Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 36 tháng tuổi ở trường mầm non sông âm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 20 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý
báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến
ngày càng rộng khắp” [1], đặc biệt là trong công tác giáo dục trẻ mầm non hiện
nay, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện gìn giữ, bảo tồn, truyền đạt và phát triển những
kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người. Ngôn ngữ được sử dụng như một
phương tiện tư duy hay còn gọi là “cái vỏ” của tư duy. Ngôn ngữ là phương thức
biểu đạt ý muốn cho người khác hiểu được những suy nghĩ, những nhu cầu và
mong muốn của bản thân thông qua lời nói. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở
thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người, xây dựng
xã hội ngày càng phát triển hơn. Muốn cho ngôn ngữ của trẻ phát triển thuận lợi,
một trong những điều kiện quan trọng là trẻ được tích lũy nhiều vốn từ và trên
cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó, trẻ biết cách sử dụng “số vốn”
đó một cách thành thạo.
Trường mầm non là nơi có phương tiện và điều kiện phát triển ngôn ngữ
tốt nhất. Chương trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhằm mục đích phát triển
ngôn ngữ kỹ năng một cách toàn diện, giúp trẻ nói thành thạo trước khi đến
trường phổ thông. Chương trình còn khắc phục những khuyết tật của trẻ em về
mặt ngôn ngữ.
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, mọi người đều lo làm ăn,
kiếm sống, thời gian các bậc cha mẹ chăm sóc và trò chuyện với con trẻ để phát
triển vốn từ còn ít, do vậy vốn từ của trẻ em ngày nay phát triển còn hạn chế, bởi
tư duy của trẻ là tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế, trẻ nhanh nhớ chóng
quên. Trẻ chỉ được tiếp xúc và phát triển vốn từ qua ti vi, phim ảnh…chưa được
sự chỉ bảo, uốn nắn của người lớn. Khả năng giao tiếp của trẻ hiện nay còn hạn
chế, trẻ nói trống không, nói không đúng ngữ pháp còn nhiều. Chính vì vậy mà
qua các hoạt động của trẻ trên lớp, tôi thấy rằng trẻ rất thích được giao tiếp,
thích được trò chuyện và thích được nói, nhưng vì ngôn ngữ của trẻ còn ít, các


cháu còn sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều, nên tôi thấy mình cần phải tìm
nhiều biện pháp tác động để kích thích ngôn ngữ của trẻ phát triển. Việc phát
triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, nói mạch lạc, nói đủ
câu… không thể tách rời giữa các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi
từ cung cấp cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với
âm thanh và tình huống sử dụng chúng. Vì vậy nội dung vốn từ cung cấp cho trẻ
“Tiếng nói là thứ của cải vô cùng ……ngày càng rộng khắp” sách Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13,
tr.465.
1

1


cũng như hình thức ngữ pháp phải phụ thuộc vào khả năng tiếp xúc, hoạt động
và nhận thức của trẻ. Từ những lý do trên nên tôi đã trăn trở và chọn đề tài:
“Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36 tháng tuổi ở trường
mầm non Sông Âm” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36
tháng tuổi ở trường mầm non Sông Âm” nhằm giúp trẻ phát triển khả năng
nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách có lôgic, có trình tự, chính xác, mạch lạc.
- Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người.
- Làm phong phú vốn từ cho trẻ.
- Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi ở trường
mầm non Sông Âm
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý thuyết:

Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận về đặc điểm phát triển
tâm lý, phát triển ngôn ngữ của trẻ 25 - 36 tháng tuổi qua các tài liệu, sách báo.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Khảo sát tình hình thực tế trên trẻ, các biện pháp đã tác động trên trẻ, kết
quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để từ đó lựa chọn các biện
pháp phù hợp.
- Phương pháp thống kê, thực nghiệm, xử lý số liệu:
Lựa chọn các biện pháp phù hợp và áp dụng vào thực tế. Đánh giá kết
quả đạt được và so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng biện pháp.

II. NỘI DUNG
2


1. Cơ sở lý luận:
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ được hình thành rất sớm. Trẻ em không
có ý thức về ngôn ngữ nhưng bằng cách bắt chước có tính chất bản năng, trẻ sẽ
học được cách nói của những người xung quanh mình.
Ngôn ngữ giúp trẻ bày tỏ ý kiến, đặt câu hỏi, phân loại và phát triển cách
tư duy và tạo nên câu hỏi giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Vygotsky đã nhấn
mạnh rằng: “Ngôn ngữ nói rất quan trọng trong việc giải quyết nhiệm vụ khó,
tạo mối quan hệ xã hội và kiểm soát hành vi của bản thân. Chúng ta thường
nghe thấy trẻ tự nói thành tiếng lớn khi chúng chơi cùng nhau và tương tác với
các trẻ khác”.[ 2]
Nhà tâm lý học: Nguyễn Ánh Tuyết đã nêu:[3]
Số lượng từ ngữ trong giai đoạn 3 - 4 tuổi khoảng từ 800 - 1926 từ
(nghiên cứu của E.Arkin). Những đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ trong
giai đoạn này là:
+ Ngôn ngữ của trẻ được xây dựng từ câu ngắn đến câu có nhiều âm tiết.
+ Ngôn ngữ của trẻ thể hiện giọng điệu rõ nét.

+ Ngôn ngữ của trẻ thường kèm theo các hình thức hoạt động tư duy khác
nhau, kích thích hành động.
+ Thường nhắc đi nhắc lại một từ trong câu trọn vẹn.
Ngôn ngữ mang màu sắc cảm xúc rõ nét.
Ngôn ngữ của trẻ có ưu thế rõ nét thể hiện hứng thú cá nhân, hoạt động cá
nhân của trẻ.
Tác giả Trịnh Thị Hà Bắc đã nhấn mạnh: “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ
thực chất là phát triển hoạt động lời nói. Quá trình phát triển lời nói của trẻ
gắn bó rất chặt chẽ với 2 cơ chế của hoạt động lời nói là sản sinh ngôn ngữ và
tiếp nhận ngôn ngữ. Quá trình hình thành lời nói ở trẻ gắn bó rất chặt chẽ với
hoạt động của tư duy. Sự mạch lạc trong lời nói của trẻ thực chất là sự mạch lạc
của tư duy. Việc tiếp thu ngôn ngữ có nhiều đặc điểm khác với việc tiếp thu kiến
thức trong các lĩnh vực khác. Ngôn ngữ được hình thành từ rất sớm. Ban đầu
trẻ không có ý thức về ngôn ngữ và học nói theo cách tự nhiên, về sau, khi tư
duy phát triển thì có thể tổ chức học nói có ý thức hơn”. [4]
Chương trình giáo dục mầm non tốt là một chương trình lấy trẻ làm trung
tâm. Có nghĩa là nó được xây dựng dựa trên hứng thú, nhu cầu, kinh nghiệm và
khả năng của trẻ. Chương trình này sẽ tạo cơ hội cho trẻ được phát triển toàn
2

Ngôn ngữ giúp trẻ bày tỏ ý kiến………khi chúng chơi cùng nhau và tương tác với các trẻ khác” Trang 2 phần
tầm quan trọng của Ngôn ngữ. Mô đun MN1- A xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm giáo dục phát
triển ngôn ngữ
3
“Số lượng từ ngữ trong giai đoạn……. Ngôn ngữ của trẻ có ưu thế rõ nét thể hiện hứng thú cá nhân, hoạt động
cá nhân của trẻ….” – Sách tâm lý trẻ em-Nguyễn Ánh Tuyết. Chương 7. Bài 6
4
“Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thực chất là phát triển hoạt động lời nói...hình thức tổ chức dạy nói cho phù
hợp”. Phần 1- Trang 9- Tác giả: Trinh Thị Hà Bắc- Đại học Huế.


3


diện, không chỉ chú trọng tới sự phát triển trí tuệ mà còn nuôi dưỡng tâm hồn,
phát triển thể chất và khả năng giao tiếp xã hội của trẻ.
Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài, đã giúp tôi căn cứ vào đó để
tìm ra những biện pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp để tăng cường phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
2. Thực trạng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36 tháng tuổi ở
trường mầm non Sông Âm trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Năm học 2016 - 2017 tôi được phân công chủ nhiệm lớp nhà trẻ 25 - 36
tháng tuổi có tổng số 20 cháu qua việc tổ chức các hoạt động đặc biệt là hoạt
động phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
2.1. Thuận lợi:
- Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ tương đối phong
phú về màu sắc hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ.
- Bản thân đã nhiều năm công tác trong ngành, cùng với lòng nhiệt tình,
yêu nghề, cùng với sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, nên có nhiều
kinh nghiệm trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ, đặc biệt là trẻ nhà trẻ. Được
tham gia đầy đủ các lớp tập huấn chuyên đề do phòng Giáo dục và Đào tạo mở,
từ đó tôi nắm vững phương pháp dạy học của từng môn học.
- Ngoài ra còn có sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh. Đây cũng
là yếu tố thuận lợi để tôi có thể áp dụng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ. Bên cạnh những thuận lợi thì cũng gặp phải một số khó khăn.
2.2. Khó khăn:
Đặc điểm tâm lý của trẻ 25 - 36 tháng tuổi là nhanh nhớ, chóng quên, vốn
từ còn hạn chế, trẻ thường trả lời không đầy đủ câu.
Trong lớp tôi 100% các cháu năm nay mới bắt đầu đi học nên còn quấy
khóc nhiều, chưa quen với các hoạt động của trường mầm non, cũng như các
thói quen học tập dẫn đến việc cung cấp ngôn ngữ cho trẻ còn gặp khó khăn.

Phần đa trẻ nói tiếng mẹ đẻ (tiếng dân tộc) nên khó khăn trong việc giao
tiếp của cô và trẻ.
Khả năng lĩnh hội thông tin của trẻ rất hạn chế, nếu cô truyền đạt một câu
dài hoặc một sự việc có nội dung truyền tải nhiều trẻ sẽ không tiếp thu được nội
dung mà cô cần truyền tải.
Vì chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
cho nên trong quá trình chăm sóc, giáo dục hầu như giáo viên chưa chú ý đến
việc thay đổi nội dung và cách thức trò chuyện, tạo các tình huống cho trẻ thể
hiện những tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm từ.
Giáo viên chưa chú ý luyện câu, từ cho trẻ, nhiều trẻ nói thiếu, nói ngọng,

4


nói lặp, cô chưa kịp thời điều chỉnh và sửa sai. Giáo viên chưa chú trọng lồng
ghép phát triển ngôn ngữ vào các hoạt động trong ngày, lựa chọn trò chơi vào
hoạt động chưa phù hợp.
Giáo viên cũng chưa chú trọng phối hợp với phụ huynh trong việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
2.3. Kết quả thực trạng:
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã khảo sát chất lượng trên trẻ,
kết quả đạt như sau:
TT
Nội dung
Tổng số
Đạt
Chưa đạt
trẻ
Số trẻ %
Số trẻ %

1 Khả năng nghe, hiểu lời nói.
20
10
50
10
50
2 Khả năng nghe và nhắc lại các
20
11
55
9
45
âm, các tiếng và các câu.
3 Trẻ biết sử dụng ngôn ngữ phù
hợp giao tiếp (phát âm rõ
20
10
50
10
50
ràng, mạch lạc).
4 Trẻ tự tin khi giao tiếp
20
9
45
11
55
Qua kết quả đó tôi miệt mài nghiên cứu tài liệu, các chuyên đề bồi dưỡng,
các tập san giáo dục mầm non và học hỏi đồng nghiệp và đưa một số biện pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 25 đến 36 tháng tuổi.

3. Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36 tháng tuổi ở
trường mầm non Sông Âm.
Sự lĩnh hội ngôn ngữ là rất cần thiết cho việc phát triển tình cảm, xã hội
và nhận thức. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ảnh hưởng đến khả năng học tập và
cả tương lai sau này ngôn ngữ nói và khả năng đọc viết là rất quan trọng cho
những thành công trong tương lai của con người. Ngôn ngữ của trẻ nhà trẻ là
ngôn ngữ đầu tiên mà trẻ sử dụng để thiết lập mối quan hệ và giao tiếp với người
khác, để tạo dựng tri thức và học tập. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả
năng nghe, hiểu ngôn ngữ và phát âm chuẩn, biết sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp,
có thể nói rõ ràng, mạch lạc. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã
mạnh dạn áp dụng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ như sau:
3.1. Lồng ghép các nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các
hoạt động.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các hoạt động là rất cần thiết,
bởi lẽ ngôn ngữ nhằm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp và nhận thức, nói lên những
suy nghĩ của mình, chia sẻ kinh nghiệm, thông qua các hoạt động này giúp trẻ
thực hành ngôn ngữ, trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt động giao tiếp, mở
rộng được vốn từ cho trẻ.
5


* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ đón trẻ.
“Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo, khi đến trường cô giáo như mẹ hiền”. Câu
hát ấy đã được nhạc sĩ Phạm Tuyên nhắc đến trong bài hát: “Cô và Mẹ”. Ở nhà
trẻ có những người thân của mình, trẻ được sống trong tình cảm thân thương,
nơi mà trẻ đã rất quen thuộc, trẻ được cưng chiều từ bữa ăn cho đến giấc ngủ.
Khi đến lớp, trẻ đang còn bỡ ngỡ lạ lẫm, cô phải là người gần gũi, là người trẻ
tin tưởng nhất để chia sẻ mọi chuyện. Vì vậy cô phải niềm nở, ân cần tích cực
trò chuyện với trẻ để trẻ nói nhiều, trả lời cô, qua đó cung cấp vốn từ và phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ nói mạch lạc, bởi qua trò chuyện

cùng cô, trẻ được cung cấp vốn từ, trẻ nói nhiều, vốn từ sẽ phong phú, trẻ sẽ
khắc sâu hơn những kiến thức mà cô truyền đạt cho trẻ. Từ đó mà kinh nghiệm
sống của trẻ sẽ tốt hơn.
Ví dụ: Cô trò chuyện với trẻ về những vấn đề liên quan gần gũi với trẻ.
- Hôm nay ai đưa con đi học?
- Trong gia đình con có những ai?
- Bố con đưa con đi học bằng phương tiện gì?
- Ở nhà ai thường nấu cơm cho con ăn?
- Ai hay đưa con đi chơi?

Hình ảnh: Cô trò chuyện với trẻ trong giờ đón trẻ.
Như vậy, lúc đầu, ngôn ngữ của trẻ chỉ là những từ riêng lẻ xuất phát từ
nhận thức thế giới xung quanh trẻ chưa thể nói thành câu hoàn chỉnh. Qua quá
trình tiếp xúc với mọi người, với cô giáo, với bạn bè, vốn ngôn ngữ của trẻ tăng
lên, trẻ học được cách nói của người lớn, lúc đó trẻ mới nói được thành câu hoàn
chỉnh. trẻ sẽ mạnh dạn, tự tin hơn, ngôn ngữ của trẻ ngày càng mạch lạc hơn.
* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi ở các góc.
Hoạt động chơi với đồ chơi ở các góc giúp trẻ được khám phá rất nhiều
thứ từ môi trường xung quanh, phát triển các giác quan, tìm hiểu sở thích của
bản thân.
Qua chơi trẻ học và tích lũy được nhiều kinh nghiệm và vốn sống cho
6


mình, giờ hoạt động ở các góc trẻ được chơi và giao tiếp cùng bạn bè, phối hợp
chơi cùng nhau. Chính vì vậy, ngôn ngữ nói của trẻ được tăng lên. Qua chơi ở
các góc cô có thể cung cấp thêm cho trẻ từ mới và nắm bắt được khả năng về
ngôn ngữ của trẻ.
Ví dụ 1: Cô đến các góc chơi: “Thao tác vai”
Cô có thể hỏi:

- Bác đang nấu gì đấy?
- Cơm đã chín chưa bác?
- Bác đang nấu canh gì đấy?...
Ngoài ra cô tạo các tình huống có vấn đề, để các nhóm chơi được giao lưu
cùng nhau. Tình huống chơi đòi hỏi trẻ tham gia vào góc chơi phải có một trình
độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Nếu trẻ không diễn đạt được mạch lạc
nguyện vọng, ý kiến của mình, không hiểu được lời chỉ dẫn của cô thì không thể
tham gia vào góc chơi được.
Ví dụ: Cô đến góc chơi nấu ăn: Cô có thể tạo tình huống
- Cô thấy búp bê có vẻ rất đói rồi. Búp bê muốn ăn cơm với trứng
rán. Vậy bác nào sẽ đến cửa hàng mua trứng nào? Khi đến cửa hàng các bác nói
như thế nào?....
Từ tình huống trên kích thích trẻ trò chuyện, trao đổi giao lưu cùng nhau,
qua đó ngôn ngữ của trẻ được tăng lên.

Hình ảnh: Trẻ đang chơi ở các góc
Ví dụ 2: Trong góc: Hoạt động với đồ vật ở chủ đề “cây, rau, quả mà bé
thích”.
Bằng đồ dùng tự tạo đó chính là những hạt nhãn phơi khô đã đục sẵn lỗ,
sơn màu xanh, đỏ, tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua để làm vòng . Cô có thể hỏi trẻ:
- Con đang xâu gì vậy?
- Con xâu vòng tặng ai?
- Vòng con xâu màu gì?
7


- Muốn xâu được vòng, con phải xâu như thế nào?
Tương tự vậy, cô đặt ra nhiều câu hỏi để trẻ trả lời. Qua câu trả lời của trẻ
cô có thể chỉnh sửa kịp thời cho trẻ về cách phát âm, cách dùng từ....
Như vậy, qua việc tổ chức cho trẻ chơi ở các góc, các biểu tượng mà trẻ

thu nhận trước đây được chính xác hóa bằng ngôn ngữ. Qua chơi đã giúp trẻ nhớ
ngôn ngữ, được sử dụng ngôn ngữ nhiều hơn để trao đổi với bạn, với cô, đồng
thời tạo ra các tình huống để trẻ sử dụng vốn từ đã tích luỹ được...
* Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động dạo chơi ngoài trời.
Hoạt động dạo chơi ngoài trời cũng là một hoạt động không thể thiếu
trong chế độ sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Thông qua hoạt động ngoài trời, trẻ
được tiếp xúc gần gũi với thiên nhiên, hít thở bầu không khí trong lành, được
khám phá. thỏa mãn trí tò mò của trẻ. Chính vì vậy, tôi lựa chọn những nội dung
trò chuyện với trẻ thật nhẹ nhàng, thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ gọi tên các đồ
chơi ngoài trời như: đu quay, xích đu, Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ mọi vấn
đề đang diễn ra xung quanh trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát vườn hoa. Cô có thể hỏi:
- Đây là cây hoa gì? Cô chỉ vào từng bộ phận của hoa (Lá hoa, Cánh hoa,
Nhị hoa....) để cho trẻ gọi tên.
- Lá cây màu gì? Hoa màu gì? Trồng hoa để làm gì?

Hình ảnh: Cô và trẻ đang quan sát vườn hoa
Hoạt động dạo chơi, tham quan có tác dụng rất lớn đối với việc mở rộng
tầm hiểu biết của trẻ. Thiên nhiên không chỉ mang đến cho trẻ những thứ cần
thiết, mà còn hấp dẫn trẻ bởi những điều kỳ diệu mà không có gì thay thế nổi.
Đồng thời trong quá trình dạo chơi trẻ được đặt nhiều câu hỏi về tên gọi, công
dụng… của sự vật mà trẻ được tiếp xúc. Vì vậy, dạo chơi, tham quan có tác dụng
lớn trong việc phát triển vốn từ cho trẻ.
8


Như vậy qua việc lồng ghép phát triển ngôn ngữ qua các hoạt động phù
hợp đã mang lại hiệu quả cao. Trẻ đã mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, trẻ không
còn nói trống không, nói ngọng, nói lắp đã giảm. Từ đó vốn từ của trẻ được tăng
lên, trẻ nói đúng câu, diễn đạt mạch lạc.

3.2. Lựa chọn lồng ghép phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong hoạt động
chơi - tập có chủ định.
Việc lựa chọn nội dung lồng ghép phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong hoạt
động chơi - tập có chủ định rất quan trọng vì qua giờ học trẻ được tri giác các sự
vật hiện tượng, được trao đổi với cô giáo, bạn bè theo một trình tự có hệ thống,
sắp xếp từ dễ đến khó, từ chi tiết đến tổng thể, giúp trẻ củng cố, hệ thống hóa
kiến thức một cách khoa học. Vì vậy mà tôi đã lựa chọn và lồng ghép phát triển
ngôn ngữ trong từng hoạt động sao cho phù hợp, đem lại hiệu quả cao.
* Phát triển ngôn ngữ qua giờ nhận biết:
Thông qua giờ nhận biết nhằm hướng dẫn trẻ xem xét sự vật, hiện tượng
xung quanh gần gũi với trẻ, giúp trẻ nhận biết được sự vật, những đặc điểm, cấu
tạo của sự vật, hành động với sự vật... trên cơ sở đó cung cấp những từ tương
ứng, từ đó rèn luyện kỹ năng phát âm, rèn luyện câu theo cấu trúc ngữ pháp và
đặc biệt là tăng nhanh vốn từ của trẻ.
Trẻ lứa tuổi 25 - 36 tháng tuổi bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn
chỉnh, ngôn ngữ hay nói ngọng, nói lắp, nói không gọn câu, không đủ câu. Trẻ
nhanh nhớ, chóng quên, chính vì vậy, để trẻ nói nhiều, khắc sâu được biểu
tượng, từ mới cung cấp cho trẻ, thì trước tiên đồ dùng cô chuẩn bị phải đẹp, hấp
dẫn đễ thu hút trẻ. Bên cạnh đó, hệ thống câu hỏi cô đưa ra phải ngắn gọn, dễ
hiểu, giúp trẻ nói đúng, nói đủ câu.
Ví dụ: Cho trẻ nhận biết: “Con chó”, “con mèo”
Khi cho trẻ nhận biết “con chó”, “con mèo” tôi cần chuẩn bị video hoặc
ảnh chụp để cho trẻ quan sát. Tôi cung cấp cho trẻ các từ mới: “con chó”, “con
mèo”, “đuôi chó”, “đuôi mèo”.....; có thể cung cấp thêm những từ dài hơn: “con
chó giữ nhà”, “con mèo bắt chuột”...
Nhận biết con chó:
Để cung cấp các từ mới tôi cần xây dựng hệ thống câu hỏi:
- Đây là con gì?
- Con chó có những bộ phận nào?( trẻ trả lời đến đâu, cô dùng que chỉ chỉ
vào các tai, mắt, mũi, đuôi, chân và cho trẻ phát âm).

- Con chó sống ở đâu?
Nhận biết con mèo:
Cô cho trẻ xem video con mèo.
- Đây là con gì?( đây là con mèo)
9


- Con mèo có những gì đây?( chỉ vào các bộ phận để trẻ quan sát và phát
âm)
- Ngoài con chó và con mèo còn những con vật nào nữa?
Giáo dục trẻ biết yêu thương, chăm sóc, bảo vệ con vật nuôi trong gia
đình.
Qua nhận biết “con chó, con mèo” trẻ được mở rộng thêm về thế giới
xung quanh, biết đặc điểm, cấu tạo, ích lợi của vật nuôi, biết chăm sóc, bảo vệ
chúng, biết tránh xa những con vật gây hung dữ. Bên cạnh đo tôi cung cấp cho
trẻ những từ tương ứng.
Ví dụ 2 : Giờ nhận biết: “Quả xoài, quả chuối” muốn cung cấp từ cho trẻ,
cô cần chuẩn bị một quả xoài, quả chuối thật màu vàng để cho trẻ quan sát. Tôi
cung cấp các từ: “quả chuối, quả xoài, quả xoài có hạt, vỏ chuối nhẵn, quả chuối
chín màu vàng, quả chuối chưa chín màu xanh...”.

Hình ảnh: Giờ nhận biết.
Nhận biết quả xoài:
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi:
- Đây là quả gì?
- Quả xoài màu gì?
- Thế bên trong quả xoài có gì?(cô cắt quả xoài và cho trẻ quan sát).
- Khi ăn quả xoài chúng ta phải làm gì?
Cho trẻ chuyền tay nhau quan sát quả xoài. Cô giới thiệu quả xoài chín
màu vàng, quả xoài chưa chín màu xanh.

Nhận biết quả chuối:
Cô đưa quả chuối hỏi trẻ:
- Đây là quả gì?(cho trẻ phát âm từ quả chuối).
- Quả chuối này màu gì?(quả chuối này màu vàng, cho trẻ phát âm từ màu
vàng).
10


- Quả chuối này màu gì?(quả chuối màu xanh, cho trẻ phát âm từ màu
xanh).
- Cho trẻ biết quả chuối chín màu vàng, quả chuối chưa chín màu xanh.
Cho trẻ chuyền tay nhau quan sát quả chuối chín và quả chuối xanh.
Cô bóc chuối cho trẻ nếm:
Quả chuối có vị gì?(quả chuối ngọt).
Trước và sau khi ăn hoa quả các con phải làm gì?(Phải rửa tay)
Ngoài quả xoài, quả chuối còn những quả nào nữa, bạn nào biết kể cho
các bạn và cô nghe nào?
Giáo dục: Các loại quả cung cấp vitamin giúp cơ thể chúng ta mau lớn,
khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, vì vậy các con nhớ ăn nhiều hoa quả nhé.
Cứ như vậy tôi đặt câu hỏi từ dễ đến khó, tổng thể đến chi tiết cho trẻ trả
lời nhằm kích thích trẻ tư duy, nhằm làm tăng vốn từ và khả năng giao tiếp của
trẻ. Trẻ được nhìn, sờ, ngửi, cầm, nếm. Qua đó tính tích cực tư duy, khả năng ghi
nhớ có chủ định của trẻ được nâng lên.
Như vậy qua giờ nhận biết đã rèn luyện kỹ năng phát âm của trẻ, rèn
luyện cho trẻ nói đúng, đủ câu và đặc biệt là vốn từ của trẻ đã tăng nhanh.
* Thông qua giờ thơ, truyện.
Giờ thơ, truyện cũng là giờ cung cấp vốn từ cho trẻ nhiều nhất. Trẻ được
trả lời cô, được đọc thơ, được cô sửa lỗi phát âm. Cô khuyến khích trẻ đọc
nhiều, kết hợp sửa sai, cô nhắc lại và yêu cầu trẻ phát âm từ đó. Đối với những
trẻ cá biệt, cô gây sự chú ý cho trẻ bằng ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ. Khi trẻ có biểu

hiện không nghe lời, cô đặt câu hỏi, nêu tình huống và yêu cầu trẻ đó trả lời,
nhằm chuyển sự chú ý của trẻ theo mục đích của cô.
Ví dụ 1: Trong giờ đọc thơ, cô đọc cho trẻ nghe bài thơ “Con cua”, bài thơ
sẽ hay hơn khi có hình ảnh minh họa. Sau đó cho trẻ đọc nếu thấy trẻ đọc sai
hoặc ngọng thì cho trẻ dừng lại và sửa ngay chứ không để cho trẻ đọc hết bài
thơ.
Khi đặt câu hỏi nên đặt câu hỏi mở để trẻ tư duy và trả lời được câu hỏi
của cô.
Trong bài thơ: Con Cua.
- Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì?
- Con cua có những bộ phận gì?
- Con cua có mấy cẳng?
- Con cua có mấy càng?
- Con cua đeo cái gì?
- Con cua sống ở đâu?
Nếu trẻ không trả lời được thì cô gợi mở cho trẻ trả lời, cho nhiều trẻ
11


nhắc lại để phát triển ngôn ngữ và sửa sai khi trẻ nói ngọng, nói lắp.
Thông qua thơ, truyện, trẻ được nói nhiều vốn từ sẽ phong phú, trẻ sẽ
khắc sâu hơn được những kiến thức mà cô đã truyền đạt cho trẻ, qua đó vốn kinh
nghiệm sống của trẻ sẽ tốt hơn.
Ví dụ 2: Trong giờ kể chuyện: “Thỏ con không vâng lời”, để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, trong quá trình trích dẫn, giảng giải tôi chú trọng cung cấp từ
mới cho trẻ và cho trẻ đọc từ mới, từ khó. Tiếp theo tôi dùng hệ thống câu hỏi
đàm thoại theo hướng mở để kích thích trẻ trả lời những câu dài. Cụ thể:
- Cô vừa kể chuyện gì?
- Trong truyện có những ai?
- Thỏ mẹ đã dặn Thỏ con như thế nào?

- Ai đã đến rủ Thỏ con đi chơi?
- Bạn Bươm Bướm đã rủ Thỏ con như thế nào?
- Ai đưa Thỏ con về?
- Thỏ con đã nói gì với Thỏ mẹ?
- Giáo dục trẻ ngoan ngoãn, vâng lời người lớn.
Ngoài việc cung cấp thêm vốn từ cho trẻ thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói
lộn, nói lắp cũng vô cùng quan trọng. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú ý
đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ.
Ví dụ: Trẻ hay nói:
“Ăn cơm” thành “ăn chơm”.
“Con cá” thành “Con chá”.....
Khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai cho trẻ bằng cách tôi nói mẫu 1 - 2 lần
sau đó yêu cầu trẻ nói lại.
Tôi phải luôn thay đổi hình thức dạy để trẻ thực sự có hứng thú, trẻ được
trực tiếp tham gia vào các hoạt động một cách chủ động, tích cực, sáng tạo.
Như vậy qua thơ truyện có tác dụng làm giàu vốn từ (đặc biệt là vốn từ
nghệ thuật), phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, bồi dưỡng năng lực cảm thụ
tác phẩm nghệ thuật và diễn đạt bằng ngôn ngữ văn học.
*Thông qua giờ âm nhạc.
Khi nói và hát, trẻ cùng sử dụng một bộ máy phát âm. Vì thế, dạy hát cho
trẻ cũng là luyện âm thanh ngôn ngữ, bởi trẻ phải lắng nghe rất cẩn thận để cảm
nhận giai điệu, nhịp điệu của bài hát thì trẻ mới hát được. Dạy trẻ hát tức là rèn
luyện cho trẻ khả năng điều khiển bộ máy phát âm của mình và khi trẻ hát các
bài hát, trẻ phải làm chủ việc điều khiển bộ máy phát âm để hát vừa đúng nhạc,
vừa biểu cảm…
Ví dụ: Dạy trẻ hát bài: “Cả nhà thương nhau”
Đầu tiên cô hát mẫu chậm, rõ lời để trẻ cảm nhận được nhịp điệu, giai
12



điệu và lời của bài hát. Sau đó cô dạy cho trẻ hát từng câu, từng lời. Khi trẻ hát
cô chú ý sửa sai cho trẻ hát đúng lời, rõ lời và đúng nhạc.
Ngoài ra nghe hát sẽ phát triển cho trẻ kỹ năng nghe tinh xảo hơn thông
qua các giai điệu bài hát. Chính vì vậy, các tiết học âm nhạc góp phần rất lớn
trong việc luyện tai nghe cho trẻ. Tai nghe âm nhạc giúp cho khả năng nghe tinh
tế hơn, nhạy cảm hơn rất nhiều bởi bản chất của âm thanh âm nhạc. Nghe nhạc
là nghe một cách toàn diện cả về cao độ, cường độ, nhịp điệu, âm sắc…
Vì vậy, để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt
hơn, thôi thúc tôi phải nghiên cứu, lựa chọn những bài hát phù hợp, thay đổi
hình thức tổ chức hoạt động để thu hút được trẻ tham gia.
Như vậy, qua giờ âm nhạc các kỹ năng của âm nhạc sẽ giúp trẻ thu nhận và
sử dụng ngôn ngữ để miêu tả học các từ ngữ và cách phát âm. Từ đó trẻ được
phát triển ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ có vần, có nhịp, trẻ
mạnh dạn hơn, tự tin hơn, ngôn ngữ lưu loát hơn, vốn từ tăng lên.
3.3. Lựa chọn một số trò chơi phù hợp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trò chơi chiếm giữ một vịt rí quan trọng trong các hoạt động giáo dục ở
trường mầm non. Thông qua trò chơi trẻ sẽ được thực hành ngôn ngữ, dùng
ngôn ngữ để nói ra những ý nghĩ của mình và học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với
bạn...
Sử dụng trò chơi để phát triển ngôn ngữ tạo cho trẻ một trạng thái học nói
tự nhiên, là con đường nhanh nhất để trẻ bắt chước, tập nói và ghi nhớ lâu những
từ ngữ mới học được…
* Luyện phát âm theo mẫu.
Đặc điểm của trẻ nhà trẻ là còn nói ngọng, nói lắp nhiều. Để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ chúng ta cần phải tỉ mỉ, kiên trì. Trẻ đang học nói, câu chưa
hoàn chỉnh. Vì vậy tôi thường xây dựng mẫu câu cho trẻ tập nói.
Khi xây dựng mẫu câu tôi thường xây dựng câu đơn sau đó mới xây dựng
tiếp đến câu phức tạp. Khi dạy cho trẻ phát âm theo mẫu câu, thì tôi phát âm
trước một đến hai lần. Tôi phát âm chậm, rõ ràng sau đó mới cho trẻ phát âm
theo. Khi trẻ phát âm sai không nên nhắc lại cái sai của trẻ mà cần cung cấp

ngay âm đúng và yêu cầu trẻ phát âm lại. Khi dạy trẻ phát âm, tôi dạy trẻ phát
âm với cường độ, tốc độ khác nhau.
Ví dụ: Tôi xây dựng mẫu câu:
Đây là con gà.
Tôi phát âm 1-2 lần, yêu cầu trẻ phát âm theo tổ, nhóm, cá nhân. Trong
khi trẻ phát âm cô chú ý sửa sai cho trẻ. Khi trẻ phát âm thành thạo hơn, tôi xây
dựng mẫu câu dài hơn, khó hơn cho trẻ phát âm. Tôi thường xuyên đặt câu hỏi
để trẻ được trả lời.
13


Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những vấn đề nóng bỏng cần
được quan tâm. Việc trẻ nhỏ phát âm không chính xác (ví dụ như: Con lợn - Con
nợn, Củ cà rốt - Củ cà lốt …) chủ yếu là do cơ quan phát âm của trẻ chưa linh
hoạt, nhạy cảm, trẻ chưa biết cách điều chỉnh hơi thở ngôn ngữ và giọng nói cho
phù hợp với nội dung nói. Vì vậy, trẻ cần phải được luyện tập thường xuyên,
mọi lúc mọi nơi, và thời gian lâu dài. Người lớn cần phát âm chuẩn, dúng cho
trẻ nghe và bắt chước.
* Cung cấp vốn từ và rèn luyện kỹ năng phát âm cho trẻ qua trò chơi dân
gian, ca dao, đồng dao.
Ví dụ: Trò chơi:“ Dung dăng dung dẻ”.
Mục đích:
- Thông qua trò chơi giúp trẻ phát triển ngôn ngữ nói.
- Trẻ biết chơi cùng bạn.
- Phát triển vận động ở trẻ.
Cách tiến hành:
Cô giáo và 5 - 7 trẻ cùng nắm tay nhau, vừa đi vừa đung đưa theo nhịp bài
đồng dao. Đến câu “ xì xà xì xụp” thì tất cả cùng ngồi xổm một lát, rồi lại đứng
dây, vừa đi vừa đọc tiếp bài đồng dao.
Dung dăng dung dẻ

Lạy cậu lạy mợ
Cho cóc ở nhà
Dắt trẻ đi chơi
Cho cháu về quê
Cho gà bới bếp
Đến ngõ nhà trời
Cho dê đi học
Xì xà xì xụp.
Đến câu “ xì xà xì xụp” thì tất cả cùng ngồi xổm một lát, rồi lại đứng dậy,
vừa đi vừa đọc tiếp bài đồng dao

Hình ảnh : Cô và trẻ chơi trò chơi “Dung dăng dung dẻ”
Tương tự như vậy, tôi lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp để cung cấp
14


thêm vốn từ và rèn luyện kỹ năng phát âm cho trẻ. Thông qua trò chơi, trẻ được
củng cố sự hiểu biết về thế giới xung quanh, vốn ngôn ngữ và khả năng giao tiếp
của trẻ nhờ đó mà được tăng lên.
3.4. Kết hợp với phụ huynh để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Gia đình là nền tảng, là xã hội thu nhỏ của trẻ, xác định được điều này tôi
luôn trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ ở trường bằng nhiều hình thức
như: gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khỏe, việc học của trẻ,
tuyên truyền tới các bậc phụ huynh về cách nuôi con theo khoa học, thống nhất
về kế hoạch hoạt hoạt động cho từng tháng, từng tuần ngoài ra tôi còn phô tô
thêm tài liệu như: thơ, chuyện, bài hát, để phụ huynh nắm bắt được chương
trình, kết hợp dạy trẻ ở tại gia đình. Như vậy sẽ tận dụng được thời gian dạy trẻ,
phát triển tư duy với môi trường xung quanh, ngôn ngữ của trẻ được phát triển
tốt.
Tôi trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của việc phát triển ngôn

ngữ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo trong việc phát
triển ngôn ngữ. Hàng ngày phụ huynh phải dành nhiều thời gian thường xuyên
trò chuyện cùng trẻ, nhất là trò chuyện với trẻ bằng tiếng Việt, cho trẻ được tiếp
xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, luôn đặt câu hỏi, khuyến
khích trẻ trả lời, luôn lắng nghe tâm tư nguyện vọng, đáp ứng những mong
muốn chính đáng của trẻ.
Ví dụ: Từ: “Cơm, cá”, nhưng cháu Thanh Thùy lại phát âm thành:
“Chơm, chá”. Tôi gặp gỡ phụ huynh và cùng thống nhất tuần này cô cùng gia
đình dạy cháu phát âm chuẩn từ cơm, cá. Tôi đưa tranh con cá, bé đang ăn cơm
về nhà cho phụ huynh và nhờ phụ huynh dạy trẻ phát âm ở nhà.
Đối với những cháu nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong
việc phối hợp với cô giáo để trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ
được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp,
được nói nhiều, được sửa lỗi phát âm..
Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm tranh ảnh, sách báo, họa
báo có những hình ảnh ngộ nghĩnh để xây dựng góc thư viện sách của lớp.
Như vậy phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giúp trẻ lĩnh hội cả ba thành phần
của ngữ pháp đó là: phát âm, vốn từ, ngữ pháp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của
phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ là dạy trẻ nghe, hiểu và giao tiếp
bằng ngôn ngữ. Trẻ là chủ thể của quá trình phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ của
trẻ được phát triển thông qua quá trình giao tiếp của trẻ với những người xung
quanh, với môi trường thiên nhiên và xã hội. Để phát triển ngôn ngữ, trẻ phải
được nghe lời nói, được bắt chước lời nói, được chủ động nói. Nội dung phát
triển ngôn ngữ phải hướng vào trẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ. Các hoạt
15


động phát triển ngôn ngữ phải được thiết kế theo hướng tích hợp và tích hợp
theo chủ đề. Thời lượng phải linh hoạt và phụ thuộc vào nhu cầu hứng thú của
trẻ.

4. Kết quả đạt được.
* Đối với trẻ: Sau khi áp dụng: một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 25 - 36 tháng tuổi tại lớp trong cả năm học, tôi nhận thấy ngôn ngữ của trẻ
đã chuyển biến rõ rệt. Các cháu lớp tôi rất phấn khởi hào hứng tham gia học tập.
Trẻ mạnh dạn tự tin, chú ý tập trung phát triển khả năng ghi nhớ chú ý có chủ
định và phát triển ngôn ngữ của trẻ nhà trẻ như: Câu nói của trẻ đã rõ ràng và
mạch lạc hơn.
Trẻ đã ít sử dụng câu đơn thay vào đó trẻ đã sử dụng được nhiều kiểu câu
khác nhau.
Trong các câu chuyện trẻ có khả năng kể lại chuyện với những lời thoại
đơn giản, ngắn gọn.
Chính điều đó làm cho tôi thấy phấn khởi, yêu nghề, mến trẻ giúp cho tôi
có nghị lực hơn trong công tác.
Trẻ ngoan, có nề nếp biết thể hiện ngôn ngữ của mình đúng lúc, đúng chỗ.
Các phụ huynh thì có những biến chuyển rõ rệt, biết quan tâm đến con em
mình nhiều hơn.
Qua kết quả khảo sát cuối năm học đã đạt được như sau:
Kết quả đầu năm
Kết quả cuối năm
Tổng Đạt
Chưa đạt
Đạt
Chưa đạt
TT
Nội dung
số trẻ Số trẻ % Số trẻ % Số trẻ % Số trẻ %
1 Khả năng nghe, hiểu
20
10 50 10 50 20 100
lời nói.

2 Khả năng nghe và
nhắc lại các âm, các
20
11 55
9
45 20 100
tiếng và các câu.
3 Trẻ biết sử dụng
ngôn ngữ phù hợp
giao tiếp. ( Phát âm
20
10 50 10 50 20 100
rõ ràng, mạch lạc).
Tự tin khi giao tiếp.
4 Trẻ tự tin khi giao
20
9
45 11 55 20 100
tiếp.
Nhìn vào kết quả khảo sát, tôi thấy rằng qua sự tác động phù hợp trẻ đã
mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong giao tiếp, khi giao tiếp trẻ đã biết nói đủ câu
hoàn chỉnh, không còn tình trạng trẻ nói ngọng, nói lắp. Ngôn ngữ của trẻ đã
16


phong phú, trẻ đã biết sử dụng vốn từ để giao tiếp vào cuộc sống hằng ngày.
* Đối với bản thân:
Bản thân đã có thêm kinh nghiệm trong việc tổ chức xây dựng được môi
trường ngôn ngữ, tổ chức các hoạt động để trẻ được nghe, được nói, được bắt
chước, qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

Các hoạt động phát triển ngôn ngữ phải phù hợp với thực trạng của lớp,
của địa phương, của từng lứa tuổi. Tôi đã tận dụng những hoàn cảnh thực tế và
điều kiện có sẵn của địa phương, của trường lớp, sử dụng các nguyên vật liệu
sẵn có, các nguyên vật liệu phế thải, sử dụng thích hợp, an toàn với trẻ để hướng
dẫn trẻ tìm hiểu, khám phá và làm ra các sản phẩm mới mang tính linh hoạt sáng
tạo của trẻ.
Điều quan trọng hơn nữa là tôi đã hiểu được trẻ để có biện pháp, có kế
hoạch phối hợp với phụ huynh trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Cô giáo được trau dồi thêm kiến thức hiểu sâu hơn về cách thực hiện
chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
Bản thân tôi cũng tự tin hơn rất nhiều khi lên lớp.
* Đối với phụ huynh:
Phụ huynh đã nắm được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ. Từ đó các bậc đã tin tưởng cô giáo, quan tâm đến trẻ hơn và cùng phối hợp
với nhà trường, cô giáo trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

17


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non là một vấn đề rất quan
trọng và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau. Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho
trẻ là một quá trình và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc
phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết để trẻ nói theo, điều
này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước.
Muốn có được kết quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua quá
trình thực hiện tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau:
- Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành

và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình
độ chuyên môn, luôn trau dồi học hỏi bạn bè đồng nghiệp, đúc rút kinh nghiệm
cho bản thân, đọc và tham khảo tài liệu, tập san có nội dung làm quen đến vấn
đề chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt là nội dung liên quan đến đề tài đang thực
hiện, thường xuyên rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn, làm tấm
gương cho trẻ noi theo.
- Cần phải lựa chọn và lồng ghép việc phát triển ngôn ngữ vào các hoạt
động phù hợp.
- Tăng cường tham khảo và sưu tầm các trò chơi phù hợp để rèn luyện bộ
máy pháp âm và lồng ghép phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo hấp dẫn với trẻ và phù hợp với
nội dung của bài dạy. Khi sử dụng đồ chơi, đồ dùng minh họa cho việc thực hiện
chương trình đảm bảo tính chính xác, khoa học, vệ sinh, an toàn và mang tính
giáo dục thẩm mỹ cao. Sử dụng phải đúng lúc, đúng mục đích và linh hoạt và
sáng tạo, phù hợp với nội dung đề tài. Cô thường xuyên tổ chức nhiều trò chơi
khi sử dụng ngôn ngữ.
- Luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, tạo điều kiện quan tâm
đến những trẻ nhút nhát, dành thời gian trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự
tin tham gia vào các hoạt động tập thể giúp trẻ giao tiếp được nhiều hơn.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa cô giáo và phụ huynh để nắm được đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ, từ đó xây dựng kế hoạch phối hợp với gia đình có biện
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách phù hợp.
- Tích cực cho trẻ tiếp cận và làm quen với thiên nhiên để thúc đẩy khả
năng quan sát của trẻ, giúp trẻ cuảng cố và tư duy bằng ngôn ngữ.
- Cô giáo phải thật sự là tấm gương sáng để trẻ noi theo, luôn giàu tình
thương yêu, luôn chú trọng trong mọi hành vi lời nói của mình đối với trẻ để tạo
tâm lý thoải mái cho trẻ thực hiện tốt hành vi cũng như hoạt động giao tiếp
18



nhằm giúp trẻ từng bước hình thành nhân cách của mình.
- Cô phải thật sự yêu nghề, mến trẻ tận tụy với công việc, luôn tìm tòi
nghiên cứu các hình thức, biện pháp dạy trẻ phù hợp đạt kết quả cao.
- Rèn kỹ năng cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Luôn tạo cho trẻ cơ hội để phát
triển ngôn ngữ của mình.
2. Kiến nghị
* Đối với nhà trường:
Hằng năm, nhà trường nên tổ chức cho giáo viên được tham quan học hỏi
kinh nghiệm để nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên.
Tổ chức nhiều giờ dạy mẫu cho giáo viên được tham dự.
* Đối với phòng giáo dục:
Cần quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học.
Mở nhiều lớp tập huấn chuyên đề nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo
viên.
Trên đây, là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân đã nghiên cứu và tìm ra:
“Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi ở trường
mầm non Sông Âm”. Rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của Hội đồng
khoa học trường mầm non Sông Âm, Hội đồng khoa cấp trên nhận xét, góp ý để
bản thân có được những kinh nghiệm quý báu trong công tác giảng dạy./.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ.
…………………………………………………...
…………………………………………………...
…………………………………………………...
…………………………………………………...
…………………………………………………...
…………………………………………………...

Ngọc Lặc, ngày 23 tháng 5 năm 2017.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của

người khác.

Người viết

Trần Thị Tuyến

19


20



×