Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học môn GDCD lớp 6, lớp 7 (bản Doc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.82 KB, 20 trang )

Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong
giờ học môn giáo dục công dân lớp 6, lớp 7
NGUYỄN VĂN XIÊM
(Trường THCS Hùng Vương) Giải B
A. PHẦN MƠ ĐẦU:
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Ở bất kì một quốc gia nào, những đổi mới về giáo dục nói
chung, giáo dục phổ thông nói riêng cũng đều bắt đầu từ việc xem
xét, điều chỉnh về mục tiêu giáo dục với mong muốn là các nhà
trường đào tạo cho đất nước những con người mới có đủ phẩm chất,
trình độ, năng lực thực hiện tốt các nghĩa vụ của người công dân
trong từng giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước.
Ở nước ta, việc thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông nói
chung, đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy
môn giáo dục công dân (GDCD) ở cấp trung học cơ sở (THCS) nói
riêng cũng không ngoài mục đích đó đòi hỏi các cấp quản lí giáo dục
và mỗi giáo viên phải nỗ lực thực hiện. Nhưng vấn đề đặt ra là cách
tổ chức thực hiện các yêu cầu đổi mới đó như thế nào để vừa có tính
khả thi, vừa đảm bảo tính đúng đắn của một chủ trương trong điều
kiện có được của mỗi nhà trường, mỗi địa phương và kết quả thu
được đạt như mong muốn - nhất là đối với giáo viên, lực lượng có vai
trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo trong các nhà trường
thì phải đổi mới cách dạy, cách to chức học tập cho học sinh của
mình như thế nào để đạt được những yêu cầu và mục tiêu của đổi
mới đặt ra?
Xuất phát từ quan điểm và những yêu cầu như vậy của việc đổi
mới phương pháp giảng dạy ở các môn học nói chung, môn GDCD ở
cấp THCS nói riêng thì bất cứ người giáo viên nào cũng đều có thể sử
dụng những phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù của mỗi bộ
môn như: trực quan, đàm thoại, nêu vấn đề, giảng thuyết, thảo luận
nhóm, tổ chức ngoại khóa, thực hành… để chuyển tải đến các đối


tượng học sinh những nội dung cơ bản của từng bài học trong sách
giáo khoa (SGK). Tuy nhiên, việc chuyển tải đó có gây cho các đối
tượng học sinh có được những hứng thú học tập cần thiết hay không
thì đây mới là vấn đề vô cùng quan trọng trong tiến trình thực hiện
giờ dạy của mình, vì theo lí luận dạy đã khẳng định:


- Hứng thú là nguồn lực vô tận của mọi cảm nhận của con người, nó
kích thích tư duy và hành động của con người vươn tới sự tri giác các
sự vật, hiện tượng có trong thế giới khách quan mà con người muốn
lĩnh hội.
- Hứng thú còn là cửa sổ, là lực hút của quá trình nhận thức và hình
thành những tri thức mới ở con người.
- Hứng thú chính là động lực thôi thúc và giúp con người luôn có
những hưng phấn, năng động và sáng tạo để vươn tới những mục
tiêu mới.
Thật vậy, trong quá trình giảng dạy bộ môn này ở khối lớp 6, 7
tại trường THCS Hùng Vương - TP Long Xuyên và qua dự giờ, học tập
kinh nghiệm từ các tiết thao giảng, chuyên đề của các đồng
nghiệp trong tổ, ở cụm và hội đồng bộ môn … bản thân tôi lại càng
thấy rõ và càng thấm thía hơn về yếu tố này và nó luôn thôi thúc tôi
có những suy nghĩ, nghiên cứu và quyết tâm thực hiện nó. Đó là lí do
mà tôi mạnh dạn đăng kí nghiên cứu, trải nghiệm và đúc kết đề tài
sáng kiến kinh nghiệm ( SKKN ) về: “ Một số biện pháp tạo hứng thú
học tập cho học sinh trong giờ học môn GDCD ở khối lớp 6, 7”.
II. NHỮNG CÔNG VIỆC ĐÃ NGHIÊN CỨU VÀ TRẢI NGHIỆM ĐỀ
TÀI SKKN:
Để thực hiện những mục tiêu của đề tài SKKN đặt ra, bản thân tôi đã
tiến hành những công việc cụ thể như sau:
- Nghiên cứu nắm vững chương trình, nội dung các bài dạy môn

GDCD lớp 6, 7 và tích cực tìm hiểu thêm những vấn đề về đạo đức,
pháp luật và xã hội có liên quan đến kiến thức bài học trong thực
tế.
- Nghiêm túc thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm
tra đánh giá học sinh trong tiến trình soạn, giảng theo hướng dẫn và
tập huấn của Sở đối với bộ môn.
- Nghiên cứu tài liệu về tâm lí học lứa tuổi học sinh ở cấp THCS và
kết hợp với các giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm, biết về hoàn cảnh
sống của gia đình, môi trường sinh hoạt… của những học sinh có


dấu hiệu bất thường về đạo đức, lối sống và ý thức chấp hành trong
lời nói, hành vi giao tiếp, ứng xử.
- Thực hiện đầu tư thiết kế và biên soạn nội dung các tiết dạy theo
hướng gắn kết nội dung tiết dạy với những hoạt động để tạo cho các
đối tượng học sinh có sự hưng phấn cần thiết và ham thích học tập.
- Thường xuyên đúc rút kinh nghiệm sau từng tiết dạy để có những
điều chỉnh, bổ sung hợp lí về hệ thống các câu hỏi, cách diễn đạt các
nội dung và kĩ năng, thao tác sử dụng các phương tiện, đồ dùng dạy
học … để tiết dạy sau đạt hiệu quả hơn.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU, TRẢI NGHIỆM ĐỀ TÀI SKKN :
Do thời gian tiếp cận, giảng dạy môn GDCD ở trường phổ thông
không lâu so với các đồng nghiệp khác trong trường và được trường
sắp xếp, tạo điều kiện cho tôi được giảng dạy liên tục môn học này ở
2 khối lớp 6 và 7 nên việc nghiên cứu, trải nghiệm đề tài SKKN của
tôi cũng chỉ xoay quanh “ Một số biện pháp tạo hứng thú học tập
cho học sinh trong giờ học môn GDCD lớp 6, 7 “ ở trường THCS Hùng
Vương – TP.Long Xuyên từ đầu học kì II năm học 2008 – 2009 đến
nay mà thôi.
B. PHẦN NỘI DUNG :

I. NHỮNG CĂN CỨ NGHIÊN CỨU, TRẢI NGHIỆM ĐỀ TÀI SKKN :
1. Cơ sở lí luận:
Mục tiêu của môn GDCD ở trường phổ thông nói chung, cấp
THCS nói riêng là nhằm cung cấp cho học sinh hiểu biết về những
giá trị đạo đức, pháp luật cơ bản phù hợp với nhận thức của lứa tuổi,
hiểu biết về những chuẩn mực giao tiếp, ứng xử của con người Việt
Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế của đất nước. Từ những hiểu biết đó của học sinh, bằng khả năng
sư phạm của mình mà người giáo viên tiến hành các hoạt động giáo
dục nhằm hình thành và xác lập cho các đối tượng học sinh có ý
thức và hành vi sinh hoạt, học tập đúng đắn, tích cực, tự giác trong
thực hiện những chuẩn mực, những qui định mà các em đã học ở
mọi nơi, mọi lúc (gia đình, nhà trường và xã hội).
Nội dung của môn GDCD cấp THCS là được xây dựng dựa trên
những căn cứ khoa học của các ngành và môn học khác như : Đạo
đức học, Luật học, Luân lí học, Xã hội học, Giáo dục học … và dựa


vào những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng Nhà nước ta trong chiến lược chăm lo phát triển nhân tố con người.
Mặt khác, nội dung môn GDCD cấp THCS còn tích hợp giáo dục cho
học sinh có những hiểu biết cần thiết về một số vấn đề có tính thời
sự, xã hội khác phù hợp với lứa tuổi các em như : Giáo dục về kĩ
năng sống, về giữ gìn vệ sinh - bảo vệ môi trường, về thực hiện
chính sách dân số - gia đình, về giới tính và sức khỏe sinh sản tuổi
vị thành niên, về phòng chống HIV/AIDS … Song, dù thực hiện ở nội
dung nào đi nữa thì vấn đề xuyên suốt và có tính xâu chuỗi các nội
dung giáo dục này lại với nhau là sự gắn kết chặt chẽ giữa kiến thức
học tập với thực tiễn cuộc sống theo những chuẩn mực đạo đức và
pháp luật được mọi người quan tâm thực hiện.
Mục đích cuối cùng của việc dạy và học môn GDCD ở cấp

THCS là làm thế nào để hướng các đối tượng học sinh có ý thức và
hành vi luôn vươn tới những giá trị chân, thiện, mĩ của cuộc sống, có
niềm tin và thói quen hành động theo những qui định, chuẩn mực
đạo đức, pháp luật của một người công dân mới trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Để thực hiện được những yêu cầu, mục tiêu của việc đổi mới
chương trình và nội dung trong dạy học môn GDCD cấp THCS nói
chung, khối lớp 6, 7 nói riêng thì vấn đề trước tiên được các cấp
quản lí giáo dục quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện là phải đổi
mới có hiệu quả về phương pháp giảng dạy ở bộ môn này nhằm đảm
bảo cho các đối tượng học sinh lĩnh hội được đầy đủ những kiến
thức, kĩ năng và có thái độ, tình cảm và lí tưởng hành động đúng
đắn, trung thực trong việc thực hiện những chuẩn mực, những giá
trị về đạo đức và pháp luật theo nội dung các kiến thức đã học, biết
phân biệt được những hành vi, thái độ “ đúng – sai “, “ tốt – xấu “
trong từng lời nói, việc làm … của bản thân và của những người
xung quanh trong thực hiện những chuẩn mục, qui định đó. Từ đó,
giúp các em có những điều chỉnh về cách ứng xử của mình phù hợp
với những quy định của pháp luật và những truyền thống, đạo lí của
dân tộc.
Song, việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở môn GDCD cấp
THCS nói chung, ở khối lớp 6,7 nói riêng không phải là sự bỏ đi
những nguyên tắc, phương pháp giáo dục truyền thống cơ bản của
bộ môn mà là sự vận dụng có chọn lọc, kế thừa và nâng lên những


phương pháp dạy học này trong điều kiện xã hội và các phương tiện
dạy học mới ngày nay thông qua lăng kính và các kĩ năng sư phạm
của người thầy để giúp cho từng học sinh có những hứng thú, ham
thích và say mê học tập một cách tích cực, tự giác và chủ động hơn.

Như Đai-ri ( nhà GD Liên Xô cũ ) đã nói : “Dạy học hay dạy bất cứ
cái gì thì điều trước tiên là đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cho
được cái thông minh, cái cảm hứng ở người học, chứ đừng bắt trí
nhớ của người học làm việc một cách máy móc, bắt nó ghi chép rồi
trả lại”. Như vậy, mục đích của việc đổi mới phương pháp giảng dạy
ở các môn học nói chung, môn GDCD nói riêng không gì khác hơn là
tạo cho học sinh có những hứng thú học tập để từ đó các em mới
thấy được sự cần thiết của việc học, biến quá trình lĩnh hội ( có sự
giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên ) thành quá trình tự lĩnh hội ( sự tự
vận động các tri giác và tâm lực của học sinh ) một cách thông
minh và sáng tạo.
2. Cơ sở thực tiễn:
Ở trường THCS Hùng Vương đa số học sinh là con em của
nhân dân lao động nghèo, cha mẹ của các em phải bươn chãi để có
miếng ăn hằng ngày. Một bộ phận phụ huynh học sinh từ nơi
khác đến hoặc đi làm thuê, mua bán xa, gia đình đổ vỡ, sống với
ông bà … nơi ở của những em này thường không ổn định, thiếu
được sự quan tâm kiểm tra, nhắc nhở của gia đình, … nên về đạo
đức, lối sống, tình cảm và suy nghĩ của các em ít nhiều đã bị những
tiêu cực, lối sống thiếu lành mạnh tác động. Từ đó, làm cho một
bộ phận học sinh của trường luôn có những biểu hiện không đúng
đắn về động cơ, thái độ học tập; một số thói hư, tật xấu như : chửi
thề, nói tục, dối trá với thầy cô, thô tục bạo hành với bạn bè …
thường xảy ra trong giờ học lẫn giờ chơi. Mặt khác, do quan niệm
của một số học sinh và phụ huynh vẫn còn coi GDCD là môn phụ,
không ảnh hưởng gì đến việc thi cử sau này nên cũng không quan
tâm, động viên và cố gắng. Mặc dù bản thân và các giáo viên
chủ nhiệm lớp có giải thích nhưng vẫn còn nhiều ý kiến chưa thật
sự đồng tình, vì theo họ : nếu gọi là môn học quan trọng thì tại
sao Nhà nước không đưa môn GDCD vào hệ thống các môn trong

các kì thi tuyển ? Với cách suy nghĩ này không chỉ có ở những học
sinh có cá tính về học tập mà ngay cả một số học sinh có học lực
khá giỏi, đạo đức ngoan hiền trong những giờ học khác thì cũng
thiếu tập trung trong giờ học môn GDCD, biểu hiện dễ thấy ở
những em này là thường nói chuyện trong giờ học, không ghi chép


bài, lơ là với lời giảng, câu hỏi của giáo viên ... Một số khác thường
xuyên có thái độ bỏ ngoài tai ở những nội dung mang tính giáo dục
về đạo đức và rèn luyện nhân cách, vì những học sinh này cho đó
là “chuyện cũ rích”, “chuyện dạy đời” nên cũng không cần chú ý.
Bên cạnh những quan niệm động cơ, thái độ không đúng đắn
trong một bộ phận học sinh về học tập bộ môn như đã vừa nêu thì
trong giảng dạy do nhiều yếu tố khác nhau, bản thân cũng như một
số giáo viên cùng giảng dạy bộ môn đôi khi cũng chưa thật sự tạo
được sự hứng thú học tập cần thiết cho học sinh trong từng giờ dạy.
Sự rập khuôn, sơ cứng trong áp dụng các phương pháp dạy học đã
tạo cho học sinh về lối mòn suy nghĩ và lĩnh hội, các tình huống
thực tế, các tục ngữ ca dao, các tranh ảnh … minh họa thiếu được
người giáo viên “ thổi hồn “ để tạo ra những hấp dẫn từ những
phương tiện dạy học này.
Từ thực trạng dạy và học ở môn GDCD nói chung, khối lớp 6,
7 nói riêng như đã nêu trên, bản thân tôi đôi lúc cũng thấy bị “ sốc
“ - nhất là khi mới về trường. Nhưng do xác định đúng đắn trách
nhiệm của một giáo viên dạy môn GDCD : một môn học có chức
năng giáo dục, rèn luyện và xây dựng nhân cách con người từ
trong lúc ngồi ghế nhà trường đã giúp tôi trụ vững và luôn trăn
trở là phải dạy như thế nào để các em có những hứng thú học tập,
ham thích phát biểu, tích cực tham gia xây dựng bài, tự giác thực
hành, ghi chép … ? Với những trăn trở như vậy, từ đầu học kì II năm

học 2008 – 2009 đến nay bản thân đã không ngừng nghiên cứu,
mày mò, trãi nghiệm ở đề tài : “ Một số biện pháp tạo hứng thú
học tập cho học sinh trong giờ học môn giáo dục công dân lớp 6,
7 “ đã thu được một số kết khả quan và xin đúc kết lại ở những việc
làm và kết quả như sau :
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI SKKN :
1. Đầu tư cho việc làm và sử dụng hợp lí hệ thống các phương tiện
giảng dạy trực quan đảm bảo tính khoa học, chuẩn xác, sinh động
và dễ hiểu:
Đây là phương pháp giảng dạy có nhiều ưu thế được hầu hết
các giáo viên sử dụng trong quá trình dạy học ở các nhà trường. Tuy
nhiên, do tính đa dạng về nội dung giáo dục của môn GDCD là xây


dựng, rèn luyện ý thức, hành vi, thái độ, nhân cách con người trên
nhiều lĩnh vực đời sống xã hội nên các phương tiện, đồ dùng giảng
dạy trực quan chưa được các cấp quản lí các đơn vị chức năng thiết
kế, cung cấp cho việc dạy và học ở bộ môn này như các môn học
khác. Để có được những loại phương tiện, đồ dùng giảng dạy trực
quan cần thiết theo yêu cầu tối thiểu của từng bài dạy, bản thân
cũng như hầu hết các giáo viên cùng dạy bộ môn phải tự làm hoặc
tự sưu tầm theo những tính toán dạy học chủ quan nên đôi lúc có
những thiếu sót về tính chính xác, chưa đảm bảo tính khoa học,
thao tác, kĩ năng khai thác, trình bày các phương tiện, đồ dùng dạy
học này cũng có những bất cập, chưa thật sự hợp lí … thậm chí đôi
khi còn làm tăng thêm tính rườm rà, phức tạp cho quá trình lĩnh hội
các tri thức của học sinh.
Thấy được những ưu và hạn chế trong sử dụng phương pháp
dạy học này, bản thân đã tiến hành những điều chỉnh để khắc
phục những sai sót, hạn chế từ khâu chuẩn bị đến kĩ năng trình

diễn các loại đồ dùng, phương tiện giảng dạy này như : tranh ảnh, sơ
đồ, mẫu chuyện … sao cho hợp lí, khoa học, chuẩn xác, sinh động
và dễ hiểu để thu hút sự tập trung, chú ý của các đối tượng học
sinh. Từ đó dẫn dắt các em đi vào nội dung của từng vấn đề, từng
lĩnh vực của bài học đặt ra. Ví dụ:
Khi dạy bài 1: “Tự chăm sóc - Rèn luyện thân thể” ở GDCD. 6,
phần giới thiệu bài tôi cho học sinh xem hình một bạn sáng thức
dâïy đúng giờ, tập thể dục và hình một bạn ngủ trễ, đi học muộn
mà tỏ vẻ không lo lắng gì và yêu cầu học sinh nhận xét và cho ý
kiến về ý thức “rèn luyện thân thể và tự chăm sóc” của 2 bạn này.


Khi dán các ảnh này lên phần bảng dành cho các hoạt động tìm
hiểu của học sinh thì lập tức các em có sự động não và cả lớp hứng
thú quan sát, trả lời. Cách dạy này, nếu nhà
trường hoặc giáo viên có điều kiện về công
nghệ thông tin ( CNTT ) thì việc trình chiếu
những hình ảnh này bằng máy hoặc đoạn
vidéo clip thì học sinh lại càng hứng thú hơn
và việc vào bài mới hiệu quả và hấp dẫn
hơn.
Tương tự như vậy, khi dạy bài 3: “Tự trọng” ở GDCD.7 cho học sinh
xem ảnh một người tật nguyền bán vé số và giới thiệu người này từ
chối không nhận tiền giúp đỡ của người qua đường, rồi đặt câu hỏi
: Vì sao người tật nguyền này không nhận tiền giúp đỡ? Do tính cụ
thể, dễ hiểu của hình ảnh với câu hỏi tinh gọn, rõ ràng đã kích
thích được sự hứng thú của nhiều học sinh giơ tay trả lời chuẩn xác
là : Vì người bán vé số có lòng “tự trọng”.
Song, khi sử dụng phương pháp dạy này giáo viên cũng cần chú ý
là những hình ảnh không được quá nhỏ (tối thiểu bằng khổ giấy

A4 đối với những ảnh đơn giản) và tránh đưa ra những hình ảnh có
quá nhiều chi tiết phụ sẽ làm cho học sinh dễ bị phân tán sự quan
sát, khó phát hiện những điểm chính mà nội dung bài học đặt ra.
2. Xây dựng hệ thống câu hỏi ở từng bài dạy phải đảm bảo tính rõ
ràng, đủ nghĩa và có chủ đích sát hợp với nội dung, phù hợp cho
từng đối tượng học sinh:
Hệ thống các câu hỏi là một phương tiện không thể thiếu trong
quá trình giảng dạy trên lớp của người giáo viên và được người
giáo viên sử dụng nó một cách linh hoạt, sáng tạo cùng với các
phương pháp dạy học khác theo đặc trưng của từng bộ môn. Xác
định được tầm quan trọng và những lợi thế của phương pháp dạy
học này nên trong quá trình thiết kế, xây dựng nội dung bài dạy
đến việc tổ chức dạy và học trên lớp thì bản thân tôi luôn quan
tâm xây dựng và khai thác tốt các tính năng ưu điểm về hệ thống
các câu hỏi trong một bài dạy dưới nhiều dạng, loại khác nhau gồm :
Loại các câu hỏi chính đưa vào bài soạn (do bản thân đặt ra
theo nội dung từng mục của bài học hoặc có trong SGK ); loại các
câu hỏi phụ để giúp học sinh phát hiện vấn đề; dạng câu hỏi mang
tính định hướng, dẫn dắt học sinh tiếp cận, nhận thức các tri thức
mới; dạng câu hỏi khêu gợi trí thông minh, sự hứng thú hoặc động


viên nhằm phát huy sự sáng tạo và tính tập trung của học sinh…Ví
dụ :
Khi dạy bài 7: “Đoàn kết, tương trợ “GDCD.7 để vào bài, tôi đọc lên
câu ca dao:
“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
rồi đặt câu hỏi vừa mang tính định hướng nhận thức, vừa có ý
khêu gợi sự hứng thú và trí thông minh của học sinh như sau : “ Em

hãy cho biết ý nghĩa của câu ca dao trên là đề cao tinh thần gì ?
“.Khi câu hỏi kết thúc thì nhiều cánh tay của học sinh giơ lên xin
phát biểu. Và khi gọi thì nhiều em phát biểu rất chính xác là đề cao
tinh thần “ đoàn kết, tương trợ “ của nhân dân ta.
Hoặc để giúp học sinh tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa của sự “ đoàn
kết, tương trợ “ trong bài dạy này, bản thân tổ chức cho học sinh
từng lớp tiến hành thảo luận nhóm xoay quanh các dạng câu hỏi sau
. Ví dụ cho học sinh:
+ Nhóm 1: Thảo luận để chỉ ra những việc làm chứng tỏ “đoàn kết,
tương trợ” sẽ giúp con người dễ dàng hòa nhập, hợp tác với mọi
người xung quanh hơn ?
+ Nhóm 2: Thảo luận để chỉ ra những việc làm chứng tỏ “đoàn kết,
tương trợ” sẽ tạo ra sức mạnh, giúp con người vượt qua khó khăn
hoàn thành tốt mục tiêu đã định?
+ Nhóm 3: Thảo luận tìm ra những sự kiện, những việc làm trong
lịch sử và trong thực tế để chứng tỏ “ đoàn kết, tương trợ “ là truyền
thống quý báu của dân tộc ?
Do những nội dung của những câu hỏi này đã có trong phần ý
nghĩa của bài học nên vấn đề còn lại là học sinh chỉ cần nêu được
càng nhiều việc làm cụ thể và càng nhiều sự kiện lịch sử thể hiện
tinh thần và truyền thống “ đoàn kết, tương trợ “ của nhân dân ta là
đủ.
Với những dạng, loại câu hỏi này vừa kích thích sự tái hiện những
kiến thức, những việc làm nói về “ đoàn kết, tương trợ “ mà các em
đã học, đã biết và vừa gây cho các em có sự hứng thú cần thiết
trong rèn luyện kĩ năng lập luận, thuyết trình ... Từ đó giúp học sinh


khắc sâu hơn về những kiến thức đã học trong phần khái niệm của
bài, làm nền tảng cho các em vươn tới những việc làm tốt đẹp thể

hiện rõ hơn về trách nhiệm của người công dân ở tương lai trong giữ
gìn và phát huy truyền thống quý báu này.
Việc sử dụng những dạng, loại câu hỏi này, vấn đề cần lưu ý là ở
những câu hỏi có yêu cầu học sinh tái hiện lại những việc làm đã
qua hay những sự kiện lịch sử thì có thể học sinh gắp những khó
khăn, không tái hiện được đầy đủ hoặc chính xác ngay trên lớp. Do
đó, đòi hỏi người giáo viên cần phải chuẩn bị những loại câu hỏi phụ
hoặc hình ảnh mang tính gợi ý để giúp các em dễ tái hiện hơn.
Hay, khi dạy bài 11 : “Mục đích học tập của học sinh “ ở GDCD.6.
Nhằm để phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh sau
khi cho học sinh tìm hiểu nội dung và ý nghĩa của truyện đọc về ”
Tấm gương của một học sinh nghèo vượt khó “ trong SGK thì bản
thân nêu ngay câu hỏi : “Mục đích học tập của em là gì ?” để tạo sự
tập trung, động não của học sinh. Với dạng câu hỏi này, nhiều học
sinh trả lời rất thật về mục đích học tập của mình cộng với những lời
ngợi khen, nhận xét và chuyển mạch rõ ràng của giáo viên tạo cho
lớp học có bầu không khí phấn khởi bước vào bài học mới.
Tóm lại, việc sử dụng hệ thống các câu hỏi trong giảng dạy môn
GDCD lớp 6, 7 nếu được người giáo viên khai thác một cách hợp lí thì
dễ tạo cho học sinh những hứng thú học tập, kích thích sự tích cực,
tự giác và chủ động ở các em nhiều hơn do tính dễ điều chỉnh độ
khó, dễ của nó. Hệ thống các câu hỏi trong giảng dạy môn GDCD
thường ở các dạng, loại sau:
Thứ nhất là loại câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm hiểu khái niệm của một
chuẩn mực đạo đức hay qui định nào đó của pháp luật. Loại câu hỏi
này thường được xây dựng dưới 1 trong 3 hình thức sau : Hình thức
thứ nhất là yêu cầu học sinh hãy trình bày khái niệm về một chuẩn
mực đạo đức hay qui định nào đó của pháp luật; Hình thức thứ hai
hỏi về một chuẩn mực đạo đức hay qui định nào đó của pháp luật
là gì; Hình thức thứ ba hỏi về một chuẩn mực đạo đức hay qui định

của pháp luật nào đó là thế nào. Tùy nội dung của mỗi định nghĩa
về chuẩn mực đạo đức hay quy định của pháp luật mà người ta sẽ
sử dụng 1 trong 3 loại câu hỏi này. Ví dụ:


Khi dạy bài 10: “Tích cực, tự giác trong hoạt động tập thể và hoạt
động xã hội” (GDCD. 6 ) thì hỏi : Em hãy trình bày khái niệm về tích
cực, tự giác trong … xã hội?
Hoặc: Khi dạy bài 12: “Sống và làm việc có kế hoạch” (GDCD.7) thì
hỏi: Thế nào là sống và làm việc có kế hoạch?
Hay: Dạy bài 14: “Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên”
(GDCD.7) thì hỏi: Môi trường là gì? Tài nguyên thiên nhiên là gì?
Thứ hai là loại câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm hiểu ý nghĩa về một
chuẩn mực đạo đức hay qui định của pháp luật. Loại câu hỏi này
thường được thể hiện dưới 1 trong 3 hình thức sau:
Hình thức thứ nhất là hãy trình bày ý nghĩa. Ví dụ: Hãy nêu ý
nghĩa của việc “ Giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia
đình, dòng họ? “(Bài 10 - GDCD.7)
Hình thức thứ hai là hỏi vì sao hoặc tại sao phải thực hiện về một
chuẩn mực đạo đức hay qui định nào đó của pháp luật. Ví dụ : Vì sao
chúng ta sống phải có tư tin? (Bài 11 – GDCD.7). Hay: Tại sao chúng
ta phải sống và làm việc có kế hoạch? (Bài 12 - GDCD.7)
Hình thức thứ ba là hỏi về sự ích lợi của việc thực hiện về một
chuẩn mực đạo đức hay qui định của pháp luật nào đó. Ví dụ : “
Tiết kiệm sẽ có những lợi ích gì ( hay lợi ích nào ) cho đất nước, cho
gia và cho bản thân ? “ ( Bài 3 – GDCD.6 )
Thứ ba là loại câu hỏi khơi dậy hay xác định ý thức trách nhiệm
của người công dân, của người học sinh trong việc thực hiện những
vấn đề về một chuẩn mực đạo đức hay qui định của pháp luật. Ví
dụ: Dạy bài 16: “Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo” (GDCD.7) hỏi:

“ Mọi người phải làm gì để thể hiện đúng đắn về quyền tự do tín
ngưỡng và tôn giáo? “Hay dạy ở bài 15: “Quyền và nghĩa vụ học tập”
(GDCD.6) hỏi : “Học sinh có bổn phận gì để thực hiện tốt quyền và
nghĩa vụ học tập của mình?”
3. Tổ chức tốt các hoạt động thi đua học tập tạo cho học sinh có
những hứng thú trong giờ học GDCD:


Xác định thi đua là động lực thúc đẩy mọi nỗ lực của con người
hướng tới mục tiêu một cách hoàn thiện và nhanh nhất. Vì thế, bản
thân luôn chú trọng tổ chức tốt các hình thức thi đua học tập cho
học sinh trong giờ học môn GDCD thông qua các trò chơi tiếp sức,
thi tuyên truyền viên giỏi, thi ứng xử lịch sự, tế nhị, văn minh …
Để việc thực hiện phương pháp dạy này có hiệu quả và gây được
hứng thú học tập cho các đối tượng học sinh, bản thân đã đầu tư tốt
cho từng khâu chuẩn bị từ nội dung chương trình đến hình thức,
thời gian thực hiện sao cho phù hợp với từng loại hình, thực hiện tốt
khâu giao nhiệm vụ và dặn dò cụ thể cho từng nhóm học sinh chuẩn
bị trước ở nhà. Trong mỗi giờ dạy, bản thân thường sử dụng thời
gian củng cố bài để thực hiện công việc này. Ví dụ : Sau khi dạy
xong phần nội dung của bài 4 : “ Lễ độ “ ( GDCD.6 ) tôi chia lớp
thành 2 đội chơi trò chơi tiếp sức : Mỗi em trong mỗi đội chỉ viết lên
bảng ở ô dành cho đội mình một biểu hiện nói về giao tiếp, ứng xử
có lễ độ và văn minh trong vòng 5 phút đội nào viết được nhiều
biểu hiện đúng thì đội đó thắng, những em tham gia trò chơi thì
được cộng 1 điểm vào cột điểm thực hành. Do tính ràng buộc của
việc được cộng thêm điểm nên học sinh ở mỗi đội đều hăng hái
chuẩn bị và sôi nỗi nối tiếp nhau giành phần thực hiện trò chơi.
Nhờ thực hiện tốt các hoạt động thi đua này đã giúp học sinh khắc
sâu hơn về những kiến thức đã học, đồng thời giúp các em rèn

luyện tốt những kĩ năng theo mục tiêu của bài học đặt ra.
4. Khai thác tối đa các lợi thế của những bài tập tình huống và ý
nghĩa của những câu cao dao, tục ngữ để làm tăng thêm tính hấp
dẫn trong giáo dục tư tưởng và hình thành nhân cách tốt đẹp cho
các đối tượng học sinh:
Như chúng ta đã biết, vấn đề xuyên suốt trong nội dung của môn
GDCD cấp THCS nói chung và ở lớp 6, 7 nói riêng là sự gắn bó chặt
chẽ giữa kiến thức với những giá trị đạo đức, pháp luật đã và đang
diễn ra trong cuộc sống. Vì thế, trong tiến trình chuẩn bị và giảng
dạy bản thân tôi luôn chú trọng khai thác đúng mức những lợi thế
của các bài tập tình huống và ý nghĩa của những câu ca dao, tục ngữ
có trong SGK và trong đời sống để làm tăng thêm tính hấp dẫn, thu
hút học sinh học tập tốt hơn. Ví dụ:


Trong dạy bài : “ Biết ơn “ ( GDCD.6 ) tôi kể cho học sinh nghe về
một tình huống: “Hải và Bình là hai bạn thân học cùng lớp 6A, Hải
là con nhà nghèo và luôn được sự giúp đỡ của Bình như: quá giang
xe, hỗ trợ bút, tập … Một hôm vào giờ kiểm tra môn toán, Bình
không làm được bài, đến lúc sắp hết giờ Bình giật bài của Hải chép,
Hải cương quyết không cho. Khi tan học về, Bình không cho Hải quá
giang xe nữa và còn mắng Hải là đồ vô ơn. Và tôi nêu câu hỏi:
a) Việc Hải không cho Bình chép bài làm kiểm tra ở môn Toán có
phải Hải là người vô ơn không? Vì sao?
b) Nếu em là Hải thì cần phải làm những gì để Bình hiểu mình là
không vô ơn? Từ những tình tiết của câu chuyện và hai câu hỏi
được nêu ra đã tạo trong học sinh có ngay 2 luồng suy nghĩ trái
ngược và tranh luận nhau : Một số em cho là Bình đúng, còn một
số đông khác thì cho Hải là người không vô ơn … và bầu không khí
tranh luận, học tập của lớp học trở nên hào hứng và sôi nỗi. Để giúp

cho các em có nhận thức đúng đắn và kết thúc tranh luận, bản
thân đã đưa ra lời giải đáp dựa trên những chuẩn mực đạo đức và
nội qui học tập, kiểm tra của nhà trường đối với học sinh. Qua việc
vận dụng tình huống trong giảng dạy môn GDCD lớp 6, 7 bản thân
đã thấy rõ ở đa số các học sinh là thấy được những lợi ích của việc
học tập ở bộ môn này và luôn cố gắng học tập tốt.
Cũng trong dạy bài : “Biết ơn” để giáo dục tư tưởng về phát huy
những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, của gia đình … tôi
nêu lên những câu ca dao, tục ngữ để cho các em tìm hiểu và nói
lên ý nghĩa. Chẳng hạn:
Ca dao : “Dù ai đi ngược về xuôi; Nhớ ngày giổ Tổ mùng mười, tháng
ba” Tục ngữ : “Ăn trái nhở kẻ trồng cây”; Hay: “Uống nước nhớ
nguồn” .v.v. Qua việc khai thác về ý nghĩa và tính tươi mát, êm dịu,
nhẹ nhàng từ vần,điệu trong các câu ca dao, tục ngữ này vừa gần
gũi với sự hiểu biết của các em, vừa tạo thêm sự phong phú và tính
hấp dẫn cho nội dung bài học, giúp học sinh thích thú học tập nhiều
hơn.
5. Tăng cường gắn kết các nội dung bài học với các hoạt động tổ
chức thực hành của học sinh qua việc làm các bài tập, hoạt động
sắm vai, sưu tầm tư liệu và giới thiệu về gương người tốt, việc tốt để
các em tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên :


Tổ chức cho học sinh thực hành các nội dung bài học là một yêu
cầu không thể thiếu trong bất kì hình thức hay loại hình giáo dục
nào. Ở môn GDCD cấp THCS nói chung, khối lớp 6, 7 nói riêng thì
việc tổ chức cho học sinh thực hành về các kĩ năng sống ( giao tiếp,
ứng xử, sinh hoạt, lễ nghi … ) theo những chuẩn mực đạo đức và
các qui định của pháp luật mà các em đã học lại càng có ý nghĩa
và vai trò đặc biệt vô cùng. Bởi vì đây là một môn học có chức

năng, nhiệm vụ rèn luyện và hình thành nhân cách các đối tượng
học sinh, giúp cho các học sinh luôn có những đức tính và thói
quen tốt đẹp, phấn đấu vươn tới những giá trị chân, thiện, mĩ từ khi
các em còn ngồi học trên ghế nhà trường. Có thể cụ thể hơn là chỉ
thông qua các hoạt động thực hành thì người giáo viên mới có đủ
cơ sở để đánh giá đầy đủ về ý thức và sự hiểu biết của học sinh về
các vấn đề đã học. Đồng thời thực hành cũng là thước đo để
người giáo viên nắm biết được thái độ, tình cảm và lối sống của mỗi
học sinh trong thực hiện các chuẩn mực đạo đức và các qui định
của pháp luật một cách trung thực và tế nhị nhất. Với ý nghĩa và sự
tác dụng của thực hành như vậy, trong từng bài dạy bản thân luôn
chú trọng khai thác đúng mức việc hướng dẫn và tổ chức cho các
đối tượng học sinh làm tốt các bài tập thực hành, các tình huống,
các sự kiện, thông tin trong SGK. Mặt khác, bản thân còn tổ chức cho
học sinh các lớp hoặc trong cùng khối thi đua trình bày, giới thiệu
về những sản phẩm tự làm, tự sưu tầm được như : tranh ảnh; mẩu
chuyện “ người tốt – việc tốt “; các sự kiện, thông tin, hò, vè và các
tư liệu khác có liên quan đến nội dung bài học hay nằm trong nhóm
chủ đề tuyên truyền, giáo dục của nhà trường và xã hội.
Ví dụ:
Trước khi dạy bài : “Lịch sự, tế nhị” (GDCD.6), trong phần dặn dò
cuối bài “ Sống chan hòa với mọi người” thì bản thân phân cho học
sinh mỗi nhóm (6 - 8 em) về nghiên cứu, luyện đọc diễn cảm nội
dung phần tình huống trong SGK (trang 21) theo cách phân vai (1
em đọc lời dẫn, 1 em đóng vai thầy Hùng, 1 em đóng vai bạn Tuyết
và những em còn lại đóng vai các bạn đi học trễ) để tiết học sau các
nhóm lên bắt thăm xem nhóm nào phải thể hiện tình huống. Mỗi
học sinh trong nhóm được cộng thêm vào điểm thực hành : 2 điểm
nếu thể hiện tốt, 1,5 điểm nếu thể hiện khá và 1 điểm nếu thể
hiện đạt yêu cầu. Do không biết trước nhóm nào phải thể hiện tình

huống nên tất cả học sinh ở mỗi nhóm đều cố gắng rèn luyện tốt


phần vai diễn của mình và khi vào tiết học thì tất cả học sinh đều
phấn khởi và đại diện mỗi nhóm hăng hái lên bốc thăm. Một ràng
buộc khác là các thăm chỉ được mở ra cùng lúc làm cho khí thế lớp
học lại càng vui nhộn lên.
Khi đến phần trả lời câu hỏi gợi ý, do từng em có sự chuẩn bị trước
nên không khí xung phong, hồ hởi xin phát biểu của học sinh lại
càng sôi nỗi hơn.
Hay trước khi dạy bài : “Tìm hiểu về HIV/AIDS” (tiết 16 - PPCT ở
GDCD.7 thuộc phần mềm giáo dục về các vấn đề địa phương - Sở
ban hành). Bên cạnh bản thân đã chuẩn bị tốt cho tiết dạy bằng
ứng dựng CNTT thì kết hợp với chủ điểm tuyên truyền “Tháng
hành động về phòng chống HIV/AIDS” và “Tháng bộ môn
Sử,Địa,GDCD” của nhà trường tổ chức bản thân tôi cũng cho học
sinh thi tìm hiểu về HIV/AIDS bằng sưu tầm những hình ảnh và sinh
hoạt dưới cờ... tạo ra không khí thực hành sôi nỗi trong thầy và trò
nhà trường. Nhân việc đúc kết đề tài này, tôi xin giới thiệu một số
hình ảnh mà học sinh khối 6, 7 sưu tầm và bản thân tôi chọn và sắp
xếp lại theo nội dung của bài “ Tìm hiểu về HIV/AIDS “ như dưới đây :


Tuy nhiên, để việc thực hành các vấn đề đạo đức và pháp luật của
học sinh theo từng nội dung bài dạy được kết quả tốt thì điều trước
tiên của người giáo viên dạy môn GDCD phải có sự đầu tư thích đáng
trong từng khâu chuẩn bị. Biết lường trước những khó khăn, những
tình huống có thể dẫn đến sự kém hiệu quả của việc tổ chức học
sinh thực hành để có những phương án dự phòng, xử lí.
III. KẾT QUẢ:

1. Đối với học sinh: Ngoài những tiến bộ tích cực của học sinh
được nêu trong từng biện pháp thì chất lượng học tập bộ môn của
các em cũng đem lại những kết quả khả quan được thống kê như
sau :


2. Đối với giáo viên: Tuy quá trình đầu tư cho từng tiết dạy có công
phu và vất vả hơn nhưng hiệu quả trên từng tiết dạy trên lớp là rất
khích lệ; ít hao tốn công sức cho việc ổn định và nhắc nhở học sinh,
sự thể hiện một tiết dạy luôn được trôi chảy, nhẹ nhàng hơn; tâm lí
lên lớp không bị “ sốc “ và bớt căng thẳng so với trước khi áp dụng
đề tài.
IV. MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐÚC KẾT ĐƯỢC:
1. Những kinh nghiệm đưa đến thành công:
Trước tiên là phải xây dựng được chương trình thực hiện những
công việc phải làm ( 06 việc chính đã nêu ở phần II ) trong quá trình
định hướng nghiên cứu và trải nghiệm đề tài; phải thường xuyên
cập nhật tiến độ thực hiện và những thành công, những việc làm
chưa hiệu quả để kịp thời xem xét điều chỉnh, bổ sung các biện pháp
phù hợp với thực tiễn dạy và học.
Nắm vững nội dung, mục tiêu của từng bài dạy, tiết dạy và mục dạy;
chăm chút và đầu tư thích đáng trong khâu thiết kế bài soạn, khai
thác tối đa những lợi thế của đổi mới các phương pháp dạy học bộ
môn – nhất là khai thác việc gắn chặc các nội dung kiến thức bài học
với việc sử dụng các phương tiện giảng dạy trực quan, xây dựng hệ
thống các câu hỏi, tổ chức thi đua và thực hành các tình huống ...


Việc tổ chức các hình thức học tập cho học sinh phải có sự hướng
dẫn rõ ràng, cụ thể - nhất là việc tự học, tự hành của học sinh ở

nhà. Không nên thực hiện cách dặn dò theo cách chung chung,
chẳng hạn : Các em về xem hoặc đọc trước bài A, bài B … để tuần
sau ta học, vì các em tuổi còn nhỏ, khả năng trí nhớ chưa bền và còn
ham chơi.
Trong giáo dục tư tưởng, thái độ và rèn luyện nhân cách, hành vi,
lối sống của học sinh theo yêu cầu của từng bài dạy thì phải có sự
chắc lọc, linh hoạt và nhẹ nhàng gắn kết với những câu ca dao,
tục ngữ, với việc thật, người thật gần gũi với cuộc sống và sinh
hoạt của các em. Tránh đưa các em vào những vấn đề mà đa số
chưa hiểu biết hay chưa thấy sẽ làm cho các em bị hẫng hụt về
nhận thức dẫn đến thiếu tự tin.
Lời nói, tác phong, phẩm chất và lối sống của giáo viên trong giờ
lên lớp và trong cả cuộc sống đời thường phải luôn trung thực, lành
mạnh và gần gũi, thân thiện với học sinh và mọi người. Tận tụy lao
động, sáng tạo và nhiệt tình dìu dắt giúp đỡ các em.
2. Những yếu tố dẫn đến những hạn chế, chưa thành công:
Việc tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học môn GDCD ở
lớp 6, 7 là một chuỗi các vấn đề thuộc về nghệ thuật sư phạm của
người thầy, nên khi thực hiện, áp dụng đề tài này không sao tránh
khỏi những hạn chế, khó khăn thường gặp phải như sau:
- Không thể tạo nên sự hứng thú cho học sinh đối những nội dung
bài học cùng lúc phải giải quyết nhiều vấn đề hay nhiều lĩnh vực
trong một khái niệm hay một ý nghĩa của bài.
- Khó phát huy tính hứng thú ở học sinh về những vấn đề mang tính
giáo dục để sửa chữa nhận thức, thái độ, uốn nắn và điều chỉnh các
hành vi sai trái.
- Rất khó thành công trong sử dụng đề tài này đối với các giáo viên
mới vào ngành, thiếu yếu về vốn sống, kinh nghiệm giảng dạy và
các kiến thức cơ bản ở các môn học khác có liên quan.



- Chưa thu đạt nhiều kết quả ở những đối tượng học sinh thiếu sự
quan tâm, động viên của gia đình và một vài học sinh có cá tính, lối
sống buông thả.
3. Hướng mở rộng và phát triển SKKN:
Do đặc thù “hứng thú” là trạng thái tâm lí phấn khởi của con
người trước các sự vật, hiện tượng khách quan. Nó tạo ra trong mỗi
con người một cảm giác hưng phấn và trở thành động lực thôi thúc
trong mỗi con người vượt qua những giới hạn để hành động vươn tới
những gì họ muốn. Trong dạy học cũng vậy, điều mà bất cứ người
giáo viên nào cũng muốn là tạo cho mỗi học sinh của mình có được
những hứng thú học tập cần thiết, nên SKKN này có thể nghiên cứu
vận dụng và phát triển nó trong dạy các môn học khác ở trường
phổ thông – nhất là ở môn GDCD với những mức độ cao thấp, rộng
hẹp khác nhau tùy vào khả năng, nghệ thuật của mỗi người thầy
và các điều kiện, phương tiện cũng như thực trạng học tập của học
sinh ở mỗi trường nếu như người giáo viên chịu khó đầu tư thích
đáng cho các biện pháp đổi mới cách dạy, đổi mới cách nhìn và
phương pháp đánh giá học sinh, khắc phục tốt những hạn chế,
khuyết điểm như đã nêu trong phần những yếu tố chưa thành
công.
C. KẾT LUẬN:
Tóm lại, việc nghiên cứu, trải nghiệm đề tài SKKN về “Một số
biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học GDCD
lớp 6, 7” mà bản thân đã thực hiện trong hơn 2 học kì qua ở trường
THCS Hùng Vương - TPLX bước đầu đã thu được những kết quả khả
quan và đầy khích lệ. Nó không chỉ có tác dụng nâng cao chất
lượng dạy và học của bộ môn trong những lớp bản thân dạy mà còn
góp phần bồi dưỡng và làm chuyển biến rõ nét về những phẩm chất
đạo đức, lối sống và lí tưởng của nhiều đối tượng học sinh nhà

trường. Đa số trong các đối tượng học sinh đều thể hiện tốt trong lối
sống và hành vi, có ước mơ và hoài bão học tập để trở thành
những người công dân tốt của quê hương Bác Tôn và của đất nước
sau này. Việc thực hiện các biện pháp dạy học tạo hứng thú học tập
trong giờ học môn GDCD ở khối lớp 6, 7 của bản thân trong thời gian
qua còn thể hiện khá sinh động về sự tương tác trong đổi mới các
phương pháp dạy học giữa thầy và trò, phát huy khả năng độc lập
suy nghĩ, chủ động, tích cực lĩnh hội kiến thức một cách sáng tạo và


hiệu quả của nhiều đối tượng học sinh, đẩy lùi thói quen ỷ lại, dựa
dẫm, rụt rè, nhút nhát, trông chờ vào những gì giáo viên cung cấp.
Với SKKN này, tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé của mình vào
phong trào chung về đổi mới phương pháp giảng dạy và tổ chức
học tập của nhà trường – nhất là ở bộ môn GDCD. Qua đó, từng giáo
viên tích cực chung tay đưa chất lượng dạy và học cũng như các
hoạt động khác của nhà trường ngày một tốt hơn. Về bản thân, tôi
hứa là sẽ tiếp tục phát huy những ưu điểm, mặt tích cực của SKKN
này, đồng thời không ngừng nghiên cứu cải tiến, vận dụng thêm
nhiều biện pháp để khắc phục có hiệu quả những yếu tố dẫn đến
sự hạn chế, chưa thành công.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, những tác nghiệp
của tổ chuyên môn và quí đồng nghiệp trong cụm, trong hội đồng
bộ môn đã cho tôi nhiều kinh nghiệm quí báu trong thời gian qua.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu trường THCS Hùng Vương đã giúp đỡ và
tạo điều kiện cho tôi được tiếp tục giảng dạy bộ môn này ở khối
lớp 6,7 để tôi hoàn thành được việc nghiên cứu, trải nghiệm và đúc
kết thành công ở đề tài này.
Rất mong sự góp ý, trao đổi của quý thầy, cô và Hội đồng giám
khảo các cấp để tôi có thêm cơ sở lí luận và thực tiễn hầu bổ sung,

cải tiến và hoàn thiện hơn SKKN này trong thời gian tới./.



×