Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh môn hình học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.42 KB, 11 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
Phần I:
Mở đầu
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH của quốc hội và chỉ thị số 14/2001
CTTTg của thủ tớng chính phủ về đổi mới chơng trình giáo dục. Với trang thiết bị,
phơng tiện dạy học ngày càng đầy đủ và hiện đại , phục vụ thiết thực cho việc dạy
học nhng vấn đề cần quan tâm ở đây là việc nâng cao chất lợng dạy và học. Khi mà
hình thức dạy học, phơng tiện dạy học, đối tợng dạy học đã thay đổi thì việc cần
phải thay đổi phơng pháp học tập mới cho phù hợp là điều tất yếu. Đặc biệt là đối
với bộ môn toán là một môn khoa học tự nhiên, phát huy tính tích cực tự giác của
học sinh, phát huy khả năng tự học, nhằm hình thành cho học sinh tính t duy tích
cực sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện khả năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú
học tập lòng say mê và có ý thức vơn lên trong học tập. Bắt nguồn từ định hớng đó
giáo viên cần phải học hỏi nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phơng pháp dạy
học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tợng học sinh, từng kiểu bài làm
cho hiệu quả giờ học đạt cao nhất .
- Xuất phát từ mục tiêu giáo dục phổ thông nói chung và tầm quan trọng của môn
toán học THCS nói riêng. Giáo dục phổ thông nhằm giáo dục học sinh phát triển
toàn diện, không những nâng cao hiểu biết về kiến thức về môn toán mà còn làm cơ
sở cho nhiều môn học khác
- Xuất phát từ yêu cầu của việc đổi mới phơng pháp là phát huy tính tích cực chủ
động sáng tạo của học sinh. Học sinh phải là chủ thể của hoạt động học, dới sự
thiết kế, giám sát và hớng dẫn của thầy giáo thì học sinh phải chủ động thi công,
giải quyết vấn đề thông qua trao đổi, tranh luận. Có nh vậy các em mới có điều
kiện khắc phục khó khăn tiếp nhận kiến thức mới.
- Xuất phát từ tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 7 là lứa tuổi nhạy cảm hiếu động ham
thích tìm tòi và khám phá. Nếu giáo viên gây đợc hứng thú trong bài dạy sẽ tạo cho
học sinh sự phấn chấn, hào hứng để tiêp thu bài học một cách có hiệu quả.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trờng THCS


MaiThủy tôi thấy còn nhiều học sinh cha nắm vững đợc kiến thức cơ bản của phân
môn Hình học, chất lợng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi còn cha đạt
yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã có những ý kiến nh: phân
môn hình học khó tiếp thu, lợng kiến thức trong giờ học còn nhiều mà lại khô
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy
Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
khan, không hấp dẫn, đòi hỏi các em phải có đầu óc tởng tợng, phán đoán, suy luận
thật chính xác khi đó việc tiếp thu bài học mới có hiệu quả Điều đó nãy sinh
trong tôi những trăn trở: Là làm thế nào để nâng cao chất lợng bộ môn? Làm thế
nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? Có biện pháp gì để tạo hứng thú
say mê tìm tòi sáng tạo, vận dụng những gì đã học vào thực tiễn? Với mong
muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh
nghiệm Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn hình học
lớp 7
Phần II:
Nội dung đề tài
I .Cơ sở khoa học:
Nói đến dạy học là một công việc vừa mang tính khoa học vừa mang tính
nghệ thuật. Do đó đòi hỏi ngời giáo viên cần có năng lực s phạm vững vàng, phơng
pháp giảng dạy phù hợp theo hớng tích cực giúp học sinh chủ động trong việc
chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú trong học tập phân môn
Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực s phạm của giáo viên. Ngoài việc lên
lớp ngời giáo viên phải không ngừng học hỏi, tìm tòi tài liệu có liên quan để làm
sao có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dể hiểu, phù hợp với khả
năng tiếp thu của từng đối tợng học sinh.
Hớng đổi mới phơng pháp dạy học Toán hiện nay ở trờng THCS là tích cực
hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự học, nhằm
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy
Sáng kiến kinh nghiệm

Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
hình thành cho học sinh t duy tích cực, độc lập, sáng tạo, nâng cao năng lực phát
hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỷ năng vận dụng kiến thức vào thự tiễn: tác
động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt là
trong năm học này toàn ngành giáo dục đang ra sức thực hiện cuộc vận động Xây
dựng trờng học thân thiện, học sinh tích cực thì việc tạo hứng thú học tập cho học
sinh cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học tập.
II. Cơ sở thực tiễn .
Trong trờng THCS môn Toán đợc coi là môn khoa học luôn đợc chú trọng
nhất và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tợng. Đặc biệt phải khẳng định là
phân môn hình học có nhiều khái niệm trừu tợng nhất, Đặc biệt môn hình học lớp 7
bớc đầu làm quen các phơng pháp trong chứng minh hình học đó là từ quan sát
hình vẽ ghi giả thiết , kết luận, phải biết suy luận từ những điều đã biết để đi đến
những điều cần chứng minh, hình thành cho các em con đờng chứng minh toán
học, biết nhìn nhận hình vẽ để chứng kiến thức, lợng bài tập trong một tiết học
phong phú và nhiều dạng khác nhau rất nhiều so với nội dung lý thuyết mới học.
Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy diễn chặt chẽ lôgic.
- Trong phân môn Đại số các dạng bài tập thờng có cách làm rất rỏ ràng và
thờng đã có sẵn thuật toán học sinh chỉ việc vận dụng toán vào giải chẳng hạn nh:
khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia hai số hữu tỉ, khi chia đa thức một
biến đã sắp xếp. Còn với phân môn Hình học thì lí thuyết ít, lại trừu tợng, ít đa ra
các hớng đi nên học sinh rất khó để có thể định hớng cách làm. Hơn nữa sự chênh
lệch giữa kiến thức và lợng bài tập với thời gian luyện tập cho học sinh lại quá lớn.
Do đó, rất khó khăn trong việc chọn bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn bài để h-
ớng dẩn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà sách yêu cầu.
- Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ
miễn cỡng, chán nản của các em. Trong một tiết luyện tập thờng học sinh vận
dụng một cách máy móc, hoặc chỉ dựa vào những bài tập mẫu, bài sữa của giáo
viên và của các bạn trong lớp sao chép lại, những bài tập khó hay bài tập không có
bài mẫu thì các em để trống, không chịu suy nghĩ dần già tự cho mình tính lời,

không học hỏi, không biết phân tích xem bài toán đó mình đã gặp hay cha, có
thuộc dạng mình đã học hay không, nó nâng cao thêm điều gì. Từ những bài toán
đầu tiên dễ đến những bài toán khó, từ ý thức lời nhắc đến không có ý thức làm bài
tập, càng ngày càng không yêu thích môn học, dẫn đến ghét, học sút và cuối cùng
là học kém. Có một số học sinh vì sợ giáo viên nhắc nhỡ nên vẫn làm bài tập nhng
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy
Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
việc làm bài tập là cho có lệ. Từ đó, nhiều em không nắm đợc kiến thức cơ bản,
làm bài tập về nhà chỉ để đối phó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để
vẽ hình, không biết vẽ hình bắt đầu từ đâu Điều này cho thấy mỗi giáo viên phải
bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho mình cách soạn giảng tốt nhất để
tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng.
III. Các biện pháp đã thực hiện:
1/ Gây hứng thú cho học sinh ngay từ phần mở đầu bài học:
Rõ ràng ngay từ bớc chân của giáo viên vào lớp với thái độ vui vẻ thân mật
đối với học sinh, việc đánh giá công bằng trong kiểm tra miệng cũng là những yếu
tố góp phần tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp để chuẩn bị bớc vào bài
học mới, bên cạnh đó giáo viên cần phải giải quyết những thắc mắc hay những vấn
đề hs cha rỏ cũng tạo cho các em tâm lý thoái mái và tinh thần chuẩn bị bớc vào
bài học mới nhng sự hứng thú học tập của học sinh chỉ thực sự bắt đầu với phần
giới thiệu bài mới.
2/ Gây hứng thú từ việc giới thiệu bài học mới:
Nhìn chung trong tất cả các tiết dạy trớc hết giáo viên phải xác định đúng kiến
thức cơ bản nhất của tiết học , đó là một khái niệm( định nghĩa) hoặc 1 tính
chất(định lý) hoắc một phơng pháp( quy tác) Trên cơ sở đó giáo viên chọn cách
nhập vào bài tùy đối tợng học sinh , tùy thuộc vào dạng bài học để có thể linh
hoạt một cách sáng tạo qua một số cách vào bài. Đây là vấn đề không kém phần
quan trọng vì vấn đề mà giáo viên đật ra càng khó khăn liên quan đến toán học,
gây đợc sự tò mò của các em bao nhiêu thì nhu cầu cần khám phám, chiếm lĩnh

kiến thức càng lớn, tuy nhiên vấn đề đặt ra phải có cơ sở và phải tạo đợc niềm tin
cho các em. Sau đó cho các em dự đoán các khả năng xảy ra, hay các cách trả lời
khác nhau muốn biết bạn nào dự đoán đúng hay trả lời đúng thì phải nắm đợc kiến
thớc bài học hôm nay có nh thế mới tạo cho các em tâm lý thoải mái tự tin trớc khi
vào học bài mới. Thông thờng dựa vào dạng bài mà giáo viên có thể lựa chọn các
cách vào bài:
- Thông qua việc kiểm tra bài cũ
- Kết hợp với việc ôn tập lại kiến thức trong chơng
- Dựa vào bài tập
- Dựa vào một số ứng dụng trong đời sống hay trong kỹ thuật
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy
Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
- Dự đoán các trờng hợp có thể xảy ra nh thế nào
- Giới thiệu cách giải khác so với các cách đã học tiết trớc
- Nêu tình huống tìm hiểu giải quyết một vấn đề nào đó thì cần nắm kiến thức
nào trong tiết học này
VD1: Khi dạy bài: Trờng hợp bằng nhau của tam giác góc cạnh góc: giáo
viên làm nh sau:
- Vẽ hai tam giác ABC và tam giác ABC rồi biểu diễn cạnh AB = AB,góc A =
góc A , giáo viên yêu cầu học sinh thêm các yếu tố bằng nhau nào nữa để hai tam
giác bằng nhau
- Biểu diễn thêm hai yếu tố bằng nhau là góc B và góc B, Yêu cầu học sinh dự
đoán xem khi đó hai tam giác ABC và ABC có bằng nhau không?
VD2: Khi dạy bài Tính chất ba đờng trung tuyến của tam giác giáo viên chuẩn
bị một tấm bìa hình tam giác và một giá đở có kim nhọn, yêu cầu học sinh đặt tấm
bìa trện kim nhọn mà không bị rơi, sau đó giáo viên đặt lên sao cho tấm bìa vẫn
nằm thăng bằng rồi nêu vấn đề đặt ra?
VD3: Khi dạy bài Tính chất đờng trung trực của một đoạn thẳng
Giáo viên nêu câu hỏi: Nêu định nghĩa đờng trung trực của một đoạng thẳng? Vẽ

đờng trung trực của đoạn thẳng AB?
Sau khi thực hiện xong các yêu cầu trên, giáo viên lấy điểm M nằm trên đờng
trung trực đó rồi yêu câu học sinh dự đoán độ dài hai đoạn thẳng MA và MB?
Từ đó giáo viên đặt vấn đề vào bài học mới.
VD4: Bài Tam giác cân
Giáo viên nêu bài tập kiểm tra bài cũ: Giải bài toán sau:
Cho tam giác ABC có góc B = C , tia phân giác của góc A cắt BC tại D. Chứng
minh rằng:
a) ADB = ADC
b) AB = AC
B D C
Hs thực hiện các hoạt động sau:
+ HĐ thể hiện: Vẽ hình
+ HĐ phân tích: Viết giả thiết kết luận
+ HĐ chứng minh: Hai tam giác ABD và ADC
Có: góc B = góc C(gt)
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy
A
Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
AD : cạnh chung
góc BAD = góc DAC( AD là tia phân giác)
Vậy : ADB = ADC (g.c.g)
+ HĐ trí tuệ: suy ra AB = AC
GV giới thiệu tam giác ABC gọi là tam giác cân mà ta sẽ học hôm nay.
3/ Gây hứng thú trong việc xây dựng kiến thức mới :
Trong quá trình giải quyết vấn đề và xây dựng kiến thức mới thì học sinh tự xác
định kiến thức dới sự tổ chức hớng dẫn của giáo viên nên câu hỏi hay bài tập đa ra
phải có thời gian nhất định để cho tất cả học sinh t duy hay cùng làm, sau đó mới
yêu cầu trả lời và cùng đi đến kết quả. Muốn vậy thì hệ thống câu hỏi phải rỏ ràng ,

dễ hiểu, gây ấn tợng , nhớ lâu, các bài tập đa ra phải đợc lựa chọn đặc trng, phù
hợp, tránh những câu hỏi vụn vặt, hoặc quá khó, bài tập quá phức tạp, rờm , các
câu hỏi gợi mở, câu hỏi tổng quát phải tác động đến tất cả các đối tợng học sinh .
Trong thời gian học sinh t duy làm bài tập giáo viên cần chú ý bao quát lớp để cần
thiết có thể yêu cầu học sinh yếu hoặc lời học phải trả lời theo một mức độ nào đó
nhằm kích thích cho các em có thói quen tập trung vào xây dựng nội dung bài học,
thông thờng giáo viên yêu cầu học sinh yếu đọc định nghĩa, tính chất hay nêu các
yếu tố đã bằng nhau của hai tam giác
Khi dạy bài Trờng hợp bằng nhau thứ ba của tam giác góc- cạch góc
sau khi yêu cầu học sinh vẽ tam giác ABC có góc B = 60
0
, BC = 4em, góc
C = 40
0
ở ?1, giáo viên yêu cầu học sinh yếu lên bảng đo độ dài cạnh AB và
cạnh AB, so sánh AB và AB
- Khi giáo viên yêu cầu tất cả học sinh làm ?2, nên cho học sinh yếu nêu các
yếu tố bằng nhau đã biết của hai tam giác.
Cần hình thành cho các em phơng pháp phân tích đi lên, đây là phơng pháp
đặc trng trong việc giải phân môn hình học
VD: Cho tam giác ABC, M là trung điểm của BC. Trên tia đối của tia MA lấy
điểm E sao cho ME = MA. Chứng minh rằng AB // CE?
Phơng pháp phân tích nh sau
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy
Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc

E
M
C

B
A

AB // CE



BAM = CEM và ở vị trí so le trong


ABM = ECM ( c.g.c)


AM = ME ( gt) ; M
1
= M
2
( hai góc đối đỉnh) ; AM = ME (gt)
Dựa vào sơ đồ phân tích đi lên đó giáo viên hớng dẫn học sing cách chứng minh,
dần dần hình thành cho hoc sinh thói quen lập sơ đồ phân tích rồi chứng minh hình
học.
5/ Tạo hứng thú cho học sinh khi vẽ hình.
- Học phân môn Hình học thì một yếu tố rất quan trọng là học sinh phải biết
vẽ hình. Thế nhng vẽ ra sao? Yếu tố nào trớc? Yếu tố nào sau? Ký hiệu nh thế nào?
Khi vẽ thì cần dụng cụ gì? Điều này học sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu
dài dới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay từ khi các em làm quen kiến thức mới.
- Khi vẽ hình cần xác định cho học sinh vừa đọc vừa vẽ, cần bổ sung các yếu
tố phụ và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang ký hiệu hình học.
- Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn cách vẽ để hớng dẫn
học sinh vẽ hình. Cụ thể:

Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy
Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
+ Rèn cho học sinh có thói quen ký hiệu trên hình vẽ các trờng hợp: Điểm,
các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trờng hợp vuông góc, bổ sung
các yếu tố phụ trên hình
+ Hớng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ:
Êke: Vẽ góc vuông, hai đờng thẳng song song
Compa: Vẽ đờng tròn, hình tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau,
Thớc thẳng: Vẽ đờng thẳng
- Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học hình học đó là sử dụng phấn
màu khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp lý
ở các điểm đặc biệt, đờng đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ
hình vẽ.
VD1: Cho tam giác ABC , Trung tuyến AM. Thì học sinh phải vẽ tam giác ABC là
tam giác thờng, lấy M là trung điểm của đoạn thẳng BC biểu diễn các đoạn thẳng
bằng nhau trên hình vẽ
A

B M C
VD2: Tam giác cân là tam giác có hai cạnh bên bằng nhau do đó khi vẽ tam giác
cân học sinh phát hiện ra cách dùng compa vẽ cung tròn tâm A, sau đó lấy 2 điểm
bất kỳ trên cung tròn đó, nối các điểm lại ta đợc tam giác cần vẽ:

r
B C

- Vẽ cung tròn tâm A, bán kính r
- Lấy B, C nằm trên cung tròn tâm A
- Kẻ các đoạn thẳng AB, AC ta đợc tam giác cân ABC cần vẽ

Giáo viên vừa thuyết trình vừa thể hiện từng bớc vẽ lên bảng học sinh quan sát và
thực hiện theo vào vở
Thực hiện cách vẽ tam giác đều:
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy

A
Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
- Vẽ đoạn thẳng BC bằng thớc thẳng
- Vẽ cung tròn tâm B bán kính BC, cung tròn tâm C bán kính BC
- Hai cung tròn này cắt nhau tại A
- Kẻ đoạn thẳng AC, AB
- Tam giác ABC là tam giác đều cần vẽ
Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc kỹ
bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng và phù hợp các dụng cụ vẽ,
biểu diễn các yếu tố bằng nhau trên hình vẽ từ đó học sinh trả lời yêu cầu đề bài.
Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân tích kỹ đề bài, định hớng vẽ
và dự đoán các trờng hợp xảy ra, không nên vẽ hình đặc biệt, điểm đặc biệt.
Chẳng hạn:
+ Cho tam giác ABC thì vẽ không nên vẽ cân, vuông hay đều.
+ Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm của AB.
6 / Tạo hứng thú cho học sinh khi sử dụng các phơng tiện, thiết bị, các dụng
cụ trực quan.
Tùy thuộc theo nội dụng kiến thức bài học để tổ chức cho học sinh sử dụng linh
hoạt những phơng tiện, thiết bị dạy học nh: sách giáo khoa, bảng lớp , vở nháp,
dụng cụ trục quan, phiếu học tập, cũng nh vấn đề phân nhóm học sinh học tập trên
lớp. Phải tận dụng tối đa việc sử dụng các thiết bị dạy học hiện có hoặc tự làm
VD: Khi dạy bài Hai đờng thẳng vuông góc yêu cầu học sinh dùng giấy gấp
để phát hiện hai đờng thẳng vuông góc, và khi có một góc vuông thì các góc còn
lại củng là góc vuông.

Sau khi nắm đợc định nghĩa đờng trung trực của đoạn thẳng, yêu cầu các em gấp
giấy để xác định đờng trung trực của đoạn thẳng AB.
Trong vấn đề phân nhóm thì phải đảm bảo nội dung giữa các nhóm tơng đơng
nhau, các thành viên trong nhóm phải đợc tham gia đầy đủ dới sự hớng dẫn của
nhóm trởng tránh tình trạng các học sinh khá giỏi thực hiện còn học sinh yếu kém
không tham gia.
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy
Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
IV: kết quả:
Thời gian kiểm định cha nhiều song bớc đầu đem lại những thành công nhất định.
- Học sinh đỡ lúng túng hơn khi tiếp thu kiến thức mới
- Các em chủ động sáng tạo hơn trong trong việc nắm kiến thức.
- Khả năng tiếp thu kiến thức mới đối với học sinh nhanh hơn, vững chắc hơn và
có khả năng vận dụng vào các bộ môn khác cũng nh vào thực tiễn tôt hơn.
- Đắc biệt đã hình thành cho các em thói quen và có nhu cầu giải quyết vấn đề ,
nhng để làm đợc việc đó thì các em có sự hứng thú và phải nắm vững phơng pháp
giải bài tập hình học, từ đó mà kiến thức cũ đợc khắc sâu, kiến thức mới đợc lĩnh
hội một cách chắc chắn, chuổi kiến thức đợc liền mạch gây nên sự hứng thú say mê
và ngày càng yêu thích môn học
Đầu năm điều tra mức độ hứng thú học môn Hình học lớp 7A, 7C kết quả là:
Lớp

số
Số HS có hứng thú Số HS không có hứng thú
SL % SL %
7A 37 15 22
7C 39 15 24
So với đầu học kỳ I số học sinh hứng thú học phân môn Hình học tăng Kết
quả khảo sát học kỳ I chất lợng phân môn Hình học thật đáng phấn khởi:

TSHS
Khá giỏi TB Yếu kém
SL % SL % SL %
7A
7C
Phần III: kết luận:
Thực tiễn dạy học trong thời gian qua và việc áp dụng các giải pháp trên vào
quá trình dạy học môn Toán nói chung và môn Hình học nói riêng tôi đã rút ra một
số bài học cơ bản.
Một là: Mỗi giáo viên cần phải thờng xuyên tự học, tự bồi dỡng, rèn luyện
để không ngừng trau dồi về kiến thức kỹ năng dạy học môn Hình học.
Hai là: Thờng xuyên đổi mới về cách soạn, cách giảng, đa các ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học, đa dạng hoá các phơng pháp và hình thức tổ chức
dạy học để lôi cuốn đợc học sinh vào quá trình học tập.
Ba là: Cần quan tâm sâu sát đến từng đối tợng học sinh đặc biệt là học sinh
yếu kém, giúp đỡ ân cần, nhẹ nhàng tạo niềm tin, hứng thú cho các em vào môn
học.
Bốn là: Trong quá trình dạy giáo viên phải hớng dẫn học sinh vào việc phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo ra những tình huống có vấn đề để học
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy
Sáng kiến kinh nghiệm
Mt s bin phỏp to hng thỳ hc tp cho hc sinh mụn hỡnh hc
sinh thảo luận. Trong mỗi tiết phải tạo ra đợc quan hệ giao lu đa chiều giữa giáo
viên học sinh, giữa cá nhân, tổ chức nhóm.
Năm là: Giáo viên cần mạnh dạn đa các ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học nh các phần mềm vẽ hình, các loại máy chiếu đa năng, máy chiếu hắt, các
hiệu ứng hình ảnh để tiết học thêm sinh động.
Sau nghiên cứu và triển khai vấn đề này bản thân tôi nhận thấy: Để nâng cao
hứng thú cho học sinh học môn Hình học 7 thì giáo viên phải tạo hứng thú cho học
sinh thông qua tìm hiểu kiến thức mới, thông qua các buổi thực hành, thông qua

việc phân loại bài tập, hớng dẫn học sinh giải bài tập, qua việc vẽ hình Đồng thời
phải luôn gần gũi, tìm hiểu những khó khăn, sở thích của học sinh để từ đó có
những biện pháp phù hợp hơn. Bên cạnh đó cần có những thời lợng phù hợp áp
dụng kiến thức hình học vào thực tiễn đời sống và để học sinh thấy đợc tính khoa
học và giá trị thực tiễn của bộ môn.
Giáo viên: Đặng Thị Hiền - Trờng THCS Mai Thủy

×