”

- Đối với chủ đề này sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học rất có hiệu quả
bằng cách sưu tầm các hình ảnh động của các con vật, các đối tượng mà trẻ sẽ
tìm hiểu như con gà, con vịt, con lợn, con mèo, con bị, con chó…để trẻ quan
sát. Từ đó trẻ sẽ quan sát các đối tượng qua hình ảnh một cách rõ ràng, cụ thể về
mầu sắc, hình dáng, tiếng kêu một cách chính xác. Đặc biệt là sự chuyển động
của các con vật sẽ làm tăng sự hướng thú cho trẻ trong giờ học. Thông qua việc
trình chiếu và xem phim hoạt hình trẻ vừa như được giải trí và cũng là lượng
kiến thức cần cung cấp cho trẻ.
* Phát triển nhận biết tập nói cho trẻ qua trị chơi: Ngơn ngữ và tư duy liên hệ
chặt chẽ với hoạt động, lao động của con người. Hoạt động vui chơi là hoạt động
chủ đạo của trẻ em. Vui chơi được thể hiện qua các trò chơi. Trị chơi góp phần
phát triển tồn diện cho trẻ trong đó có ngơn ngữ. Từ những kinh nghiệm trong
trị chơi trẻ khám phá ra những biểu tượng rồi liên hệ chúng với từ. Mỗi vật có
tên riêng, mỗi hành động có một động từ riêng để chỉ nó... cho nên nếu cô giáo
tổ chức tốt hoạt động chơi, cung cấp đủ đồ dùng, đồ chơi thì trẻ có điều kiện
tăng cường hoạt động nhận biết tập nói. Trị chơi đóng vai theo chủ đề phát triển
ngơn ngữ và nhiều mặt cho trẻ, đặc biệt là phát triển lời nói. Trong q trình
chơi trẻ khơng hề im lặng mà cịn chia sẻ với nhau những kinh nghiệm của
mình, điều này cần đến ngơn ngữ. Có thể nói hoạt động vui chơi là hoạt động
góp phần phát triển tồn diện cho trẻ, trong đó có ngơn ngữ.
Ví dụ: Trị chơi: “Chiếc túi kỳ lạ” theo chương trình có luật chơi là: Cô
chuẩn bị một cái túi trong đựng những đối tượng mà trẻ vừa học. Cô cho một trẻ
lên chơi và nhắm mắt lại, khi cơ gọi tên đối tượng gì thì trẻ cho tay vào túi và
chọn đúng đối tượng đó giơ lên và gọi tên đối tượng cho cả lớp cùng nghe.
Nhưng cơ có thể cải biến trị chơi đi một chút để nó mới lạ hơn đó là cơ cho trẻ
chơi trị chơi “Nhà thám hiểm”, cơ cũng đưa ra những cái túi hoặc hộp mà bên
trong đựng các đối tượng trẻ vừa học, cô cho 2,3 trẻ lên chơi cùng một lúc, trẻ
lên chơi được đeo kính màu (do cơ tự làm) để khơng nhìn thấy gì. trẻ chú ý, khi
cơ gọi tên đối tượng gì thì trẻ cho tay vào túi và chọn nhanh được đúng đối
tượng đó. Ai chọn nhanh và đúng sẽ là nhà thám tử giỏi, hoặc thắng cuộc. Với

cách chơi như vậy cơ đã đưa yếu tố thi đua vào trong trị chơi giúp trẻ sẽ cố gắng
chơi thật nhanh, thật giỏi. Ngồi việc cải biến một số trị chơi theo những trò
chơi đã biên soạn để tạo sự mới mẻ đối với trẻ, cơ cịn có thể sáng tạo ra một số
trò chơi mới vừa phù hợp với nội dung tiết dạy, vừa gây được sự hứng thú, chú
ý cho trẻ.
Ví dụ 1: Khi cho trẻ nhận biết tập nói “Hoa đào - Hoa mai” tơi tổ chức
cho trẻ hình thức chương trình lễ hội:
Vào phần khởi động tơi giới thiệu: Chào mừng các con đến với chương trình “lễ
hội hoa xn” ngày hơm nay. Trong chương trình hơm nay các con sẽ được di
chuyển tới những vườn hoa rực rỡ của lễ hội. xin chào đón các đội đã tham dự lễ
hội, đội Hoa Đào và đội Hoa Mai.
Vào phần nội dung nhận biết hoa đào, hoa mai tôi cho trẻ đi đến vườn hoađào và
vườn hoa mai (kết hợp hát bài ra vườn hoa em chơi) rồi cho trẻ nhận biết 2 loại
hoa đó.
11


Việc thay đổi hình thức đã lơi cuốn và thu hút trẻ vào hoạt động một cách
thoải mái, hứng thú và đem lại kết quả cao trong hoạt động. Đối với trẻ nhà trẻ,
việc cho trẻ luyện tập củng cố trong các hoạt động là rất cần thiết. Trẻ sẽ củng
cố lại được kiến thức khi trẻ tham gia hoạt động. Nhờ đó trẻ sẽ lĩnh hội được
những kiến thúc nhiều hơn và khả năng ghi nhớ có chủ đích của trẻ sẽ được tăng
lên rõ rêt.
Mỗi khi kết thúc một hoạt động cần có các trị chơi để trẻ luyện tập củng
cố, nhằm hướng trẻ vào cách “Học bằng chơi, chơi bằng học”. Tuy nhiên việc
sử dụng các trò chơi vào các hoạt động nhận biết, sao cho phù hợp, hấp dẫn trẻ
là điều rất cần thiết, nắm bắt được điều này tơi thường xun tìm tịi các trị chơi
luyện tập củng cố cho trẻ phù hợp với mỗi chủ đề. Bằng những trị chơi đó tơi đã
củng cố lại được cho trẻ những kiến thúc thức trẻ được học và trẻ khắc sâu hơn
những kiến thức đó.

* Giải pháp 7:Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi
- Giờ đón, trả trẻ: Giờ đón, trả trẻ là lúc cần tạo khơng khí vui vẻ, lơi cuốn trẻ
tới trường, tới lớp cơ phải thật gần gũi, tích cực trị chuyện với trẻ. Vì trị chuyện
với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn
ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngơn ngữ mạch lạc. Bởi qua các trị chuyện với trẻ cơ
mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Cơ trị chuyện với trẻ về gia đình của trẻ:
+ Gia đình con có những ai?
+ Trong gia đình ai yêu con nhất?
+ Mẹ yêu con như thế nào?
+ Buổi sáng ai đưa con đến lớp?
+ Bố con đưa đi bằng phương tiện gì?
Như vậy khi trị chuyện với cơ trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngơn ngữ của trẻ
nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn.
Ngồi ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà , bố, mẹ
như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ
phép, biết vâng lời.
- Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua khu vực chơi: Trong một giờ hoạt động
chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách tồn diện được mà phải thơng
qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình
thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn
từ, đặc biệt là tích cực hố vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều
nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất.
Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử
dụng các từ có nội dung khác nhau.
Ví dụ 1: Trị chơi trong góc “Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê
và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày.
+ Bác đã cho búp bê ăn chưa? (Chưa ạ)
+ Khi ăn bác nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé! (Vâng ạ)
+ Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé!

+ Bột vẫn cịn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã! (Giả vờ thổi cho nguội)
+Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi mẹ cho búp bê đi chơi nhé! (Âu yếm em búp bê)
12


Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu
giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của
con người
Ví dụ 2: Trong góc “Hoạt động với đồ vật” ở chủ đề “Giao thông” bằng
đồ dùng tự tạo đó chính là những chiếc ơ tơ đã đục sẵn lỗ và những chiếc ơ tơ,
máy bay chưa có bánh xe tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua những lỗ đó và tơi sẽ
hỏi trẻ:
+ Khơi ơi, con đang xâu gì vậy? (Con đang xâu ơ tơ ạ)
+ Con xâu ơ tơ bằng gì đấy?
(Con xâu bằng dây xâu ạ)
+ Trâm Anh ơi, ô tô này đã đi được chưa hả con? (Chưa đi được ạ)
+ Muốn ô tô đi được phải làm thế nào? (Lắp thêm bánh xe ạ)
+ Khi xâu xong con để sản phẩm của mình nhẹ nhàng vào khay nhé! (Vâng ạ)
Ví dụ 3: Ở góc “Bé khéo tay” cũng ở chủ đề “Giao thông” bằng miếng
xốp thừa tôi đã tận dụng cắt thành hình ơ tơ, xe máy để cho trẻ in màu. Trẻ sẽ
được in những PTGT đủ màu sắc tạo lên giấy thành sản phẩm của mình một
cách nghệ thuật. Tơi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm. Khi trẻ làm tơi ân
cần đến bên trẻ trị chuyện cùng trẻ:
+ Con đang làm gì vậy? (Con in hình ơ tơ ạ)
+ Ơ tơ của con có màu gì? (Màu đỏ ạ)
+ Đây là phương tiện gì con có biết khơng? (Xe đạp ạ)
+ Xe đạp này có màu gì? (Màu vàng ạ)
+ Ơ tơ và xe đạp đi ở đâu hả con? (Trên đường ạ)
Như vậy bằng những đồ chơi tự tạo thông qua hoạt động chơi không những rèn
cho trẻ sự khéo léo mà cịn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

- Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời: Hàng ngày đi dạo chơi
quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi
quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, bập bênh...Ngồi ra tơi cịn giới thiệu
cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường và hỏi trẻ:
+ Cây hoa này có màu gì? (Trẻ trả lời màu đỏ)
+ Thân cây này có to khơng? (Có ạ)
+ Cây phượng vĩ này rất cao và có lá màu gì? (Màu xanh ạ
+ Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến khơng? (Có ạ)
+ Con gì vậy? (Con chim)
+ Con chim kêu như thế nào? (Chích chích….)
Giáo dục: “Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con
không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé” (Vâng ạ)
Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngồi ra
cịn giúp trẻ phát triển ngơn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. Ở lứa tuổi
này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống khơng hoặc nói những câu khơng có
nghĩa. Vì vậy bản thân tơi ln chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ
nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.
- Giáo dục ngôn ngữ thơng qua các hoạt động có chủ đích.
- Thơng qua giờ nhận biết tập nói: Đây là hoạt động quan trọng nhất đối với sự
phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Trẻ ở lứa tuổi 25-36 tháng
đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hồn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói
13


khơng đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng
trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cơ phải chuẩn bị
một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói
đúng từ, đủ câu khơng nói cộc lốc.
Ví dụ : Trong bài nhận biết “Con cá” cô muốn cung cấp từ “Đuôi cá” cho
trẻ cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả (được làm bằng bìa) để

cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn…..nhằm phát huy
tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích.
Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống
câu hỏi:
+ Đây là con gì? “Con cá ạ”
+ Các con nhìn xem cá muốn bơi được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy đây?
(Cái đuôi ạ)
+ Các con ơi, cá đang nhìn chúng mình đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ? (Nằm ở
trên đầu con cá)
+ Đố các bạn biết cá sống ở đâu? (Sống ở dưới nước)
+ Trên mình cá có gì mà lấp lánh thế ? (Có vẩy)
Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả
câu theo u cầu câu hỏi của cơ. Nếu trẻ nói cộc lốc , thiếu từ cô phải sửa ngay
cho trẻ.
Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời
nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ
thực tế giáo dục trẻ về an tồn giao thơng khi đi trên đường.
- Thơng qua hoạt động thơ, truyện: Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
là phát triển ngơn ngữ nói cho trẻ và cịn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói
mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách
khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua hoạt động thơ, truyện. Để
giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngơn ngữ cho trẻ thì đồ
dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo:
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to
giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
+ Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng
đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
Ví dụ 1: Trẻ nghe câu truyện “Đơi bạn nhỏ”. Tơi cung cấp vốn từ cho trẻ
đó là từ “Bới đất”. Cơ có thể cho trẻ xem tranh mơ hình một chú gà đang lấy

chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “Bới đất”.
(Các con ạ, bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải
lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình, khi kiếm được thức ăn
chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tơi cũng chuẩn bị một hệ thống
câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học:
+ Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu? (Đi kiếm ăn ạ)
+ Vịt kiếm ăn ở đâu? (Dưới ao)
+ Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? (Trên bãi cỏ)
+ Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? (Bới đất tìm giun)
14


+ Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con Cáo)
+Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy phốc lên lưng Vịt, Vịt bơi ra xa).
+ Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao? (Thương u
nhau)
+ Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? (Giúp đỡ bạn ạ).
Cơ kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân
vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó
khăn.
Ví dụ 2: Qua bài thơ “Cây bắp cải” tơi muốn cung cấp cho trẻ từ “Sắp
vịng quanh”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được
nhìn, sờ, ngửi…và qua vật thật tơi sẽ giải thích cho trẻ từ “sắp vịng quanh”.
Tơi giải thích cho trẻ: Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày
mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có
màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vịng trịn xếp trồng
lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở ngồi.
Bên cạnh đó tơi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ)
+ Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào? (Xanh man mát)

+ Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? (Sắp vòng quanh ạ)
+ Búp cải non thì nằm ở đâu? (Nằm ở giữa ạ)
Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn
từ mới cho trẻ để ngơn ngữ của trẻ thêm phong phú.
Ngồi việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp cũng
vơ cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú trọng
đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
Ví dụ 3: Trong câu truyện “Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ
điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tơi cịn sửa sai những từ trẻ
hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát
mạnh dạn hơn khi trả lời.
+ Trẻ hay nói ơ tơ
ơ chơ.
+ Trẻ nói Thỏ ngoanThỏ ngan
+ Bác Gấu
Bác dấu
+ Con Cáo
Chon cháo
Mỗi khi trẻ nói sai tơi dừng lại sửa sai ln cho trẻ bằng cách: tơi nói mẫu
cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo. Thể hiện sắc thái, ngữ điệu
nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó
cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tơi động viên, khích lệ trẻ kịp thời.
Tơi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “Thỏ ngoan”
+ Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn.
+ Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu.
+ Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở.
Như vậy thơ truyện khơng những kích thích nhận thức có hình ảnh của
trẻ mà cịn phát triển ngơn ngữ cho trẻ một cách tồn diện. Trẻ nhớ nội dung
câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức.
- Thơng qua hoạt động âm nhạc: Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát

15


triển ngôn ngữ được tốt hơn thôi thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những
phương pháp dạy học tốt nhất có hiệu quả với trẻ.
Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật (Trống, lắc, phách
tre, mõ, xắc xô…và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu vui tươi
kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được
như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp
bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp
trẻ yêu âm nhạc. Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử
dụng ngơn ngữ có mục đích, biết dùng ngơn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả
những hình ảnh đẹp của bài hát.
Ví dụ: Hát và vận động bài “Con voi”
+ Câu đầu tiên: Con vỏi con voi. Cái vịi đi trước.
(Trẻ đưa tay ra phía trước giả làm vòi con voi)
+ Câu thứ hai: Hai chân trước đi trước. Hai chân sau đi sau.
(Hai tay chống hông, hai chân nhấc lên nhấc xuống)
+ Câu cuối: Cịn cái đi đi sau rốt. Tôi xin kể nốt. Câu chuyện con voi.
(Một tay chống hông, một tay đưa ra đằng sau vờ làm đuôi con voi)
- Thông qua hoạt động vận động: Trong góc vận động của lớp tơi đã sử dụng
những thùng bìa để làm thành tàu hoả cho trẻ chơi. Mỗi thùng làm thành một toa
tàu. Trong khi chơi trẻ có thể vừa chơi vừa kết hợp âm nhạc hát: “Đồn tàu tí
hon”, “Tàu vào ga”…..vận dụng vào phát triển ngơn ngữ cho trẻ.
Tơi cịn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ phân
biệt màu khơng bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vịng tơi có thể hỏi trẻ giúp ngơn
ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn:
+ Vịng này có màu gì hả con?
(Màu đỏ ạ)
+ Thế cịn vịng này có màu gì đây?

(Màu xanh ạ)
+ Vịng để làm gì con có biết khơng?
(Để học, để chơi trị chơi ạ)
+ Con sẽ chơi gì với vịng?
(Con lái ơ tơ ạ)
(ảnh 5: Giáo dục ngôn ngữ thong qua hoạt động vận động)
* Giải pháp 8: Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh
“Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo
Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền”
Trong thực tế sự chênh lệch về vốn từ của trẻ ở cùng một độ tuổi trong lớp
là khá lớn. Qua đó vốn từ của trẻ khơng phụ thuộc vào điều kiện vật chất, kinh tế
của gia đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thời gian người thân, trò
chuyện với trẻ như thế nào? Bố mẹ, có lắng nghe bé kể chuyện về các hoạt động
của trẻ ở trường hay những thắc mắc của trẻ về cuộc sống xung quanh. thường
xuyên kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không? Ngày nghỉ có đưa
bé đi chơi cơng viên hay đi thăm họ hàng hay khơng? Tất cả những điều đó
khơng chỉ làm tăng số lượng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng
từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết về thế giới xung quanh và bồi dưỡng
xúc cảm cho trẻ.
Vì vậy giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ, tôi luôn chú trọng đến việc phối kết
hợp với các bậc phụ huynh trong việc dạy trẻ. Tơi xây dựng góc tun truyền
ngay ở tường trước cửa lớp để phụ huynh dễ quan sát. Trong giờ đón trẻ tôi
16


thường xuyên trao đổi với phụ huynh nội dung và phương phát giáo dục phát
triển ngơn ngữ cho trẻ.
Gia đình và nhà trường cần là người bạn đồng hành cùng chí hướng để việc
chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiệu quả. Hàng ngày trao đổi cùng bố mẹ của bé về
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Để phối hợp cùng cô giáo trong việc phát triển

vốn từ cho trẻ, bố mẹ hàng ngày dành thời gian thường xuyên trò chuyện cùng
trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng
nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.
Giáo viên cần phối hợp với phụ huynh, giúp phụ huynh nắm được phương
pháp giáo dục của nhà trường, thơng qua đó phụ huynh sẽ hiểu rõ những hoạt
động của trẻ ở lớp và có thể tham gia đánh giá sự phát triển toàn diện của trẻ
nói chung và ngơn ngữ nói riêng. Mặt khác, phụ huynh cũng đánh giá được
cách giáo dục của mình có phù hợp với nhà trường khơng. Và quan trọng hơn
là phụ huynh có điều kiện tiếp xúc với mơi trường học tập sinh hoạt của trẻ,
có điều kiện gần gũi với các cơ giáo từ đó tạo sợi dây liên kết giữa gia đình và
nhà trường, giúp trẻ được sống trong một mơi trường giáo dục tốt, qua đó cịn
dạy cho trẻ bài học để phát triển ngơn ngữ khi về nhà.
Thông qua biện pháp này, tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi với phụ
huynh vào giờ đón và trả trẻ nhằm tìm hiểu và nắm bắt hồn cảnh gia đình
của từng cháu để có biện pháp kịp thời, đối với trẻ có khả năng ngơn ngữ
“đặc biệt” tơi phải gặp riêng từng phụ huynh để trao đổi và thống nhất biện
pháp rèn luyện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Để từ đó phụ huynh dành thời
gian chăm sóc con cái, quan tâm đến con cái nhiều hơn và cùng với nhà
trường nuôi dạy và giáo dục trẻ tốt hơn.Những giờ phụ huynh đón trẻ, hay
qua bảng tuyên truyền những điều phụ huynh cần biết tôi tuyên truyền cho
phụ huynh biết những nội dung cần phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong tuần,
trong tháng. Tôi hướng dẫn phụ huynh biết cách dạy trẻ nhận biết tập nói, phụ
huynh có thể dạy trẻ nhận biết tập nói bất cứ ở lúc nào ở đâu. Khi dạy trẻ
nhận biết tập nói phụ huynh cần lưu ý. Khi nhận biết tập nói thì phải tiến
hành từ tổng quát đến chi tiết, nhận biết tên gọi trước rồi đến các đặc điểm
nổi bật của các sự vật hiện tượng đó. (ảnh 6- Cơ trao đổi với phụ huynh)
Ví dụ: Nhận biết tập nói “Ơ tơ và xe máy”
Cơ đưa mơ hình cho trẻ quan sát và gọi tên rồi đến các đặc điểm nổi bật của xe ơ
tơ, xe máy.
Dạy trẻ nói các từ chỉ màu sắc, cấu tạo, cơng dụng...khi trẻ nói phải dạy cho trẻ

nói đủ câu, khơng nói câu cụt, khơng nói ngọng, khơng nói lắp và khơng nói
tiếng địa phương. Dạy trẻ cách diễn đạt câu sao cho rõ ràng, mạch lạc biểu cảm.
Ngồi ra bố mẹ có thể hát các làn điệu dân ca đọc thơ, kể chuyện, đọc chuyện
cho trẻ nghe. Điều đó cũng tăng thêm các biểu tượng về thế xung quanh và làm
giàu vốn từ cho trẻ.
Từ đây tôi thấy rằng nếu công tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường tốt
thì vấn đề giáo dục trẻ sẽ đạt kết quả cao từ cơng tác này nhà trường và gia đình
cũng có thể bổ sung cho nhau những mặt mạnh mặt yếu của trẻ đểcùng nhau có
biện pháp giáo dục tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
17


* Bảng 2 : Kết quả áp dụng“Một số giải pháp nâng cao chất lượng phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 25- 36 tháng tuổi thơng qua hoạt động nhận
biếttập nói ở trường Mầm non Liên Lộc năm học 2020-2021".
Kết quả
Đạt
Chưa đạt
Nội dung khảo sát
Số
Tốt
khá
TB
Yếu
Kém
trẻ
S
S
SL % SL %

%
% SL %
L
L
Khả năng nghe,
5
29
9
53 3
18 0 0
0 0
hiểu lời nói
Khả năng nghe và
nhắc lại các âm,
6
35
8
47 3
18 0 0
0 0
tiếng, câu
Trẻ biết sử dụng
17
ngôn ngữ phù hợp
7
41
7
41 3
18 0 0
0 0

giao tiếp (phát âm
rõ ràng mạch lạc)
Trẻ tự tin giao tiếp

5

29

8

47

4

24

0

0

0

0

So sánh với kết quả ban đầu của bảng 1 của bảng 2, kết quả sau khi áp
dụng "Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi thơng
qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường mầm non Liên Lộc năm học 20202021" ta thấy số trẻ hiểu và tiếp thu bài tốt, khá được tăng lên rõ rệt. Số cháu
trung bình giảm cháu yếu kém khơng cịn.
- 100% Trẻ được phát triển ngơn ngữ thơng qua hoạt động nhận biết tập
nói, trẻ mạnh dạn tự tin hơn, tích cực tham gia vào các hoạt động một cách sáng

tạo, linh hoạt.
- Qua kết quả đã chứng minh những biện pháp tôi áp dụng vào giờ hoạt
động nhận biết cho trẻ là rất hữu hiệu. Đây là điều kiện cần thiết để giúp trẻ học
tốt hoạt động này. Đó là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm
phát triển ngành học mầm non, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp giáo dục trồng
người.
- Qua đây tôi thấy sau khi áp dụng các biện pháp trên vào hoạt động nhận
biết tập nói trẻ hứng thú và say mê hoạt động hơn, ngôn ngữ diễn đạt đầy đủ
hơn, chính xác hơn, sự hiểu biết về mơi trường xung quanh của trẻ được mở
rộng và trẻ tự tin hơn trong cuộc sống.
+ Đối với trẻ:
- Trẻ linh hoạt, tự tin và nhanh nhẹn trong các hoạt động.
- Trẻ hứng thú của trẻ tham gia hoạt động.
- Trẻ phát triển nhanh về vốn từ, biết sử dụng các từ để ghép thành câu khi
giao tiếp với bạn, với cô giáo và những người xung quanh trẻ. Khơng cịn trẻ
nhút nhát, chậm chạp, nói ngọng, nói lắp, nói lửng như đầu năm giảm rõ rệt.
Đa số trẻ biết nói to, rõ ràng, trả lời trọn câu.
18


+ Đối với bản thân:
- Quá trình nghiên cứu đề tài, bản thân tơi đã có nhiều kinh
nghiệm hơn trong giảng dạy, đặc biệt là hoạt động nhận biết tập nói. Các bài
soạn, bài dạy khơng cịn gị bó, áp đặt mà có tính mở. Nội dung bài giảng phong
phú, đa dạng và nhiều màu sắc.
- Tôi đưa trẻ và h hoạtđộng nhẹ nhàng, tạo cho trẻ cảm giác thích đến lớp, thích
học. Qua đó giúp giáo viên củng cố và nâng cao hơn kỹ năng nghiệp vụ sư phạm
và kiến thức của bản thân.
+ Đối với đồng nghiệp: Luôn trao đổi lẫn nhau, đưa ra những ý tưởng hay, mới
mẻ có nhiều phương pháp hay, đồ dùng đồ chơi sinh động hấp dẫn trẻ. Từ đó

nhằm lơi cuốn thu hút trẻ vào hoạt động và đạt hiệu quả cao.
+ Đối với nhà trường: Tổ chức các buổi họp chuyên mơn để đưa ra các kinh
nghiệm, góp ý của các đồng nghiệp. Thi làm đồ dùng dạy học cấp trường và tổ
chức các tiết dạy mẫu… Ngồi ra cịn mua sắm thêm nhiều trang thiết bị đồ
dùng dạy học sinh động, hấp dẫn phục vụ cho các hoạt động.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Ngơn ngữ giữ vai trị quan trọng trong cuộc sống hàng ngày, trong hoạt
động nhận thức của con người và sự phát triển toàn diện của trẻ. Chính vì vậy
việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ lứa tuổi mầm non, đặc biệt là ngay từ lứa tuổi
nhà trẻ vô cùng quan trọng và cần thiết. Việc dạy trẻ phát âm chuẩn, nói rõ ràng,
mạch lạc, nói đủ câu góp phần khơng nhỏ vào việc phát triển nhận thức và nhân
cách con người trẻ. Tạo tiền đề tốt cho việc học tập sau này của trẻ. Tôi nhận
thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả q trình liên tục và xun suốt, địi
hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, khắc phục khó khăn. Bên cạnh đó cơ giáo và
cha mẹ phải là tấm gương sáng, phải có ngơn ngữ chuẩn để trẻ học theo. Giáo
viên phải hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ đến sự hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ. Khơng ngừng học tập để nâng cao trình độ chun môn, rèn
luyện ngôn ngữ chuẩn cho bản thân. Luôn tạo khơng khí vui vẻ, thân thiện, gần
gũi, tạo cảm giác an tồn cho trẻ. Ln quan tâm, thương u trẻ như con của
mình nhất là những trẻ nhút nhát. Dành nhiều thời gian trò chuyện với trẻ để trẻ
mạnh dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp
nhiều hơn. Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo hấp dẫn, cuốn hút trẻ, phù
hợp với nội dung bài dạy.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động tham quan, khám phá thế giới
xung quanh trẻ, cho trẻ tiếp xúc với các câu chuyện, bài thơ trên các phương tiện
truyền thơng, các tranh ảnh, mơ hình để trẻ cảm nhận tác phẩm một cách nhẹ
nhàng, tự trẻ đọc theo cô kể theo cô các câu chuyện mà trẻ đã được học được
nghe. Bên cạnh đó cơ còn phải phải thường xuyên học hỏi kinh nghiêm của đồng
nghiệp vào giờ dạy cho trẻ phát huy hết khả năng phát triển ngôn ngữ chotrẻ.

Đồng thời cần phối kết hợp với phụ huynh về các biện pháp giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ mà cô đã thử nghiệm đạt kết qủa trên lớp và tuyên truyền cho phụ
huynh về tầm quan trọng của việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ ở độ tuổi này.
Thường xuyên giữ mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường và gia đình để nắm bắt
tình hình, nhu cầu, nguyện vọng của trẻ.
19


Việc nâng cao chất lượng hoạt động nhận biết tập nói cho trẻ 25-36 tháng tuổi và
phát triển tồn diện là nhiệm vụ hết sức khó khăn ln được đặt hàng đầu. Vì thế
chúng ta phải biết kết hợp tốt và chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình để chăm
sóc ni dạy các cháu theo kiến thức khoa học. Có thể nói rằng những điều mà
trẻ bắt đầu được tiếp cận ở độ tuổi này đều có ảnh hưởng lâu dài đến việc hình
thành tồn bộ nhân cách của trẻ sau này.
3.2. Kiến nghị.
+ Về nhà trường: Các buổi họp chun mơn để đưa ra các kinh nghiệm, góp ý của
các đồng nghiệp. Tổ chức các tiết dạy mẫu… Ngồi ra cịn mua sắm thêm nhiều trang
thiết bị đồ dùng dạy học sinh động, hấp dẫn phục vụ cho các hoạt độngchủ động với
các hoạt động nhằm tăng khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ. Xây dựng tiết
mẫu để giáo viên được học hỏi, đúc rút kinh nghiệm trong q trình giảng dạy
khắc phục những thiếu sót.
Trên đây là“Một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng
tuổi thông qua hoạt động nhận biết tập nói ở trường mầm non Liên Lộc năm
học 2020-2021”được tích lũy từ bản thân tơi. Trong q trình thực hiện đề tài
khơng sao tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong được sự đóng góp
ý kiến của các đồng nghiệp, các nhà quản lý giáo dục để đề tài này của tơi được
hồn thiện hơn áp dụng vào thực tiễn đạt hiệu quả cao. Từ đó góp một phần nhỏ
vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Liên Lộc, ngày 25 tháng 02 năm 2021

CƠ QUAN ĐƠN VỊ
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết,không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN

Lê Thị Loan

Lê Thị Tuyến

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] (Bùi Kim Tuyến), Các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ Mầm non,Nhà
xuất bản giáo dục Việt Nam.
[2] (Đinh Hồng Thái), Giáo trình phát triển ngôn ngữ tuổi Mầm non, Nhà xuất
bản Đại học sư phạm.
[3] Nguyễn Thị Mai Chi, Trần Thu Trang), Tuyển tập bài hát, thơ ca, truyện kể
nhà trẻ, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
[4] (Lê Thu Hương, Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thị Ánh Tuyết), Hướng dẫn tổ
chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non nhà trẻ 3-36 tháng tuổi, Nhà
xuất bản giáo dục Việt Nam.
[5] (Lã Thị Bắc Lý), Văn học thiếu nhi với giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non,
NXB đại học sư phạm.
[6] (Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Như Mai), Giáo trình sự phát triển tâm lý trẻ
em lứa tuổi mầm non, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
[7] (Bộ giáo dục và đào tạo), Chương trình giáo dục Mầm non, Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam.
[8] (Hồng Thị Dinh), Đồ chơi và hướng dẫn trị chơi phát triển trí thơng minh

cho trẻ dưới 6 tuổi, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
[9] (Phạm Thị Việt Hà), Hướng dẫn tạo hình bằng vật liệu thiên nhiên, Nhà xuất
bản giáo dục Việt Nam.


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Tuyến
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Mầm non Liên Lộc
Cấp đánh giá
STT

Tên đề tài SKKN

xếp loại

Kết quả đánh

Năm học

giá xếp loại

đánh giá

(A,B hoặc C)

xếp loại


C

2014-2015

C

2016-2017

( Ngành GD cấp
huyện /tỉnh)

“Một số biện pháp phát
1

triển thẩm mỹ cho trẻ

Phòng GD và

3-4 tuổi thơng qua hoạt

ĐT Hậu Lộc

động tạo hình”
“Một số biện pháp phát
triển ngơn ngữ cho trẻ
2

24-36 tháng tuổi thơng

Phịng GD và


qua hoạt động nhận biết

ĐT Hậu Lộc

ở trường mầm non Hòa
Lộc”


Ảnh 1: Cô gần gũi, yêu thương trẻ

Ảnh 2: Đồ dùng đồ chơi tự làm


Ảnh 3: Các loại củ, quả làm bằng nỉ

Ảnh 4: Cô ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết học.


×