Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số giải pháp giúp học sinh tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt động tìm hiểu bài của phân môn tập đọc lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 19 trang )

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP THANH HĨA
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐIỆN BIÊN 1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG
VÀ SÁNG TẠO TRONG HOẠT ĐỘNG TÌM HIỂU BÀI CỦA
PHÂN MƠN TẬP ĐỌC LỚP 2

Người viết : Nguyễn Thị Mai
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Điện Biên 1
Sáng kiến thuộc lĩnh vực mơn: Tiếng Việt

THANH HĨA NĂM 2021

0


MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

TRANG

1

MỞ ĐẦU

1


1.1
1.2

Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu

1
2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

2

NỘI DUNG

2

2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm


2

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
Giải pháp thực hiện

3

Giải pháp 1
Giải pháp 2
Giải pháp 3
Giải pháp 4
Giải pháp 5
Giải pháp 6
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

5
6
7
8
9
10
10
15

Kết luận

Kiến nghị

15
16

2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.3
3
3.1
3.2

4

0


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài.
Đất nước ta và nhân loại đã bước sang một giai đoạn phát triển mới, đặt
ra những yêu cầu mới về phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người. Đổi
mới giáo dục đã trở thành một nhu cầu cấp thiết và xu thế mang tính tồn cầu.
Trong bối cảnh đó, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quốc hội, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ
thơng. Năm học 2020-2021, là năm đầu tiên thực hiện Chương trình giáo dục

phổ thơng mới đối với lớp 1. Theo lộ trình, đến năm 2024-2025 tồn bậc tiểu
học sẽ thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới. Vấn đề đặt ra là, làm thế
nào để giúp giáo viên và học sinh các lớp 2,3,4,5 đang thực hiện Chương trình
giáo dục phổ thơng hiện hành được tiếp cận những điểm mới để năm học tiếp
theo có thể thực hiện hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thơng mới. Để làm
được điều đó, khơng có gì hơn là chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học
để phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh.
Quá trình dạy học là một quá trình tư duy sáng tạo - người giáo viên là
một kĩ sư tâm hồn, hơn nữa còn là một nhà làm nghệ thuật. Và việc dạy học
ngày nay ln dựa trên cơ sở phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
Chính vì thế nó địi hỏi người giáo viên phải ln có sự sáng tạo, tự cải tiến
phương pháp dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học.
Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh, cung cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết.
Trong giáo dục phổ thơng nói chung và ở trường Tiểu học nói riêng, mơn
học Tiếng Việt là một mơn quan trọng, chiếm vị trí chủ yếu trong chương trình.
Mơn này có đặc trưng cơ bản là: Nó vừa là môn học cung cấp cho học sinh một
khối lượng kiến thức cơ bản nhằm đáp ứng được những mục tiêu, nhiệm vụ của
từng bài học, vừa là công cụ để học tập tất cả các môn học khác. Trẻ em muốn
nắm được kỹ năng học tập, trước hết cần nghiên cứu tiếng mẹ đẻ chìa khóa của
nhận thức, của sự phát triển trí tuệ đúng đắn, nó cần thiết cho tất cả các em khi
bước vào cuộc sống. Ở nước ta, mơn Tiếng Việt có vai trị quan trọng, là một
mơn học chính, trong đó khơng thể khơng kể đến môn Tập đọc.
Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành các kĩ năng cơ bản: nghe, nói,
đọc, viết. Phân môn Tập đọc trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ các kĩ năng trên.
Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân mơn khó. Bởi ở lứa tuổi các em, vốn
kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp, việc diễn đạt ngơn ngữ cịn hạn chế…Điều
này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học đọc hiểu trong phân mơn
Tập đọc nói riêng.
1



Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học ở
bậc Tiểu học đang được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng. Được sự giúp đỡ,
hướng dẫn của Ban giám hiệu nhà trường, của tố chuyên môn và bạn bè đồng
nghiệp bản thân của mỗi giáo viên trong trường không ngừng học hỏi để đổi
mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả học tập của học sinh. Thực
tế ở trường Tiểu học Điện Biên 1 - chúng tơi đã cố gắng hết sức mình nhưng
vẫn còn một số hạn chế về việc giúp học sinh tích cực và sáng tạo trong hoạt
động tìm hiểu bài phân môn Tập đọc lớp 2: học sinh chưa chủ động, tích cực
khi tìm hiểu bài; học sinh đang cịn thụ động trả lời các câu hỏi theo yêu cầu của
giáo viên. Đôi khi, giáo viên cũng chưa mạnh dạn thay đổi hệ thống câu hỏi để
phát huy tính sáng tạo của học sinh. Xuất phát từ những lí do nêu trên và qua
thực tế giảng dạy, tôi đã lựa chọn nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy đề tài
“Một số giải pháp giúp học sinh tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt
động tìm hiểu bài của phân mơn Tập đọc lớp 2”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề xuất một số giải pháp nhằm giúp học sinh tích cực, chủ động và sáng
tạo trong hoạt động tìm hiểu bài của phân môn Tập đọc lớp 2 là những vấn đề
mà bản thân tôi muốn chia sẻ trong giới hạn sáng kiến này.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số giải pháp giúp học sinh tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt
động tìm hiểu bài của phân mơn Tập đọc lớp 2.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp điều tra khảo sát.
+ Phương pháp thực nghiệm thực tế.
+ Phương pháp đàm thoại.
+ Phương pháp hỏi đáp.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

Trong trường Tiểu học, mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập đọc
nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh bởi nó là môn học
cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong giao tiếp hằng ngày. Nó
giúp các em phát triển tồn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới
khoa học, góp phần rèn luyện trí thơng minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo
đức tốt đẹp của con người mới.

2


Đặc biệt trong thời đại ứng dụng công nghệ thông tin, nếu muốn giao lưu
không chỉ qua sách vở, báo chí trong nước mà cịn giao lưu trên mạng với tồn
thế giới thì biết đọc hiểu càng quan trọng vì nó sẽ giúp con người nắm bắt, sử
dụng được các nguồn thơng tin vơ cùng phong phú. Đọc chính là học, là tiếp
thu, nhận thức, đọc để tự hiểu, biết tính tốn. Vì vậy, dạy đọc hiểu có ý nghĩa rất
quan trọng.
Dạy đọc hiểu là dạy cho học sinh đọc hiểu nghĩa của chữ viết. Làm thế
nào để các em có cách đọc hiểu tốt, để giúp các em trở thành người đọc độc lập;
Nghĩa là các em có thể sử dụng kỹ năng đọc để học tập các môn học khác. Khi
trong đầu óc và tâm hồn mỗi học sinh có nhiều điều muốn nói ra, và những điều
đó được suy nghĩ một cách rõ ràng thì khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ của các
em sẽ được tăng lên và có ý nghĩa hơn. Chính vì vậy, địi hỏi giáo viên phải biết
vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Điều đặc biệt là
phải ln “làm mới” chính mình trong việc lựa chọn và sử dụng phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh. Chuyển cách dạy thụ động sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm hay
còn được gọi là dạy và học tích cực, sáng tạo.
Giáo viên phải biết giúp các em có được thái độ đúng và nắm được những
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, phát huy đầy đủ nhất năng lực của mình. Vì vậy
trong khi dạy học cần tạo điều kiện cho học sinh chủ động tiếp thu các kiến

thức, kĩ năng…biết sáng tạo điều đã học thành kiến thức, kĩ năng của mình. Nói
cách khác là biến điều cần học thành cái “ vốn ”, cái “ tài sản ” của bản thân.
Học tập như vậy khiến sự hiểu biết của các em được vững chắc hơn, hứng thú
của các em được tăng cường hơn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Năm học 2020 – 2021 tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 2D.
Qua một thời gian trực tiếp giảng dạy trên lớp được gần gũi, tiếp xúc với các
em. Tơi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn về phía giáo viên và học sinh
như sau:
* Thuận lợi:
- Về phía học sinh:
+ Trình độ học sinh khá đồng đều.
+ Học sinh tiếp thu bài nhanh, say mê học hỏi, tìm hiểu.
+ Kĩ năng đọc của học sinh khá tốt.
+ Sách vở, đồ dùng học tập đầy đủ.
- Về phía giáo viên:
+ Thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học.
+ Tích cực tham gia dự giờ đồng nghiệp, học tập qua sinh hoạt chuyên
môn theo chuyên đề của nhà trường.
3


+ Tham gia các đợt bồi dưỡng trực tuyến về Chương trình giáo dục phổ
thơng 2018, trong đó có các modun về đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; phát huy tính tích cực, chủ động
và sáng tạo của học sinh.
- Về phía phụ huynh:
+ Đa số là cán bộ, cơng nhân viên chức; trình độ dân trí cao.
+ Ln quan tâm đến việc học của con em mình; có ý thức cao trong việc
phối kết hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình.

* Khó khăn:
- Về phía học sinh:
+ Chưa biết tóm lược ý trong câu văn, đoạn văn để trả lời câu hỏi; chưa
trả lời được câu hỏi bằng ngơn ngữ của mình. Đa số học sinh trả lời bằng cách
đọc cả câu, cả đoạn chứa nội dung câu hỏi.
+ Chưa biết dựa vào từ “chìa khóa ” để trả lời câu hỏi.
- Về phía giáo viên:
+ Đã sử dụng phương pháp dạy học tích cực hóa hoạt động của học sinh
tuy nhiên chưa được linh hoạt, nhịp nhàng.
+ Sử dụng nhiều hình thức tổ chức dạy học nhưng chưa thật sự đạt hiệu quả
cao (sử dụng nhiều lần, ít “làm mới”, ít sáng tạo). Hình thức dạy học cịn đơn
điệu.
Với thực trạng trên tơi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 2D. Tổ chức
bốc thăm đọc bài và trả lời câu hỏi từ tuần 1 đến tuần 5. Kết quả đạt được như
sau:
Tổng Không trả lời Trả lời chưa đủ Trả lời đủ ý Trả lời bằng
số
được câu hỏi
ý
nhưng cịn đọc ngơn ngữ của
học
ở sách
mình
sinh:
SL
%
S
%
SL
%

SL
%
4
L
3
3
7
9
21
21
48,8
10
23,2
Phân tích kết quả khảo sát ta thấy tỉ lệ học sinh không trả lời được câu
hỏi, trả lời chưa đủ ý, trả lời còn đọc ở sách chiếm khá cao. Học sinh trả lời
bằng ngơn ngữ của mình thì ít. Điều đó yêu cầu người giáo viên phải có định
hướng, có mục tiêu và có kế hoạch dạy học rõ ràng. Từ đó bản thân tơi đã tìm
tịi và sử dụng một số giải pháp khá mới trong dạy hoạt động tìm hiểu bài phân
mơn Tập đọc đó là: giúp học sinh tích cực, sáng tạo trong hoạt động tìm hiểu
bài. Với đề tài này tôi đã áp dụng từ đầu năm học 2020 – 2021 đến nay thấy có
kết quả khả quan. Vì vậy trong giới hạn sáng kiến của mình tôi xin chia sẻ cùng
đồng nghiệp.
4


2.3. Một số giải pháp giúp học sinh tích cực, chủ động và sáng tạo
trong hoạt động tìm hiểu bài của phân mơn Tập đọc lớp 2
Tìm hiểu nội dung bài Tập đọc là một công đoạn quan trọng khi thực hiện
dạy học phân mơn Tập đọc nói chung và Tập đọc lớp 2 nói riêng. Khả năng đọc
hiểu của học sinh được bộc lộ rõ nét qua hoạt động này. Trong giảng dạy, giáo

viên hướng dẫn học sinh tìm ý, nội dung bài đọc bằng nhiều cách khác nhau, tạo
điều kiện cho học sinh hoạt động tư duy, trả lời câu hỏi, trao đổi ý kiến, thực
hiện nhiệm vụ ( hoặc bài tập) do giáo viên giao, rồi báo cáo kết quả, nhận xét và
kết luận. Nội dung tìm hiểu các văn bản văn chương khác nhau. Vì thế giáo viên
nên tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung, ý nghĩa bài đọc bằng nhiều cách.
Làm thế nào để học sinh đọc để biết? hiểu? nhớ một điều gì?... để nâng dần mức
độ cảm thụ văn học cho học sinh (nhưng tùy điều kiện giảng dạy cụ thể của
từng bài, từng đối tượng học sinh mà chọn giải pháp cho phù hợp). Sau đây là
các giải pháp có thể sử dụng trong hoạt động tìm hiểu bài:
2.3.1 Giải pháp 1: Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với trình độ học
sinh.
Trong quá trình tìm hiểu bài, người giáo viên cần phải thực hiện dạy học
cá thể hoá để tất cả các đối tượng học sinh đều được tham gia trả lời câu hỏi.
Đặc biệt giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh cách trả lời câu hỏi, diễn
đạt ý bằng câu văn ngắn gọn, rõ ràng bằng ngơn ngữ của mình, khơng trình bày
ngun vẹn lại câu văn, câu thơ trong sách. Để làm được điều đó tơi chủ động
nghiên cứu kĩ trước nội dung bài, dựa vào hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa để
xây dựng hệ thống câu hỏi ngắn gọn, giúp học sinh dễ hiểu, dễ trả lời đúng
trọng tâm câu hỏi.
Ví dụ: bài Tơm Càng và Cá Con (Tiếng Việt 2 - Tập 2, trang 68)
Đối với bài Tập đọc này hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa sẽ làm cho
học sinh khó xác định đúng trọng tâm câu hỏi ngay từ câu hỏi 1:
- Khi đang tập dưới đáy sơng, Tơm Càng gặp chuyện gì?
Với câu hỏi này hầu hết học sinh sẽ có cách trả lời: "Một hơm, Tơm Càng
đang tập búng càng dưới đáy sơng thì thấy một con vật bơi đến. Con vật thân
dẹt, trên đầu có hai mắt trịn xoe, khắp người phủ một lớp vẩy bạc óng ánh."
Với đáp án trên, rõ ràng học sinh khó xác định được trọng tâm của câu trả lời vì
thế tơi đã hướng học sinh bằng hệ thống câu hỏi sau:
( Chỉ minh họa phần câu hỏi cứng của hoạt động tìm hiểu bài)
Hoạt động thầy

Hoạt động mong đợi ở trị
-Tơm Càng gặp con vật gì lạ khi đang -Tôm Càng gặp một con vật lạ, thân dẹt,
tập bơi dưới đáy sơng?
hai mắt trịn xoe, khắp người phủ một lớp
vẩy bạc óng ánh.
- Cá Con đã giới thiệu với Tôm Càng -“Chào bạn, tôi là Cá Con. Chúng tôi
5


về Mình như thế nào?

cũng sống dưới nước như nhà tơm các
bạn”
- Cá Con đã kể gì với Tơm Càng?
- Đuôi Cá Con vừa là mái chèo, vừa là
bánh lái.
- Giữa lúc đang trổ tài, Cá Con gặp - Một con cá to mắt đỏ ngầu, nhằm Cá
chuyện gì nguy hiểm?
Con lao tới.
- Tôm Càng đã cứu cá con như thế -Tôm Càng vội búng càng, vọt tới, xô Cá
nào?
Con vào ngách đá nhỏ.
- Tại sao Cá Con bị va vào vách đá - Toàn thân Cá Con phủ một lớp vẩy, là
nhỏ mà không bị đau?
áo giáp bảo vệ nên Cá Con không bị đau.
- Nhờ đâu mà Tôm Càng cứu được - Nhờ Tơm Càng có tài búng càng, nhờ
Cá Con?
sự thông minh nhanh nhẹn, dũng cảm
cứu bạn thốt nạn.
- Em có nhận xét gì về Tơm Càng?

- Tôm Càng thông minh, nhanh nhẹn và
dũng cảm./ Tôm Càng là một người bạn
đáng tin cậy./ Tôm Càng thật tài giỏi và
dũng cảm/...
- Nhận xét tuyên dương.
Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với đối tượng học sinh là quá trình tổ
chức cho học sinh trả lời đúng trọng tâm câu hỏi. Cần chú ý khi chẻ nhỏ câu hỏi
nên tránh việc làm câu hỏi trở nên “vụn vặt”, quá dễ theo kiểu mớm sẵn, kiểu tái
hiện quá đơn giản. Vì điều đó sẽ làm cho mức độ nhận thức ban đầu của câu hỏi
thấp hơn nhiều so với mức độ nhận thức ban đầu của nó. Do đó sẽ hạn chế sự
phát triển trí tuệ và nhận thức của học sinh, làm các em lười nhác, nghèo nàn
trong diễn đạt. Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh khơng
phải là để gợi ý “mớm” câu trả lời hay áp đặt thô bạo ý khiến của giáo viên cho
học sinh. Các câu hỏi sẽ được xây dựng theo nhiều mức độ, phù hợp với từng
đối tượng học sinh. Đối tượng học sinh nào sẽ được giáo viên đưa ra câu hỏi
phù hợp với chính đối tượng học sinh đó. Như vậy, tất cả các đối tượng học sinh
đều được tham gia trả lời các câu hỏi tìm hiểu bài, tất cả học sinh đều được quan
tâm phát triển đúng năng lực của bản thân mình, tạo động lực, hứng thú cho học
sinh trong học tập. Nếu chúng ta làm tốt việc này sẽ giúp học sinh có kĩ năng
đọc hiểu tốt nhằm giúp học sinh học tốt các phân môn học khác.
2.3.2 Giải pháp 2: Xây dựng hệ thống câu hỏi mở, câu hỏi liên hệ, câu
hỏi có nhiều ý kiến trả lời.
Thơng thường khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài đọc, giáo viên sử
dụng hệ thống câu hỏi dưới mỗi bài đọc trong sách giáo khoa. Song trong quá
trình dạy học, giáo viên có thể khơng phụ thuộc hồn tồn vào các câu hỏi trong
6


sách giáo khoa. Bên cạnh đó giáo viên nên có hướng mở khi một câu hỏi mà có
nhiều đáp án trả lời. Nhằm tạo được những cái mới thu hút, phát triển tư duy,

khơi gợi suy nghĩ học sinh. Đặc biệt giúp học sinh nhớ và vận dụng kiến thức
vào học các môn học khác. (Lưu ý: cần đảm bảo đúng nội dung – mục tiêu bài
đọc, phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình.)
Ví dụ: bài Cị và Cuốc ( Tiếng Việt 2 – Tập 2, trang 37)
Hãy chọn ý đúng nhất. Câu trả lời của Cò chứa một lời khuyên. Lời
khuyên ấy là gì?
a/ Đừng sợ áo bẩn khi lao động.
b/ Đừng kén chọn cơng việc.
c/ Có làm việc vất vả mới có lúc được an nhàn sung sướng.
Sau khi học sinh lựa chọn phương án đúng, giáo viên khuyến khích học
sinh nói suy nghĩ của riêng mình.
Ví dụ: Khi lao động con cảm thấy như thế nào?
(Khi lao động, khơng ngại vất vả, khó khăn./Lao động là đáng quý./ Phải
lao động mới có sung sướng, ấm no./ Mọi người ai cũng phải lao động./... )
Ví dụ: bài Kho báu ( Tiếng Việt 2 – Tập 2, trang 83).
- Cuối cùng kho báu mà hai người con tìm được là gì?
(Kho báu là ruộng đất./ Kho báu đó đất đai màu mỡ/ là lao động chun
cần./ ...)
Ví dụ: bài Tôm Càng và Cá Con (Tiếng Việt 2 - Tập 2, trang 68)
- Nếu em là cá con, khi được Tơm Càng cứu, em sẽ nói gì để cảm ơn Tơm
Càng?
(Cảm ơn bạn đã cứu mình/ Cảm ơn bạn thật nhiều! Bạn thật dũng cảm!/
May nhờ bạn dũng cảm nên mình mới thốt nạn. Cảm ơn bạn Tơm Càng!,...)
Các câu hỏi, bài tập chỉ yêu cầu học sinh một phương thức hành động duy
nhất: dùng lời - tức là tại một thời điểm chỉ có thể có một học sinh được nói,
những học sinh khơng được gọi và trả lời câu hỏi, làm bài tập thì chỉ ngồi nghe.
Hành động “nghe” vốn thụ động, kết quả nghe không được thể hiện ra bên
ngồi nên giáo viên khơng kiểm soát được năng lực độc lập của học sinh đến
đâu. Vì thế giáo viên hãy cố gắng để học sinh thể hiện hết khả năng của mình
trong tiết học để ln phát huy tính tích cực của các em.

Với việc tăng cường các câu hỏi mở, câu hỏi liên hệ bản thân, liên hệ
thực tế, giáo viên sẽ giúp học sinh phát huy tư duy, sự sáng tạo, tính tích cực
chủ động của học sinh. Đồng thời các câu hỏi liên hệ bản thân sẽ giúp học sinh
củng cố kiến thức, kĩ năng sống và có tác dụng giáo dục học sinh cao.
2.3.3 Giải pháp 3: Xử lí tình huống khi học sinh trả lời không đúng
trọng tâm câu hỏi.

7


Trong quá trình tìm hiểu bài, đối với những học sinh trả lời câu hỏi bằng
cách đọc lại cả câu văn, đoạn văn giáo viên sẽ xử lí bằng cách: sau khi học sinh
trả lời, giáo viên yều cầu học sinh trong lớp nhận xét câu trả lời của bạn. Nếu
học sinh phát hiện câu trả lời của bạn chưa đạt yêu cầu. Giáo viên khuyến khích
học sinh chỉ rõ hoặc nếu học sinh không phát hiện được giáo viên cần chỉ và
hướng dẫn học sinh trả lời đúng trọng tâm câu hỏi:
Ví dụ: Bài Mẩu giấy vụn (Tiếng việt 2 – Tập 1, trang 48)
Câu 1: Mẩu giấy vụn nằm ở đâu?
Học sinh trả lời: Lớp học sáng sủa và sạch sẽ nhưng không biết ai vứt
một mẩu giấy ngay giữa lối ra vào.
Giáo viên: Qua câu văn em vừa đọc, em thấy mẩu giấy vụn nằm ở đâu?
Lúc này học sinh sẽ có câu trả lời đúng: Mẩu giấy vụn nằm ở ngay giữa lối ra
vào.
Câu 2: Cô giáo yêu cầu cả lớp làm gì?
Học sinh trả lời: “Nào! Các em hãy lắng nghe và cho cô biết mẩu giấy đang
nói gì nhé!”
Giáo viên: Trong lời nói của cô giáo, em thấy cô yêu cầu cả lớp làm gì?
Học sinh: Cơ u cầu cả lớp lắng nghe và cho biết mẩu giấy đang nói gì.
Ví dụ: Bài Người mẹ hiền (Tiếng Việt 2 – Tập 1- trang 63)
Câu 1: Giờ ra chơi Minh rủ Nam đi đâu?

Học sinh trả lời: Giờ ra chơi Minh thì thầm với Nam“Ngồi phố có gánh
xiếc. Bọn mình ra xem đi”
Giáo viên: Theo em qua câu nói của Minh, ta thấy Minh đã rủ Nam đi
đâu?
Học sinh: Giờ ra chơi, Minh rủ Nam trốn học, ra phố xem xiếc.
Câu 2: Các bạn ấy định ra phố bằng cách nào?
Học sinh trả lời: Minh chui đầu ra. Nam đẩy Minh lọt ra ngoài.
Giáo viên: Câu trả lời đó cho thấy Minh và Nam đã thực hiện việc trốn
học và ra phố xem xiếc. Trước đó hai bạn định ra phố bằng cách nào? ( Giáo
viên nhấn mạnh từ định để học sinh dễ dàng xác định lại mục đích của câu hỏi).
Học sinh: Minh và Nam sẽ chui qua lỗ tường thủng.
Khi gợi ý học sinh trả lời đúng trọng tâm câu hỏi, giáo viên cần lưu ý học
sinh phải đọc kĩ câu hỏi, xem câu hỏi cần hỏi nội dung gì thì trả lời vào trọng
tâm nội dung chính của câu hỏi, khơng trả lời lan man, thừa ý, không rõ trọng
tâm.
Sau khi xử lí, học sinh trả lời đúng trọng tâm câu hỏi, giáo viên cần
chuyển ý sao cho mạch tìm hiểu bài không bị gián đoạn. Đồng thời giáo viên
cần chú trọng sửa chữa cho học sinh cách trả lời để kĩ năng diễn đạt của các em
ngày càng tiến bộ hơn.
8


2.3.4 Giải pháp 4: Thực hiện chuyển, dẫn dắt lời văn, ý thơ trong quá
trình tìm hiểu bài.
Quá trình tìm hiểu bài là quá trình giúp học sinh hiểu được nội dung bài
học. Vì vậy giáo viên nên linh hoạt trong việc chuyển ý để hoạt động tìm hiểu
bài ln thu hút sự chú ý của các em.
Ví dụ: Bài Hai anh em ( Tiếng Việt 2- tập 1- trang 119)
Sau hai câu hỏi:
- Người em nghĩ gì và làm gì?

- Người anh đã nghĩ gì và làm gì?
Đến câu hỏi thứ 3: Mỗi người cho thế nào là công bằng? giáo viên không
hỏi như sách giáo khoa mà chia nhỏ câu hỏi cho học sinh dễ hiểu vì qua cách
nghĩ và việc làm của cả hai nhân vật các em phải suy luận cách hiểu công bằng
của người em và cách hiểu cơng bằng của người anh. Vì vậy sau hai câu hỏi
đầu, giáo viên thực hiện chuyển ý đơn giản và chia nhỏ câu hỏi thứ ba như sau:
Qua suy nghĩ và việc làm của hai anh em, ta thấy họ đã hiểu công bằng
với cách hiểu của riêng mình.
- Các em hãy nêu rõ người anh hiểu thế nào là công bằng?
- Người em hiểu thế nào là công bằng?
Với cách chuyển ý và chia nhỏ câu hỏi như trên học sinh sẽ hiểu bài và
việc suy luận câu hỏi sẽ dễ dàng hơn.
Việc chuyển ý dẫn dắt tìm hiểu nội dung bài đọc là vơ cùng quan trọng.
Nó giúp học sinh hiểu bài hơn và mạch tìm hiểu bài mềm mại, logic. Song lời
giảng giáo viên cần ngắn gọn và đúng chỗ, đúng lúc, tránh giảng quá dài sẽ
không phù hợp với đặc trưng bộ môn.
2.3.5 Giải pháp 5: Hướng dẫn học sinh tự đặt câu hỏi trong quá trình
tìm hiểu bài.
Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 thể hiện rõ quan điểm dạy giao tiếp và tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh, chính vì vậy trong quá trình dạy - học
hoạt động tìm hiểu bài phân môn Tập đọc, giáo viên cần tổ chức các hoạt động
sao cho mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh được bộc lộ khả năng
dù là rất nhỏ. Tổ chức hướng dẫn học sinh tự đặt câu hỏi trong quá trình tìm
hiểu bài là một việc làm rất quan trọng. Nó tạo điều kiện cho học sinh được hoạt
động một cách tích cực cả về khả năng giao tiếp, thái độ học tập …Vì thế địi
hỏi người giáo viên phải có kế hoạch, có phương pháp, hình thức tổ chức….
thật chu đáo thì tiết dạy mới đem lại hiệu quả cao.
Ví dụ: Bài Hai anh em - Tiếng Việt 2 - Tập 1- Trang 119
Đối với bài đọc này, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi khi bắt đầu
tìm hiểu bài:


9


Giáo viên: Mở đầu chuyện cho các em biết sự việc gì? Em hãy suy nghĩ
đặt câu hỏi để hỏi bạn về sự việc đó!
Học sinh đã đặt câu hỏi như sau:
Hai anh em chia lúa như thế nào?( hoặc bạn hãy nêu cách chia lúa của
hai anh em? Lúc đầu, hai anh em chia lúa thế nào?)
Trong quá trình dạy giáo viên cần linh hoạt khi thực hiện việc hướng dẫn
học sinh đặt câu hỏi bạn, hỏi thầy. Một tiết dạy thành công không chỉ dừng lại ở
mức độ học sinh trả lời tốt các câu hỏi của giáo viên mà phải kể đến trong tiết
học đó học sinh đã hỏi bạn và hỏi chúng ta những gì. Vì vậy chúng ta không
dừng lại ở cách giáo viên hỏi học sinh mà tạo điều kiện cho học sinh hỏi học
sinh, học sinh hỏi giáo viên. Có như vậy mới phát huy tối đa năng lực học tập
của học sinh kể cả những học sinh tiếp thu bài chậm.
2.3.6 Giải pháp 6: Sử dụng sơ đồ, bảng biểu.
Đối với câu hỏi liên quan đến các chi tiết được thể hiện theo trình tự
chuỗi: Thể hiện mối liên hệ một chiều về mặt thời gian giữa các hiện tượng, các
hành động, các chi tiết, giáo viên có thể sử dụng trình tự kết hợp với những câu
hỏi định hướng mở để dẫn dắt học sinh tìm kiếm thơng tin cho câu trả lời. Cụ
thể, sơ đồ này thường dùng trong các câu hỏi/ bài tập yêu câu kể lại, thuật lại,
hay nói tiến trình của sự xuất hiện, phát triển của một sự vật, hiện tượng cụ
thể...
Ví dụ bài Sự tích cây vũ sữa ( Tiếng Việt 2 – tập 1- trang 96), có câu hỏi:
Thứ quả lạ xuất hiện trên cây như thế nào?. Với câu hỏi này ở trình độ học sinh
lớp 2 dễ đưa ra câu trả lời bằng cách đọc nguyên văn một số câu trong văn bản
mà nhiều phần trong các câu ấy không thực sự không gắn với nội dung câu hỏi.
Bằng cách sử dụng sơ đồ chuỗi, giáo viên hướng dẫn các em tìm các chi tiết
theo yêu cầu câu hỏi. Sau khi tìm ý giáo viên có thể u cầu học sinh nhìn vào

sơ đồ và diễn đạt câu trả lời.
Đầu tiên, xuất hiện
như thế nào ?

Kế đến ra sao ?

Cuối cùng thế
nào ?

Học sinh có thể tìm kiếm thơng tin từ bài học và hoàn thành sơ đồ như
sau:
Từ các cành lá,
những đài hoa bé tí
trổ ra

Hoa nở trắng như
mây

Hoa tàn, quả xuất
hiện, căng mịn,
xanh óng rồi chín.

10


Với sơ đồ này học sinh sẽ dễ dàng tìm thấy được ý trọng tâm của câu trả
lời, hạn chế việc đưa ra câu trả lời có những ý khơng cần thiết.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Đến ngày 20 / 03 / 2021 tôi tiếp tục khảo sát lớp 2D tôi tổ chức học sinh
bốc thăm đọc bài và trả lời câu hỏi từ tuần 19 đến tuần 25.

Và kết quả đạt được như sau:
TSHS
Không trả
Trả lời chưa
Trả lời đủ ý
Trả lời bằng
lời được câu đủ ý
nhưng còn đọc ngơn ngữ của
hỏi
ở sách
mình
43 HS

SL
0

%

SL
5

%
11,63

SL
11

%
25,5


SL
27

%
62,87

So bảng khảo sát đầu năm học và bảng khảo sát trên thì có thể nhìn thấy
sự chênh lệch về chất lượng. Một phần là do hai thời điểm khác nhau, chùm bài
tập đọc khác nhau. Tuy nhiên là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 2 tại
Trường Tiểu Điện Biên 1, có cơ hội theo dõi mặt bằng chất lượng học sinh bản
thân tôi khẳng định sử dụng: Một số giải pháp giúp học sinh tích cực, chủ động
và sáng tạo trong hoạt động tìm hiểu bài của phân mơn Tập đọc lớp 2 đã có
những tiến triển đáng ghi nhận, đó là:
- Học sinh được nâng cao trình độ ngơn ngữ nói, làm cho ngơn ngữ nói
gần với ngơn ngữ viết.
- Học sinh giao tiếp tự tin hơn. Học sinh trả lời câu hỏi hay diễn đạt ý một
cách cụ thể (cụ thể bằng chính ý hiểu của các em, bằng chính ngơn ngữ của
mình mà khơng hồn tồn phụ thuộc vào sách giáo khoa).
- Khi học môn học này các em biết vận dụng kiến thức của các môn học
khác. Thấy được sự liên quan và tác dụng giữa các môn học.
- Có kĩ năng tư duy tích hợp, nhìn nhận vấn đề một cách tổng quát.
Một số hình ảnh hoạt động của cơ và trị lớp 2D trong giờ tập đọc

11


12


13



14


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
3.1 Kết luận:
Khi sử dụng Một số giải pháp giúp học sinh tích cực, chủ động và sáng
tạo trong hoạt động tìm hiểu bài của phân môn Tập đọc lớp 2 ở lớp 2D, tôi
nhận thấy các em không bị thụ động trong hoạt động tìm hiểu bài nữa vì bản
thân các em đã được đóng vai trị chủ đạo trong tiết học; chất lượng giáo dục,
hiệu quả giáo dục của môn Tiếng Việt cụ thể là hoạt động đọc hiểu ngày càng
tăng cao một cách rõ rệt.
Cái được lớn hơn nữa mà tôi nhận thấy là các em u thích mơn học
Tiếng Việt, thể hiện rõ việc chuẩn bị bài trước ở nhà chu đáo, hăng hái xây dựng
bài học. Các em đã tự nhiên hơn rất nhiều và chủ động giao tiếp, trao đổi với
bạn bè. Cũng nhờ đó mà kết quả dạy học môn Tiếng Việt của lớp tôi tốt hơn.
Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng các giải pháp giúp
học sinh tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt động tìm hiểu bài của phân
mơn Tập đọc lớp 2, bằng những kinh nghiệm của bản thân, tơi nhận thấy để học
sinh tích cực, chủ động và sáng tạo trong học đọc hiểu của Tập đọc lớp 2 người
giáo viên cần :
15


- Quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học
sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới.
- Đặt câu hỏi, thay đổi hình thức câu hỏi để giúp học sinh ln suy nghĩ,
tìm tịi để phát triển tư duy.
- Nghiên cứu nội dung bài để có hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài phù hợp

với năng lực của học sinh lớp mình; linh hoạt thay đổi hình thức tổ chức,
phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, nội dung bài học.
- Phải có sự liên kết, tương tác giữa học sinh và giáo viên (sản phẩm của
học sinh, kế hoạch giảng dạy, phương pháp, hình thức tổ chức, đồ dùng dạy học
của giáo viên,…)
- Biết chấp nhận một số khiếm khuyết nhỏ của học sinh khi các em làm
bài tập và khi học sinh trả lời câu hỏi như khơng đủ tình tiết, từ ngữ chưa lưu
lốt,…Từ đó có cách hỗ trợ, giúp đỡ, khuyến khích các em sửa khiếm khuyết để
ngày càng hồn thiện hơn.
- Tìm tịi thêm các hình thức khác để‘‘làm mới’’phương pháp dạy học.
- Khơi gợi và gỡ nhẹ các ý tưởng khỏi những chỗ bí và giữ cho hoạt động
tạo lập ý nghĩ khi trả lời câu hỏi của học sinh luôn luôn sống động.
- Thường xuyên theo dõi học sinh nào cần sự giúp đỡ: Giúp các em thêm
ý tưởng, kết nối ý tưởng với người nghe khác.
- Gần gũi học sinh, quan tâm nhận xét, trị chuyện, khuyến khích, khen
ngợi học sinh một cách chân thành và cụ thể.
- Ủng hộ nỗ lực trả lời của học sinh bằng những lời khen.
- Khuyến khích sự sáng tạo của học sinh.
3.2 Kiến nghị:
Để việc thực hiện dạy học ở môn Tiếng Việt nói chung và phân mơn tập
đọc ở hoạt động tìm hiểu bài nói riêng được hiệu quả thì:
Đối với giáo viên:
Phải có lịng u nghề, tâm huyết với cơng việc giảng dạy của mình. Phải
suy nghĩ tìm tịi và sáng tạo phương pháp dạy học mới tạo được sự thân thiện và
sự hứng thú tích cực của học sinh. Phải thường xun thay đổi khơng khí lớp
học bằng cách tổ chức các trị chơi học tập.
Giáo viên cần có những hình thức động viên kịp thời đối với những học
sinh có tiến bộ. Giáo viên phải là người khơi dậy niềm say mê hứng thú học tập.
Luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em tham gia học
tập.

Đối với nhà trường
- Tăng cường hoạt động sinh hoạt chuyên môn theo tổ khối. Các buổi
sinh hoạt chuyên môn cần tập trung sâu về nội dung nghiên cứu bài học, các

16


giải pháp thực hiện hiệu quả hoạt động dạy học phân mơn Tập đọc nói riêng và
mơn Tiếng Việt, các mơn học khác nói chung.
- Tổ chức các tiết dạy minh hoạ về việc đổi mới phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học để phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học
sinh.
Đối với Phịng Giáo dục và Đào tạo:
- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề cấp cụm, cấp thành phố kèm các
tiết dạy mẫu minh hoạ về phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực
học sinh, giúp học sinh phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo.
- Tạo nhiều sân chơi Tiéng Việt giúp học sinh phát triển ngôn ngữ, kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng nói như: Trạng nguyên Tiếng Việt, Thi đọc hay, Viết cảm
nhận của em về nội dung nào đó, thi thuyết trình,...
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi về “Một số giải pháp giúp học
sinh tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt động tìm hiểu bài của phân mơn
Tập đọc lớp 2”. Tơi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của q đồng nghiệp
và các cấp lãnh đạo.
Tơi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thành phố, ngày 5 tháng 4 năm 2021.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.

Người viết

Nguyễn Thị Mai

17



×