Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN một số biện pháp tạo hứng thú học tập góp phần nâng cao chất lượng phân môn tập đọc cho học sinh lớp 3a trường tiểu học cẩm thạch huyện cẩm thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.56 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
Phần
1

2

3

Nội dung

Trang

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm



2

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm

3

2.3. Giải pháp thực hiện

4

2.4. Hiệu quả của sáng kiến

16

Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận

17

3.2. Kiến nghị

18


1. Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài.
Hứng thú có vai trò quan trọng và quyết định đầu tiên trong việc giúp học
sinh từng bước học tốt môn học. Kinh nghiệm thực tế cho thấy hầu hết mọi học

sinh muốn học tốt mơn học thì trước hết phải làm cho học sinh hứng thú, ham
thích, say mê với mơn học này.
Mơn Tiếng Việt ở trường Phổ thơng có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong
bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
Đọc là một dạng hoạt động ngơn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết
sang lời nói có âm thanh và thơng hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng),
là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa khơng
có âm thanh (ứng với đọc thầm).[1]
Trong mơn Tiếng Việt, Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan
trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được
tạo nên từ bốn kĩ năng bộ phận cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của đọc: đọc
đúng, đọc nhanh( đọc lưu lốt chơi trảy), đọc có ý thức( thơng hiểu nội dung
những điều mình đọc hay cịn gọi là đọc hiểu) và đọc hay( mà mức độ cao hơn
là đọc diễn cảm). Bốn kĩ năng đọc được hình thành trong hai hình thức đọc: đọc
thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau.[1]
Vì vậy, nếu làm tốt một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực
đến kĩ năng khác như để đọc nhanh thì trước hết phải đọc đúng từ đó giúp
người đọc thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại nếu không thơng hiểu điều
mình đang đọc thì khơng thể đọc nhanh và đọc hay được. Vì vậy có thể nói nếu
các em học tốt phân mơn Tập đọc thì các em sẽ chiếm lĩnh được kiến thức Tiếng
Việt và cũng chính là tiền đề để các em học tốt môn học khác, làm cơ sở để các
em học cấp học kế tiếp.
Từ thực tế giảng dạy ở Trường Tiểu học Cẩm Thạch, là một trường thuộc
vùng cao của huyện, đa số học sinh là người dân tộc thiểu số, tôi nhận thấy học
sinh trong trường nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng kĩ năng đọc của các em
cịn hạn chế về tốc độ đọc, sai lỗi, ngắt nghỉ chưa hợp lí. Học sinh cịn gặp khó
khăn trong việc hình thành và phát triển kĩ năng đọc nhanh, đọc có ý thức và đọc
hay và đặc biệt là các em chưa có sự hứng thú khi học tập đọc.
Vậy làm thế nào để học sinh có hứng thú và say mê từ đó nâng cao chất

lượng dạy học trong phân mơn Tập đọc? Quả thực đó là vấn đề khiến tôi suy
nghĩ rất nhiều.
Xuất phát từ những trăn trở trên, tơi đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu ngun
nhân và đưa ra: “Một số biện pháp tạo hứng thú học tập góp phần nâng cao
chất lượng phân mơn Tập đọc cho học sinh lớp 3A trường Tiểu học Cẩm
Thạch, huyện Cẩm Thuỷ ” làm vấn đề nghiên cứu trong năm học 2020 -2021.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng từ đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú cho học
sinh khi học tập đọc góp phần nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc cho học
sinh lớp 3A trường Tiểu học Cẩm Thạch .
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp tạo hứng thú trong phân môn Tập đọc cho học sinh
lớp 3.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Thu thập, xử lí, đánh giá số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận:
Trong trường Tiểu học, Tiếng Việt là mơn học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với học sinh bởi nó là mơn học cung cấp cho các em những kiến thức
cần thiết cho cuộc sống và quá trình giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát
triển một cách tồn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới khoa
học, góp phần rèn luyện trí thơng minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức
tốt đẹp của con người mới.
Tập đọc là một trong các phân mơn của mơn Tiếng Việt ở Tiểu học, có

nhiệm vụ là hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. Bên cạnh nhiệm
vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lịng u sách, phân mơn Tập đọc cịn giúp học sinh
làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, kiến thức về văn học và đời sống. Từ đó bồi
dưỡng ở các em lòng nhân hậu, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic
cũng như biết tư duy có hình ảnh…Như vậy dạy đọc khơng chỉ giáo dục tư
tưởng, đạo đức mà cịn giáo dục tính cách, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
Ở lớp 3 Sách Tiếng Việt gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một chủ
điểm học trong 2 tuần ( riêng chủ điểm “Ngôi nhà chung” học trong 3 tuần).
Nội dung dạy học Tập đọc gồm 62 bài trong đó có 16 bài thơ, 46 bài văn
xuôi. Nội dung tập đọc phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau, từ gia đình, nhà
trường, quê hương, vùng miền và các dân tộc anh em trên đất nước ta đến các
hoạt động văn hoá, khoa học, thể thao và các vấn đề lớn của xã hội như bảo vệ
hồ bình, phát triển tình hữu nghị, sự hợp tác giữa các dân tộc, bảo vệ môi
trường sống, chinh phục vũ trụ, …[2].
Yêu cầu cần đạt về chuẩn kiến thức: Đối với học kì 1 tốc độ đọc cần đạt
khoảng 55- 60 tiếng/phút và trả lời được các câu hỏi theo yêu cầu. Ở học kì 2 tốc
độ đọc cần đạt khoảng 65-70 tiếng/phút và trả lời được các câu hỏi theo yêu cầu
để nắm được nội dung bài.
3


Sách giáo khoa trình bày các bài tập đọc kênh chữ rõ ràng, chính xác.
Tranh ảnh sinh động. Tuy nhiên nội dung một số bài tập đọc khá dài dẫn đến
mất nhiều thời gian, học sinh cảm thấy nhàm chán, một số tranh ảnh chưa có tác
dụng làm nổi bật được nội dung cần truyền đạt, màu sắc chưa đẹp, chưa lơi
cuốn, hấp dẫn học sinh.
Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng phân mơn Tập đọc địi hỏi giáo viên
cần thay đổi hình thức, phương pháp dạy học. Cần mạnh dạn, sáng tạo trong dạy
học để gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em học tập hiệu quả hơn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

* Về phía giáo viên:
- Đội ngũ giáo viên của nhà trường đều có trình độ chuẩn, có kinh nghiệm
trong giảng dạy, nhiệt tình trong cơng tác.
- Tuy nhiên, trong q trình giảng dạy vẫn cịn bộc lộ những tồn tại, hạn
chế, đó là:
- Việc đổi mới phương pháp dạy học chưa được thực hiện triệt để, còn phụ
thuộc vào hướng dẫn SGK, SGV mà chưa có sự vận dụng linh hoạt trong giảng dạy.
- Thiếu hụt kĩ năng đọc, cảm thụ văn học, chưa làm chủ được các phương
pháp, thủ pháp dạy học Tập đọc.
- Một số giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học chưa thực sự phù hợp với bài
dạy, chưa phát huy hiệu quả của đồ dùng dạy học; các biện pháp luyện đọc cho
học sinh chưa hiệu quả. Hình thức tổ chức dạy học cịn đơn điệu, nhàm chán. Vì
vậy, các giờ học thường chưa tạo được sự hứng thú, hấp dẫn, lơi cuốn học sinh.
* Về phía học sinh:
Năm học 2020 – 2021 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3. Lớp tơi chủ
nhiệm và giảng dạy có 27 học sinh. Các em đều là học sinh dân tộc thiểu số,
việc đọc, tiếp thu bài còn hạn chế. Giờ học Tập đọc trầm, học sinh đọc còn sai
lỗi, ngắt nghỉ chưa hợp lí, đọc chưa đúng tốc độ, đọc có ý thức còn chậm, tiếp
thu một cách thụ động, thiếu sự nhiệt tình, tích cực trong các hoạt động học tập.
Nhiều em mức độ chú ý trong giờ học chưa cao, các em không hứng thú dẫn đến
kết quả học chưa tốt.
Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trong lớp về mức độ hứng thú trong
học Tập đọc thông qua phiếu.( Phiếu để ở phần phụ lục).
+ Kết quả thu được về mức độ hứng thú:
Tổng số

Mức độ
Hứng thú

27


Ít hứng thú

Không hứng thú

SL

TL

SL

TL

SL

TL

3

11,1 %

15

55,6 %

9

33,3 %
4



+ Khi bước vào năm học mới được 2 tuần tôi đã tiến hành khảo sát chất
lượng đọc của học sinh qua bài: "Cơ giáo tí hon". Kết quả thu được như sau:
Nhóm học sinh
đọc tốt
Tổng
số

27

(Đọc đúng, trơi chảy,
biết nhấn giọng ở
các từ ngữ biểu cảm,
Hiểu ND văn bản…)

Nhóm học sinh
đọc đạt u cầu
(Đọc đúng, trơi
chảy đơi lúc đọc
nhỏ.)

Nhóm học sinh đọc
chưa đạt yêu cầu
(Đọc ê- a, ngắc ngứ,
ngắt nghỉ sai, đọc sai
âm vần và dấu
thanh...)

SL


Tỷ lệ

SL

Tỷ lệ

SL

Tỷ lệ

3

11,1 %

19

70,4 %

5

18,5 %

Qua bảng thống kê trên tôi thấy: Số lượng học sinh có hứng thú với phân
mơn Tập đọc cịn thấp chỉ chiếm 11,1 %, đây là những học sinh có năng khiếu
học Tập đọc, chăm chỉ học tập; 55,6% học sinh ít hứng thú với phân mơn Tập
đọc. Cịn lại 33,3% học sinh khơng có hứng thú học phân môn này với nhiều lý
do: Giờ Tập đọc không hấp dẫn, ngại học, khó tiếp thu, khó nhớ.
Từ những lí do trên đã dẫn đến kết quả học tập phân môn môn Tập đọc
của học sinh trong lớp chưa cao: Kết quả khảo sát cho thấy chỉ có 3 em tương
ứng với 11,1% học sinh đọc tốt, số học sinh đọc chưa đạt yêu cầu còn tới 5 em,

tương ứng với 18,5%.
Với thực trạng nêu trên, để tạo hứng thú cho học sinh trong học phân mơn
Tập đọc, góp phần nâng cao chất lượng mơn học, trong q trình dạy học tôi đã
thực hiện một số các biệp pháp sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Biện pháp 1: Tăng cường sử dụng phương pháp trực quan
trong dạy học Tập đọc
Phương pháp trực quan trong dạy học Tâp đọc ở tiểu học là phương pháp
dạy học trong đó giáo viên sử dụng phương tiện, đồ dùng dạy học trước trong và
sau khi học kiến thức mới, khi ôn tập, khi củng cố và kiểm tra kiến thức. Từ đó
giúp học sinh nắm được kiến thức, kĩ năng cần đạt.
Việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan sẽ giúp học sinh hứng thú
hơn và tiếp thu bài dễ dàng hơn, giúp bài giảng của giáo viên thêm sôi động, hấp
dẫn, phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học là từ “trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Vì vậy, Khi
sử dụng phương pháp trực quan thì khơng thể thiếu được các đồ dùng, phương
tiện dạy học, đó là chỗ dựa ban đầu cho hoạt động nhận thức của học sinh.
Tuy nhiên khi sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên cần lưu ý lựa chọn các
đồ dùng phù hợp với nội dung, mục tiêu của bài, đảm bảo thẩm mỹ và chính
xác, dễ kiếm dễ tìm; sử dụng đúng lúc đúng chỗ, tránh lạm dụng.
5


Phương tiện trực quan có thể là lời nói, giọng đọc mẫu, thiết bị sẵn có,
hoặc do giáo viên và học sinh tự làm, vật thật trong cuộc sống; có thể là mơ
hình, hình vẽ, tranh ảnh…...
a.Trực quan qua giọng đọc mẫu của giáo viên.
Trong tiết dạy Tập đọc thì lời nói, giọng đọc mẫu của giáo viên là phương
tiện trực quan không thể thiếu. Việc đọc mẫu của giáo viên có một vai trị vơ
cùng quan trọng trong việc giúp học sinh đọc đúng và hiểu nội dung văn bản. Để

đọc diễn cảm, trước hết người giáo viên phải xác định nội dung, ý nghĩa của bài
đọc, sắc thái, tình cảm, cảm xúc, giọng điệu chung của bài. Giáo viên thâm nhập
vào tác phẩm, thấm được vào máu thịt của bài văn, tái hiện được hình tượng của
tác phẩm. Vì vậy để làm tốt được điều này giáo viên phải có lịng ham muốn đọc
hay và có ý thức tự điều chỉnh để mình đọc đúng hơn, hay hơn, có ý thức trau
chuốt giọng đọc của mình. Do đó, mỗi thầy cơ giáo phải có sự chuẩn bị kĩ ở nhà
để khi lên lớp, trước học sinh họ sẽ là một chuẩn mực cho học sinh, đem đến
cho học sinh mẫu hình đẹp nhất về mặt âm thanh của tiếng nói dân tộc.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Chú ở bên Bác Hồ” (SGK Tiếng Việt 3- Tập 2/
Trang 16)
Khi đọc mẫu bài thơ này, giáo viên cần đọc hai khổ thơ đầu thể hiện sự
ngây thơ, tự nhiên thắc mắc về người chú của bé Nga. Khổ thơ cuối đọc với giọng
trầm buồn, xúc động nghẹn ngào của bố mẹ Nga khi nhớ đến người đã hi sinh.
b. Sử dụng đồ dùng dạy học để giới thiệu bài, giảng từ, tìm hiểu nội
dung bài, luyện đọc.
Đồ dùng dạy học là yếu tố khơng thể thiếu trong q trình dạy học, chúng
có tác dụng tích cực và là đơng lực thúc đẩy quá trình dạy – học. Tạo điều kiện
để học sinh tiếp thu bài một cách hào hứng có hiệu quả. Đồ dùng dạy học có thể
là tranh, ảnh, vật thật,…do giáo viên, học sinh tự làm hay sưu tầm, chuẩn bị.
Ví dụ 1: Khi dạy bài: “Các em nhỏ và cụ già” (SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/
Trang 62)
- Phương tiện trực quan: Tranh trong Sách giáo khoa phóng to.
- Sử dụng tranh ngay trong phần giới thiệu bài: HS nêu nội dung tranh,
giáo viên kết hợp giới thiệu bài.
- Sử dụng khi luyện đọc: Khi giảng từ “ u sầu” giáo viên hướng dẫn học
sinh quan sát vẻ mặt của ông lão trong tranh để kết hợp giải nghĩa từ.
- Sử dụng khi tìm hiểu bài sau khi học sinh trả lời xong câu hỏi số 1,2
giáo viên dùng tranh để giảng và chốt ý chính của đoạn.

6



Hình ảnh sử dụng đồ dùng trực quan trong tiết dạy
Ví dụ 2: Khi dạy bài: “ Nhà Rơng ở Tây Nguyên” (SGK Tiếng Việt 3Tập 1/ Trang 127)
- Khi giải nghĩa từ “ già làng” giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát
hình ảnh người già vùng dân tộc để kết hợp giải nghĩa từ.
Ví dụ 3: Khi dạy bài “Hũ bạc của người cha” (SGK Tiếng Việt 3- Tập
1/Trang 121)
- Đồ dùng chuẩn bị: Một cái hũ bằng sành và đồng bạc ngày xưa bằng vật thật.
- Giáo viên sử dụng vật thật để giải nghĩa từ “ hũ bạc” và “ đồng tiền”
thời xưa trong phần tìm hiểu bài.
2.3.2. Biện pháp 2: Tạo hứng thú cho học sinh thơng qua các trị
chơi học tập
Trị chơi học tập trong phân mơn Tập đọc là những trị chơi được đưa vào
lớp học nhằm biến việc học tập trên lớp thành một cuộc chơi. Thơng qua các trị
chơi có nội dung lí thú, phù hợp với việc nhận thức của học sinh, các em sẽ tiếp
nhận kiến thức và rèn kĩ năng dễ dàng hơn, hào hứng hơn. Trò chơi học tập cùng
lúc đáp ứng cả hai nhu cầu của học sinh – nhu cầu vui chơi và nhu cầu học tập.
Trị chơi học tập tạo nên hình thức “ Học mà chơi – chơi mà học”. Mọi hoạt
động trong tiết dạy đều có thể trở thành trị chơi học tập nếu mà giáo viên nắm
bắt đúng thao tác, cái đích của hoạt động học sẽ truyền tải nội dung học tập đến
học sinh hồn tồn tự nhiên khi nó tồn tại dưới dạng trò chơi. Trong tiết dạy Tập
đọc giáo viên có thể tổ chức một số trị chơi như sau:
*Trò chơi 1: Trò chơi: Đọc tiếp sức
a. Mục đích: Giúp học sinh rèn kĩ năng đọc đúng, đọc nhanh các bài văn,
bài thơ trong sách giáo khoa, rèn luyện cho học sinh tác phong nhanh nhẹn, tập
trung chú ý để phối hợp nhịp nhàng giữa các bạn trong nhóm với nhau khi đọc
thành từng câu nối tiếp.
b. Chuẩn bị: Lập các nhóm chơi có số người bằng nhau; cử 2 người làm
trọng tài, 1 đồng hồ.

7


c. Thời điểm tổ chức: Phần luyện đọc lại
d. Cách chơi: Khi nghe trọng tài hô “bắt đầu” người số 1 đứng đầu hàng,
phải đọc câu thứ nhất của bài một cách rõ ràng, chính xác và nhanh. Dứt tiếng
cuối cùng của câu thứ nhất, người số 2 cạnh vị trí số 1 mới đọc tiếp câu thứ hai.
Cứ như vậy cho đến người cuối cùng của nhóm. Nếu chưa hết bài, câu tiếp lại
đến người số 1 đọc, người số 2 đọc …cho đến hết thì dừng lại.
Trọng tài tính thời gian và ghi lại kết quả số phút tồn bài của từng nhóm,
cùng các bạn theo dõi, nhận xét tính điểm của từng nhóm vừa đọc, cơng bố kết
quả về thời gian đọc và số điểm đọc của từng nhóm chơi.
Nhóm được nhiều điểm nhất (ít lỗi) và có thời gian đọc ít nhất là nhóm
giành phần thắng trong cuộc thi đọc tiếp sức .
Ví dụ: Khi dạy bài “Ông ngoại” (SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/Trang 34)
Chuẩn bị: 1 đồng hồ để bấm thời gian
Thời điểm tổ chức trò chơi: Hoạt động 3- Luyện đọc lại đoạn: " Ơng chậm
rãi…..của tơi sau này"
Cách tiến hành:
Bước 1: GV nêu tên trò chơi, luật chơi.
- Trò chơi: Đọc tiếp sức.
- Luật chơi: Giáo viên lập hai nhóm chơi, mỗi nhóm có 4 Học sinh xếp
thành 2 hàng dọc theo thứ tự từ 1 đến 4; cử 2 học sinh làm trọng tài (1 bạn bấm
thời gian, 1 bạn theo dõi các bạn đọc). Khi nghe trọng tài hô “bắt đầu” người số
1 đứng đầu hàng, phải đọc câu thứ nhất của đoạn một cách rõ ràng, chính xác và
nhanh. Dứt tiếng cuối cùng của câu thứ nhất, người số 2 mới đọc tiếp câu thứ
hai. Cứ như vậy cho đến kết thúc đoạn. Trọng tài tính thời gian và ghi lại kết quả
số phút đọc của từng nhóm, cùng các bạn theo dõi, nhận xét tính điểm của từng
nhóm vừa đọc, công bố kết quả về thời gian đọc và số điểm đọc của từng nhóm.
Bước 2: Học sinh tham gia chơi.

Bước 3: Tuyên bố đội thắng cuộc, tuyên dương tinh thần chơi của hai nhóm
Mỗi khi tổ chức chị chơi này, tơi thường gọi những học sinh đọc chưa tốt
lên chơi. Các em rất tích cực và thích thú khi được tham gia trò chơi.
*Trò chơi 2: Ghép các dịng thơ thành bài.
a. Mục đích: Rèn kĩ năng đọc nhanh và thuộc các bài thơ đã học, cũng
như luyện tác phong nhanh nhẹn khéo léo.
b. Chuẩn bị: Lập 2 nhóm chơi có số người bằng nhau; cử 1 người làm
trọng tài; giáo viên chuẩn bị hai bộ băng giấy một băng giấy ghi đầu bài và các
băng giấy mỗi băng giấy ghi một dòng thơ.
c. Thời điểm tổ chức: Phần luyện đọc lại (học thuộc lòng)

8


d. Cách chơi: Trọng tài đặt trước nhóm chơi một bộ băng giấy đã sắp xếp
lẫn lộn úp mặt có chữ xuống bàn.
- Khi nghe trọng tài hô lệnh “ Bắt đầu” tất cả cùng lật băng giấy, đọc và
xếp đúng thứ tự các câu thơ trong bài, cần đặt giấy ngay ngắn, đúng hình thức
trình bày thể thơ như sách giáo khoa.
- Nhóm thắng cuộc là nhóm xếp đúng nội dung bài, đúng hình thức trình
bày và có thời gian ít nhất.
Ví dụ: Khi dạy bài “Nhớ Việt Bắc” (SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/Trang 115)
Chuẩn bị: Hai bộ băng giấy. Mỗi bộ băng giấy gồm một băng giấy ghi
đầu bài và các băng giấy mỗi băng giấy ghi một dòng thơ.(10dòng)
Thời điểm tổ chức trò chơi: Luyện đọc học thuộc lòng ( 10 dòng thơ đầu)
Cách tiến hành:
Bước 1: GV nêu tên trò chơi, luật chơi.
- Trò chơi: Ghép các dòng thơ thành bài.
- Luật chơi: Giáo viên lập hai đội chơi, mỗi đội có 4 Học sinh; cử 1 học
sinh làm trọng tài. Trọng tài đặt trước mỗi đội chơi một bộ băng giấy đã sắp xếp

lẫn lộn úp mặt có chữ xuống bàn. Khi nghe trọng tài hô lệnh “ Bắt đầu” tất cả cùng
lật băng giấy, đọc và xếp đúng thứ tự các câu thơ trong bài, cần đặt giấy ngay ngắn,
đúng hình thức trình bày thể thơ như sách giáo khoa. Nhóm thắng cuộc là nhóm
xếp đúng nội dung bài, đúng hình thức trình bày và có thời gian ít nhất.
Bước 2: Học sinh tham gia chơi, giáo viên và học sinh khác cổ vũ hoạt
động của hai đội.
Bước 3: Tuyên bố đội thắng cuộc, tuyên dương tinh thần chơi của hai đội

Hình ảnh học sinh tham gia trò chơi “ Ghép các dòng thơ thành bài thơ”
Qua trị chơi này tơi thấy học sinh rất hào hứng với những tiết Tập đọc
học thuộc lòng. Các em thuộc bài nhanh hơn và nhớ được cách trình bày các
thể thơ.
9


*Trị chơi 3: Thi đọc truyện theo vai.
a. Mục đích: Rèn kĩ năng đọc các bài là truyện kể. Giúp học sinh thể hiện
đúng lời các nhân vật, lời người dẫn truyện cũng như luyện kĩ năng đọc thầm,
theo dõi bạn đọc để phối hợp nhịp nhàng khi đến vai đọc của mình.
b. Chuẩn bị: Lập 2 nhóm chơi mỗi nhóm có số người bằng nhau theo từng
nội dung của bài đọc. Cử trọng tài.
c. Thời điểm chơi: Phần luyện đọc lại
d. Cách chơi: Hai nhóm thi đọc sẽ đứng lên, mỗi bạn cầm theo SGK để
đọc theo sự phân cơng của nhóm mình.
- Khi nghe trọng tài hơ “ bắt đầu” thì lần lượt từng nhóm sẽ tham gia thi
đọc truyện theo vai.
- Nhóm thắng cuộc là nhóm đọc to, rõ ràng thể hiện đúng lời các nhân vật.
Ví dụ: Khi dạy bài “Nắng phương Nam” (SGK Tiếng Việt 3- Tập
1/Trang 94)
- Thời điểm tổ chức trò chơi: Hoạt động 3- Luyện đọc lại

- Cách tiến hành:
Bước 1: GV nêu tên trò chơi, luật chơi.
- Trò chơi: Thi đọc truyện theo vai
- Luật chơi: Giáo viên lập hai đội chơi, mỗi đội có 4 học sinh, mỗi bạn lên
chơi sẽ cầm theo SGK; cử 1 học sinh làm trọng tài, học sinh dưới lớp cùng
trọng tài theo dõi nhận xét, đánh giá. Các nhóm tự phân vai đọc truyện theo các
nhân vật trong truyện. Nhóm thắng cuộc là nhóm đọc đúng lời các nhân vật, lời
người dẫn truyện thể hiện được giọng đọc, sắc thái tốt hơn là nhóm thắng cuộc.
Bước 2: Học sinh tham gia chơi, giáo viên và học sinh khác theo dõi hoạt
động của hai đội.
Bước 3: Tuyên bố đội thắng cuộc, tuyên dương tinh thần chơi của hai đội
* Qua trị chơi này tơi thấy học sinh rất yêu thích đọc bài văn là truyện kể.
Các em hào hứng hơn với tiết Tập đọc. Các em thích được vào vai các nhân vật
để thể hiện mình.
Ngồi các trị chơi đã nêu, giáo viên có thể sử dụng một số trò chơi học
tập khác như: Nghe đọc đoạn đoán tên bài, đọc thơ truyền điện.…. để giúp học
sinh luyện đọc và nhớ các bài đọc, từ đó tạo hứng thú cho các em, giúp các em
học tập tích cực, hiệu quả phân mơn học này.
Lưu ý: Khi tổ chức các trò chơi, giáo viên cần xác định đúng mục đích
của trị chơi; nắm được ưu, nhược điểm của phương pháp trò chơi; một số lưu ý
khi dạy học theo phương pháp này.
Như vậy có rất nhiều các trị chơi học tập tác động tích cực vào việc tạo
hứng thú cho học sinh, các em rất háo hức mong chờ đến giờ học, tất cả học sinh
đều tiếp thu bài tốt, được luyện đọc nhiều, hiểu rõ nội dung của văn bản đọc vì
vậy hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt.
10


2.3.3. Biện pháp 3: Sử dụng ngữ liệu phù hợp trong dạy Tập đọc để
tạo hứng thú học tập cho học sinh.

Ngữ liệu là phần tất yếu của nội dung bài học. Muốn học sinh có hứng thú
trong giờ học, trước hết giáo viên phải linh hoạt trong việc tạo ra ngữ liệu ở mỗi
tiết học. Việc sử dụng ngữ liệu phù hợp ở mỗi tiết Tập đọc sẽ giúp học sinh cảm
thụ được cái hay, cái đẹp trong từ ngữ, nội dung bài. Từ đó, học sinh bị cuốn hút
vào bài học và học tập một cách chủ động, say mê và thích thú hơn. Theo đó,
trong q trình dạy học giáo viên có thể sử dụng ngữ liệu dạy học trong các hoạt
động cụ thể sau:
* Dùng ngữ liệu hấp dẫn để giới thiệu bài:
Giới thiệu bài là khâu quan trọng trong tiến trình dạy học. Việc giới thiệu
bài một cách hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý, tạo hứng thú học tập cho học sinh và
phát huy nỗ lực của các em trong suy nghĩ, tìm hiểu kiến thức mới. Có nhiều
cách để giới thiệu bài: giới thiệu bằng cách bắt đầu bài học một cách trực tiếp;
giới thiệu bằng tranh ảnh hoặc vật thật; giới thiệu bằng cách nêu tình huống có
vấn đề; giới thiệu qua việc kiểm tra kiến thức cũ giới thiệu bài mới, đặt ra những
câu hỏi có vấn đề, liên tưởng, so sánh, mở rộng vấn đề trong bài học, nhằm phát
huy khả năng sáng tạo của học sinh.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Người mẹ” ( SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/ Trang 29)
Giáo viên có thể sử dụng hình thức giới thiệu bài gián tiếp bằng cách nêu
câu hỏi: Trong bài “Chiếc áo len” đã học ở tiết trước có những nhân vật nào?
Nêu tình cảm của người mẹ đối với các con? Từ đó giáo viên dẫn dắt học sinh
giới thiệu bài mới "Mẹ luôn thương con và có thể hy sinh vì những đứa con của
mình, sự hy sinh đó là vơ cùng- vơ tận. Câu chuyện “Người mẹ” hôm nay sẽ
giúp các em thấy được sự hy sinh cao cả đó".
Ví dụ 2: Khi dạy bài “ Giọng quê hương”( SGK Tiếng Việt 3- Tập
1/Trang 76)
- Trong phần giới thiệu bài, để tạo được hứng thú cho học sinh giáo viên
cho các em lắng nghe bài hát “Quê hương” của Tác giả Đỗ Trung Quân, đưa ra
câu hỏi giúp các em nhận thấy tình cảm của mỗi người đối với quê hương qua
câu hát:
Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai khơng nhớ
Sẽ khơng lớn nỗi thành người.
Từ đó giáo viên dẫn dắt giới thiệu học sinh vào bài mới.
* Thay đổi ngữ liệu dạy học phù hợp với nội dung chủ điểm, phù hợp
thực tế và đối tượng học sinh.
Với học sinh, bên cạnh việc học tập theo hướng dẫn của thầy cơ giáo, các
em cịn phải rèn luyện thông qua hệ thống bài tập để nắm chắc nội dung đã học.
11


Người giáo viên song song với việc giảng dạy cần rà soát ngữ liệu trong sách
giáo khoa để điều chỉnh, thay mới những ngữ liệu không phù hợp, lựa chọn ngữ
liệu thay thế phù hợp với nội dung các chủ điểm, phù hợp với đối tượng học
sinh, phù hợp với thực tế địa phương và có tính cập nhật nhằm phát triển năng
lực phẩm chất học sinh. “Thay đổi ngữ liệu phù hợp” là phương tiện và công
cụ rèn luyện tạo sự hấp dẫn và hiệu quả trong việc học Tiếng Việt, mang lại cho
các em học sinh niềm vui và sự hữu ích trong học mơn Tiếng Việt nói chung
cũng như mơn tập đọc nói riêng.
- Thay đổi ngữ liệu để phù hợp với thực tế địa phương, phù hợp với đối
tượng học sinh có tính cập nhật nhằm phát triển năng lực phẩm chất học sinh.
Ví dụ : Khi dạy bài “ Thư gửi bà” ( SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/ Trang 81)
Giáo viên có thay đổi một số ngữ liệu trong sách giáo khoa như:
- Thay đổi về địa điểm và thời gian viết thư:
+ Hải Phòng, ngày 6 tháng 11 năm 2003 thay bằng Thanh Hoá, ngày 6
tháng 11 năm 2020.
- Thay đổi một số từ ngữ trong nội dung bức thư: Câu: “ Từ đầu năm đến
giờ, cháu được tám điểm 10 rồi đấy”. Thay bằng: “ Từ đầu năm đến giờ, cháu
được tám lần cơ giáo khen hồn thành tốt rồi đấy”.
Như vậy, việc thay đổi địa điểm viết thư cũng như cụm từ “điểm mười”

thành “hoàn thành tốt” đã giúp tiết dạy trở nên thực tế hơn, phù hợp với
cách đánh giá của thông tư 22/2016 – TT/BGD&ĐT hiện nay. Với cách thay
đổi này, phù hợp với thực tế, học sinh đã học tập hứng thú và trả lời tốt hơn
các câu hỏi trong phần tìm hiểu bài.
Qua việc sử dụng ngữ liệu phù hợp trong từng hoạt động của tiết học đã
cuốn hút học sinh vào bài học và học tập một cách chủ động, say mê và thích
thú hơn.
2.3.4. Biện pháp 4: Vận dụng chuẩn kiến thức, kĩ năng, dạy học theo
sự phân hóa các đối tượng học sinh.
Như chúng ta đã biết, dạy học phân hóa theo đối tượng sẽ phát huy được
tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, phát huy ở
người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí
vươn lên. Dạy học phân hóa các đối tượng học sinh thực sự cần thiết vì mức độ
tiếp thu của mỗi học sinh khác nhau, trong cùng một khoảng thời gian có học
sinh đọc được nhiều hơn có học sinh đọc ít hơn có học sinh đọc hiểu tốt hơn học
sinh khác. Chính vì vậy, trong mỗi tiết dạy, giáo viên nên cân nhắc, dự kiến các
phương án dạy học phù hợp từng đối tượng học sinh. Trong quá trình dạy tập
đọc giáo viên ln ý thức thực hiện dạy phân hóa một cách linh hoạt và khoa
học, cụ thể như:
a. Phân hóa mức độ độc lập hoạt động của học sinh trong việc xây
dựng câu hỏi và các hoạt động dạy học.
Tăng cường cá thể hoá hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của
mỗi học sinh là việc làm có vai trò quan trọng để tạo hứng thú học tập. Khi học
12


sinh thực hiện tốt các nhiệm vụ mà giáo viên giao cho, các em sẽ cảm thấy tự tin
và học tập tích cực. Ở mỗi tiết Tập đọc, giáo viên thiết kế tiết học thành một
chuỗi nhiệm vụ phù hợp với khả năng nhận thức của từng đối tượng học sinh.
-Trong phần luyện đọc- luyện đọc lại

Ví dụ : Khi dạy bài “ Ông tổ nghề thêu” ( SGK Tiếng Việt 3- Tập 2/
Trang 22)
+ Học sinh đọc chưa tốt yêu cầu: Đọc to, rõ ràng ngắt nghỉ đúng sau các
dấu câu:
“ Lầu chỉ có hai pho tượng Phật, / hai cái lọng, / một bức trướng thêu ba
chữ / “ Phật ở trong lòng” / và một vò nước.//”
+ Học sinh đọc tốt yêu cầu: Đọc to, rõ ràng, trơi chảy tồn bài, ngắt nghỉ
đúng sau các dấu câu, biết nhấn giọng các từ ngữ miêu tả:
Bụng đói mà khơng có cơm để ăn, / Trần Quốc khái lẩm nhẩm đoc ba
chữ trên bức trướng, / rồi mỉm cười. // Ơng bẻ tay pho tương nếm thử. // Thì ra /
hai pho tượng ấy nặn bằng bột chè lam. // Từ đó, / ngày hai bữa, ơng cứ ung
dung bẻ dần tương mà ăn. // Nhân được nhàn rỗi, / ơng mày mị quan sát, / nhớ
nhập tâm cách thêu và làm lọng. //
Từ cách đọc đó học sinh sẽ định hướng được giọng đọc của đoạn, cách
ngắt nghỉ hơi giữa các câu dài; cách nhấn giọng những từ ngữ thể hiện sự bình
tĩnh, ung dung, tài trí của Trần Quốc Khái trước thử thách của vua Trung Quốc.
- Trong phần tìm hiểu bài đối với những học sinh đọc chưa tốt giáo viên
có thể thường thiết kế những câu hỏi có tính chất nhận diện, cụ thể, dễ hiểu, dễ
trả lời tái hiện ngôn ngữ của văn bản hoặc xác định đề tài và nhân vật của bài.
Còn đối với những học sinh đọc và tiếp thu bài tốt giáo viên sẽ định hướng cho
các em trả lời các câu hỏi khó, trừu tượng, có sự liên hệ kiến thức.
Ví dụ 1 : Khi dạy bài: “Giọng quê hương”( SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/
Trang 76)
- Câu hỏi dành cho học sinh tiếp thu chậm, kĩ năng đọc chưa tốt:
? Thuyên và Đồng cùng ăn trong quán với những ai?
- Câu hỏi dành cho đối tượng học sinh tiếp thu bài nhanh, kỹ năng tốt:
? Những chi tiết nào nói lên tình cảm tha thiết của nhân vật đối với quê
hương?
? Em hiểu thế nào là: nghẹn ngào, bùi ngùi, rớm lệ ?
- Nêu nội dụng của bài văn?

Ví dụ 2: Khi dạy bài: “ Đất quý, đất yêu”( SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/
Trang 84)
- Định hướng cho học sinh học tốt trả lời.
? Tìm những câu văn cho thấy người Ê-ti-ô-pi-a rất yêu quý mảnh đất
của mình?
13


b. Dạy học phân hóa thể hiện qua các hoạt động dạy- học đồng loạt.
Trong dạy học, ta cần lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp
làm nền tảng, do đó hoạt động cơ bản là hoạt động cả lớp. Tuy nhiên ngay trong
những hoạt động này, thông qua quan sát, đàm thoại và kiểm tra, giáo viên cần
phát hiện được sự sai khác giữa các học sinh về tiếp thu kiến thức, từ đó có
những biện pháp phân hóa nhỏ bằng cách:
- Lơi cuốn đơng đảo học sinh có trình độ khác nhau vào q trình dạy học
bằng cách giao những nhiệm vụ phù hợp, vừa sức với từng loại đối tượng. Phân
hóa việc giúp đỡ, học sinh qua các hoạt động:
* Trong hoạt động giao nhiệm vụ:
Đối với nhóm đối tượng học sinh đọc chậm, hay mắc lỗi, nắm nội dung
bài hạn chế: Giáo viên chú ý giao nhiệm vụ cho những học sinh này được đọc
nhiều hơn, đọc từ khó, câu dài, đọc nhóm trước lớp, luôn theo dõi, phát hiện lỗi
sai để sửa lỗi kịp thời, cụ thể. Trong phần tìm hiểu nội dung bài, yêu cầu các em
trả lời những câu hỏi cụ thể, đơn giản hơn.
Đối với nhóm đối tượng học sinh có kỹ năng đọc to, diễn cảm, hiểu nội
dung bài tốt cần yêu cầu cao hơn trong các hoạt động đọc mẫu bài, đoạn cần
đọc diễn cảm, đọc để phân biệt lời nhân vật đồng thời trả lời các câu hỏi khó,
trừu tượng cần tư duy.
Cụ thể: Phần luyện đọc:
Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Người lính dũng cảm” ( SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/
Trang 38)

- Giáo viên giao nhiệm vụ cho những học sinh đọc chậm, hay mắc lỗi đọc
từ, câu: vượt rào, luống hoa, nghiêm giọng, buồn bã, khoác tay.
- Học sinh đọc tốt đọc mẫu bài, đọc diễn cảm đoạn 4
Ví dụ 2: Khi dạy bài: “ Vẽ quê hương”( SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/ Trang 88)
- Học thuộc lòng bài thơ ( Học sinh học tốt thuộc cả bài; Học sinh học
chưa tốt đọc 1 hoặc 2 khổ)
- Phần tìm hiểu bài:
Ví dụ 1: Khi dạy bài: “ Trận bóng dưới lịng đường” ( SGK Tiếng Việt 3Tập 1/ Trang 54)
- Giáo viên giao nhiệm vụ cho những học sinh tiếp thu chậm trả lời câu
hỏi số 1 SGK
? Các bạn nhỏ chơi đá bóng ở đâu?
-Học sinh học tốt trả lời câu hỏi số 4 và câu hỏi số 5 trong SGK
? Tìm những chi tiết cho thấy Quang rất ân hận trước tai nạn do mình
gây ra?
? Câu chuyện muốn nói với em điều gì?
14


Từ việc giao nhiệm vụ hợp lí cho các đối tượng học sinh sẽ giúp tất cả các
em được hoạt động phù hợp với khả năng của mình. Sự phù hợp nay sẽ giúp các
em tự tin, tích cực trong học tập và từ đó hứng thú hơn trong phân môn này.
*Trong hoạt động tổ chức đàm thoại trong lớp – làm việc theo cặp,
theo nhóm
Học tập hợp tác theo nhóm phát triển ở học sinh kỹ năng tự tìm tòi,
chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng tổ chức, kỹ năng điều khiển và lãnh đạo. Thơng
qua đó hình thành ở học sinh những phẩm chất của người lao động mới. Vì thế,
trong quá trình hướng dẫn học sinh học tập, cần phát huy tác dụng qua lại giữa
những học sinh bằng các hình thức học tập khuyến khích sự giao lưu của học
sinh như: đàm thoại trong lớp, học theo cặp, học theo nhóm.
Với hình thức học theo cặp, học theo nhóm, học sinh học tốt giúp đỡ học

sinh học chưa tốt và qua việc giúp đỡ đó học sinh học tốt càng nắm chắc kiến
thức còn học sinh đọc chưa tốt cũng tiến bộ lên nhiều. Khi hoạt động theo nhóm
học sinh sẽ học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và hứng thú hơn.
Tuy nhiên để tạo được sự hứng thú cho học sinh trong học tập theo nhóm,
mỗi giáo viên cần nắm được đặc điểm tâm lí của các em. Hình thức khơng phải
chỉ có một chiều: Học sinh học tốt giúp đỡ học sinh học chưa tốt mà phải liên
kết hai bên cùng có lợi. Trong hoạt động nhóm, giáo viên cần tun dương, ghi
nhận cơng lao, tạo tình tương thân tương ái cho các em một cách kịp thời và
hiệu quả, kích thích được hứng thú học tập của các em. Ngoài ra cũng cần chú
ý tới việc nhận xét hoạt động của học sinh trong nhóm, cách nhận xét linh hoạt,
khéo léo theo từng đối tượng học sinh. Điều này giúp các em tự tin và tích cực
hơn rât nhiều.
*Trong hoạt động hướng dẫn học sinh:
Trong quá trình hướng dẫn học sinh học tập, giáo viên cần định ra yêu cầu
khác nhau về mức độ hoạt động độc lập của các em, hướng dẫn nhiều hơn cho
đối tượng học sinh chưa hoàn thành, hoàn thành; ít hoặc khơng gợi ý cho học
sinh hồn thành tốt.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Ơng ngoại”( SGK Tiếng Việt 3- Tập 1/ Trang 34)
Để giúp học sinh học chưa tốt trả lời được câu hỏi số 2
? Ông ngoại giúp bạn nhỏ chuẩn bị đi học như thế nào?
Giáo viên đã đưa ra câu hỏi gợi mở, hướng học sinh từng bước trả lời:
Ông ngoại giúp bạn nhỏ như thế nào? Dạy bạn những gì?
Học sinh hồn thành tốt giáo viên không chia nhỏ câu hỏi, để tự học sinh
suy nghĩ trả lời.
Bên cạnh đó, trong phần luyện đọc, giáo viên cũng cần quan tâm, động
viên những học sinh thiếu tự tin, lưu ý học sinh còn hay mắc lỗi khi đọc. Nhắc
nhở và sửa lỗi một cách cụ thể để từ đó dần hình thành kĩ năng đọc đúng cho
mỗi cá nhân.
15



* Trong hoạt động đánh giá- nhận xét:
Đối với từng đối tượng học sinh, giáo viên sẽ đưa ra cách nhận xét và
khích lệ khác nhau, với yêu cầu khác nhau. Với những học sinh đọc, hiểu bài
chưa tốt, khi phát hiện thấy sự tiến bộ dù là nhỏ nhất của các em, giáo viên cần
kịp thời tuyên dương để khích thích sự tiến bộ đó. Cịn đối với những học sinh
đã đọc, hiểu bài tốt, giáo viên lại đưa ra yêu cầu cao hơn để từ đó có thể phát
triển được khả năng vốn có của chính các em.
Với việc thực hiện dạy học theo hướng phân hóa các đối tượng học sinh,
giáo viên đã tạo ra cho học sinh của lớp mình một mơi trường học tập tích cực.
Đa số các em đều hứng thú, tự tin khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Các tiết
học khơng cịn trở nên khô khan, nhàm chán mà trở nên sôi nổi, hào hứng, lôi
cuốn học sinh tham gia.
2.3.5. Biện pháp 5: Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong
dạy học:
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Công nghệ
thông tin đã tạo nên một xã hội tồn cầu nơi mà mọi người có thể tương tác và
liên lạc với nhau một cách nhanh chóng và hiệu quả. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học sẽ giúp người giáo viên dễ dàng có được những kiến
thức cần thiết phục vụ cho bài giảng, mở rộng kiến thức cho học sinh. Bên cạnh
đó sử dụng cơng nghệ thơng tin trong dạy học cịn đem lại cho học sinh cảm
giác mới mẻ, hứng thú trong quá trình học tập, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức.
Khi giới thiệu bài, khi giải thích từ ngữ, giáo viên có thể dùng hình ảnh, clip
minh họa để học sinh dễ dàng nắm nghĩa của từ, nội dung, ý nghĩa của bài đọc.
Khi hướng dẫn học sinh luyện đọc câu, đoạn giáo viên có thể dùng hiệu ứng để
ngắt giọng và đổi màu chữ ở những từ cần nhấn giọng. Ngồi ra, ứng dụng cơng
nghệ thơng tin trong dạy học cịn tiết kiệm được thời gian, kinh phí trong việc
chuẩn bị đồ dùng dạy học cho giáo viên và học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Hai Bà Trưng” ( SGK Tiếng Việt 3- Tập 2/ Trang 34)
Giáo viên sử dụng công nghệ thông tin trong tiết dạy học và mở rộng

kiến thức cho học sinh thông qua tranh, ảnh khác.

Hình ảnh giáo viên sử dụng cơng nghệ thơng tin trong tiết dạy
16


2.3.6. Biện pháp 6: Tuyên dương, khích lệ học sinh một cách kịp thời,
tạo môi trường học tập thân thiện.
Tuyên dương, khích lệ học sinh là một việc làm quan trọng thúc đẩy sự thi
đua giữa các cá nhân trong tập thể. Trong các tiết học, giáo viên cần có sự động
viên học sinh bằng nhiều hình thức: bằng lời khen của giáo viên, bằng tràng
pháo tay của cả lớp, hay bằng những bơng hoa tun dương, hay những món quà
nhỏ có ý nghĩa...tạo cho học sinh phấn chấn tự tin, hứng thú và tích cực học tập,
khơng khí lớp học sôi nổi, nhẹ nhàng và thoải mái.
Không chỉ cần khen ngợi và động viên học sinh một cách kịp thời và đúng
lúc mà mỗi giáo viên trong quá trình giảng dạy cịn cần thực hiện phương châm:
“Cơ giáo như mẹ hiền’’. Giáo viên cần luôn tâm niệm bản thân mình như cha,
như mẹ của các em, ln quan tâm, gần gũi, chăm sóc, khơng qt mắng gây áp
lực cho học sinh cởi mở, trị chuyện để các em xóa đi cảm giác lo lắng, áp lực
khi đến lớp, đến trường. Ngồi ra, trong cơng tác giảng dạy và chủ nhiệm người
giáo viên cũng cần quan tâm và tìm hiểu về từng đối tượng học sinh, nắm được
đặc điểm của từng em, cũng như khó khăn mà các em gặp phải trong học tập để
bình tĩnh xử lí những sai sót của các em trong q trình học của mình. Sắp xếp
nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích
các em chia sẻ với nhau, tâm sự, chia sẻ với giáo viên về những sở thích, ước
mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp
cơ trị hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học
thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người
thân trong gia đình".
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,

với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Trên đây là một số biện pháp chính tơi đã sử dụng trong dạy học phân
mơn Tập đọc để tạo hứng thú cho học sinh, giúp các em u thích học phân mơn
Tập đọc và đã đem lại kết quả khả quan:
- Đối với giáo viên, đã có những thay đổi tích cực trong việc sử dụng,
phối hợp linh hoạt các phường pháp và hình thức dạy học; Thiết kế các hoạt
động dạy học mang tính sáng tạo, tạo cơ hội cho nhiều học sinh được tham
gia tích cực, gây hứng thú cho học sinh, tạo khơng khí lớp học sơi nổi, giờ
học nhẹ nhàng.
- Học sinh có chuyển biến rõ rệt trong các tiết học Tập đọc, các em hứng
thú hơn, say mê hơn, chủ động tích cực hơn. Đa số các em đã rất hứng thú với
các tiết Tập đọc, say mê tìm hiểu bài đọc cũng như thi nhau luyện đọc. Điều này
đồng nghĩa với việc chất lượng đọc viết của học sinh lớp tôi cũng được nâng
cao, vượt xa với kế hoạch đầu năm đã đưa ra.
Không chỉ vậy, đa số học sinh lớp tơi cịn mạnh dạn và tự tin hơn trong
giao tiếp, khả năng nói tiếng phổ thơng cũng như vốn từ của các em cũng tiến bộ
rất nhiều.
Giờ đây các em học sinh trong lớp đều háo hức đến trường, tích cực tham
gia các hoạt động của lớp, của trường. Tập thể lớp tham gia các hoạt động phong
17


trào thi đua đều đạt thành tích cao. Đây là niềm vui, niềm phấn khởi, tự hào của
cả cô và trị đã nỗ lực trong năm học. Bản thân tơi cũng thấy tự hào hơn bởi
mình đã xây được nền móng vững chắc và tạo dựng được hứng thú học tập để
các em tự tin học tốt hơn phân môn Tập đọc và các môn học khác.
Kết thúc học kỳ 1, đầu học kì 2 tơi đã tiến hành khảo sát học sinh qua bài
“ Nhà bác học và bà cụ” Kết quả thu được như sau:
Nhóm học sinh đọc tốt
Tổng

số

27

(Đọc đúng, trôi chảy,
biết nhấn giọng ở các từ
ngữ biểu cảm, Hiểu ND
văn bản…)

Nhóm học sinh
đọc đạt yêu cầu
(Đọc đúng, trơi
chảy đơi lúc đọc
nhỏ.)

Nhóm học sinh đọc
chưa đạt u cầu (Đọc
ê- a, ngắc ngứ, ngắt
nghỉ sai, đọc sai âm
vần và dấu thanh...)

SL

Tỷ lệ

SL

Tỷ lệ

SL


Tỷ lệ

12

44,4 %

14

51,9 %

1

3,7 %

Qua bảng tổng hợp ta thấy: Kết quả học tập phân môn Tập đọc được nâng
lên rõ rệt so với đầu năm 96,3% học sinh đọc đạt yêu cầu trở lên và hiểu được
nội dung văn bản, trong đó số học sinh đọc tốt đạt 44,4 % và đặc biệt chỉ còn 01
học sinh đọc chưa đạt yêu cầu.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Tạo hứng thú học tập cho học sinh là việc làm vô cùng quan trọng và cần
thiết, đặc biệt là đối với phân mơn Tập đọc góp phần nâng cao chất lượng đọc
cho học sinh, vì vậy mỗi người giáo viên cần nhận thức rõ vai trò của việc tạo
ra, duy trì và phát triển hứng thú cho học sinh. Để làm được điều đó người giáo
viên cần:
- Ln phải có ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức, có những
hiểu biết sâu về cấu trúc, nội dung, quy trình dạy phân mơn Tập đọc để từ đó
dạy học theo hướng đổi mới, phát huy tính tích cực cho học sinh.
- Nghiên cứu kỹ nội dung bài học, xác định mục tiêu từ đó sử dụng các

biện pháp, hình thức dạy học sáng tạo, phù hợp để tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn
hứng thú cho học sinh trong từng tiết học.
- Người giáo viên phải luôn tìm tịi học hỏi, rèn luyện cho mình kỹ năng
đọc văn bản thật tốt để thực hiện nội dung đọc mẫu trong các tiết tập đọc tạo sự
lôi cuốn, hấp dẫn người nghe.
- Giáo viên gần gũi, quan tâm, chia sẻ, động viên, khuyến khích học sinh,
tạo khơng khí nhẹ nhàng thoải mái cho học sinh, xây dựng môi trường học tập
thân thiện, để các em thấy được “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Đặc biệt người giáo viên phải nhận thức được vai trị của mình trong q
trình dạy học: Người giáo viên phải ln mang trong mình vai trị của một người
18


thầy nhưng cũng là một người cha, người mẹ luôn gần gũi, khuyến khích, động
viên con của mình. “Thiên tài nảy nở từ tình u đối với cơng việc” [3] - một nhận
định hồn tồn đúng đắn. Vì vậy, chúng ta hãy cùng chung sức gây dựng, duy trì và
phát triển hứng thú cũng như tình yêu trong học tập cho học sinh của mình.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với nhà trường: Thường xuyên tổ chức các hoạt động chuyên môn,
đặc biệt là sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học để giáo viên
được trao đổi, chia sẻ, kinh nghiệm lẫn nhau.
- Đầu tư trang thiết bị dạy học hiện đại, tạo điều kiện cho giáo viên tổ
chức tốt các hoạt động dạy học.
* Đối với giáo viên:
- Tích cực tự học tự bồi dưỡng, thường xuyên cập nhật những nội dung mới,
kiến thức mới, những phương pháp dạy học hiện đại để phục vụ cho dạy học.
- Luôn tạo môi trường thân thiện, gần gũi, luôn lắng nghe, chia sẻ, tạo cho
học sinh khơng khí học tập sơi nổi, tâm thế thoải mái nâng cao hiệu quả dạy học.
Với thời gian và kinh nghiệm bản thân còn hạn chế nên khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy tơi ln mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để

nội dung nghiên cứu được đầy đủ hơn, từ đó có thể ứng dụng hiệu quả vào q
trình dạy học.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chia sẻ của đồng nghiệp
Tôi xin chân thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị: Không
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu Trưởng

Cẩm Thạch, ngày 25 tháng 2 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Trần Thị Quỳnh

Phạm Thị Lan

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam - Lê Phương Nga – Đặng Kim Nga.
2.Tiếng Việt – Sách giáo viên lớp 3 – Nhà xuất bản Giáo dục
3. Tạp chí Giáo dục tiểu học Số 3 – 2013
4. Module 32: Dạy học phân hóa ở Tiểu học Chương trình BDTX Nguyễn Thị Thanh Hồng.
5. Mạng Internet


20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ
XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Phạm Thị Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Cẩm Thạch,
huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

1.

Một số kinh nghiệm giúp học
sinh lớp 5 học tốt phần giải
tốn chuyển động đều

Phịng Giáo dục
và Đào tạo Cẩm

Thủy

Kết quả
đánh
giá xếp
loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

C

2017 - 2018

21


ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC, SÁNG KIẾN
NHÀ TRƯỜNG

Sáng kiến kinh nghiệm tiêu biểu
Xếp loại:

A
TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
Chủ tịch


Trần Thị Quỳnh

22


ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC, SÁNG KIẾN
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN CẨM THỦY

Sáng kiến kinh nghiệm tiêu biểu
Xếp loại:

B
TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT
Chủ tịch

Nguyễn Thanh Sơn

23


ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC, SÁNG KIẾN
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA

....................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................
Xếp loại:............................................................................................


TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GD&ĐT
Chủ tịch

24


PHỤ LỤC
Phiếu khảo sát mức độ hứng thú của học sinh ( dành cho học sinh)
Phiếu khảo sát mức độ hứng thú của học sinh
Em có thích ( hứng thú) học tập đọc không? Hãy đánh dấu X vào
cột em chọn và giải thích lý do?
Hứng thú

Ít hứng thú

Khơng hứng thú

Giải thích lí do:…………………………………………………………..

25


×