Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số giải pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 36 tháng a trường mầm non quang trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 19 trang )

1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Trẻ em là niềm vui, niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của
mỗi dân tộc. Vì vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ là trách nhiệm của gia đình,
nhà trường và của tồn xã hội. Trong đó giáo dục mầm non giữ vai trò đặc biệt
quan trọng bởi đây là “ Giai đoạn vàng” để giáo dục và đào tạo nền móng cho
sự phát triển của trẻ trong tương lai. Trường mầm non là cái nôi nuôi dưỡng và
phát triển trẻ một cách tồn diện về đức, trí, thể, mỹ ngay từ những bước chân
chập chững đầu đời. Trẻ lứa tuổi mầm non được xem là giai đoạn hết sức quan
trọng, các nhà tâm lý học coi đây là chặng đường phát triển thành người kể từ
lúc sơ sinh đến lúc trưởng thành.
Có thể thấy, Tuổi mầm non là giai đoạn đầu cho sự phát triển toàn diện
của trẻ. Để đáp ứng và thúc đẩy sự phát triển của trẻ, giáo dục mầm non không
chỉ cung cấp kiến thức, giúp trẻ nhận thức mà còn rèn luyện cho trẻ những kỹ
năng, hiểu biết về môi trường và cuộc sống phù hợp với sự nghiệp xây dựng đất
nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày nay, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của thế hệ
trẻ. Trong đó giáo dục Mầm Non là nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân có
vai trị quan trọng trong việc hình thành nên cơ sở ban đầu của nhân cách con
người mới xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy trong những năm gần đây, giáo dục
mầm non khơng ngừng đổi mới về hình thức, nội dung và phương pháp tổ chức
các hoạt động giáo dục cho trẻ. Trong đó giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ
năng tự phục vụ nói riêng là một trong những nội dung đang được các nhà giáo
dục cũng như các bậc phụ huynh đặc biệt quan tâm.
Như vậy có thể nói! Tự phục vụ bản thân là một trong những kỹ năng
quan trọng thúc đẩy trẻ hồn thiện mình một cách tơt nhất. Đây là cơ hội vàng
giúp trẻ nhanh chóng khơn lớn và trưởng thành trong cuộc sống, nó cịn là
phương tiện cần thiết để giúp trẻ hội nhập, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng
trước mọi khó khăn thử thách của cuộc sống vốn có nhiều sự biến động khơn
lường như hiện nay. Đây được xem là một trong những kỹ năng sống rất cần


thiết mà nhà trường và gia đình cần dạy và giáo dục con trẻ ngay từ khi còn nhỏ.
Nhưng trong xã hội hiện nay có rất nhiều người, nhiều bậc phụ huynh chưa
hiểu hết được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Chính vì vậy! Cha mẹ hay nng chiều trẻ, cứ nghĩ rằng các con cịn nhỏ khơng
có khả năng tự phục vụ được bản thân nên đâu đó chúng ta cịn bắt gặp rất nhiều
hình ảnh các bậc phụ huynh thường làm thay làm hộ trẻ những việc như đút cơm
cho trẻ, mặc quần áo hay đi dép cho trẻ…Chính những việc làm đó đã biến con
mình thành đứa trẻ lười nhác, ỉ lại, thụ động trong mọi công việc, khơng tự xử lý
được các tình huống xảy ra mà luôn trông trờ vào sự giúp đỡ của người lớn. Mà
họ đâu biết rằng những cơng việc đó trẻ có thể tự làm được và làm rất tốt nếu có
sự tác động của giáo dục một cách phù hợp. Trong thời đại phát triển như hiện
nay.
Với những lý do trên chúng ta có thể khẳng định việc giáo dục kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ trong trường mầm non là vô cùng quan trọng. Giáo dục kỹ năng


2
tự phục vụ trong giai đoạn này khơng những có lợi về sức khỏe, mà nó cịn là cơ
hội vàng để giúp trẻ có những kỹ năng cần thiết tự phục vụ bản thân, giúp trẻ
sẽ tự lập trong cuộc sống, tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp và trẻ sẽ biết tự xử lý
bản thân cũng như sử lý và trẻ sẽ biết tự xử lý các tình huống xảy ra trong cuộc
sống một cách chủ động.
Vậy làm thế nào để nhanh chóng hình thành cho trẻ những kỹ năng tự
phục vụ ngay từ những ngày đầu, những ngày mà trẻ không muốn rời xa cha mẹ,
người thân để đến với cô giáo và các bạn. Theo tôi nghĩ đây không phải là vấn
đề chăn trở của riêng tôi mà là tất cả các đồng nghiệp nói chung. Nhận thức
được tầm quan trọng đó nên tơi đã mạnh dạn nghiên cứu “Một số giải pháp
hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng A Trường Mầm
Non Quang Trung”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:

Nhằm tìm ra giải pháp để tập, hình thành cho trẻ một số kỹ năng tự phục
vụ ban đầu một cách nhẹ nhàng, thoải mái, tự nhiên khơng gị bó nhằm nâng cao
kỹ năng sống cho trẻ.
Nâng cao kiến thức cho bản thân về việc dạy cho trẻ có những thói quen
nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Trẻ nhà trẻ 24- 36 tháng A Trường Mầm non Quang Trung.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lý luận
+ Nghiên cứu các loại sách, tài liệu hướng dẫn dạy trẻ kỹ năng sống cho
giáo viên mầm non của vụ giáo dục mầm non.
+ Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ 24- 36 tháng.
+ Các chuyên đề giáo dục mầm non.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp trò chuyện.
+ Phương pháp quan sát sư phạm.
+ Phương pháp đàm thoại.
* Phương pháp dạy học thực tiễn
+ Lồng ghép vào các hoạt động thường ngày mọi lúc mọi nơi.


3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận.
Mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non hiện nay đóng vai trị quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Việc tổ chức các
hoạt động giáo dục với quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm” là vơ cùng đúng đắn
bởi nó nhằm phát huy tính tích cực, tính sáng tạo, khả năng, năng lực vốn có của
trẻ về mặt tinh thần, nhờ khả năng đó trẻ có thể tự mình làm một số cơng việc
mà không phải dựa dẫm, nhờ vả vào người khác.

Để đứa trẻ có thể trở thành cá thể độc lập, tự chủ, sống khỏe, sống tốt và
thành công trong tương lai thì ngay từ nhỏ cần giáo dục cho trẻ các kĩ năng
sống-đó có thể coi như chìa khóa cho sự sống cịn và phát triển của con người.
Người có kĩ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử
thách; họ thường thành cơng hơn và làm chủ cuộc sống của chính họ. Giáo dục
kĩ năng sống góp phần phát triển các hành vi xã hội tích cực, nâng cao chất
lượng cuộc sống và đẩy nhanh sự tiến bộ của toàn xã hội.”(Nguyễn Thị Thu Hà
_tạp chí giáo dục)[1]
Chính vì vậy việc hình thành cho trẻ kỹ năng tự phục vụ ngay từ khi còn
nhỏ là vô cùng cần thiết. Đây là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng
năng lực hội nhập, tích cực, chủ động sáng tạo và tự tin trước mọi khó khăn, thử
thách…Nó mang ý nghĩa rất lớn trong q trình hình thành nhân cách con
người. Tự phục vụ là yếu tố để tạo nên mỗi cá nhân, là khả năng tin tưởng vào
những đánh giá của bản thân, cũng như là tìm ra con đường đi cho mình mà
khơng cần lúc nào cũng nhờ đến sự chỉ bảo hay tìm kiếm sự giúp đỡ từ người
khác. Có được khả năng này là một điều tuyệt vời, bởi nó sẽ giúp cho mỗi người
tự tin hơn, thu hút được sự chú ý của mọi người xung quanh, từ đó tạo tiền đề,
để có cơ hội phát triển tồn diện. Cịn nếu trẻ khơng có kỹ năng tự phục vụ bản
thân thì sẽ không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống hiện đại.
Đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ 24 -36 tháng tuổi khả năng nhận thức của trẻ
cịn có nhiều hạn chế, trẻ dễ nhớ dễ quên và hay hành động theo ý muốn. Vì vậy
để dạy những kỹ năng sống cho trẻ chỉ là những bước đầu giúp trẻ các kỹ năng
như: Biết về bản thân mình, mạnh dạn tự tin, kỹ năng giao tiếp, tự phục vụ bản
thân, biết hợp tác chơi với các bạn, kỹ năng thích nghi với mơi trường,... Để trẻ
có được những kỹ năng ở lứa tuổi này, cô giáo cần nhẹ nhàng, linh hoạt, sáng
tạo, lồng ghép các hoạt động để truyền thụ các kỹ năng cho trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống là một tiến trình: giáo viên trang bị cho trẻ kiến
thức; giúp trẻ có ý thức và niềm tin để thay đổi. Trẻ phải được thực hành để có
kỹ năng. Trẻ cần được hướng dẫn vận dụng kỹ năng vào các sinh hoạt thường
ngày của trẻ. Điều quan trọng nhất là những kỹ năng này trở thành một thói

quen tốt.
Trong khi đó trẻ 24-36 tháng là giai đoạn đầu trong việc hình thành và
phát triển nhân cách. Các mặt phát triển của trẻ hoà quyện vào nhau, ảnh hưởng
lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Ở giai đoạn này khả năng nhận thức của trẻ
cịn có nhiều hạn chế, trẻ dễ nhớ dễ quên và hay hành động theo ý muốn trẻ


4
thích làm những cơng việc tự phục vụ bản thân như: Tự cất dép, tự cất và lấy ba
lô, tự xúc cơm, tự lấy gối... Bất cứ sự chăm sóc nào từ phía người lớn cũng phải
tạo cơ hội để rèn luyện cho trẻ những kỹ năng này. mà vai trò của giáo viên
mầm non trong việc rèn cho trẻ những kỹ năng tự phục vụ là vô cùng cần thiết.
Tuy nhiên gia đoạn này trẻ hồn tồn cịn non nớt, nhạy cảm với mọi tác
động, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt. Nhưng trẻ rất dễ
bị tổn thương về tâm lý. Vì thế muốn rèn luyện kỹ năng tự phục vụ trong sinh
hoạt hàng ngày cho trẻ, ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải
làm sao để trẻ cảm nhận được niềm vui, được an toàn, được yêu mến và được
chấp nhận trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Cô tạo cho trẻ cảm giác cô
giáo thân thiết, yêu thương trẻ như người mẹ của mình. Để làm được điều đó địi
hỏi giáo viên phải rất linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát
hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ.
Chính vì vậy chúng ta hãy quan tâm đến việc hình thành kỹ năng tự phục
vụ cho trẻ ngay từ khi cịn nhỏ, vì nếu trẻ đã được học các kỹ năng tự phục vụ,
có được tâm lý sẵn sàng thì trẻ dễ dàng nhanh chóng hịa nhập với cuộc sống
hơn và ln biết làm chủ bản thân mình.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng biện pháp
Hình thành kỹ năng tự phục vụ không phải là một bộ mơn cụ thể, muốn
giáo dục được trẻ địi hỏi người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm sinh lý
lứa tuổi để đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp, biết tổ chức lồng ghép tích
hợp vào các hoạt động của trẻ một cách khéo léo, mềm dẻo thì hiệu quả giáo dục

mới cao. Chính vì vậy trong q trình thực hiện nghiên cứu đề tài tơi đã gặp
những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm của UBND huyện Ngọc Lăc, UBND xã Quang Trung
cũng như Phòng GD&ĐT huyện Ngọc Lặc và sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc
phụ huynh đầu tư xây dựng về cơ sở vật chất, tháng 12 năm 2019 Trường Mầm
non Quang Trung được công nhận trường chuẩn Quốc gia mức độ 1 nên cơ sở
vật chất phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ tương
đối đầy đủ như giá dép, tủ đựng đồ cá nhân, giá úp cốc, cốc uống nước, nhà
vệ sinh có đầy đủ các đồ dùng theo quy định…
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm sát sao trong việc chỉ đạo các
hoạt động trong nhà trường, đặc biệt là cơng tác chun mơn.
Hình thức sinh hoạt chun mơn của nhà trường trong năm học 2020 –
2021 có nhiều thay đổi rõ nét, những buổi sinh hoạt chuyên môn là những tiết
dạy, những hoạt động mẫu mà các đồng chí giáo viên thực hiện dưới sự định
hướng của chuyên môn nhà trường, từ đó tạo điều kiện cho giáo viên có cơ
hội tự sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động, từ đây được trau dồi kiến
thức của bản thân. Bên cạnh đó là việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho
giáo viên dự giờ để các đồng nghiệp nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm giúp
đội ngũ giáo viên nâng cao trình độ, nghiệp vụ chun mơn cũng như nâng cao
kĩ năng sư phạm.
Ngay từ đầu năm học, khi được phân cơng phụ trách nhóm trẻ 24 – 36


5
tháng A tôi đã bám sát kế hoạch chuyên môn của nhà trường xây dựng kế hoạch
nhóm lớp dựa trên nguyên tắc từ dễ đến khó từ đơn giản đến phức tạp, xuyên
suốt theo các chủ đề, sự kiện trong cả năm học nhằm chủ động trong việc tổ
chức thực hiện các chủ đề trong năm.
Trẻ lớp tôi khỏe mạnh, một số trẻ ngay từ những ngày đến lớp đã có 1 số

kỹ năng tự phục vụ bản thân như: Tự đi vệ sinh, tự xúc cơm…
Phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình nên ln trao đổi
với giáo viên về tình hình của trẻ để cùng chung một phương pháp giáo dục các
kỹ năng cho trẻ tại gia đình.
Bản thân tơi là 1 giáo viên được đào tạo chính quy, có trình độ trên chuẩn,
u nghề mến trẻ và ln tìm tịi sáng tạo những cái hay, cái mới trong cơng tác
chăm sóc giáo dục trẻ.
*Khó khăn:
Về phía trẻ: 100% trẻ mới bắt đầu đến trường nên mọi thứ xung quanh đối
với trẻ còn rất mới lạ và bỡ ngỡ. Khả năng tự làm những cơng việc đơn giản của
trẻ cịn ít và hầu như là chưa thực hiện được các cơng việc khó:
Ngơn ngữ của trẻ chưa phát triển đầy đủ, trẻ cịn nói ngọng và đặc biệt
đang còn sử dụng tiếng địa phương nên chưa tự nói lên được nhu cầu của mình
cũng như việc thực hiện theo yêu cầu của cô giáo đối với trẻ đang cịn gặp nhiều
khó khăn.
Nhận thức của trẻ khơng đồng đều, Cháu thì sinh đầu năm, cháu thì sinh
cuối năm. Đặc biệt trẻ lứa tuổi này sức đề kháng còn kém nên trẻ hay nghỉ học
dài ngày vì ốm nên cũng ảnh hưởng đến việc hình thành các kỹ năng cần thiết
cho trẻ ngay tại trường.
Về phía giáo viên: Giáo viên nhận thức được tần quan trọng của việc giáo
dục, rèn luyện cho trẻ kỹ năng tự phục vụ song về hình thức để cơ mang đến cho
trẻ chưa phong phú. Sự đầu tư về thời gian còn hạn chế, sợ trẻ làm sẽ hỏng, đổ
vỡ nên tư tưởng “Làm ln cho nhanh” vẫn cịn. Và khơng thể khơng nói tới đó
là sự e ngại từ phía phụ huynh, sợ rèn trẻ nhưng phụ huynh lại nghĩ rằng giáo
viên lười biếng và bắt trẻ phải làm thay cho cơ.
Về phía phụ huynh: Phần nhiều phụ huynh chưa qua tâm đến việc giáo
dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ vì nghĩ các bé nhà trẻ đang cịn quá nhỏ không
thể tự làm được những công việc đơn giản như: Tự rót nước để uống, tự xúc
cơm, tự đi giầy dép, mặc quần áo hay tự đi vệ sinh…và ln sợ con hoạt động
nhiều sẽ mệt, chính vì vậy cịn nng chiều, bao bọc con nên dẫn đến việc trẻ

chưa mạnh dạn, tự tin và còn hay ỷ lại.
Do dịch bệnh Covid- 19 vẫn diễn ra nên việc học tập của trẻ bị gián đoạn.
Từ những thuận lợi và khó khăn nêu trên, bản thân tơi ln băn khoăn suy
nghĩ trong quá trình tổ chức thực hiện cần chú trọng nâng cao chất lượng giáo
dục nói chung và hình thành, rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nói riêng. Từ đó tơi
đã bám vào mục tiêu, kết quả cần đạt được trong việc tự phục vụ bản thân cho
trẻ 24 – 36 tháng trong chương trình giáo dục mầm non để khảo sát một số nội
dung, kết quả thực trạng trước khi nghiên cứu cụ thể như sau:


6
Kết quả khảo sát trước khi thực hiện biện pháp nâng cao chất lượng
Số
Kết quả
trẻ
Đạt
Chưa đạt
T
được
Nội dung khảo sát
T
khảo
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
sát
trẻ
% trẻ
%
Biết tự cất và lấy đồ dùng cá nhân (cất
ba lô, cất dép…) đúng nơi quy định
Biết lấy và cất đồ dùng đồ chơi đúng

2
nơi quy định.
Biết tự lấy cốc uống nước và cất cốc
3
đúng nơi quy định
1

16

7

43.7

9

56.3

16

6

37.5

9

62.5

16

7


43.7

9

56.3

4

Biết tự cầm thìa xúc ăn cơm

16

5

31

11

69

5

Biết đi vệ sinh đúng nơi quy định

16

7

43.7


9

56.3

Biết một số thao tác đơn giản trong
16
5
31
11 69
rửa tay, lau mặt.
Nhìn kết quả khảo sát trên chúng ta có thể nhận thấy đa số trẻ chưa tự
phục vụ được những công việc đơn giản như tự cầm ca lấy nước để uống, tự lấy
dép để đi, ba lô đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định, tự xúc cơm …. Và đặc biệt
là khả năng trẻ tự làm mà không cần giáo viên nhắc nhở cịn rất ít.
2.3. Giải pháp đã sử dụng:
2.3.1. Giải pháp 1: Xác định các kỹ năng tự phục vụ phù hợp để xây
dựng kế hoạch giáo dục.
Xây dựng kế hoạch ngay từ đầu năm học là kim chỉ nam để đạt được mục
tiêu, nội dung giáo dục. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã dựa trên kế
hoạch giáo dục của nhà trường để xây dựng kế hoạch giáo dục nhóm trẻ 24 - 36
tháng mà tơi phụ trách.Tôi đã căn cứ vào mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp
với độ tuổi để lựa chọn mục tiêu giáo dục các kỹ năng tự phục vụ bản thân phù
hợp với lứa tuổi nhà trẻ 24 -36 tháng như: Biết cất và lấy dép đúng nơi quy
định, biết cất ba lơ đúng tủ của mình, biết tự xúc cơm ăn, biết lấy và cất đồ dùng
đúng nơi quy định, biết tự lấy nước để uống khi khát, biết tập rửa tay trước và
sau khi ăn …Từ đó tơi xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
cụ thể, rõ ràng, chi tiết phù hợp cho từng chủ đề để giáo dục trẻ trên nguyên tắc
từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ các kiến
thức, kỹ năng cần có về kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng như:

Với 2 chủ đề đầu năm học là chủ đề “Bé và các bạn” và chủ đề “Các cô
các bác trong trường mầm non”. Lúc này trẻ mới lần đầu được đến lớp nên mọi
thứ xung quanh đối với trẻ là hoàn toàn mới lạ: Lạ từ cô giáo, các bạn hay các
đồ dùng trên lớp như giá để dép, tủ để đồ cá nhân hay giá úp cốc, nhà vệ
sinh….Chính vì vậy những nội dung đầu tiên mà tơi đưa vào để hình thành và
rèn luyện cho trẻ là những kỹ năng đơn giản, dễ thực hiện để dần dần hình thành
6


7
thói quen và trở thành kỹ năng tự phục vụ bản thân như biết tự cởi dép, tự đi dép
và cất dép, cất ba lô, đi vệ sinh …đúng nơi quy định và tập cho trẻ một số kỹ
năng trong khi ăn uống.
Ví dụ 1 : Kỹ năng tập ngồi bơ khi có nhu cầu.
Thời gian này tơi ln thường xuyên hỏi trẻ nhu cầu đi vệ sinh của trẻ. Cứ
khoảng một tiếng rưỡi đến hai tiếng tôi lại hỏi trẻ xem các con có muốn đi vệ
sinh khơng? Khi trẻ đi vệ sinh tôi đã nhẹ nhàng từng bước hướng dẫn trẻ cách
tụt quần, cách ngồi bô sao cho không bị đổ bô… và sau khi đi xong các con cần
kéo quần như thế nào cho ngay ngăn.
Ví dụ 2: Kỹ năng tập cầm bát cầm thìa
Trong những buổi đầu đi học việc tập cho trẻ tự xúc cơm, tự cầm thìa xúc
ăn là rất cần thiết vì ở nhà trẻ thường được bố mẹ nuông chiều nên trong các bữa
ăn bố mẹ, ông bà thường đút cho trẻ. Bởi thế trẻ chưa biết cách cầm bát, cầm
thìa để xúc cơm. Chính vì vậy tơi đã tìm hiểu từng cá nhân trẻ biết được khả
năng của từng trẻ từ đó đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp cho từng trẻ. Đối với
những cháu chưa tự cầm bát, cầm thìa để xúc cơm thì tơi ân cần hướng dẫn cho
trẻ biết một tay cầm thìa, một tay cầm bát và tập cho trẻ tự xúc cơm. Còn đối với
những trẻ đã biết cầm bát cầm thìa thì tơi lại hướng dẫn trẻ cầm thìa khéo léo
sao cho khơng để cơm rơi cơm vãi ra ngoài.
Với chủ đề “Bé và gia đình thân yêu” và chủ đề “Đồ dùng đồ chơi của bé”

Lúc này sau một vài tháng trẻ đã quen với với môi trường ở trường mầm non trẻ
bắt đầu hịa đồng với cơ giáo và các bạn. Trẻ đã tích cực với các hoạt động ở
trường thì nội dung tơi đưa vào để hình thành và giáo dục kỹ năng tự phục vụ
cho trẻ đó là kỹ năng tự cất, lấy ba lô, kỹ năng lấy và cất đồ dùng đồ chơi đúng
nơi quy định, hay dạy trẻ biết tự lấy nước để uống… khi có nhu cầu.
Ví dụ 3: Để trẻ biết tự cất ba lô, đồ dùng cá nhân vào ngăn tủ của mình thì
việc đầu tiên là tôi hướng dẫn cho trẻ cách nhận biết ba lơ của mình bằng những
hình ảnh nổi bật, dễ nhận biết trên ba lơ của trẻ, sau đó tơi đưa trẻ đến gần tủ
đựng đồ cá nhân chỉ cho trẻ biết ngăn tủ của mình bằng việc nhận biết ký hiệu
cá nhân của trẻ. Sau đó cho trẻ tự mở ngăn tủ của mình bỏ ba lơ vào và đóng
cánh tủ lại.
Ví dụ 4: Với kỹ năng tự rót nước uống.
Tôi hướng dẫn trẻ cẩn thận, tỉ mỉ để trẻ biết rõ cách làm như: Tôi cho trẻ
quan sát cơ thực hiện thao tác rót nước uống, cơ nhắc trẻ lấy đúng ký hiệu. Cô
lấy cốc như thế nào?, Lấy cốc hứng dưới vịi ra sao?, Rót bao nhiêu là vừa?, Mắt
quan sát xem khi uống xong cất cốc ra sao? ..Ngồi ra cơ cịn cho trẻ biết cách
sử dụng nước hiệu quả và tiết kiệm. Khi trẻ đã rõ thao tác cơ bản thì trẻ sẽ thực
hiện theo. Hạn chế việc giáo viên chỉ biết trẻ lấy được nước uống không quan
tâm trẻ lấy thế nào, cất cốc ra sao. Vì vơ tình khơng quan tâm tới việc hướng
dẫn trẻ cẩn thận nên có tình trạng trẻ làm đổ nước, vứt cốc linh tinh.. khi uống
nước. Trong việc trẻ đi uống nước cô cũng rèn trẻ sao cho trẻ biết nhường nhịn,
chờ đến lượt.
Đối với chủ đề “Bé thích đi bằng phương tiện giao thơng gì” và chủ đề
“Tết và mùa xuân”, chủ đề “Cây và những bông hoa đẹp” thì kỹ năng tự phục vụ


8
mà tơi lựa chọn để hình thành và giáo dục trẻ đó là: Kỹ năng cởi, mặc quần áo,
đi giày dép và tiếp tục rèn kỹ năng tự xúc cơm của trẻ.
Vào những chủ đề cuối năm học như chủ đề: “Những con vật đáng yêu”,

chủ đề “Mùa hè của bé”, chủ đề “Bé lên mẫu giáo” thì lúc này mọi thứ xung
quanh trong trường mầm non đã rất thân quen với trẻ. Trẻ đã mạnh dạn tự tin
hơn rất nhiều khi tham ra các hoạt động cùng cô, cùng các bạn bởi trẻ đã có một
số kỹ năng tự phục vụ những việc đơn giản. Thì tơi lựa chọn các nội dung khó
hơn để dạy trẻ như làm quen với một số thao tác đơn giản khi lau mặt, rửa tay,
tập nói với người lớn khi có nhu cầu ăn ngủ và đi vệ sinh.
Sau khi xác định được các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng
tôi đã lập kế hoạch cụ thể, rõ ràng từng mục tiêu, nội dung giáo dục kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ ở tất cả các chủ đề trong năm học. Tơi đã bám sát vào tình hình
thực tế của học sinh để thực hiện thì tơi nhận thấy rằng kế hoạch mà tôi đã xây
dựng giúp tôi chủ động trong các hoạt động chính vì vậy nó thực sự phù hợp và
có hiệu quả khi truyền đạt kiến thức cho trẻ.
Thông qua việc xác định được những kỹ năng tự phục vụ cơ bản cần
cung cấp cho trẻ ở trên đã giúp tơi thuận tiện trong q trình hình thành và giáo
dục một số kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt.
2.3.2.Giải pháp 2. Tạo mơi trường hình thành kỹ và năng tự phục vụ
cho trẻ.
Có thể nói! Trẻ học ngôn ngữ và các kỹ năng quan trọng cơ bản của cuộc
sống thông qua tiếp nhận một cách vô thức từ mơi trường xung quanh, do đó
việc tạo mơi trường dạy và rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là một trong những
ưu tiên hàng đầu không thể thiếu. Nhận thức điều điều đó nên tơi ln quan tâm
chú trọng đến việc tạo môi trường cho trẻ hoạt động một cách tốt nhất để hình
thành và giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ tại lớp mình.
Vì vậy ngay từ đầu năm học tơi trang trí lớp lớp học theo quan điểm lấy
trẻ làm trung tâm, với các góc hoạt động mở phù hợp với nội dung hoạt động
cho trẻ. Từ đó tơi đã tạo ra các tình huống để thu hút trẻ làm việc nhiều hơn,
như: dọn đồ chơi, tự xúc cơm...dần dần sẽ hình thành cho trẻ tính tự giác, tính tự
quyết định khả năng tự xoay sở của mình. Ở nhà cũng như ở trường, cần tạo cho
trẻ một môi trường để trẻ thực hiện công việc một cách dễ dàng. Sự phối hợp
giữa gia đình và nhà trường là hai mơi trường quan trọng nhất giúp trẻ hình

thành và rèn kỹ năng tự phục vụ.
Ví dụ: Trong lớp học tơi đã lựa chọn một vị trí thích hợp để tiến hành xây
dựng góc “Bé thực hành kỹ năng sống” cho trẻ hoạt động. Thông qua góc chơi
trẻ được khám phá, thực hành và trải nghiệm những kỹ năng sống khác nhau.
Tất cả đồ dùng đồ chơi và tranh ảnh trong góc đều do tơi tự tay tạo ra từ nguyên
vật liệu là phế thải có sẵn ở địa phương nhưng vẫn đảm bảo tính thẩm mỹ và an
toàn khi cho trẻ sử dụng. Đồ dùng đồ chơi và tranh ảnh được thay đổi thường
xuyên phù hợp với nội dung của từng kỹ năng khác nhau.
Hay ở khu vực đón, trả trẻ, tơi dán ký hiệu của trẻ vào tủ cá nhân để trẻ dễ
dàng nhận biết ơ tủ của mình hoặc ở khu vực để giá dép tơi trang trí hình ảnh
các bước lấy cất dép để trẻ có thể thực hiện theo.


9
Tất cả những đồ dùng, đồ chơi ở các góc tôi đều sắp xếp gọn gàng, ngăn
nắp khoa học và ln chú ý đến vị trí để giá cốc, giá dép, tủ để đồ cá nhân, …
sao cho dễ lấy, dễ cất để trẻ dễ dàng thực hiện.
Bên cạnh đó tôi sáng tác, sưu tầm tài liệu tranh ảnh để trẻ có thể mở rộng
vốn hiểu biết của mình về các kỹ năng tự phục vụ cần có ở trẻ. Ngồi ra tơi khai
thác các trang mạng xã hội để có thể có những hình ảnh, video hoặc các bài hát
câu truyện phù hợp với chủ đề sự kiện mà từ đó có thể lồng ghép nội dung hình
thành và giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Ví dụ: Tơi sáng tác câu truyện “Bé làm được gì ở trường mầm non” Câu
truyện có nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ của trẻ tại trường mầm non. Cô
đàm thoại với trẻ về nội dung trong một bức tranh như: Bạn nhỏ đã làm được
những gì? (Bê ghế, cất ghế, lấy dép, cất dép, lấy nước uống, cất cốc, tự xúc cơm
ăn, tự cất đồ dùng đồ chơi …
Với mỗi câu chuyện, băng nhạc, hình ảnh sưu tầm được, tôi đã xây dựng
thành giáo án cụ thể, soạn trên powerpoint, lồng ghép các trò chơi vui vẻ nhẹ
nhàng giúp trẻ hình thành các kỹ năng tự phục vụ. Để soạn giáo án tôi lên kế

hoạch chi tiết, chuẩn bị tư liệu làm giáo án, khai thác từ kho sưu tầm thực tế và
các trang mạng để lấy hình ảnh và nhạc cho bài dạy thêm phong phú từ đó tạo
cho trẻ hứng thú hoạt động.
Như vậy khi chúng ta tạo được môi trường rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
việc tạo môi trường cho trẻ rèn thuận lợi, phù hợp. Điều đó sẽ giúp cho giáo
viên hình thành và rèn kỹ năn tự phục vụ cho trẻ một cách thuận tiện nhất. Đồng
thời cũng tạo cơ hội giúp trẻ được hình thành và thực hiện các kỹ năng tự phục
vụ cần thiết, tạo cho trẻ kỹ năng tự phục vụ trong giai đoạn sau.
2.3.3. Giải pháp 3: Hình thành một số kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
thơng qua một số hoạt động trong ngày.
Có thể nói! Các hoạt động trong ngày là thời điểm vàng để giáo dục kỹ
năng tự phụ vụ cho trẻ một cách phù hợp mà khơng bị gị bó, ép buộc, nó diễn ra
1 cách tự nhiên, thường xuyên, liên tục và được lặp đi lặp lại hàng ngày. Chính
vì vậy tơi đã vận dụng một số thời điểm trong ngày để hình thành giáo dục kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ một cách phù hợp.
* Đối với hoạt động đón, trả trẻ:
Do trẻ nhà trẻ mới ngày đầu đến lớp. Nên mọi thứ xung quanh đối với trẻ
cịn rất xa lạ.Chính vì vậy việc đầu tiên là ngay trong giờ đón trẻ tôi đã tận dụng
thời gian để gần gũi, an ũi và tạo niềm tin cho trẻ để trẻ thấy tin tưởng khi gặp
và trị chuyện cùng cơ, sau đó tôi giới thiệu cho trẻ biết các đồ dùng trong lớp
mà trẻ sẽ được tiếp cận và sử dụng như: Giá để giày dép, tủ để đồ cá nhân dùng
để làm gì, nhà vệ sinh dùng như thế nào, cách vặn vòi để lấy nước uống ra làm
sao….
Sau những ngày đầu bỡ ngỡ đó trẻ được làm quen với một số đồ dùng,
đồng thời từ đó tơi bắt đầu dạy cho trẻ biết cách tự thực hiện các thao tác đơn
giản trước bằng cách hướng dẫn hay làm mẫu cho trẻ để trẻ bắt trước học theo,
đối với những trẻ nhút nhát thì tơi đã phải làm thay trẻ, vừa làm vừa động viên,


10

khuyến khích trẻ để trẻ có thêm tự tin khi thực hiện những việc làm đó hàng
ngày
Ví dụ: Trong giờ đón, trả trẻ tơi sẽ giáo dục trẻ cất và lấy dép, đồ dùng cá
nhân đúng nơi quy định và đây cũng là lúc tôi dạy cho trẻ cách cất đồ dùng cá
nhân vào tủ, cách cởi dép cất dép lên giá theo đúng quy định bằng cách tôi đã
cùng với trẻ đến gần tủ cá nhân của trẻ hướng dẫn cho trẻ cách nhận biết ngăn tủ
của mình bằng ký hiệu được dán tại tủ, tôi hướng dẫn và giúp trẻ cởi cặp, mở
nắp tủ và bỏ cặp ( ba lơ) của trẻ vào trong ngăn tủ của mình rồi đóng tủ lại. Sau
đó tơi chỉ cho trẻ đến bên giá dép để hướng dẫn trẻ cách thay và cất dép gọn
gàng lên giá.
Những việc làm này được lặp đi lặp lại trong giờ đón, trả trẻ dần dần trẻ
đã nhớ được ký hiệu, vị trí để đồ của mình và tự cất, lấy đồ dùng đúng chỗ gọn
gàng, ngăn nắp. Đặc biệt tôi luôn để ý đến những cháu thường xuyên không
không thay dép mà đi luôn dép ở nhà vào lớp và còn đòi bố mẹ cất đồ dùng cá
nhân, đi, thay dép cho mình. Đối với những cháu này tơi nhẹ nhàng tạo tình
huống, các câu hỏi gợi mở để khuyến khích trẻ thực hiện như: Cô đố con ngăn
tủ này là của ai? Dùng để làm gì? Con thử làm cho cơ xem nào? …Từ đó trẻ sẽ
dần dần hình thành thói quen và thực hiện một cách thuần thục hơn.

Hình ảnh trẻ tự cất dép và đi dép
Hình ảnh trẻ cất ba lơ
Trong 1 thời gian rất ngắn sau khi áp dụng cách làm này thơng qua giờ
đón trả trẻ thì trẻ lớp tơi hầu như cháu nào cũng biết được cách cất đồ cá nhân
vào tủ cũng như tự thay dép mỗi khi ra vào lớp.
* Đối với hoạt động chơi tập.
Ngày nay nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đã được chú
trọng. Tuy nhiên việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ chưa trở thành một
môn học với một giáo trình chuẩn áp dụng trong nhà trường. Trong khi đó hoạt
động chơi tập có chủ đích là hoạt động được tổ chức có sự định hướng và hướng
dẫn trực tiếp của cơ giáo. Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã xác định các nội

dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ để từ đó xây dựng các tiết dạy
kỹ năng cho trẻ một cách phù hợp nhất. Mỗi tiết dạy tôi luôn chú trọng đến việc
chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan cho cô và trẻ. Các tiết học đều được tổ chức
theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm để giáo dục rèn kỹ nặng tự phục vụ cho trẻ
được tốt hơn.


11
Ví dụ 1: Với kỹ năng dạy trẻ cầm bát cầm thìa xúc cơm.
Thơng qua hoạt động chơi tập: Với chủ đề “Bé và các bạn” Tôi tổ chức
hoạt động trãi nghiệm với đề tài: “Dạy trẻ cầm thìa xúc cơm” thông qua hoạt
động này tôi dạy trẻ kỹ năng tự cầm thìa khéo léo để xúc cơm sao cho khơng bị
rơi vãi ra ngồi. Trong hoạt động này tơi đã chuẩn bị bát và thìa thật và một số
hạt đậu để cho trẻ được thao tác với các đồ dùng thật. Khi đã chuẩn bị đầy đủ đồ
dùng rồi thì tơi tiến hành hướng dẫn trẻ một cách tỉ mỉ, cụ thể và tơi đã kích
thích được sự tị mị của trẻ từ đó trẻ tích cực hứng thú tham gia hoạt động đạt
kết quả cao. Qua đó tơi đã hình thành cho trẻ kỹ năng cầm thìa, cầm bát và xúc
cơm khéo léo sao không để cơm rơi vãi.
Ví dụ 2: Với kỹ năng tự kê ghế và lấy, cất đồ dùng đồ chơi. Thì thơng
qua giờ chơi tập có chủ đích cơ tạo cơ hội cho trẻ được tham gia từ các hoạt
động chuẩn bị cùng cô: lấy rổ, tranh ảnh, đồ dùng, kê ghế rồi đến khi kết thúc
hoạt động trẻ lại cùng cô cất dọn và trẻ phải biết cất lấy đồ dùng, đồ chơi đúng
nơi quy định.
Hay với giờ làm quen với tác phẩm văn học: Thơng qua lời văn hay tình
tiết hấp dẫn mỗi câu chuyện đề chứa đựng 1 nội dung, mà hàm ý trong đó nhằm
để giáo dục kỹ tự phục vụ cho trẻ, qua đó lồng ghép giáo dục hành vi đạo đức
cho trẻ.
Ví dụ 3: Câu chuyện “Bé làm được việc gì” tơi sưu tầm, sáng tác cho trẻ
nghe câu chuyện về và gia đình bạn Bơng. Một hơm Bà bạn Bông bị ốm, bạn
Bông ở nhà với bà, khi bà khát nước nói “Bơng lấy cho bà xin cốc nước, Bé

Bông nhanh nhảu đáp - Dạ và lấy nước cho bà. Bông đưa nước cho bà bằng 2
tay và nói. Con mời bà uống nước. Bà cười tươi xoa đầu Bơng và khen Bơng
ngoan q. Sau đó bạn Bông cất cốc vào đúng nơi quy định.Qua nội dung câu
chuyện tôi cho trẻ tôi cho trẻ nhận xét về hành động của bạn Bơng. Thơng qua
đó tơi giáo dục trẻ nói năng biết thưa gửi, Vâng lời người bạn Bơng. Thơng qua
đó tơi giáo dục trẻ nói năng biết thưa gửi, Vâng lời người lớn, khi đưa cho người
lớn biết đưa bằng 2 tay.Từ đó rèn kỹ năng “Tập lấy nước uống” dần dần cho trẻ
khéo léo tự lấy nước uống khi thấy mình khát và biết cất cốc vào tủ đúng nơi
quy định.
Tương tự với các kỹ năng khác tơi lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức
khác nhau tạo hứng thú cho trẻ và tổ chức cho trẻ được trải nghiệm.
* Đối với hoạt động vui chơi:
Như chúng ta đã biết đối với trẻ mầm non hoạt động vui chơi chiếm vai
trò chủ đạo trong hoạt động của trẻ ở trường. Thơng qua các góc chơi trẻ được
thực hành trải nghiệm với các vai chơi khác nhau. Trẻ được học làm giống như
người lớn thông qua các góc chơi như: Góc Bé thích vai gì, hoạt động với đồ
vật, góc thư viện của bé… để từ đó trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản,
những kỹ năng cần có phù hợp với độ tuổi. Chính vì vậy đã hình thành ở trẻ
những kỹ năng tự phục vụ cần thiết cho trẻ thông qua các hoạt động vui chơi.
Ví dụ: Trẻ chơi ở góc vui chơi như góc “Bé thích vai gì” trẻ được chơi
bác sĩ, nấu ăn, bế em, cho em ăn…Trẻ biết được cách sử dụng những đồ dùng
vật dụng ăn uống như cách cầm thìa, bát, biết thay quần ao cho búp bê…Biết


12
thực hiện những hành vi ăn uống: Cách ngồi, cách lấy thức ăn…Và các hành vi
này sẽ được đưa vào các bữa ăn hàng ngày, từ đó hình thành kỹ năng cho trẻ.
Không những vậy thông qua hoạt động vui chơi tôi dạy trẻ tự lấy đồ
chơi và cất đồ chơi đúng nơi quy định sau khi chơi. Trong thời gian đầu tôi làm
mẫu, hướng dẫn cho trẻ làm cùng cơ. Khi tơi thấy trẻ đã có khả năng tự làm thì

tơi tạo cơ hội động viên khuyến khích trẻ tự thực hiện và chú ý quan sát động
viên khuyến khích và sửa sai cho trẻ. Cứ như vậy tạo cho trẻ có nề nếp và thói
quen lấy, cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định.

Hình ảnh cơ hướng dẫn trẻ cất đồ chơi
Hình ảnh trẻ tự cất đồ chơi
* Đối với giờ ăn
Tổ chức bữa ăn cho trẻ cũng giống như các hoạt động khác trong ngày,
nó được tiến hành lặp đi lặp lại hàng ngày nên việc giáo dục, rèn kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ trong thời điểm này là rất thuận lợi. Chính vì vậy trong những
buổi đầu tổ chức bữa ăn cho trẻ tôi đã sắp xếp bàn ăn một cách hợp lý, thuận
tiện cho việc bao quát, hướng dẫn và tổ chức bữa ăn cho trẻ cũng như việc đi lại
lấy đồ ăn của trẻ trong bữa ăn.
Trong những ngày đầu việc tổ chức bữa ăn cho trẻ lớp tôi diễn ra rất khó
khăn. Hầu như trẻ chưa biết làm các việc như: Tự lấy ghế ngồi vào bàn ăn, tự
cầm thìa, cầm bát, hay xúc cơm để ăn…Những công việc này trong thời gian
đầu tôi thường phải làm thay làm hộ trẻ. Nên trước khi tổ chức bữa ăn tôi đã tập
cho trẻ ngồi vào bàn ăn và hướng dẫn trẻ cách sử dụng bát thìa trong quá trình
ăn như: Dạy trẻ biết một tay cầm bát và giữ bát, một tay cầm thìa để xúc cơm và
xúa thức ăn từ bát đưa lên miệng một cách nhẹ nhàng khéo léo không làm rơi
vãi ra ngồi, đồng thời cơ dạy trẻ nếu cơm rơi, cơm vãi thì biết nhặt bỏ vào đĩa.
Khi ăn xong trẻ biết tự cầm bát, thìa bỏ vào nơi quy định và biết tự lấy nước để
uống.
Từ những việc làm thường xun đó tơi đã hình thành và rèn cho trẻ
những kỹ năng cần thiết trong việc tự phục vụ bữa ăn của trẻ. Đến thời điểm
này đa số trẻ trong lớp đã biết cách cầm bát cầm thìa Sau một thời gian Tuy
nhiên sau khi được cơ hướng dẫn cùng với việc học từ các bạn bên cạnh thì việc
cầm thìa, cầm bát trong lúc ăn cơm, cũng như việc trẻ đã tự lấy ghế của mình
ngồi vào bàn ăn trẻ đã biết và trẻ rất hứng thú khi được tự làm, lúc này khi trẻ đã
làm được rồi thì cơ có muốn giúp trẻ trẻ cũng không đồng ý.



13
Ví dụ: Trong thời gian đầu năm học việc kê bàn ghế để ăn và tự ngồi vào
bàn ăn cũng như việc trẻ tự xúc cơm ăn trẻ chưa tự làm được mà thường cô phải
lấy hộ trẻ và cô còn phải xúc cho trẻ ăn. Nhưng chỉ sau một thời gian tơi hướng
dẫn cho trẻ thì trẻ đã tự bê ghế vào bàn, và tự xúc lấy cơm ăn cứ như vậy hàng
ngày trẻ đã có thói quen rất tốt, qua nhiều lần trẻ có nề nếp tự bê ghế vào bàn
ngồi ăn và tự xúc cơm ăn mà giáo viên không cần phải làm thay làm hộ trẻ nữa.
Không những vậy trong khi tổ chức bưa ăn cho trẻ tơi cịn giáo dục cho trẻ
biết vệ sinh cá nhân sạch sẽ trước và sau khi ăn. Lúc đầu trẻ chưa có ý thức là trước
và sau khi ăn phải vệ sinh sạch sẽ. Hay khi trẻ ăn xong trẻ chưa biết tự lau miệng
và đi lấy nước để uống cơ cịn phải làm giúp trẻ. Vì thế tơi đã hướng dẫn để tập cho
trẻ một số thao tác rửa tay, lau mặt đơn giản. Từ đó thói quen vệ sinh trước và sau
khi ăn của trẻ đã dần hình thành và trở thành kỹ năng mà trẻ thực hiện hàng ngày.

Hình ảnh trẻ tự rửa tay trước và sau khi ăn

Hình ảnh trẻ tự xúc cơm ăn

Bên cạch đó hàng ngày sau khi trẻ ăn xong trẻ thường có thói quen uống
nước nên tơi thường lựa chọn thời điểm này để hướng dẫn trẻ cách tự lấy cốc, vặn
vịi nước và hứng nước để uống sau đó cất cốc vào vị trí quy định. Sau đó dần dần
trẻ đã biết tự lấy được nước uống khi khát mà khơng cần sự giúp đỡ của cơ.

Hình ảnh trẻ chưa tự biết lấy nước để
uống

Hình ảnh trẻ tự lấy nước để uống khi
khát



14
Đặc biệt trong khi tổ chức tôi thường xuyên bao qt tìm hiểu từng trẻ và có
biện pháp riêng với những trẻ còn yếu chưa biết xúc ăn, chưa biết tự lấy nước để
uống khi khát…thì tơi chú ý hướng dẫn trẻ nhiều hơn thường xuyên hơn giúp trẻ
tư tin hơn vào bản thân khi thực hiện.
Qua việc này tôi thấy trẻ rất thích thú khi được làm cơng việc tự phục vụ
cho mình, trẻ cảm thấy tự tin, mạnh dạn, khéo léo hơn khi tham gia các hoạt
động khác.
Cứ như vậy thông qua một số hoạt động trong ngày tôi uốn nắn giáo dục
rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ và thói quen hành vi tốt trẻ rất thích và phấn khở
là một số cơng việc tự phục vụ, tạo cho trẻ hình thành phát triển kỹ năng sống
trong gia đoạn sau.
2.3.4: Giải pháp 4: Động viên, khen ngợi trẻ.
Đối với trẻ mầm non đặc biệt là trẻ nhà trẻ, động viên, khen ngợi trẻ là
phần thưởng tinh thần to lớn với trẻ: Nhiều khi trẻ không cần những món quà
mà chỉ cần một lời khen để trao thưởng cho hành vi hay kết quả tốt mà trẻ đạt
được. Lời khen chính là nguồn khích lệ tinh thần lớn với trẻ. Khen ngợi giúp trẻ
tự tin hơn về bản thân: Khi đứa trẻ khơng chắc chắn mình có làm tốt hay không,
hoặc tự ti về khả năng của mình, thì một lời khen sẽ khiến trẻ củng cố được
niềm tin và phấn đấu từ đó trẻ tiếp tục phát huy và dần trở thành thói quen tốt.
Việc khen ngợi trẻ có thể nói như một hành động cơng nhận trẻ thực hiện
được một cơng việc nào đó, ở bất cứ một mức độ nào. Chính vì vậy việc chúng
ta khen trẻ tập chung vào q trình chứ khơng tập chung vào kết quả. Nhìn nhận
sự tích cực sau mỗi việc mà trẻ đã làm. Tuy nhiên, nếu chúng ta khen ngợi q
nhiều thì lời khen ngợi sẽ khơng có tác dụng.
Ví dụ 1: Trong lớp tơi khi trẻ biết tự cất ba lô, giày dép, gối … vào đúng
nơi quy định .Tôi đã luôn khen ngợi trẻ trực tiếp một cách tích cực và kịp thời
như: Con giỏi q! Cơ cảm ơn con vì đã giúp cơ…

Khi trẻ được khen trẻ sẽ rất thích thú và làm tăng khả năng tư duy của trẻ,
từ đó giúp trẻ phấn khích hơn trong những hoạt động tiếp theo. Tuy nhiên nếu
chỉ khen ngợi bằng lời mãi thì trẻ sẽ dễ bị nhàm chán, khơng cịn thích thú khi
được khen nữa. Lời khen trở nên khơng cịn giá trị cao. Nên bên cạnh những lời
khen thì việc khen ngợi bằng hành động sẽ làm cho trẻ tích cực hơn nhiều.
Ví dụ 2: Khuyến khích trẻ làm xong cơng việc và thực hiện tốt như: Trẻ
tự xúc cơm ăn hết xuất, tự lấy ghế, tự cất đồ dùng đồ chơi… đúng nơi quy định.
Thì cơ sẽ thưởng cho các con nhiều phiếu bé ngoan. Hoặc sẽ cho các con chơi
với khu vực hoạt động vui chơi ngoài trời vào cuối giờ học. Tơi ln thay đổi
nhiều hình thức sẽ giúp trẻ khơng bị chán nản.
Đặc biệt có những việc mà trẻ khơng làm được, đôi khi chúng buồn và
thất vọng về bản thân. Lúc này chúng ta cần động viên khuyến khích trẻ cố gắng
thực hiện như: Đố các con làm được việc này? Hay việc này khó q cơ cần các
con giúp đỡ! Như vậy trẻ sẽ nảy sinh ý nghĩ sẽ làm được và làm tốt.Khi trẻ đã
dần quen với những kỹ năng tự phục vụ khi ở lớp, tôi sẽ nhẹ nhàng cho các con
từng bước tham gia vào hoạt động mang hình thức thi đua. Mục đích để các bé
sẽ quan sát cùng nhau thi đua và cố gắng làm tốt giống như bạn của mình.


15
Ví dụ 3: Hoạt động cất gối sau khi ngủ dậy: Đây là một hoạt động rất
quan trọng và có thể tạo cho trẻ thói quen này từ rất sớm. Dưới sự giúp đỡ của
mình cơ u cầu trẻ có thói quen, tính tự giác cất gối sau khi ngủ dậy, cất đúng
nơi quy định và xếp thật gọn gàng, ngăn nắp đúng nơi quy định. Để cho trẻ ngủ
dậy và thật tỉnh táo, tơi sẽ nói với trẻ “Các con hãy cùng nhau cất gối của mình
vào giá, xếp thật ngăn nắp gọn gàng, xem ai làm đẹp sẽ được nhận thật nhiều
bé ngoan nào!”
Trong quá trình thực hiện ln thay đổi linh hoạt các hình thức động viên,
khên ngợi trẻ để thu hút trẻ, lôi cuốn trẻ tham gia các hoạt động tự phục vụ.
Giúp trẻ mạnh dạn tự tin hồn thành nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên tơi cũng

khơng thể bỏ qua có những cháu cịn chưa biết các xếp sao cho ngay ngắn gọn
gàng thì tơi đã ân cần nhẹ nhàng động, viên khích lệ, tạo tình huống để trẻ cùng
làm được giống bạn.Từ đó, rèn luyện ý thức tự lập, ý thức tập thể, tính kỷ luật
để phát triển toàn diện và bền vững.
2.3.5.Giải pháp 5: Phối kết hợp với phụ huynh hình thành kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ.
Từ khi trẻ sinh ra và lớn lên thì cha mẹ là những người thầy đầu tiên và
quan trọng nhất đối với trẻ. Chính vì vậy chúng ta có thể nhận thấy được vai trị,
tầm quan trọng của cha mẹ trong việc giáo dục trẻ. Vì cha mẹ là người quan tâm
gần gũi và hiểu về con mình nhất, nên họ có thể cung cấp cho giáo viên những
thơng tin về trẻ như: sở thích, thói quen, hay tính cách cua trẻ. Chính vì vậy
chúng ta cần coi trọngviệc phối kết hợp với cha mẹ trẻ coi đó là một phần khơng
thể thiếu để hình thành giáo dục các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Nhận thức được tầm quan trọng đó ngay từ đầu năm học tôi đã tuyên
truyền tới các bậc phụ huynh bằng nhiều hình thức khác nhau như thơng qua
bảng tun truyền, qua hội nghị phụ huynh hay các giờ đón trả trẻ… để trao đổi
với phụ huynh về tầm quan trọng của việc hình thành và giáo dục kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ 24-36 tháng tuổi.
Để phụ huynh hiểu hơn về hình thức phương pháp, dạy trẻ kỹ năng tự
phục vụ tôi đã thường xuyên trao đổi với phụ huynh để để kịp thời nắm tình
hình của trẻ từ đó cùng với phụ huynh đưa ra những nội dung và biện pháp chăm
sóc giáo dục trẻ tại gia đình, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
Để cùng giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ một cách tốt nhất.
Trong gia đình, việc dạy trẻ có kỹ năng tự phục vụ, nhất là các hành vi ăn
uống có văn hóa, kỹ năng tập vệ sinh cá nhân lại càng cần được theo dõi và phối
hợp giữa gia đình và nhà trường. Điều này vừa để bé có nhiều cơ hội luyện tập
hơn vừa để tránh trường hợp bất cập trong việc giáo dục giữa nhà trường và gia
đình.
Ví dụ 1: Như ở lớp cơ luyện tập cho bé cách thu dọn đồ chơi sau khi chơi
nhưng ở nhà bố mẹ lại dọn dẹp cho bé. Như vậy bé sẽ có suy nghĩ ỉ lại vào bố

mẹ khiến việc học tập khơng hiệu quả, thậm chí là có thái độ khơng thực hiện
khi ở lớp. Vì vậy, để trẻ có được những thói quen cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi
quy định, khơng chỉ địi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp
ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn


16
hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung
quanh trẻ.
Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ
đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự
sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ
tốn, khơng vội vã, khơng khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi
nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình
thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này. Chứ
cha mẹ đừng vì nng chiều con mà làm thay làm hộ trẻ.
Ví dụ 1: Khi trẻ rửa tay mẹ cùng quan sát xem con của mình rửa tay như
thế nào. Nếu trẻ rửa tay chưa đúng cha mẹ sửa xai cho trẻ và kèm theo lời giải
thích cho trẻ lần sau làm đúng.
Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng
việc tình nguyện tham gia vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên
tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà
trường để nắm bắt được tình hình và cùng với nhà trường giáo dục trẻ một cách
tồn diện hơn.
Việc phối hợp giữa cơ và cha mẹ trẻ là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến quá trình hình thành và rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Để kết quả giáo dục
trẻ đạt cao thì việc trao đổi cần diễn ra một cách cụ thể và thường xuyên. Trong
khi đó, việc cập nhật hoạt động của trẻ tại lớp cần được trao đổi hằng ngày để ba
mẹ kịp thời nắm bắt tình hình hiện tại của trẻ, từ đó cùng với cơ giáo giải quyết
vấn đề.

Sau một thời gian duy trì cùng phối hợp với phụ huynh tôi thấy rất hiệu
quả. Và đây chính cũng là sự giáo dục tốt nhất mà giữa gia đình, nhà trường, cơ
giáo đã tạo cho trẻ có được những kỹ năng đầu đời giúp cho kỹ năng sống của
trẻ được nâng cao. Điều đó cũng khẳng định cho chúng ta thấy chỉ có sự kết hợp
tốt từ hai phía thì mới có thể đem đến cho đứa trẻ thêm hồn thiện kể cả về thể
chất, tình cảm, nhận thức, tinh thần và trí tuệ.
2.4. Hiệu quả của giải pháp
Trong một thời gian học hỏi, tìm tịi nghiên cứu và áp dụng các giải pháp
hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng. Bằng những kinh
nghiệm trong q trình giảng dạy mà tơi đã thành cơng. Tơi có thêm kinh
nghiệm hơn trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho
trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Đối với trẻ: Sau 1 năm học vừa làm quen với cô giáo, các bạn, tại nhóm
trẻ 24 -36 tháng A Trường Mầm non Quang Trung thì giờ đây các cháu đã rất
mạnh dạn tự tin, hào hứng đến lớp và đặc biệt là trẻ có được các kỹ năng tự phục
vụ bản thân. Chính vi vậy mỗi ngày đến trường trẻ rất hứng thú, tích cực, mạnh
dạn tham gia các hoạt động
Phụ huynh có ý thức sâu sắc hơn về giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
và thường xuyên phối hợp với giáo viên để dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ cho
trẻ ở nhà.
Kết quả đánh giá học sinh sau khi thực hiện giải pháp trong năm học


17
2020- 2021 như sau:
Bảng khảo sát chất lượng học sinh sau khi áp dụng biện pháp.
Kết quả
Số
trẻ
Đạt

Chưa đạt
T
Nội dung khảo sát
được
Tỷ
T
Số Tỷ lệ Số
khảo
lệ
trẻ
%
trẻ
sát
%
Biết tự cất và lấy đồ dùng cá nhân (cất
1
16
16
100
0
0
ba lô, cất dép…) đúng nơi quy định
Biết lấy và cất đồ dùng đồ chơi đúng
2
16
16
100
0
0
nơi quy định.

Biết tự lấy cốc uống nước và cất cốc
3
16
15
94
1
6
đúng nơi quy định
4

Biết tự cầm thìa xúc ăn cơm

16

16

100

0

0

5

Biết đi vệ sinh đúng nơi quy định

16

15


94

1

6

Biết một số thao tác đơn giản trong
16
13
81
3
19
rửa tay, lau mặt.
Nhìn vào bảng kết quả đánh giá trên cho thấy trẻ đã có những kỹ năng tự
phục vụ cơ bản điều đó giúp cho kỹ năng sống của trẻ được nâng cao. Trẻ có ý
thức, thói quen tự phục vụ như: Tự xúc cơm ăn, tự cất đồ dùng cá nhân, tự cất
đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định. Tự uống nước khi khát…và đặc biệt hơn
nữa là trẻ tự làm những cơng việc đó khi khơng cần có sự nhắc nhở của cơ giáo.
Chính những điều này đã giúp tôi thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ một
cách dễ dàng đạt kết quả cao. Vì vậy các bậc phụ huynh rất vui, càng yên tâm hơn
khi gửi con đến lớp. Từ đó phụ huynh quan tâm đến việc học tập của các cháu
nhiều hơn.
Những kết quả đạt được ở trên không phải làm tơi mãn nguyện mà tơi sẽ
lấy đó làm động lực thơi thúc mình cố ngắng hơn nữa để hình thành và rèn luyện
kỹ năng tự phục vụ cho con trẻ trong những năm học tiếp theo.
6


18
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận:
Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non nói chung và lứa tuổi nhà
trẻ nói riêng là vơ cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người.
Mỗi giáo viên chúng ta cần có kế hoạch rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho mọi hoạt
động trong ngày. Từ đó mỗi một hoạt động lại cung cấp cho trẻ những trải
nghiệm khác nhau nhưng mục đích cuối cùng vẫn là giáo dục kỹ năng tự phục
vụ cho trẻ.
Tính tự phục vụ là một đức tính rất cần thiết cho trẻ vì nhờ có tính tự phục
vụ mà trẻ có thể phát huy những tiềm năng ẩn giấu, trẻ sẽ trưởng thành hơn và
đặc biệt cha mẹ sẽ giảm bớt lo lắng hơn. Đơn cử như khi trẻ chơi trong góc chơi
đó là một xã hội được thu nhỏ, mà hàng ngày trẻ đã tái hiện lại và đây chính là
một cơ hội lớn cho tất cả chúng ta có cơ hội để giáo dục cho trẻ kỹ năng tự tự
phục vụ thơng qua các vai chơi.
Từ nhiều khía cạnh khác nhau tơi nghĩ rằng: Điều kiện cần và đủ cho việc
hình thành kỹ năng tự phục vụ đó là: Hiểu - rèn luyện - tin tưởng – động viên
khen ngợi và giám sát. Có như vậy mới giúp trẻ có kỹ năng tốt, đúng đắn và tạo
tiền đề cho sự phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ, để giúp trẻ chở thành
người hữu ích cho gia đình và xã hội.
Do đó việc hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cần được áp dụng càng
sớm càng tốt và là vấn đề rất quan trọng và cấp thiết, giúp trẻ vận động suy nghĩ,
sáng tạo và tự tin. Tạo tiền đề cho sự thành công trong tương lai.
3.2. Kiến nghị:
Đề nghị phòng giáo dục và nhà trường tổ chức nhiều buổi tập huấn để
nâng cao trình độ chun mơn của giáo viên.
Đề nghị ban giám hiệu nhà trường phối kết hợp với phụ huynh mua sắm
đồ dùng, đồ chơi trang thiết bị, ủng hộ nguyên vật liệu để phục vụ cho các hoạt
động hàng ngày của trẻ, để trẻ có nhiều hứng thú trong các hoạt động.
Đề nghị phụ huynh học sinh kết hợp với giáo viên trên các nhóm lớp cùng
rèn nếp cho con em mình ở nhà. Có như vậy trẻ mới có nề nếp tốt ngay từ ban
đầu.

Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã áp dụng trong việc hình thành một
số kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng A Trường Mầm Non Quang
Trung. Mà tôi đã ấp ủ và đưa vào nghiên cứa trong thực tế tại lớp tôi. Rất mong
được sự góp ý của hội đồng giám khảo để giúp tơi hồn thiện hơn trong cơng tác
chăm sóc giáo dục trẻ.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Quang Trung, ngày 5 tháng 3 năm 2021
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
…………………………….......…….
khơng sao chép nội dung của người khác.
…………………………….......…….
(Ký và ghi rõ họ tên)
…………………………….......…….
…………………………….......…….

Nguyễn Thị Nhung


19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chương trình giáo dục mầm non - Bộ GD và ĐT - NXBGDVN( XB 2009)
- Hướng dẫn thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ 24-36
tháng tuổi .
- Tạp chí giáo dục mầm non
- Tâm lý học trẻ em
- Các bài viết về kỹ năng tự phục vụ
[1] . “Để đứa trẻ có thể trở thành cá thể độc lập, tự chủ, sống khỏe, sống tốt và
thành cơng trong tương lai thì ngay từ nhỏ cần giáo dục cho trẻ các kĩ năng

sống-đó có thể coi như chìa khóa cho sự sống cịn và phát triển của con người.
Người có kĩ năng sống phù hợp sẽ ln vững vàng trước những khó khăn, thử
thách; họ thường thành công hơn và làm chủ cuộc sống của chính họ. Giáo dục
kĩ năng sống góp phần phát triển các hành vi xã hội tích cực, nâng cao chất
lượng cuộc sống và đẩy nhanh sự tiến bộ của tồn xã hội.”(Nguyễn Thị Thu Hà
_tạp chí giáo dục)
-



×