Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp tạo hứng thú trong giờ học thể dục cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.77 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỌ XUÂN
---------------------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC THỂ DỤC
CHO HỌC SINH LỚP 2

Người thực hiện:
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị công tác:
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Thể dục.

THỌ XUÂN NĂM 2021


MỤC LỤC
Tên mục

Trang
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lý do chọn đề tài.
1
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
2


1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2
2. NỘI DUNG
3
2.1. Cơ sở lý luận.
3
2.2. Thực trạng.
3
2.3. Các biện pháp tạo hứng thú trong giờ học thể dục cho học sinh
4
lớp 2.
2.3.1. Tạo hứng thú học tập bằng cách giúp học sinh bước đầu nhận
4
thức được lợi ích và tác dụng của môn học.
2.3.2. Chuẩn bị sân bãi, đồ dùng dạy học phù hợp, chu đáo, an toàn,
5
khoa học và thẩm mĩ cho giờ học.
2.3.3. Sử dụng linh hoạt đa dạng các phương pháp, hình thức tổ
7
chức dạy học trong một giờ học.
2.3.4. Xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trò.
11
2.3.5. Lưạ chọn, sử dụng sáng tạo các trò chơi vận động phù hợp
12
trong giờ học.
2.3.6. Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, cha mẹ học sinh giúp các
13
em u thích mơn học.
2.3.7. Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường thành lập câu lạc
14

bộ thể dục thể thao cho học sinh lớp 2 trong nhà trường.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
16
dục trong nhà trường.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
18
3.1. Kết luận.
18
3.2. Kiến nghị.
19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Sức khỏe tốt và trí tuệ minh mẫn là hai điều hạnh phúc nhất của cuộc đời
và là tài sản vô giá của mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia. Danh ngơn
xưa có câu: “Người có sức khỏe sẽ có hi vọng; và người có hi vọng sẽ có tất cả
mọi thứ” vì thế việc nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục thể chất rèn luyện
sức khỏe là rất cần thiết và là vấn đề rất đáng được quan tâm.
Thể dục là một biện pháp tích cực, tác động nhiều tới sức khoẻ học sinh,
giúp rèn luyện thân thể, bồi dưỡng đạo đức, tác phong con người mới. Vì lẽ đó
mơn Thể dục có vị trí, vai trị quan trọng trong việc giáo dục con người phát
triển toàn diện về phẩm chất và năng lực trong giai đoạn mới; là mơn học bắt
buộc trong chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành, cũng như chương trình
giáo dục phổ thơng 2018, được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12.
Thể thao trường học là hoạt động vận động không thể thiếu trong đời sống
hàng ngày của mỗi học sinh; giúp giảm bớt căng thẳng, mệt mỏi do áp lực bài
tập trên lớp cho các em; nhằm tạo hứng khởi để các em tập trung vào các hoạt
động học tập, rèn luyện khác ở trong và ngoài nhà trường. Đối với học sinh tiểu
học đặc biệt là các em học sinh lớp 2, các em còn nhỏ, rất vui tươi, hồn nhiên và

cũng rất hiếu động, tâm sinh lý của các em đang có nhiều thay đổi, các em rất dễ
thích nghi, tiếp nhận cái mới và luôn hướng tới tương lai. Nhưng ở các em cũng
thiếu sự tập trung cao độ, thiếu khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa
được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Các em
nhớ rất nhanh và rồi cũng quên rất nhanh. Trong giờ học, các em thường chỉ
quan tâm chú ý đến mơn học có đồ dùng, tranh ảnh trực quan sinh động, hấp
dẫn, có trị chơi hoặc có cơ giáo dịu dàng, hịa đồng, vui vẻ. Chính vì vậy, để
giúp các em có được một tinh thần thoải mái tập trung hơn trong học tập thì việc
tạo hứng thú trong giờ học thể dục đặc biệt ở khối lớp 2 là việc làm hết sức quan
trọng và cần thiết. Bởi lẽ, ở lứa tuổi này khả năng thích ứng của cơ thể các em
vẫn còn nhiều hạn chế; hệ cơ, xương của các em phát triển còn thiếu cân đối,
khả năng phối hợp vận động còn chưa bền chắc, khi thực hiện động tác sẽ có
nhiều cử động thừa, tốn sức, kém hiệu quả, gây mệt mỏi và chán nản khi tập
luyện. Xuất phát từ những vấn đề trên tôi đã nghiên cứu “Một số biện pháp tạo
hứng thú trong giờ học Thể dục cho học sinh lớp 2”, tại trường Tiểu học nơi
tôi đang công tác nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình học tập nói chung, nâng
cao chất lượng giảng dạy và học tập mơn thể dục nói riêng, góp phần làm tăng
thêm lịng u thích, hiểu rõ hơn về trách nhiệm cần phải tích cực rèn luyện thân
thể nâng cao sức khỏe, các tố chất thể lực và hoàn thành mục tiêu môn học cho
các em học sinh lớp 2 trong nhà trường.
1.2. Mục đích nghiên cứu:

-1-


Đề tài nghiên cứu nhằm khảo sát thực trạng dạy và học thể dục lớp 2 để
tìm ra một số biện pháp giúp:
Lôi cuốn học sinh lớp 2 tham gia các hoạt động rèn luyện thân thể, khơi
gợi tình cảm trong sáng, lành mạnh, sự hứng thú tập luyện thể dục thể thao nâng
cao sức khỏe cho học sinh. Giúp các em học sinh lớp 2 có được những kiến thức

vận động cơ bản, từ đó thực hiện được các tư thế vận động đơn giản khởi đầu
trong chương trình giáo dục phổ thơng, hồn thành và hồn thành tốt mục tiêu
môn học.
Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất, tố chất thể lực cho học sinh lớp 2.
Giúp các em tích cực tham gia các hoạt động tập thể, giáo dục tinh thần đoàn
kết, tinh thần tập thể ở các em, góp phần phát triển một cách tồn diện cho các
em học sinh khối lớp 2 trong nhà trường. Tạo hứng thú cho học sinh tập luyện,
hình thành, củng cố và nâng cao những kỹ năng, kỹ xảo các động tác cho hiện
tại và tương lai phía trước.
Giáo dục cho học sinh tính nề nếp trong khi tập luyện thể dục thể thao, có
ý thức giữ gìn vệ sinh, có nếp sống lành mạnh, có tính tổ chức kỷ luật, góp phần
giáo dục đạo đức lối sống, hình thành nhân cách con người mới.
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, làm tăng sự
tìm tịi, khả năng tự học, phát huy tính sáng tạo của học sinh, tăng tính hấp dẫn
của mơn học, thu hút học sinh phối hợp với giáo viên trong dạy - học.
Tiếp tục duy trì đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thể theo gương Bác
Hồ vĩ đại, góp phần phát triển giáo dục thể chất, tăng cường sức khỏe từ đó nâng
cao sức đề kháng của cơ thể, phịng chống các loại dịch bệnh theo mùa cho các
em học sinh lớp 2 trong nhà trường.
Phát hiện những em có năng khiếu thể dục thể thao trong trường để tiếp
tục định hướng bồi dưỡng giúp các em lựa chọn môn thể thao yêu thích, phù hợp
khi tham gia câu lạc bộ thể dục thể thao trong nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
+ Học sinh lớp 2 của trường Tiểu học nơi tôi công tác.
+ Các biện pháp nhằm tạo hứng thú trong giờ học thể dục cho học sinh lớp 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hồn thành đề tài này tơi sử dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Đọc sách, nghiên cứu các tài liệu chuyên môn thể dục thể thao; tra cứu
các văn bản, Thông tư chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của ngành giáo dục liên

quan đến chuyên ngành.
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Quan sát thực tế quá trình học tập rèn luyện hàng ngày của học sinh khối
lớp 2. Đàm thoại trực tiếpvới học sinh trong nhà trường. Trao đổi thông tin với
giáo viên, Ban giám hiệu nhà trường, phụ huynh học sinh.
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu:
Phân tích, tổng hợp các thông tin thu thập được; kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập rèn luyện của học sinh trước và sau khi áp dụng biện pháp.
-2-


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
Mục tiêu của giáo dục phổ thơng là: Giúp học sinh phát triển tồn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp
với đặc điểm đối tượng học sinh, phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
Sự hứng thú ln gắn liền với tình cảm của con người, nó là động cơ thúc
đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Khi được làm việc phù hợp
với niềm hứng thú thì cho dù có gặp phải khó khăn con người cũng vẫn cảm
thấy thoải mái và cố gắng thực hiện để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngược lại
nếu khơng có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ khơng đem lại kết quả mong
muốn. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập của các em
học sinh cũng vậy, khi không có hứng thú sẽ làm các em mất đi động cơ học tập
và rèn luyện, kết quả học tập sẽ khơng cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.
Có hứng thú với giờ học sẽ giúp các em tập trung cao độ, say mê, tạo sự
hấp dẫn, làm nảy sinh khát vọng được tham gia vận động cùng các bạn trong giờ
học thể dục, làm tăng hiệu quả của các hoạt động trong giờ học giúp các em

hình thành tốt hơn những kĩ năng động tác; từ đó dần củng cố thêm vốn kĩ năng
vận động cơ bản cần thiết thường gặp trong sinh hoạt thường ngày của các em,
góp phần bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho học sinh, phát triển các tố chất cần
thiết về thể lực để các em tiếp tục hình thành thói quen tốt ở cấp tiểu học đó là
thường xuyên luyện tập thể dục thể thao. Giáo dục các em biết tự rèn luyện thân
thể thông qua các bài tập được cô giảng dạy trên lớp, để phát triển hoàn thiện cơ
thể, giữ gìn thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân, có nếp sống vui tươi, lành mạnh…
Biết vận dụng các bài tập đã học để tự tập hằng ngày nhằm rèn luyện tư thế, sức
khỏe và thể lực; biết phối hợp các động tác một cách nhịp nhàng để thực hiện
các động tác phức tạp hơn trong học tập và hoạt động hàng ngày ngay tại thời
điểm hiện tại và đặc biệt là phát triển năng lực phối hợp các động tác ở các lớp
cao hơn và trong cuộc sống tương lai phía trước.
2.2. Thực trạng:
a. Thuận lợi:
Trong những năm học qua, tôi được phân công giảng dạy môn Thể dục
khối lớp 2. Trong q trình dạy học tơi thấy có những thuận lợi như sau:
- Giáo viên được đào tạo đúng chuyên ngành giáo dục thể chất.
- Đa số học sinh ngoan, chăm học.
- Học sinh thực hiện trang phục thể thao tương đối tốt.
- Học sinh từ lớp 1 các em đã được làm quen với giờ học thể dục, với các
bài tập vận động cơ bản cần thiết đầu tiên trong chương trình giáo dục phổ thơng
-3-


là nền móng cơ bản để các em sẽ thực hiện các nội dung bài tập trong chương
trình học mơn thể dục lớp 2 được tốt hơn.
- Cơ sở vật chất - thiết bị dạy học tương đối đầy đủ. Cơ bản bảo đảm cho
các giờ học thể dục chính khóa.
b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên tơi nhận thấy cũng có những khó khăn

nhất định như sau:
- Chương trình giảng dạy mơn thể dục hiện nay trong biên soạn sách cho
giáo viên cịn có phần cứng nhắc, do đó chưa tạo được hứng thú tập luyện ở học
sinh.
- Giáo viên chưa có phương pháp dạy học phù hợp, chưa xây dựng được
môi trường thân thiện giữa thầy và trò để tạo hứng thú cho học sinh yêu thích
mơn học.
- Sân tập chưa phù hợp khi thời tiết không thuận lợi; việc chuẩn bị sân bãi,
đồ dùng dạy học đôi khi chưa đáp ứng được nhu cầu dạy - học.
- Học sinh lớp 2 còn nhỏ đang phụ thuộc nhiều vào cha mẹ, chưa có ý thức
tự giác; các em có khuynh hướng ghi nhớ máy móc, dễ bị động, chưa nhận thức
được lợi ích, tác dụng của mơn học, chỉ muốn được chơi trị chơi tự do mà các
em ưa thích chứ khơng thích giáo viên tổ chức cho tập luyện. Một số học sinh
đến giờ tập luyện thì thường lo lắng, sợ tập sai, sợ khơng thực hiện được bài tập
giáo viên sẽ phê bình, dẫn đến các em thiếu tự tin vào bản thân, không có hứng
thú trong giờ học.
- Các hoạt động ngoại khóa thể dục thể thao trong và ngoài nhà trường
dành cho học sinh lớp 2 hiện nay còn hạn chế, phần nào ảnh hưởng tới việc hình
thành ý thức tự giác rèn luyện thân thể ở các em.
- Ngồi ra cịn có ngun nhân khách quan xuất phát từ chính gia đình học
sinh. Một số phụ huynh chưa nhận thức được lợi ích, tác dụng của mơn học nên
cịn xem nhẹ môn Thể dục; chưa tạo điều kiện cho các em tham gia các hoạt
động rèn luyện thể dục thể thao. Một số phụ huynh thấy con cái mình khỏe sẵn
rồi thì nghĩ con khơng cần phải rèn luyện thể thao nữa. Một số khác lại cho rằng,
trẻ chỉ cần được chăm sóc dinh dưỡng tốt là có thể khỏe mạnh mà khơng cần
đến tập luyện thể thao, thấy con cịn nhỏ nuông chiều, không muốn các em phải
đổ mồ hôi do phải học môn thể dục… Vậy nên thường xuyên đưa lí do xin phép
cho con, cháu nghỉ giờ học Thể dục.
Từ những khó khăn trên tơi đã đưa ra một số biện pháp tạo hứng thú trong
giờ học thể dục cho học sinh lớp 2 tại trường tôi đang công tác.

2.3. Các biện pháp tạo hứng thú trong giờ học thể dục cho học sinh lớp 2:
2.3.1. Tạo hứng thú học tập bằng cách giúp học sinh bước đầu nhận thức
được lợi ích và tác dụng của mơn học.

-4-


Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách giúp học sinh nhận thức
được lợi ích, tác dụng của việc rèn luyện thân thể qua môn Thể dục ở trong nhà
trường. Vì chưa biết đến tác dụng của việc tập luyện thể dục thể thao nhiều học
sinh có suy nghĩ theo lối mòn rằng tập thể dục thể thao đơn giản chỉ là để cho
vui nên các em đơi khi tìm niềm vui hiện hữu ngay trước mắt đó là xem tivi,
điện thoại thơng minh, laptop, Ipad… hay tham gia chơi những trị chơi ưa thích
khác. Tâm lí ngại luyện tập thể dục thể thao, lười vận động cũng tồn tại ở một
bộ phận không nhỏ học sinh nói chung và các em học sinh lớp 2 nói riêng, mà
các em chưa biết rằng thực tế việc luyện tập thể dục thể thao cịn có nhiều lợi ích
rất cần thiết cho sự phát triển toàn diện của các em. Để giúp các em có ý thức
hơn trong việc rèn luyện thể dục thể thao nói chung, u thích tham gia các hoạt
động trong giờ học thể dục ở trường học nói riêng nhằm nâng cao sức khỏe, tơi
đã thường xun chia sẻ lợi ích, tác dụng của mơn học tới sự phát triển tồn diện
của các em. Tơi chia sẻ cho các em biết rằng: Cái quý nhất của mỗi con người
chính là sức khỏe và trí tuệ. Có sức khỏe tốt sẽ tạo điều kiện cho trí tuệ phát
triển được tốt hơn và ngược lại. Tập luyện thể dục giúp các em có được sức
khỏe tốt, từ đó có thể học tập tốt và tham gia các hoạt động ở nhà trường cũng
như trong cộng đồng đạt hiệu quả cao hơn. Tập luyện thể dục thể thao thường
xuyên, đúng phương pháp, khoa học sẽ làm cho cơ thể phát triển một cách tốt
nhất thể hiện ở sức nhanh, sức bền, độ đàn hồi và linh hoạt của cơ tăng lên, làm
tăng hệ thống miễn dịch của cơ thể giúp các em miễn dịch tốt hơn với các bệnh
truyền nhiễm, các bệnh theo mùa, làm giảm stress cho tim, nâng cao chức năng
cơ tim, giúp máu lưu thông đến trái tim dễ dàng và giúp hạn chế sự hình thành

máu cục. Tập luyện thể dục cịn có thể giúp tăng cường khả năng ghi nhớ, giúp
kiểm soát cân nặng, phát triển chiều cao làm đẹp hình thái và phát triển toàn
diện các tố chất vận động một cách hoàn thiện nhất… Khi các em nhận thức
được những lợi ích mà thể dục đem lại cho chính cơ thể của mình các em sẽ có ý
thức chăm chỉ tập luyện, hình thành được động cơ và có hứng thú đối với mơn
học.
Các em học sinh lớp 2 cịn nhỏ nên tơi khơng chỉ nói những lời sáo rỗng
lý thuyết cùng một thời điểm với các em mà tôi chia sẻ thông qua nhiều hoạt
động như: các tiết sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt sao nhi đồng, các tiết hoạt động
trải nghiệm ngồi giờ lên lớp, thơng qua các giờ múa hát tập thể, bài thể dục
giữa giờ, các bài hát, các hình tượng cụ thể; ví dụ: Thơng qua bài hát: “Em yêu
thể thao”, “Con cào cào”…
2.3.2. Chuẩn bị sân bãi, đồ dùng dạy học phù hợp, chu đáo, an toàn, khoa
học và thẩm mĩ cho giờ học.
Đồ dùng dạy học và sân bãi tập luyện vốn dĩ nó là vật chất hữu hình,
tưởng như vơ tri, vơ giác trên sân nhưng dưới sự điều khiển của giáo viên đã làm
cho đồ dùng dạy học, sân bãi tập luyện thể hiện được những khả năng sư phạm
của nó, giúp tăng tốc độ truyền thông tin, tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn, kích thích
-5-


hưng phấn, hứng thú học tập của học sinh, làm cho việc dạy học của giáo viên
và tập luyện của học sinh đạt hiệu quả cao hơn.
Đồ dùng dạy học và sân bãi tập luyện nó vừa là phương tiện của việc
giảng dạy, vừa là công cụ để học sinh luyện tập, vừa là đối tượng của nhận thức .
Đặc thù của bộ môn thể dục là học sinh học ngồi trời, khơng hoặc rất ít ghi
chép mà chỉ mắt thấy, tai nghe. Có thể nói đồ dùng dạy học, sân bãi tập luyện là
nhịp cầu bắt qua ngôn ngữ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, dễ dàng gây hứng
thú và u thích mơn học thể dục hơn. Thiết bị dạy học và sân bãi tập luyện
chính là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến nội dung và việc đổi mới phương pháp

dạy học trong mơn thể dục, nó là công cụ mà giáo viên trực tiếp sử dụng để thực
hiện hoạt động dạy của mình, thơng qua đó nó đem lại hình ảnh sống động vào
thực tế bài tập cho học sinh thấy rõ, giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, rèn luyện
kỹ năng, hoàn thiện nhân cách trong suốt quá trình học; đồng thời là nguồn tri
thức, là phương tiện giúp học sinh hình thành kĩ năng động tác đảm bảo cho việc
thực hiện được mục tiêu bài tập.
Để có thể chuẩn bị trước sân bãi, đồ dùng dạy học chu đáo, an toàn, thẩm
mĩ, hiệu quả đòi hỏi người giáo viên cần phải soạn bài, nghiên cứu bài dạy trước
khi lên lớp. Việc soạn bài và nghiên cứu bài dạy kĩ lưỡng trước khi lên lớp giúp
giáo viên nắm rõ hết được những nội dung cần truyền tải đến học sinh trong tiết
học đó, sao cho tiết học không nặng nề mà vẫn không bị bỏ rơi nội dung kiến
thức cần truyền đạt tới học sinh. Đồng thời giáo viên mới đủ thời gian để tiên
lượng sân bãi tập luyện, nghiên cứu, tìm tịi, định hướng đồ dùng và cách sử
dụng đồ dùng dạy học sao cho phù hợp, khoa học. Nghiên cứu kĩ bài dạy trước
khi lên lớp giáo viên có thể dự kiến trước các tình huống có thể xảy ra trong tiết
học; có như vậy khi xảy ra tình huống đó giáo viên mới khơng bị lúng túng. Bởi
vì, trong q trình tập luyện với các bài tập, các động tác khác nhau, với một
lượng vận động hợp lý sẽ có tác dụng, ảnh hưởng không nhỏ tới việc rèn luyện
sức khoẻ cho học sinh. Khi các em được tập luyện với một lượng vận động hợp
lý thì các kĩ thuật, kĩ năng động tác cũng được củng cố, khắc sâu và nâng cao,
không gây mệt mỏi mà tạo niềm vui và hứng thú học tập cho các em.
* Ví dụ 1: Dạy bài 41 của lớp 2: Đi thường theo vạch kẻ thẳng.
Giáo viên cần chuẩn bị: 1 cịi tín hiệu, tranh mẫu bài tập rèn luyện tư thế
đi thường theo vạch kẻ thẳng, sân bãi tập luyện thoáng mát, sạch sẽ, kẻ các vạch
để tập luyện bài tập rèn luyện tư thế cơ bản.
Để học sinh thực hiện tốt các bài tập rèn luyện tư thế cơ bản đi thường
theo vạch kẻ thẳng tôi đã chuẩn bị sân tập cho phần bài tập rèn luyện tư thế cơ
bản trước mỗi tiết học. Cụ thể tôi chuẩn bị sân tập như sau:
* Ví dụ 2: Dạy bài 03 của lớp 2: Dàn hàng ngang, dồn hàng - Trò chơi:
Qua đường lội.


-6-


Giáo viên cần chuẩn bị: 1 cịi tín hiệu, tranh mẫu bài tập dàn hàng ngang,
dồn hàng ngang, sân bãi tập luyện thoáng mát, sạch sẽ, chuẩn bị sân để tổ chức
trò chơi vận động.
Để tăng hứng thú cho học sinh khi tham gia giờ học tôi đã chuẩn bị trước
sân chơi. cụ thể tôi chuẩn bị sân như sau:

Sân bãi, đồ dùng dạy học trong giờ học thể dục là phương tiện, là điều
kiện vật chất giữ vai trò quan trọng, cần thiết giúp giáo viên đổi mới phương
pháp dạy học; là một trong những điều kiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên
và học sinh thực hiện tốt mục tiêu dạy - học. Hơn nữa, sân bãi và đồ dùng dạy
học phù hợp, an toàn, khoa học, đầy đủ sẽ tạo điều kiện trực tiếp giúp học sinh
huy động mọi năng lực nhận thức, nâng cao khả năng tự học, tự rèn luyện các kỹ
năng động tác trong mỗi giờ học thể dục.
2.3.3. Sử dụng linh hoạt đa dạng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học trong một giờ học.
Mỗi giờ học giáo viên không chỉ quan tâm đến vấn đề dạy học cái gì, mà
cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề dạy học như thế nào, nhất là học bằng cách
nào để cho giờ học có hiệu quả. Khi truyền thụ một nội dung kiến thức mới và
cả khi rèn luyện một kỹ năng động tác nào đó cho học sinh sẽ có rất nhiều
phương pháp để thực hiện. Nhưng khơng có một phương pháp nào là phương
pháp vạn năng bởi mỗi phương pháp dạy học đều có ưu, nhược điểm nhất định.
Việc sử dụng phương pháp dạy học cần phải phù hợp với nội dung của giờ học,
đặc điểm đối tượng, mục đích dạy học… Mỗi phương pháp dạy học chỉ phát huy
được tác dụng cao nhất khi nó được sử dụng phù hợp với từng hoàn cảnh, đối
tượng học cụ thể.
Khi giảng dạy cho các em học sinh lớp 2 tôi nhận thấy việc sử dụng đơn

điệu một phương pháp quen thuộc nào đó trong cả giờ học sẽ ngay lập tức khiến
các em bị nhàm chán. Mỗi một lần tôi thay đổi phương pháp dạy học là một lần
tạo ra cái gì đó hồn tồn khác biệt, gây sự chú ý, tò mò, tạo ra sự hưng phấn
mới cho các em. Việc sử dụng đa dạng, linh hoạt các phương pháp dạy học sẽ
tạo điều kiện cho học sinh dễ dàng thích ứng với những phương pháp dạy học
khác nhau, từ đó tạo ra những tương tác tốt giữa thầy và trị. Nhờ đó tơi thấy tiết
học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn, các em học sinh hứng thú và tiếp thu bài
học tốt hơn.
Vì lẽ đó, trong giờ học tôi không sử dụng duy nhất một phương pháp mà
lựa chọn sử dụng linh hoạt, đa dạng nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Tôi
luôn chú trọng nghiên cứu và thực nghiệm để có thể sử dụng hiệu quả các

-7-


phương pháp đặc trưng trong dạy học thể dục như: làm mẫu, quan sát, phân tích,
tập luyện, sửa sai…
Học sinh lớp 2 các em cịn nhỏ nên khi phân tích kĩ thuật động tác tôi sẽ
nêu thật ngắn gọn, xúc tích mà dễ hiểu giúp các em nắm được ngay kỹ thuật
động tác. Thường thì khi phân tích động tác tôi kết hợp với chỉ dẫn và làm động
tác mẫu để các em dễ hình dung kĩ thuật động tác, đồng thời nhấn mạnh yếu lĩnh
kĩ thuật của động tác qua đó nhằm củng cố kỹ năng, kỹ xảo động tác, tránh được
những sai sót dễ mắc phải cho các em trong tập luyện.
* Ví dụ 1: Khi phân tích động tác "Đi nhanh chuyển sang chạy" tơi phân
tích như sau:
Bài tập đi nhanh chuyển sang chạy
Tư thế chuẩn bị: Khi chưa đến lượt các em đứng chân trước sát vạch xuất phát,
chân sau kiễng gót, thân người hơi ngả về trước, hai tay buông tự nhiên hoặc hơi
co.
Động tác: Khi có lệnh hoặc đến lượt, các em đi tăng tốc độ dần từ vạch xuất

phát thứ nhất đến vạch xuất phát thứ 2 rồi chuyển sang chạy. Khi chạy, khơng
đặt gót chân chạm đất mà đặt nửa trên của bàn chân chạm đất một cách nhẹ
nhàng, thẳng với hướng chạy, hai tay phối hợp tự nhiên. Sau khi chạy đến vạch
đích thì giảm dần tốc độ và đi thường về tập hợp ở cuối hàng.
Đây là một động tác học sinh rất dễ bị lẫn lộn giữa đi nhanh và chạy. Vì
vậy, khi phân tích tơi phối hợp chỉ dẫn trên sân, tơi xốy sâu vào vạch kẻ xuất
phát 2 (chuyển từ cử động đi nhanh sang cử động chạy) để các em hiểu rõ mốc
giới hạn cần thực hiện và thực hiện một cách chính xác bài tập.
* Ví dụ 2: Khi hướng dẫn học sinh chơi trị chơi “Nhảy đúng, nhảy nhanh” ;
vì đây là trị chơi các em đã được làm quen từ lớp 1, cơ bản các em đã biết cách
chơi, nên khi hướng dẫn cho các em, tôi sẽ nêu thật nhanh cách chơi để dành
nhiều thời gian cho các em được thi đua chơi với nhau theo đội, hoặc theo
nhóm. Cụ thể tơi nêu: Khi chưa đến lượt các em đứng sau vạch chuẩn bị; khi
đến lượt thì tiến vào vạch xuất phát, bật nhảy bằng 2 chân vào ô số 1, chân trái
vào ô số 2, chân phải vào ô số 3, nhảy chụm hai chân vào ô số 4, rồi bật nhảy
bằng hai chân qua vạch đích; đi về tập hợp ở cuối hàng của mình. Em trước
nhảy xong thì đến em kề sau, cứ như vậy cho đến hết lượt.
Học sinh thi đua chơi trò chơi: “Nhảy đúng, nhảy nhanh”
Khi làm mẫu tôi luôn cố gắng thực hiện động tác chính xác, đẹp, có sức lơi
cuốn nhằm khiến các em lưu tâm đến động tác ngay ở lần đầu tiên tôi thực hiện.
Trong dạy - học tôi chú trọng sử dụng phương pháp trò chơi, thi đấu, nêu
gương, chú ý tính vừa sức và coi trọng đặc điểm cá nhân của từng học sinh, sao
cho phù hợp với sức khoẻ, phát triển năng khiếu cho các em. Đối với học sinh

-8-


có thể lực yếu, học sinh học hịa nhập tơi cho các em luyện tập với cường độ
nhẹ, tạo cho các em tinh thần thoải mái, hòa nhập cùng các bạn.
Học sinh thi đua tập luyện theo nhóm

Học sinh thi đua tập luyện theo cặp đôi

Học sinh cả lớp thi đua tập xem ai là người thực hiện động tác đúng, đẹp
Bên cạnh đó, tơi sử dụng phối hợp nhiều hình thức tổ chức dạy học khác
nhau: Vừa học bài mới - ôn tập bài cũ, vừa thực hiện cho học sinh tập đồng loạt,
vừa chia nhóm, chia tổ, chia cặp tập luyện dưới nhiều hình thức thi đua khác
nhau.
Ví dụ: Dạy tiết 5: Quay phải, quay trái - Trò chơi “Nhanh lên bạn ơi”. Tơi
chuẩn bị cịi, sân tập, khăn và mũ cho từng đội chơi. Khi tập luyện tơi cho học
sinh ơn tập hợp hàng dọc, dóng hàng, điểm số; học động tác quay phải, quay
trái; sau đó chia tổ để học sinh ôn tập hợp hàng dọc, dóng hàng, điểm số, đứng
nghiêm, đứng nghỉ, quay phải, quay trái; từng cặp học sinh quan sát nhau thực
hiện động tác quay phải, quay trái; và tôi cho từng tổ trình diễn thi đua xem tổ
nào, em nào thực hiện động tác đúng, đẹp.
Khi lựa chọn các phương pháp và hình thức dạy học tơi ln chú ý khai
thác các yếu tố tích cực trong từng phương pháp, hình thức dạy học; tạo ra môi
trường học tập đảm bảo được mối liên hệ tương tác giữa giáo viên và học sinh,
phù hợp với việc tìm tịi của cá nhân, hoạt động nhóm và cả lớp; giúp học sinh
được hoạt động nhiều hơn, tích cực hơn, chủ động hơn trong giờ học.
2.3.4. Xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trị.
Học sinh sẽ khơng học được bất kì thứ gì từ giáo viên mà chúng khơng
thích. Trong giờ học nếu giáo viên cứ áp đặt học sinh sẽ dẫn đến học sinh mất
hứng, gây ức chế, phản cảm trong mối quan hệ thầy - trị. Vì vậy, cần phải rút
ngắn khoảng cách, không tạo ra “hàng rào tâm lý” với học sinh, đặc biệt là các
em học sinh nhỏ mới học lớp 2. Nếu như giáo viên tạo khoảng cách với các em
sẽ khiến các em luôn mang tâm lý lo lắng, khó thân thiện, cởi mở và khó bộc lộ
bản thân, thu mình trong sợ hãi, thậm chí một số học sinh cá tính các em sẽ tìm
cách chống đối thầy cô. Vậy muốn tiến hành hoạt động giáo dục, dạy học hiệu
quả thì điều đầu tiên người giáo viên cần phải hiểu được đời sống tâm hồn học
sinh. Điều này ln có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Bởi lẽ, mỗi học sinh là một

-9-


thế giới riêng với những đặc điểm về nhận thức, sở trường, nhu cầu, hứng thú,
nguyện vọng, hoàn cảnh gia đình … hồn tồn khác nhau. Hiểu học sinh, khám
phá đời sống các em, để biết được các em đang có những gì? khó khăn ra sao?
vấn đề gì bức xúc chưa được giải quyết, chia sẻ, giúp đỡ … từ đó mà giáo viên
là điểm tựa tinh thần vững chắc để các em chia sẻ những tâm tư, nguyện vọng,
gỡ rối những vướng mắc mà các em chưa được giải quyết. Để làm được như vậy
với các em học sinh nhỏ lớp 2 tôi luôn luôn tạo bầu không khí lớp học thân ái,
gần gũi giữa cơ và trị; thường xuyên quan tâm, động viên học sinh kịp thời, nhẹ
nhàng, cởi mở, tạo sự thân thiện và coi các em như con của mình. Từ đó, giúp
các em nhận thấy tình cảm cơ dành cho các em như chính tình cảm của bố, mẹ,
ơng, bà dành cho các em ở nhà. Làm được như vậy, các em có thể tin tưởng,
chia sẻ những khó khăn của chính mình với tơi, từ đó tơi có thể hiểu rõ được học
sinh cần gì để đưa ra những biện pháp phù hợp, giúp các em hứng thú, hoàn
thành và hoàn thành tốt mục tiêu bài học.
Trong giờ học, tôi luôn chú ý tuyên dương, khen thưởng kịp thời để động
viên, khích lệ học sinh, đặc biệt là đối với học sinh có khả năng tiếp thu chậm,
học sinh học hòa nhập. Việc khen ngợi, động viên đăc biệt quan trọng đối với
các em học sinh lớp 2. Khen thưởng kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, bằng tấm
lòng, bằng sự tự hào và một tình cảm chân thành khiến các em cảm thấy vui
sướng, phấn khởi, hào hứng; tạo ra một tâm lý tích cực ở bản thân, làm cho các
em cảm thấy tự hào về khả năng của mình để từ đó cố gắng phát huy nó.
Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò là một trong những yếu
tố rất quan trọng. Khi học sinh cảm thấy giữa mình và cơ có một mối liên quan
nào đó; khi các em biết cơ đang rất quan tâm đến mình, các em sẽ ln nổ lực cố
gắng, điều đó sẽ là ngọn nguồn tạo nên sự khác biệt to lớn trong mỗi giờ học.
2.3.5. Lựa chọn, sử dụng sáng tạo các trị chơi vận động phù hợp
trong giờ học.

Trị chơi khơng đơn thuần là giải trí. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng
người học sẽ tiếp thu bài học hiệu quả hơn khi được học trong môi trường thư
giãn, vui vẻ, nhiệt huyết, và mang tính hợp tác. Giáo dục thơng qua trò chơi tác
động trực tiếp đến sự tham gia và động cơ học tập của học sinh, gián tiếp dẫn
đến việc hình thành thêm kiến thức và kỹ năng, khuyến khích học sinh thực hiện
một hành động; từ đó sẽ làm tăng kỹ năng và thúc đẩy học sinh ghi nhớ, làm gia
tăng kiến thức của học sinh.
Trò chơi sẽ là nguồn khích lệ, tăng cường hứng thú học tập cho học sinh,
ln được học sinh u thích, đặc biệt là các em học sinh lớp 2, các em đang
trong độ tuổi rất ham chơi, mới làm quen với môi trường học mới cấp tiểu học.
Khi tham gia các trò chơi, các em sẽ cạnh tranh giữa những người chơi và đội
chơi đây sẽ là một nhân tố làm tăng động cơ học tập mạnh mẽ, tạo ấn tượng sâu
sắc về bài học, nhằm giúp việc học trở nên nhẹ nhàng mà hiệu quả. Do vậy,
- 10 -


trong dạy học tơi đã sử dụng trị chơi như một phương pháp giáo dục giúp học
sinh “Vui mà học - Học mà vui” để lôi cuốn các em vào những hoạt động của
giờ học.
Để tạo bầu khơng khí vui vẻ, nhẹ nhàng tơi lựa chọn và tổ chức trị chơi
phù hợp với tiết học, giúp các em có tinh thần thoải mái, hứng thú tiếp thu bài
học, luyện tập các kiến thức kĩ năng một cách tự giác thông qua hoạt động trò
chơi giúp đạt được các mục tiêu dạy học và đáp ứng nhu cầu của học sinh mà
khơng gây sự nhàm chán. Trị chơi có thể được tổ chức trong phần cơ bản hay
ngay trong phần mở đầu hoặc phần kết thúc để thay đổỉ khơng khí của giờ học.
* Ví dụ 1: Dạy tiết 39: Đứng kiễng gót, hai tay chống hơng (dang ngang) Trị chơi “Chạy đổi chỗ, vỗ tay nhau”.
Thay vì hơ khẩu lệnh “Tư thế đứng kiễng gót, hai tay chống hơng … bắt
đầu!” khiến học sinh có cảm giác căng thẳng; tơi sử dụng trị chơi: “Thượng đế
cần gì?” sẽ giúp các em hứng thú thi đua thực hiện yêu cầu của bài tập. Cách
thực hiện như sau: Tôi hô “Ta là thượng đế”, cả lớp đồng thanh đáp “Thượng đế

cần gì?” ngay sau đó tơi sẽ hơ u cầu bài tập: “Thượng đế cần cả lớp đứng
kiễng gót, hai tay chống hơng”.
* Ví dụ 2: Dạy tiết 2: Tập hợp hàng dọc, dóng hàng, điểm số, chào, báo
cáo khi giáo viên nhận lớp.
Để củng cố kĩ năng tập hợp hàng dọc, dóng hàng; rèn luyện tác phong kỷ
luật, nhanh nhẹn, khẩn trương cho các em học sinh. Thay vì hơ khẩu lệnh:
“Thành 1 (2,3)… hàng dọc… tập hợp !” khiến các em uể oải; tôi sẽ tổ chức cho
các em thi đua chơi trò chơi “Xếp hàng thứ tự”. Cách thực hiện như sau: Các em
đang tự do trên sân, khi có tín hiệu cịi của giáo viên thơng báo bắt đầu chơi, các
em sẽ đồng thanh đọc “Xếp hàng thứ tự - Mỗi chỗ một người - Cho nhanh, cho
đẹp - Nào! Một! Hai! Ba!”. Khi các em đọc từ “Ba!” thì nhanh chóng về tập hợp
đúng số thứ tự của mình theo tổ tơi đã quy định trước, tổ nào tập hợp hàng
nhanh, ngay ngắn, thẳng đẹp, đúng thứ tự, đúng cự ly, khơng xơ đẩy nhau thì
thắng cuộc, sẽ được tuyên dương.
Học sinh chơi trò chơi “Xếp hàng thứ tự”
Khi sử dụng trò chơi nhằm giúp học sinh học tập, lĩnh hội tri thức đòi hỏi
giáo viên phải sáng tạo để xây dựng, lựa chọn, tổ chức trò chơi sao cho khơng có
sự trùng lặp, tạo sự mới mẻ mà vẫn định hướng, dẫn dắt học sinh tư duy, phát
hiện tri thức từ trị chơi. Từ đó mới có thể lơi cuốn làm tăng hứng thú, động cơ
học tập của học sinh và góp phần nâng cao hiệu quả của giờ học.
- 11 -


2.3.6. Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, cha mẹ học sinh, giúp các em
u thích mơn học.
Là một giáo viên chuyên ban dạy môn thể dục ở cấp tiểu học tôi không
phải làm công tác chủ nhiệm lớp. Tôi chỉ lên lớp khi đến tiết dạy của mình, vậy
nên trong q trình giảng dạy tơi ln phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp
nhằm giúp cho quá trình giảng dạy của tôi thu được hiệu quả cao nhất. Thông
qua giáo viên chủ nhiệm lớp tôi sẽ hiểu rõ hơn được cá tính, tâm lí, sở thích,

trạng thái sức khoẻ và hoàn cảnh cá nhân của từng học sinh, từ đó mà tơi tìm ra
các biện pháp giáo dục khác nhau cho từng đối tượng học sinh trên lớp một cách
hợp lí.
Đối với học sinh cấp Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng thì
giáo viên chủ nhiệm được các em xem như là cha, là mẹ ở trường của mình nên
các em rất vâng lời thầy, cô giáo chủ nhiệm lớp, các em hay biểu lộ cảm xúc vui,
buồn, thích hay khơng thích cho thầy, cơ chủ nhiệm của mình nên khi một học
sinh nào đó có biểu hiện chây lười trong việc tập luyện thể dục, chưa vâng lời
thì lúc này tơi sẽ phối hợp cùng giáo viên chủ nhiệm lớp đó nhằm nhanh chóng
giáo dục những học sinh đó để các em hiểu rõ về tầm quan trọng của thể dục thể
thao cho cuộc sống của chính mình.
Tơi thường xun phối hợp với giáo viên chủ nhiệm đôn đốc học sinh
thực hiện nội quy giờ học thể dục, tuyên dương học sinh chăm chỉ rèn luyện
thân thể, tổ chức các hoạt động rèn luyện thân thể trong các tiết giáo dục ngoài
giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm, tăng cường kĩ năng sống giúp học sinh mạnh
dạn, tự tin, hợp tác, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
Bên cạnh việc phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm lớp thì phụ
huynh học sinh cũng có vai trị khơng nhỏ trong việc nâng cao chất lượng thể
dục thể thao trong nhà trường nói chung và giảng dạy tiết thể dục cho học sinh
lớp 2 của tơi nói riêng. Để các em tích cực vận động trong giờ học thể dục, chăm
chỉ tập luyện thể thao hàng ngày; tôi đã tuyên truyền tới cha mẹ học sinh để họ
hiểu được lợi ích, tác dụng của môn Thể dục đối với sự phát triển tồn diện của
con em mình. Tơi tun truyền bằng nhiều cách: như thông qua các cuộc họp
phụ huynh học sinh, trao đổi tin nhắn qua sổ liên lạc điện tử, bảng tin nhà
trường… Từ đó, cha mẹ dành thời gian quan tâm, nhắc nhở chăm lo việc rèn
luyện thân thể cho các em, chuẩn bị đồ dùng học tập, trang phục tập luyện cho
học sinh đầy đủ, phù hợp, khuyến khích học sinh tập luyện thể dục ở nhà cũng
như ở trường. Nhờ vậy mà tất cả học sinh đều có ý thức tự tập luyện, hình thành
thói quen tập thể dục vào buổi sáng hay lúc chiều tối hàng ngày đều đặn hơn.
Phụ huynh quan tâm phối hợp cùng với giáo viên, thường xuyên động

viên học sinh tích cực tham gia tập luyện sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục sức khỏe và toàn diện cho các em. Cũng nhờ sự phối hợp này mà tôi lại một
lần nữa nắm rõ hơn về tình trạng sức khoẻ, tâm sinh lí của từng em do ơng bà,
cha mẹ các em phản hồi lại khi đưa các em đến trường để từ đó tơi đưa ra các
- 12 -


biện pháp và phân bố thời gian dạy học được hợp lý nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất cho mỗi giờ học.
2.3.7. Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường thành lập câu lạc bộ thể
dục thể thao cho học sinh lớp 2 trong nhà trường:
Mỗi một tuần lễ học sinh lớp 2 chỉ có 2 tiết học thể dục; mỗi tiết chỉ kéo
dài trong 35 - 40 phút, còn lại là các em tự tập luyện ở nhà. Không thể phủ nhận
lợi ích của việc các em thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ giúp làm săn
chắc các nhóm cơ, tạo sức bền, sức mạnh, sự dẻo dai,chống béo phì, phát triển
trí não, sáng tạo, ghi nhớ tốt, rèn luyện nhân cách, kỹ năng … giúp các em có
khả năng miễn dịch cao, chống lại những căn bệnh thường xảy ra vào thời điểm
giao mùa hay khi có dịch như cúm, sởi, phát ban… Thế nhưng khơng phải học
sinh nào cũng có ý thức tập luyện thể dục thể thao ở nhà một cách thường xuyên
đều đặn, và điều rất quan trọng đó là khi các em tự tập luyện ở nhà có thể sẽ
thiếu dẫn dắt về mặt khoa học do không nhận được sự hướng dẫn đúng cách của
người lớn. Tự tập thể dục thể thao ở nhà cũng sẽ hạn chế các em được tập luyện
với bạn bè cùng trang lứa, cùng giới hạn sức khỏe ...
Tập thể dục không đều, không thường xuyên, tập luyện sai cách như:
khơng khởi động làm nóng cơ; chọn bài tập không phù hợp với thể trạng, sức
khỏe, lứa tuổi; cường độ tập luyện không hợp lý; tập q sức; khơng giãn cơ sau
khi tập… có thể gây tổn thương cơ, viêm khớp xương… khiến cơ thể dễ mệt
mỏi hơn. Để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động thể dục thể thao, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh lớp 2 trong nhà trường,
ngay từ đầu năm học tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường thành lập

thêm câu lạc bộ thể dục thể thao dành cho học sinh khối lớp 2 trong nhà trường
nhằm giúp các em có thêm cơ hội được trao đổi học tập, cùng nhau tập luyện,
trao đổi kinh nghiệm trong thi đấu, phát huy những sở trường của bản thân và
thơng qua đó rèn luyện thể chất, phát triển thể lực, góp phần nâng cao sức khoẻ
phục vụ học tập, sinh hoạt, đồng thời trực tiếp thể hiện bản thân, thỏa mãn nhu
cầu và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, đẩy lùi lối sống lười vận động cho
học sinh ngay từ ở lứa tuổi lớp 2.

Học sinh lớp 2 tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ thể dục thể thao trong nhà
trường
Thông qua các hoạt động thể thao có tổ chức từ Câu lạc bộ điền kinh,
bóng đá, Aerobic, cờ vua, cầu lơng, … tại trường tôi, các em học sinh lớp 2 đã
có thêm cơ hội được học hỏi về giá trị khi làm việc tập thể, chơi thể thao theo
luật và giao tiếp hiệu quả. Giúp các em nâng cao khả năng hòa nhập với cộng
đồng, gắn kết bền chặt với bạn bè cùng trang lứa và rèn luyện tinh thần đồng đội
hình thành kỹ năng sống, tạo cho các em cơ hội gặp gỡ tiếp cận bạn bè mới,
hình thành cách sống năng động cho các trong tương lai.

- 13 -


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục trong
nhà trường:
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào thực tế giảng dạy tại trường tôi,
tôi nhận thấy biện pháp đã đem lại những hiệu quả rõ rệt đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường và địa phương nơi tôi đang công tác.
Cụ thể:
Đảm bảo mục tiêu dạy học “lấy người học làm trung tâm”; kết hợp nhuần
nhuyễn các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh và đều tập
trung hình thành, phát triển năng lực chăm sóc sức khỏe, năng lực vận động cơ

bản và năng lực hoạt động thể dục thể thao của học sinh.
Giờ học thể dục trở nên nhẹ nhàng, vui vẻ, học sinh hứng thú với mơn học
hơn, các em có nhiều tiến bộ về mọi mặt.
* Về giáo dục
- Các em mạnh dạn, tự tin, tự giác, tích cực, chăm chỉ luyện tập thể dục
hơn trước; say mê, hứng thú trong tập luyện thể dục chính khóa và tập luyện thể
dục giữa giờ lên lớp. Lớp học trở nên sôi động, tiết học thể dục luôn là tiết học
được các em mong chờ.
- Thông qua các hoạt động tập luyện hoặc tham gia chơi trò chơi trong tiết
học thể dục đã góp phần giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách cho học sinh
trong nhà trường.
- Học sinh cùng nhau học tập vui chơi, giúp các em hòa nhập với cộng
đồng, giáo dục tinh thần hợp tác, đoàn kết, kỷ luật, trung thực và rèn luyện tinh
thần đồng đội khi làm việc trong môi trường tập thể.
- Phát triển kỹ năng của từng cá nhân học sinh. Không chỉ đối với các em
học sinh lớp 2 mà còn nhân rộng ra toàn trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, rèn luyện đạo đức lối sống, kĩ năng
sống, tổ chức câu lạc bộ thể dục thể thao trong và ngoài nhà trường.
* Về kỹ năng
- Học sinh tập luyện theo tổ, nhóm dưới sự điều khiển của cán sự tổ và tự
uốn nắn chỉnh sửa, kiểm tra, động tác cho nhau, giúp nhau cùng tiến bộ.
- Tích cực tham gia vào các hoạt động trong và ngoài nhà trường như:
tham gia vào các buổi sinh hoạt tập thể, thể dục giữa giờ, sinh hoạt dưới cờ, sinh
hoạt Sao nhi đồng, sinh hoạt truyền thống của Liên đội,… các em mạnh dạn, tự
tin thể hiện bản thân hơn.
- Các em biết tự quản lớp học, biết hợp tác cùng nhau để hoàn thành
nhiệm vụ, bước đầu biết tự học và giải quyết vấn đề bản thân vấp phải.
* Về kiến thức:
- Các em học sinh lớp 2 biết xếp hàng ra vào lớp theo thứ tự và đúng cự
ly một cách nhanh chóng; biết dàn hàng để tập thể dục giữa giờ, bài tập giữa giờ

được các em thực hiện đúng, đều và đẹp như các anh các chị ở các lớp trên.

- 14 -


- Học sinh u thích mơn học, có ý thức luyện tập thể dục thể thao, tham
gia vào câu lạc bộ thể thao nhiều hơn, nhiều em đăng ký tham gia các Câu lạc bộ
rèn luyện kĩ năng trong dịp hè.
- Các em thực hiện được các bài tập đội hình đội ngũ, các bài tập rèn
luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản, nhiều em biết thực hiện động tác thuần
thục, đúng, đẹp và nhanh. Cụ thể:
Kết quả học tập, rèn luyện của học sinh lớp 2 sau khi áp dụng biện pháp
năm học 2019 - 2020 đã thay đổi rõ rệt.
Trước khi áp dụng biện pháp
Sau khi áp dụng biện pháp
Hoàn
Chưa
Hoàn
Chưa
Tổng
Hoàn
Hoàn
Tổng
thành
hoàn
thành
hoàn
số
thành
thành

số
tốt
thành
tốt
thành
học
học
sinh SL TL SL TL SL TL
sinh SL TL SL TL SL TL
30
em

3

10 26 86,7

1

3,3

30
em

17

56,7 13 43,3

0

0


Qua bảng đánh giá kết quả trên cho thấy số học sinh lớp 2 hoàn thành và
hoàn thành tốt mục tiêu môn học Thể dục sau khi áp dụng “Một số biện pháp
tạo hứng thú trong giờ học thể dục cho học sinh lớp 2” là 100%. Số học sinh
hoàn thành tốt mục tiêu môn học sau khi áp dụng biện pháp tăng 46,7% so với
trước khi áp dụng.
- Áp dụng các biện pháp trên đã giúp học sinh lớp 2 trong trường tôi thực
hiện các bài tập trong chương trình một cách rất tự tin, khơng chán nản mệt mỏi,
giờ học trở lên hấp dẫn và sinh động, các em hứng thú hơn với giờ học thể dục.
- Biện pháp có tác dụng tích cực trong việc nâng cao chất lượng dạy học
môn Thể dục trong nhà trường và đã tạo được sự lan tỏa đối với các trường
trong cụm.
- Phụ huynh học sinh phấn khởi, đã quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe của
các em, quan tâm đến môn thể dục nhiều hơn cụ thể:
+ Chuẩn bị trang phục, dụng cụ tập luyện cho các em mỗi khi đến giờ
học thể dục.
+ Thường xuyên nhắc nhở các em tập ở nhà những bài tập đã được học ở
trường để rèn luyện sức khỏe.
+ Thường xuyên liên lạc với giáo viên để biết được tình hình cũng như
thời gian học của các em.
+ Khơng cịn tình trạng phụ huynh viết giấy xin phép, hay đến tận trường
trước giờ học thể dục để xin phép cho con, cho cháu nghỉ học môn thể dục.
- 15 -


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Việc tạo hứng thú cho các em học sinh lớp 2 trong giờ học Thể dục góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện trong nhà trường là điều rất quan
trọng. Đây là điều kiện tiên quyết, là cách tối ưu nhất giúp các em lĩnh hội tri

thức và hình thành nhân cách cho học sinh ngay từ những năm đầu bậc tiểu học.
Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho hoạt động giáo dục là phải tổ chức dạy và
học như thế nào để hình thành và nâng cao hứng thú học tập cho học sinh. Muốn
vậy cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp và cần có sự chung tay phối kết
hợp hiệu quả giữa nhà trường - gia đình - xã hội. Cịn đối với những người giáo
viên trực tiếp giảng dạy trên lớp cần:
- Giáo viên cần phải chú ý đến địa điểm, phương tiện dạy học; việc sử
dụng đồ dùng dạy học và đồ dùng học tập của học sinh. Thực hiện tốt việc
chuẩn bị bài dạy, phương tiện, đồ dùng dạy học một cách hợp lí trước khi lên
lớp.
- Lựa chọn phương pháp, hình thức, phương tiện dạy học phù hợp. Phân
bố thời gian tiết học hợp lý sao cho học sinh được thực hành tập luyện nhiều,
chú ý đặc điểm cá nhân của học sinh, ưu tiên sử dụng chia tổ, nhóm nhỏ để tập
luyện.
- Cần khuyến khích sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các em, để giờ học diễn ra tự
nhiên, nhẹ nhàng mà đạt hiệu quả cao.
- Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”, thiết lập được mối
quan hệ hợp tác tích cực, tốt đẹp giữa thầy và trị. Đối với học sinh lớp 2 các em
cịn nhỏ, tính kiên trì tập luyện chưa cao nên địi hỏi người giáo viên phải mềm
mỏng, tạo ra sự thân thiết gần gũi với các em như chính là cha là mẹ của các em.
Sự hướng dẫn ân cần, tỉ mỉ của giáo viên sẽ làm cho học sinh u thích mơn học
của mình và học sinh cảm thấy hứng thú, thoải mái sau mỗi giờ học thể dục,
mong chờ những giờ học tiếp theo.
- Tăng cường hoạt động trò chơi một cách tích cực nhằm tạo ra mơi
trường học tập thân thiện, hứng thú và tích cực cho học sinh, để các em chơi mà
là học. Kết hợp nội dung học tập với trò chơi ở mức hợp lý, thường xuyên áp
dụng phương pháp trị chơi, thi đua, để kích thích sự hưng phấn, tạo hứng thú
tập luyện ở học sinh, góp phần giảm sự nhàm chán ở một số học sinh.

- 16 -



- Tạo cơ hội để học sinh được tham gia hoạt động thể dục thể thao dưới
nhiều hình thức khác nhau.
- Đổi mới nhận thức của thầy và trò cũng như của cha mẹ học sinh đối với
môn học, không phân biệt mơn chính, mơn phụ.
- Tăng cường phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp, với cha mẹ học sinh.
- Tăng cường tham mưu cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu dạy - học.
Áp dụng những biện pháp trên vào công tác giảng dạy môn thể dục tại
trường tôi đã đem lại những hiệu quả rõ rệt đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp, nhà trường và địa phương nơi tôi đang công tác. Tôi tin rằng,
biện pháp được áp dụng tại trường bạn cũng sẽ đem lại hiệu quả, giúp nâng cao
chất lượng dạy - học mơn thể dục nói chung và giờ học thể dục cho học sinh lớp
2 nói riêng.
3.2. Kiến nghị.
Hiện nay, điều kiện sân tập, trang thiết bị phục vụ tập luyện thể dục thể
thao trong các trường học nói chung và tại trường tơi nói riêng cịn chưa đáp ứng
được nhu cầu tập luyện của học sinh, các em phải tập trên sân chơi ở ngoài trời
dưới thời tiết mùa hè thì nắng nóng, mùa đơng thì sương giá lạnh, hay thời tiết
mưa gió thất thường; điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc giảng dạy cũng như
việc tập luyện của học sinh. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục
thể chất trong trường học, thì việc xây dựng phịng tập thể dục hay nhà đa năng
ở trường học phục vụ quá trình giảng dạy và tập luyện của học sinh là hết sức
cần thiết, nhà trường cũng như cơ quan chức năng cần trang bị tốt hơn nữa về
sân bãi, phòng tập đa năng, trang thiết bị dụng cụ tập luyện để có thể tổ chức
một giờ học đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hiện nay.
Trên đây là biện pháp bản thân tôi đã áp dụng giúp tạo hứng thú trong giờ
học Thể dục cho học sinh lớp 2, tại trường Tiểu học nơi tôi đang công tác đạt
hiệu quả. Do kinh nghiệm bản thân chưa nhiều nên các biện pháp tôi đưa ra sẽ
khơng tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đánh

giá của Hội đồng khoa học các cấp; sự quan tâm, chia sẻ, đóng góp ý kiến của
các cấp lãnh đạo cũng như các bạn đồng nghiệp để tơi hồn thiện bản thân, có
thêm những giải pháp sát thực hơn với thực tiễn của nhà trường và từng đối
tượng học sinh, đáp ứng tốt hơn nhu cầu dạy - học cho học sinh lớp 2 nói riêng
và học sinh tiểu học nói chung nhằm góp phần xây dựng thế hệ trẻ phát triển
tồn diện.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM HIỆU
2021
HIỆU TRƯỞNG

Thọ Xuân, ngày 25 tháng 3 năm

Tôi xin cam đoan
đây là sáng kiến của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết
- 17 -


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

Thể dục lớp 1 (sách giáo viên) - Nhà xuất bản giáo dục năm 2002.
Thể dục lớp 2 (sách giáo viên) - Nhà xuất bản giáo dục năm 2003.
Chuẩn kiến thức kỹ năng môn thể dục lớp 1 - Nhà xuất bản giáo dục năm
2009.
4. Chuẩn kiến thức kỹ năng môn thể dục lớp 2 - Nhà xuất bản giáo dục năm

2009.
5. Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học các môn học cấp tiểu học - Bộ
giáo dục năm 2011.
6. Giáo trình trị chơi - Nhà xuất bản Thể dục thể thao năm 2004.
7. Thông tư số 30/2014/TT- BGDĐT quy định đánh giá học sinh Tiểu học
năm 2014.
8. Thông tư số 22/2016/TT- BGDĐT quy định đánh giá học sinh Tiểu học
năm 2016.
9. Luật giáo dục - Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005.
10 Pháp lệnh TDTT - Ủy ban thường vụ quốc Hội thông qua tháng 9/2009.
.
11. Tâm lý học thể dục thể thao - Nhà xuất bản thể dục thể thao năm 2014.
12 Lý luận và phương pháp thể dục thể thao - Nhà xuất bản thể dục thể thao
. năm 2018.

- 18 -



×