Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN một số kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.04 KB, 25 trang )

1. Mở đầu
1.1 . Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất
quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn
học. Đây là dạng văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình
thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh
giá của con người. Với đặc trưng của mình, những bài văn miêu tả làm cho
tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp ta cảm nhận được văn học và
cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Chính vì thế, văn miêu tả được đưa
vào trường Tiểu học từ rất sớm ( ngay từ lớp 2). Đề tài của văn miêu tả với các
em là những gì gần gũi, thân quen với thế giới trẻ thơ, các em có thể quan sát
được một cách dễ dàng, cụ thể như: chiếc cặp, cái bàn, những vườn cây ăn quả
mình u thích, những con vật ni trong nhà, những cảnh vật xung quanh các
em, những con người thân quen với các em như bạn bè, thầy cơ, người thân...Vì
vậy, dạy tốt phân mơn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói
riêng là vấn đề được nhiều giáo viên Tiểu học quan tâm. Qua thực tế, nhiều
năm giảng dạy lớp 4, tôi hiếm khi phát hiện thấy học sinh giỏi môn Văn. Tại
sao học sinh giỏi tập làm văn lại hạn chế nhiều như vậy, trong khi Tiếng Việt
là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa trịn một tuổi đã biết nói, năm,
sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt ? Chúng ta tự hào Tiếng Việt ta
phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng
một thực tế lại rất buồn vì học sinh giỏi Tiếng Việt nói chung, phân mơn Tập
làm văn nói riêng còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số
học sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan,
nghèo nàn về từ, diễn đạt ý rườm rà, tối nghĩa. Cách dùng từ đặt câu chưa phù
hợp, viết câu cịn rời rạc, chưa liên kết, thiếu lơgíc, chưa sáng tạo. Bố cục bài
văn chưa rõ ràng, cách chấm câu, cách sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh chưa linh
hoạt, chưa sinh động. Mặt khác, một số em còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp
dụng một cách máy móc, chưa biết sử dụng bài văn mẫu để hình thành lối hành
văn riêng của mình, biến lời văn người khác thành cách diễn đạt của mình. Phần
lớn các em dùng lời hướng dẫn của giáo viên để viết bài văn của mình một cách


rập khn, máy móc. Do đó, bài văn chưa đạt hiệu quả cao. Là một giáo viên
đứng lớp nhiều năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em
học sinh lớp 4 học tốt phân môn Tập làm văn nhất là văn miêu tả ?
Với những lí do trên nên tơi đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Một số kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đối với học sinh lớp 4:
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu lốt,
mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, biết trân trọng những gì xung quanh các em.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
Đối với giáo viên:
1


- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận
dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tòm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy TLV
nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tương nghiên cứu: Trong đề tài này tơi tìm hiểu một số ngun nhân
dẫn đến chất lượng dạy phân môn Tập làm văn ( văn miêu tả) đạt hiệu quả thấp
và nêu một số kinh nghiệm nhằm khắc phục những tồn tại đó góp phần nâng
cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
- Sách giáo khoa, sách giáo viên môn Tiếng Việt lớp Bốn bậc Tiểu học.
Trọng tâm là các bài luyện viết đoạn văn, bài văn miêu tả .
- Học sinh lớp 4B trường tôi công tác.

1.4.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, quan sát : Khảo sát (sách giáo khoa, sách giáo
viên, vở bài tập, vở trắc nghiệm, sách bồi dưỡng, chuyên đề bồi dưỡng)- Tiếng
Việt lớp 4; các bài làm của học sinh.
- Phương pháp phân tích : Phân tích nội dung sách giáo khoa, những phần
luyện viết đoạn văn, bài văn; phân tích các đoạn văn, bài văn do học sinh viết.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm tổng hợp: Tổng hợp những yêu cầu,
những kiến thức liên quan đến viết đoạn văn, bài văn.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy
học tích cực, giúp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả trong phân môn Tập làm
văn lớp 4.
2. Nội dung sáng kiến
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Để thực hiện được mục tiêu trên thì chất lượng dạy học trong mỗi nhà
trường Tiểu học là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Chất lượng dạy học ấy phải
được thể hiện bằng chất lượng toàn diện của các mơn học: Tốn, Tiếng Việt, Tự
nhiên-xã hội, Nghệ thuật, trong đó mơn Tiếng Việt là một mơn học đặc biệt gồm
nhiều phân môn, ở mỗi phân môn cụ thể lại có nội dung, phương pháp, cách
thức dạy học khác nhau nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau: Phân môn này
chuẩn bị hỗ trợ cho phân môn kia và ngược lại để cùng nhằm đạt được mục tiêu
của môn Tiếng Việt ở Tiểu học đó là: “Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ
năng sử dụng tiếng Việt: Nghe, nói, đọc, viết, để học tập và giao tiếp trong các
môi trường họat động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt góp
phần rèn luyện các thao tác của tư duy hay cung cấp cho học sinh những kiến
thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên, con
người, về văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngồi. Bồi dưỡng tình u tiếng
Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt góp
phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (1). Học tốt
Tiếng Việt sẽ giúp học sinh khám phá tìm hiểu về thế giới xung quanh một cách

sâu sắc hơn, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ của
phân môn Tập làm văn: Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong q trình
2


dạy học tiếng mẹ đẻ bởi vì đây là phân mơn sử dụng và hồn thiện một cách
tổng hợp các kiến thức và kỹ năng tiếng Việt mà các phân mơn Tiếng Việt khác
nhau Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu đã hình thành. Phân
mơn Tập làm văn rèn cho học sinh kỹ năng sản sinh ngơn bản, nhờ đó tiếng Việt
khơng chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành
một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Phân môn Tập làm văn dạy học sinh sử dụng
được Tiếng Việt để giao tiếp, tư duy học tập.Nhiệm vụ cơ bản của dạy học Tập
làm văn là giúp cho học sinh tạo ra được các ngơn bản nói và viết theo các
phong cách khác nhau do chương trình quy định, nói cách khác, nhiệm vụ của
dạy học Tập làm văn là hình thành, phát triển năng lực tạo lập ngơn bản ở học
sinh. Năng lực tạo lập ngôn bản được phân tích thành các kĩ năng bộ phận như:
xác định mục đích nói, lập ý, triển khai ý thành lời dưới dạng nói, viết thành câu,
đoạn, bài. Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn là cung cấp cho học sinh những
kiến thức và hình thành, phát triển ở các em những kĩ năng này.
Ở Tiểu học, phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn các kĩ năng nói theo
các nghi thức lời nói, nói, viết các ngơn bản thơng thường, viết một số văn bản
nghệ thuật. Ngồi các kĩ năng chung để viết văn bản, mỗi loại văn bản cụ thể đòi
hỏi cã những kĩ năng đặc thù. Chẳng hạn: Để viết văn bản miêu tả cần có kĩ
năng quan sát, kĩ năng diễn đạt một cách có hình ảnh… Và phân mơn Tập làm
văn cũng đồng thời góp phần rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách cho học
sinh. Thể hiện rất rõ khi học văn miêu tả (từ một chú chim họa mi, chú gà trống,
chị thỏ nâu… qua bài học đã tạo cho học sinh có sự hiểu biết, tình cảm u mến
gắn bó con người với thiên nhiên và vạn vật xung quanh, từ đây tâm hồn và
nhân cách của các em được hình thành và phát triển).
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

* Thuận lợi
Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác chuyên mơn có hiệu
quả, nâng cao tay nghề cho giáo viên.
Tổ chuyên môn đã tổ chức chuyên đề dạy học TLV lớp 4+5.
Giáo viên đều được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách
tham khảo, các phương tiện dạy học như máy chiếu để dạy bằng điện tử…Đội
ngũ giáo viên có năng lực, yêu nghề đã áp dụng phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh linh hoạt và hiệu quả.
Từ lớp 2, 3 học sinh được tập quan sát và trả lời câu hỏi để làm quen với
văn miêu tả, đã biết cách luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm
lĩnh tri thức.
Đối tượng miêu tả khá gần gũi với học sinh nông thôn (cây bàng, con gà,
…).
Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu
cảm xúc vá sức sáng tạo. Thế giới của các em là thế giới cổ tích. Những đồ vật,
con vật, cây cối là những người bạn thân thiết, gần gũi mà các em có thể tâm tư,
chia sẻ tình cảm của mình. Đặc điểm tâm lí này rất thuận lợi cho việc khơi gợi ở
các em những cảm xúc miêu tả bất ngờ, thú vị,…
* Khó khăn

3


Như ta đã biết, sản phẩm của TLV là các ngơn bản ở dạng nói, dạng viết
theo các dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định. Sản phẩm của việc
học văn miêu tả thường ở dạng viết. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hố,
văn minh của một người, đối với học sinh, chứng tỏ tư duy logic, tư duy hình
tượng đã phát triển ở một mức độ nhất định.
Nhưng lên lớp 4, các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết
thành bài văn hồn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngơn ngữ của các em còn hạn chế.

Mỗi bài văn miêu tả hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ
diễn đạt thật sinh động. Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả
chưa hay hoặc sắp xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa
gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép một cách sống sượng bài văn mẫu. Vậy
nguyên nhân tại đâu? Đó là điều trăn trở của tôi cũng như các giáo viên khác
trong khối.
Chính vì vậy, trong q trình giảng dạy, tơi đã ln tìm tịi, tham khảo tài
liệu, trao đổi với đồng nghiệp giàu kinh nghiệm, để nắm bắt những phương pháp
tối ưu nhất phục vụ quá trình giảng dạy.
Mỗi bài văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sự đúc kết
việc tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học. Đọc một số bài văn của học
sinh, ta có thể thấy ngay được kết quả của việc dạy và học.
Điều tra chất lượng viết văn miêu tả của học sinh lớp 4B tôi chủ nhiệm
cuối HKI năm học này có số liệu cụ thể như sau:
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Số học Hoàn thành tốt
Lớp
sinh SL
%
SL
%
SL
%
4B
36
5
13.9
27
75

4
11.1
* Một số lỗi thường gặp học sinh lớp 4 thường gặp khi viết bài văn miêu tả
- Bài văn ngắn, câu cụt, kể lể, ít hình ảnh,…VD: Đầu Mi Mi trịn như quả
cam. Hai tai vểnh lên ln nghe ngóng động tĩnh. Đơi mắt trịn, to, trong suốt
như thuỷ tinh. Chiếc mũi nho nhỏ, phơn phớt hồng, lúc nào cũng ươn ướt. Lơ
thơ hai bên là mép cong, ria trắng như cước.
Đoạn văn như vậy được coi là tạm được vì đúng ý. Câu văn rõ nghĩa.
Nhưng miêu tả như vậy chỉ cần vài câu là tả xong một đồ vật, một cây. Và nó
cũng rất chung chung, khơng làm nổi bật được nét riêng của con mèo.
- Đọc bài văn miêu tả của các em, ta còn thấy sự khô khan, nghèo cảm xúc,
sự liệt kê lan man, dài dịng, lủng củng, lộn xộn, khơng lột tả được đối tượng
miêu tả, đơi khi cịn bịa đặt.
- Nhiều em muốn bắt chước cho bài văn hay hơn đã sử dụng biện pháp so
sánh, nhân hoá một cách tuỳ tiện. VD: Quả bàng to như con lợn con.
- Hình thức câu lặp lại nhiều lần: Mắt của nó màu đen. Râu của nó dài.
Lơng thì đen…
- Chưa liên kết chặt chẽ giữa các câu trong đoạn, trong dài.
- Chưa biết sử dụng dấu câu nhằm nâng cao hiệu quả diễn đạt. VD: Cún
con mới dễ thương làm sao. (!) ………
- Bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 hầu hết mắc những lỗi: Lỗi chính tả,
lỗi dấu câu, lỗi diễn đạt, lỗi chủ đề. Cụ thể như sau:

4


+ Lỗi chính tả: Học sinh chủ yếu vẫn thường sai nguyên âm đôi iê, uô,
ươ...), s/x, d/r/gi. Ở đây, tôi sẽ không đề cập sâu vấn đề này.
+ Lỗi dấu câu:
+ Không dùng dấu câu: Xảy ra nhiều với học sinh yếu kém. Các em khơng

sử dụng hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy trong một câu hoặc trong một bài
văn.
+ Sử dụng dấu câu sai. VD: Con lợn to đầu lợn, như quạt mo.
+Lỗi diễn đạt:
+ Lỗi dùng từ khơng phù hợp. VD: Con mèo có bộ lơng trắng tinh.
+ Câu khơng đủ thành phần. VD: Có nhiều cành, nhiều lá rậm rạp.
+ Câu thừa thành phần( lặp lại thành phần một cách không cần thiết). VD:
Em rất yêu quý con mèo nhà em.
+ Câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong bài văn.VD: Con gà trống
dậy rất sớm. Nó dậy sớm để báo thức mọi người.
+ Câu không phân định được thành phần. VD: Em phải giữ gìn chiếc đồng
hồ để trên mặt tủ.
+ Câu sai nghĩa. VD: Con mèo nặng khoảng 2 tạ.
+ Câu không rõ nghĩa. VD: Con mèo lông trắng mắt nó em u chú lắm.
+ Câu khơng có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các
vế câu. VD: Chiếc cặp của em màu đỏ giúp em học giỏi.
+ Các câu trong bài mâu thuẫn nhau: Cây bàng to, mập mạp. Thân cây
khẳng khiu.
+Lỗi lạc chủ đề. VD: Tả chiếc cặp: Ngăn ngoài của cặp em đựng bút.
Chiếc bút màu đỏ rất đẹp.
Như vậy, ta thấy bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 mắc rất nhiều lỗi. Tuỳ
theo mức độ, học sinh hoàn thành tốt có khả năng hạn chế hơn một số lỗi cơ
bản.
Ở đây đặt ra một vấn đề cấp thiết là dạy học sinh viết văn sao cho mạch
lạc, giàu hình ảnh, tái hiện được cụ thể, sinh động đối tượng miêu tả.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Giải pháp 1: Tạo động cơ học văn miêu tả cho học sinh
Công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn là tạo được động cơ, nhu cầu
nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết). Sản phẩm
của phân mơn Tập làm văn là các bài văn nói hoặc viết theo các kiểu bài do

chương trình quy định. Để sản sinh các bài văn này, học sinh phải có thêm nhiều
kĩ năng khác ngồi các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt, kĩ năng dùng từ
đặt câu. Đó là các kĩ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng lập dàn ý,
viết đoạn và liên kết đoạn. Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn bậc tiểu học là
mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình
thành nhân cách cho học sinh. Trong đó học văn miêu tả sẽ góp phần phát triển
tư duy hình tượng cho các em nhờ các biện pháp so sánh, nhân hóa, khi miêu tả.
Nhưng làm thế nào để thực hiện được nhiệm vụ trên mà không biến các em
thành những “ thợ ” viết văn? Vậy ta cần kích thích các em yêu văn và có nhu
cầu viết văn.

5


Trước hết, hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị
trong đối tượng miêu tả. VD: Giáo viên cho các em quan sát bức tranh cây hoa
phượng đang ra hoa đỏ rực và hỏi : Quan sát tranh, em thấy cây hoa có đặc
điểm gì mà nhà văn Xn Diệu đã ví “ như mn ngàn con bướm thắm đậu khít
nhau.”?(2)
Học sinh sẽ phân tích tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của
cây hoa với mn ngàn con bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn cho các em
óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận.
Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ
năng sống khác. Như dạy các em giữ gìn đồ vật, tổ chức cho học sinh trồng,
chăm sóc và bảo vệ cây... Học sinh được trau dồi vốn sống, biết suy nghĩ, có
những cảm xúc, tình cảm. Từ đó, mới dạy các em cách thể hiện suy nghĩ, tình
cảm bằng ngơn ngữ nói, viết. Khi ra đề Tập làm văn, giáo viên nên chú ý đề bài
cần yêu cầu viết về những gì gần gũi, thân thiết với học sinh, tạo ra được động
cơ nói năng, kích thích các em muốn nói, viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu.
Trong tiết Kiểm tra viết (sách Tiếng Việt 4 tập 2 – trang 92) có 4 đề bài gợi ý,

giáo viên cần dựa vào đó ra đề nhằm gợi cảm xúc cho các em trước khi viết bài.
2.3.2. Giải pháp 2: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm của văn miêu tả
Từ điển Tiếng Việt do tác giả Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: Miêu tả là
dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có
thể hình dung dược cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.
Nhà văn Phạm Hổ viết: “Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc
như thấy cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, con vật, một dịng sơng,
người đọc cịn có thể nghe được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm
chí cịn có thể ngửi thấy mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc,
nhưng đó mới chỉ là miêu tả bên ngồi, cịn sự miêu tả bên trong nữa là miêu tả
tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cả cây cỏ” (3). (Viết
văn miêu tả và văn kể chuyện). Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có
hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ
nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một
bài văn miêu tả hay khơng những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối
tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của
người viết với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong thực tế không ai tả mà để tả,
mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, những tình cảm yêu
ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối
tượng mà học sinh u mến, thích thú. Vì vậy, qua bài làm của mình, các em
phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình miêu tả. Đối tượng của văn
miêu tả trong chương trình lớp 4 gồm có miêu tả đồvật, cây cối, con vật.
* Tả đồ vật:
Đối tượng của văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy
trong đời sống hàng ngày gần gũi với các em, vì vậy cũng dễ trở thành gần gũi
với các em. Đó có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cặp sách, cái đồng hồ báo
thức, Chúng là những đồ vật vô tri, vơ giác nhưng gần gũi và có ích đối với học
sinh. Mỗi đồ vật đều có hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu cụ thể. Học
sinh miêu tả những đặc điểm này trong bài văn của mình. Với những đồ vật có
6



nhiều bộ phận, các em cần tập trung tả những bộ phận quan trọng nhất. Đó chính
là những nét tiêu biểu để phân biệt đồ vật này với đồ vật khác. Đồ vật lại thường
gắn liền với cuộc sống con người nên khimiêu tả phải nói tới cơng dụng, lợi ích
của đồ vật cũng như tình cảm của con người đối với nó. Có như vậy, đồ vật mới
hiện lên một cách sinh động và có hồn.
* Tả cây cối:
Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh học sinh.
Đó có thể là một cây hoa, cây ăn quả hay cây cho bóng mát, những cây có ích và
gần gũi với các em. Mỗi loại cây có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định.
Vì vậy, khi miêu tả chúng, học sinh phải làm nổi bật những đặc điểm này. Tả cây
ăn quả cần tập trung miêu tả hình dáng của cây, mùi vị của quả;tả cây lấy hoa
cần tả hương sắc của hoa; tả cây cho bóng mát phải làm rõ dáng cây, tán lá, …
Cây cối luôn sống trong thiên nhiên. Khi miêu tả, cần gắn chúng với miêu tả sơ
lược xung quanh như mặt trời, đám mây, chim chóc, ao hồ và cả con người. Ta
cũng cần chú ý tới lợi ích của chúng và tình cảm u mến gắn bó của người tả
với cây.
* Tả loài vật:
Đối tượng của văn miêu tả loài vật là những con vật quen thuộc gần gũi với
học sinh. Đó là những con gà mái, gà trống, cún con, chú mèo, Mỗi con vật đều
có đặc điểm về hình dáng, đặc tính giống nịi riêng. Khi miêu tả, ta miêu tả cái
chung, và cả những nét tiêu biểu như màu sắc, vóc dáng, tính nết. Những con vật
miêu tả là những con vật gần gũi thân thiết và có nhiều lợi ích nên bài văn phải
thể hiện được sự chăm sóc, tình cảm u mến của học sinh đối với chúng. Ở
Tiểu học, phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói theo nghi thức lời
nói, nói, viết các ngơn bản thơng thường, viết một số văn bản nghệ thuật như
miêu tả. Viết văn miêu tả, học sinh phải có kĩ năng đặc thù quan sát, diễn đạt
một cách có hình ảnh. Tập làm văn cũng góp phần rèn luyện tư duy hình tượng,
từ óc quan sát đến trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát

được. Khả năng tư duy logic của học sinh cũng được phát triển trong q trình
phân tích đề, lập dàn ý viết đoạn. Trong quá trình sản sinh văn bản cũng giúp
học sinh có kĩ năng phân tích, tổng hợp, phân loại, lựa chọn. Thông qua viết văn
miêu tả học sinh có sự hiểu biết và tình cảm u mến, gắn bó với đồ vật, cây cỏ,
thiên nhiên với con người và vạn vật xung quanh: từ một quyển sách, đến một
cây hoa, một chú gà trống… Từ đây, tâm hồn, nhân cách của các em sẽ được
hình thành và phát triển. Để dạy tốt các bài Tập làm văn miêu tả ở Tiểu học, giáo
viên cần vận dụng các tri thức về miêu tả,… hiểu biết về thể loại văn học; cần
hiểu rõ tính đặc thù của kĩ năng viết văn miêu tả. Để “vẽ được bằng lời” phải
dạy tìm ý trong văn miêu tả bằng cách dạy quan sát và ghi chép các nhận xét.
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách vận dụng các giác quan để quan
sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết cách liên tưởng và tưởng
tượng khi nhận xét sự vật và phải biết diễn đạt điều quan sát được một cách gợi
tả, gợi cảm, tức là có hình ảnh và cảm xúc…Bài văn miêu tả được xây dựng trên
cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về đối tượng mà người viết thu lượm,
cảm nhận được thơng qua các giác quan trực tiếp của mình. Bài văn miêu tả thể
loại mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người
7


viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi tả, gợi
cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ. Tả là mơ phỏng, tơ vẽ lại, là so
sánh ví von, nhân hố bằng hình ảnh … chứ khơng phải là kể lể. Văn miêu tả
mang tính chất thơng báo thẩm mĩ. Dù miêu tả đối tượng nào, dù có bám sát
thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng khơng bao giờ sao chép, chụp ảnh máy móc
những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá
hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của đối
tượng thông qua cảm nhận của mỗi người. Chẳng hạn, Trần Đăng Khoa nhìn
trăng bằng con mắt tinh tế, bằng tìnhyêu của tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, trong
sáng:

Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà …
… Trăng trịn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi…
… Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời …(2)
Nhà văn Thép Mới lại lấy cảm hứng của anh chiến sĩ đang mơ về tương lai
của đất nước khi ngắm trăng trong đêm Trung thu độc lập đầu tiên: Trăng sáng
mùa thu văng vặc chiếu khắp thành phố, làng mạc, núi rừng, … {2}Cùng là vầng
trăng, hay một sự vật nhưng mỗi người cảm nhận theo cách riêng của mình, mà
những người khác không phát hiện được hoặc chưa phát hiện được. Với mỗi học
sinh, mỗi bài Tập làm văn là một một sản phẩm của từng cá nhân các em trước
một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy
nghĩ, cách tả, cách diễn đạt, … Giáo viên cần có thái độ tơn trọng sự độc lập suy
nghĩ, sáng tạo nếu nó khơng biểu lộ những lệch lạc. Văn miêu tả không hạn chế
sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của người viết, nhưng khơng có
nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách tuỳ ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả
chân thật. Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, sáo rỗng…
2.3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu
tả, cách lựa chọn hình ảnh, nội dung miêu tả.
* Quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý:
- Quan sát tổng thể đối tượng; chú ý cả trạng thái động và tĩnh; quan sát
bằng tất cả giác quan thính giác, thị giác, xúc giác,...;
- Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát
thật kĩ
- Quan sát và so sánh điểm giống và khác nhau với các đối tượng khác có ở
xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó;
- Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự
vật xung quanh;
- Ghi chép cẩn thận, đầy đủ khi quan sát.

Ví dụ khi dạy bài Luyện tập quan sát cây cối, nhờ áp dụng các điều trên học
sinh có thể ghi lại được kết quả quan sát như sau:
* Lựa chọn hình ảnh miêu tả và nội dung miêu tả:
- Căn cứ vào hình ảnh đã lựa chọn khi quan sát;
- Căn cứ vào nội dung đã ghi chép;
8


- Chọn lọc những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp
và khác biệt của đối tượng để miêu tả chi tiết;
- Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ
tạo nên hình ảnh tổng thể về đối tượng; có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc
gắn bó mật thiết với đối tượng.
* Sắp xếp ý, đoạn:
- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý( theo một thứ tự nào
đó: từ ngồi vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,...);
- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp. Để viết được
bài văn, học sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình Tập làm văn, bài tập viết
đoạn chiếm số lượng nhiều. Đoạn văn được phân loại theo chức năng: đoạn mở
bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. Cách phân loại này chi phối cách xây dựng các
kiểu bài viết đoạn mở bài, viết đoạn thân bài và đoạn kết bài. Mỗi đoạn văn theo
chức năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp,
kết bài mở rộng, kết bài tự nhiên( khơng mở rộng).
Ví dụ khi dạy học sinh viết đoạn miêu tả đặc điểm bên ngoài chiếc cặp,
giáo viên cần hướng dẫn học sinh:
+ Đề bài yêu cầu viết đoạn văn có nội dung gì? ( Tả đặc điểm, hình dáng
bên ngồi chiếc cặp)
+ Hãy quan sát và ghi nhớ các đặc điểm bên ngồi của chiếc cặp
. Cặp cịn mới hay đã cũ ?
. Cặp hình gì? Kích thước thế nào?

. Cặp màu gì? Làm bằng vải hay da?
. Quai cặp như thế nào?
. Mặt cặp, nắp cặp được trang trí thế nào?
. Khóa cặp nằm ở đâu, đóng mở cặp có âm thanh gì?...)
+ Viết đoạn văn miêu tả chiếc cặp đó. Chú ý viết đoạn văn có bố cục 3
phần:
. Câu mở đoạn: giới thiệu khái quát đặc điểm của chiếc cặp.
. Các câu thân đoạn: tả các chi tiết của chiếc cặp.
. Câu kết đoạn: nêu tác dụng của chiếc cặp hoặc cảm nhận của em về chiếc
cặp
2.3.4. Giải pháp 4: Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu
tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả.
Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh,
học sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ
vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:
* Tích luỹ vốn từ:
- Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo;
xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;..
- Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ
thể như:
+ Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng
khiu; xum xuê; rực rỡ; đo đỏ;
+ Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,...
9


+ Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,...
- Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,. . để
miêu tả cho sinh động.
* Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:

Tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình
ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối
tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi
hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những
điểm tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với
sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc
trong lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng
miêu tả bằng tình cảm, tình u của chính mình, thấy được tầm quan trọng của
đối tượng được tả đối với chính mình và cả với những người xung quanh. Miêu
tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm
thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả
hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách:
- Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng;
- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng,
những ảnh hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh;
- So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng;
- Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng;
- Nhân hố hay tự nhiên hố một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng;
- Dự đoán trựớc khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn
tới;
- Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về
đối tượng từ trước tới nay;
- Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào
bài viết của mình.
2.3.5. Giải pháp 5. Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết
bài và xây dựng bố cục bài văn
- Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài. Khi
học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách diễn
đạt( dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hố,...). Vì vậy,

u cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố
cục bài văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong tồn bài để tạo ra một “chỉnh
thể”. Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngơn bản và chứa
đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (xác định u cầu
nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành
bài,...) Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết
đoạn văn trước khi viết một bài văn hồn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện
các bài tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt
những yêu cầu trong các nhóm bài tập sau:
- Nhóm bài tập tiền sản sinh ngôn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài,
xác định nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết (miêu
10


tả). Việc phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung,
giới hạn của đề bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em
phải trả lời được câu hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần
được bộc lộ trong bài viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện
được qua cách miêu tả.
- Nhóm bài tập sản sinh ngơn bản gồm bài tập viết đoạn và bài tập viết bài
văn:
+ Bài tập viết đoạn văn: rèn cho học sinh kĩ năng tạo lập được đoạn văn
đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn mở bài
(trực tiếp, gián tiếp), đoạn kết bài (mở rộng, khơng mở rộng). Các đoạn phải có
sự liền mạch về ý (không rời rạc, lộn xộn), các ý trong đoạn được diễn tả theo
một trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hố ý chính (có mở đầu, triển khai
và kết thúc).
* Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn:
- Đoạn văn mở bài: Học sinh được học hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và
mở bài gián tiếp. Giáo viên nên để học sinh lựa chọn cách mở bài mà mình cho

là hợp lí nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất
phát từ một vấn đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu
bằng một sự kiện, hồn cảnh xuất hiện vật định miêu tả; hoặc bắt đầu bằng
những câu thơ, ca dao.. . có liên quan đến yêu cầu của đề bài.
- Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được
viết theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài.
Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện
pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để miêu tả.
Ví dụ khi dạy bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật, học sinh
có thể viết được đoạn văn với những từ ngữ gợi tả như sau:
- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong một bài văn
nhưng lại rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của
người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê
cảm xúc của mình làm phần kết bài khơ cứng, gị bó, thiếu chân thực. Các em
thường làm kết bài khơng mở rộng, điều đó khiến bài văn chưa có sự hấp dẫn.
Do đó, giáo viên cần hướng dẫn, gợi ý để học sinh biết cách và viết được phần
kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên. Giáo viên có thể
dùng câu hỏi gợi mở để khơi gợi cảm xúc của học sinh trong quá khứ, hiện tại,
tương laị; hoặc trong hoàn cảnh nào đó đối với đối tượng được tả.
VD: Tả cái trống trường: Ngày mới vào lớp 1, khi nghe tiếng trống trường,
em có cảm giác gì? Bây giờ học lớp 4 rồi, ngày nào cũng nghe tiếng trống, em
càng thấy như thế nào?...
Hoặc Tả cây ăn quả: Hình ảnh cây sai trĩu quả gợi cho em cảm nghĩ gì?
Mỗi khi ăn quả em nhớ đến điều gì?
Và học sinh có thể viết:
+ Bài tập viết bài văn: thường được thực hiện trong cả một tiết học. Chúng
luyện cho học sinh triển khai nhiệm vụ giao tiếp thành một bài. Bài văn phải có
bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại, các đoạn

11



văn trong bài phải liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh, được bố cục
chặt chẽ theo ba phần:
Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người
miêu tả với đối tượng miêu tả.
Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng
miêu tả ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật để
lột tả hình ảnh một cách sinh động.
Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của
người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Nhóm bài tập viết đoạn, bài là những bài tập khó nhất, đòi hỏi sự sáng tạo
nhất, yêu cầu học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc
về cuộc sống, về các đối tượng được tả và các kĩ năng ngơn ngữ đã được hình
thành trước đó để tạo lập được đoạn, bài. Đây là một quá trình chuyển từ ý đến
lời. Giáo viên phải luyện cho học sinh diễn đạt đúng những gì muốn tả. Ý có thể
được diễn tả thành những lời khác nhau. Học sinh phải biết lựa chọn cách diễn
đạt có hiệu quả nhất. Để rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh, giáo
viên phải giúp học sinh xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết
và duy trì chủ đề này trong suốt bài viết để bài văn khơng lan man. Thật khó khi
phân định đúng, sai ở một bài văn. Mà ta đánh giá bài văn đó có hay khơng, có
đặc sắc khơng? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân thành, hồn nhiên của
các em ở từng câu, từng đoạn của bài, và cô đọng lại ở phần kết bài. Do vậy,
giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách tưởng tượng, bộc lộ cảm xúc trong bài
văn một cách thường xuyên, liên tục; từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những
tiết xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và cả trong tiết trả bài.
2.3.6. Giải pháp 6: Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện
pháp nghệ thuật trong viết văn.
Để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt, học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện
viết như: với các từ cho sẵn, viết thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi

dùng từ; từ ý đã cho viết thành câu gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu
từ theo yêu cầu, làm các bài tập mở rộng thành phần câu... để cách diễn đạt được
sinh động, gợi tả, gợi cảm hơn. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng dần,
bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu
có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hố, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả
hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.
VD: Một học sinh tả chiếc bàn học: “Mỗi lúc học bài mệt em thường áp
mặt lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm dìu dịu của một người bạn thân đã
cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài tốn khó.” Miêu tả như vậy vừa sinh
động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe. Tuy nhiên,
không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả
và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như vậy. Học sinh có
thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nhưng khi viết văn
lại khó vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp các em? Tôi đã
giúp các em bằng cách như sau:

12


VD: Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thẳm tươi; người ta quên đoá
hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn xoè ra như mn ngàn con
bướm thắm đậu khít nhau.
- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên.
- Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.
- Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm
thắm( mà không phải một con).
- Tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh hoa phượng với hình ảnh khác
theo cảm nhận của các em, hoặc so sánh lồi hoa hay cây khác với hình ảnh nào
đó. Chú ý giúp học sinh nhận ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và
những so sánh khơng có giá trị.

- u cầu các em ghi chép vào sổ tay những câu văn, thơ có sử dụng hiệu
quả biện pháp nghệ thuật đó.
2.3.7. Giải pháp 7: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn.
Kĩ năng Tập làm văn trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết. Ở
lớp đầu cấp, khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới được hình
thành nên bị ảnh hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các
lỗi được tính vào lỗi vi phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ
ảnh hưởng tích cực trở lại với khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày càng phát
triển. Tập làm văn có vai trò hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc
biệt, khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4 bước đầu được học diễn đạt lưu
lốt, giàu hình ảnh.
Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều
người thường chú ý đến hình thức ngơn từ mà khơng coi trọng đến lơgic của các
ý trong bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa
lỗi chính tả, chữa lời mà không chữa ý. Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu
của tiết trả bài để thực hiện một cách nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”,
không thể qua loa, đại khái. Muốn làm được như vậy, giáo viên phải tiến hành
như thế nào?
* Chuẩn bị:
- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu
biểu cần khắc phục ngay cho các em.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi
đặt câu, lỗi diễn đạt,..Ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay.
- Thống kê và phân loại bài theo mức độ: tốt, khá, trung bình, chưa đạt yêu
cầu. Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh.
* Trong giờ trả bài: Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều
chỉnh. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối chiếu với
mục đích yêu cầu đặt ra lúc đầu để tự đánh giá, sửa chữa bài viết của mình. Giáo
viên cần hướng dẫn học sinh xem xét cả nội dung và hình thức diễn đạt. Có thể
phải cho học sinh luyện viết lại đoạn, bài.

- Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn (Linh hoạt về thời gian thực
hiện các bước, hình thức tổ chức sửa lỗi như thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả
bài viết của học sinh).

13


- Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và của bạn;
sửa được lỗi đó và ghi nhớ nó; hiểu rõ và có nhu cầu học hỏi những từ, câu,
đoạn văn hay, giàu hình ảnh và sức gợi tả. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi
cho học sinh học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên
(thành tiếng và đọc thầm) một cách diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận
được sự thú vị của cái hay đó.
Tuy nhiên, ta cũng khơng nên địi hỏi q cao ở học sinh. Tuỳ vào đối
tượng học sinh mà đặt ra các em sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào.
Giáo viên cần kiên trì, bền bỉ, khơng thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến
bộ của học sinh dù là nhỏ nhất. Do vậy, khi học sinh biết viết văn miêu tả và viết
được hay là khi các em đã bước đầu hiểu được đặc điểm của văn miêu tả, biết
cách quan sát đối tượng, tích luỹ được vốn từ miêu tả nhất định, biết xây dựng
đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài; cách diễn đạt và xây dựng bố cục bài văn;
biết cách tưởng tượng và sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật
trong viết văn; được sửa lỗi kĩ lưỡng sau mỗi bài viết. Từ đó, các em viết bài dễ
dàng hơn, thích thú hơn, có cảm xúc hơn, chất lượng bài viết được nâng cao.
2.3.8. Giải pháp 8: Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo
dục bảo vệ môi trường.
Dạy văn miêu tả đòi hỏi sự nhiệt huyết của giáo viên rất cao thì mới thấy
được sự tiến bộ của học sinh, mới khơi gợi được ở các em niềm say mê, thích
thú. Các em không chỉ viết tốt bài theo đề giáo viên u cầu mà cịn có nhu cầu
miêu tả những đối tượng u thích khác. Khơng chỉ trong tiết Tập làm văn mới
dạy học sinh học viết văn, ta còn hướng dẫn các em trong các tiết học khác của

môn Tiếng Việt như dạy các em cảm thụ trong giờ Tập đọc, dạy dùng từ, đặt câu
trong tiết Luyện từ và câu, kích thích nhu cầu miêu tả một đồ vật nào đó trong
khi tiếp xúc trị chuyện, hay các giờ ngoại khoá. Trong một lần hướng dẫn các
em xếp hàng vào lớp, bất chợt tơi nhìn thấy cây bằng lăng giữa sân trường ở
bông hoa đầu tiên. Tôi hỏi các em:
- Sân trường hơm nay có điều gì vừa mới, vừa lạ và rất đẹp? Các em quan
sát nhanh và đều nhận thấy điều tôi muốn hỏi.
- Bông hoa ấy đẹp như thế nào và cho em cảm xúc gì? Các em rất hào hứng
nói lên suy nghĩ của mình.
Tơi giáo dục ý thức bảo vệ cây xanh bằng cách hỏi các em như sau:
- Bông hoa đẹp thế kia, em có nên ngắt để tặng một người em u q
khơng? Vì sao?
Như vậy, trong một thời điểm ngắn, tơi đã đạt được nhiều mục đích: Các
em xếp hàng nhanh mà khơng căng thẳng; kích thích các em phát triển khả năng
quan sát, nhận xét tinh tế, khả năng dùng ngôn ngữ để diễn đạt.. .Trong khoảng
thời gian sau đó, tơi tin rằng nhiều em cịn suy nghĩ và vận dụng vốn từ của
mình để tả về bơng hoa đó theo cảm nhận riêng.
Bên cạnh đó, cần dạy học tích hợp với các mơn học khác làm giàu vốn
sống, vốn hiểu biết của các em. VD: Thông qua học về chủ đề “ Thực vật và
động vật” của môn Khoa học, học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số
loài thực vật, động vật, hiểu được cách chăm sóc và ích lợi của chúng. Vì vậy,

14


khi làm bài văn miêu tả( cây cối, con vật), các em sẽ tả cặn kẽ, sinh động và thể
hiện tình cảm của mình một cách chân thật hơn.
2.3.9. Giải pháp 9: Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với
các phương pháp dạy học tích cực.
Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy

học tích cực.(PP gợi mở, PP vấn đáp, PP thảo luận nhóm, ...). Như chúng ta đã
biết qua một số kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy việc sử dụng bản đồ tư
duy trong dạy học làm cho các em hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm điều mà chính tự
suy nghĩ viết ra theo ngơn ngữ của mình. Vì vậy, sử dụng sơ đồ tư duy huy
động tối đa tiềm năng bộ não, giúp học sinh học tập một cách tích cực, đó chính
là biện pháp đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả. Việc sử dụng bản đồ tư
duy trong dạy học sẽ dần hìh thành cho các em tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề
một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách tổng thể, khoa học chứ khơng
phải học vẹt, học thuộc lịng. Học sinh hiểu bài, nhớ lâu, vận dụng tốt. Khối
lượng kiến thức ngày càng tăng theo cấp số nhân, vì vậy sử dụng bản đồ tư duy
rèn cho các em tư duy lôgic để có thể vận dụng vào thực hành giao tiếp nói, viết
trong cuộc sống. Đặc biệt sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới,
giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học
sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát phát triển
được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ mà cịn có kĩ năng
diễn đạt, hệ thống hoá kiến thức hay huy động những điều đã học trước đó để
chọn lọc các ý để ghi chép, vận dụng kiến thức được lọc qua sách vở vào cuộc
sống. Vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư
duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc có cách nhìn vấn đề có hệ
thống, khoa học. Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa ) là cách thức giáo viên
tổ chức cho học sinh suy nghĩ, diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy
Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cụ thể hoá tối đa hoạt động viết
và nói của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của mỗi em vừa đảm bảo được
chuẩn mực cơ bản cả một thể loại văn bản vừa thể hiện được bản sắc cái tôi của
mỗi em, trên cơ sở khai thác kinh nghiệm và hiểu biết của các em, cũng như
những ý tưởng và ngôn từ mà các em đã chiếm lĩnh được qua bài “tập đọc – kể
chuyện”, “luyện từ và câu” và “Tập làm văn”. Thông qua bài học theo chủ điểm
đã được học trong SGK hay qua cuộc sống hàng ngày của các em. Với vốn kiến
thức các em đã được trang bị trên cơ sở khai thác kinh nghiệm và hiểu biết, cũng
như những ý tưởng và ngôn từ mà các em đã chiếm lĩnh qua các tiết của phân

môn Tiếng Việt hay qua cuộc sống hàng ngày, nhưng để các em biết cách vận
dụng tốt vào bài viết của mình đây cũng là một vấn đề nan giải. Để giúp các em
vận dụng tốt vốn kiến thức mà mình đã được trang bị thì bản thân tơi đã sử dụng
cách dạy trong tiết “Viết bài văn miêu tả” là: sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý
nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực, cụ thể là:
- GV giới thiệu một số dạng sơ đồ mạng:
HS quan sát chọn một sơ đồ phận dụng làm bài.

15


Hoạt động 1: Tìm hiểu đề.
- Học sinh định hình cụ thể đối tượng cần miêu tả trong trí đồng thời viết
đối tượng ấy( con gì /là gì?, ở đâu, lúc nào...) vào khung chủ đề.
*Hoạt động 2: Tìm ý.
Như chúng ta đã biết, làm văn miêu tả không phải lúc nào cũng có đối
tượng trước mặt để thực hiện “ Bút cầm tay, ghi chép lại hiện trường”. Vì vậy để
viết được bài văn miêu tả thì học sinh phải sử dụng hồi ức, vận dụng những hiểu
biết, nhận xét cảm xúc đã có trong quá khứ về đối tượng miêu tả. Hồi ức, tưởng
tượng là cách nhìn gián tiếp sự vật, là phục hồi nhìn nhận bằng cách gợi nhớ là
cách nhìn “ thầm” để giúp các em làm bài vận dụng khả năng phục hồi kí ức,
tưởng tượng. Trong các tiết này, tôi luôn sử dụng cách trò chuyện, khơi gợi rồi
đề nghị các em nhắm mắt lại nhớ lại, nghĩ về con vật mình định tả đã xác định
trong khung chủ đề và tự chọn lọc, viết ra những từ ngữ liên quan đến con vật
đó. VD: HS suy nghĩ tìm được những từ, cụm từ liên quan đến chú gà: to khỏe ,
mào,ị ó o.., bộ lông, đuôi, oai vệ, đôi chân,...ghi vào khung chủ đề:
- Bên cạch đó, giáo viên cũng cần rèn cho học sinh kĩ năng học hỏi thu thập
thông tin từ các tài liệu tham khảo, các bài văn mẫu. Quá phụ thuộc vào bài làm
của người khác là không tốt nhưng nếu biết biến lời văn của người khác thành
của mình thì sẽ giúp bài biết sinh động, phong phú hơn. Phải học hỏi xem người

ta trình bày bài viết như thế nào? Sử dụng từ ngữ ra sao ? Những câu văn hay,
diễn tả độc đáo, các em hoàn tồn có thể ghi chép lại, hay áp dụng cấu trúc câu
cho những bài làm khác. Tuy nhiên cách áp dụng phải linh hoạt. Sách tham khảo
có chỗ tốt, có chỗ chưa tốt, chưa sát thực tế. Chúng ta phải làm cho nó cụ thể
hơn, gần gũi hơn, khơng nên viết quá xa vời, sáo rỗng, có gần gũi với đời sống
thì bài viết mới được đón nhận .
16


Hoạt động 3: Lập dàn ý.
Sắp xếp ý đã có vào sơ đồ.
- Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được sao cho các ý đó có thể
phát triển phù hợp với bố cục, nội dung bài văn miêu tả.
- Gọi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.
- Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã tìm được trước
lớp,để cả lớp có thể theo dõi việc làm mẫu của bạn, vài em học sinh nhận xét.
Và đây là bài làm của học sinh lớp tôi sau khi được cô hướng dẫn chi tiết.

Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài.
Hướng dẫn các em diễn đạt mỗi một từ ngữ xoay quanh mạng thành ít nhất
một câu. Ví dụ: từ “Bộ lông ”. Diễn đạt thành câu: Chú khốc một bộ lơng đỏ tía
pha lấn màu xanh óng ánh khiến chú ta trở nên thật sang trọng, quý phái. Hay:
Bộ lông của chú mượt, mịn màng và rất dày. Ở sơ đồ tư duy, cần lưu ý cho học
sinh những chỗ có thể so sánh hay dùng từ ngữ độc đáo thì có thể ghi chú. Đây
là một ví dụ về bài làm của học sinh mà tơi đã lưu lại.

17


Hoạt động 5: Trao đổi sửa chữa và nhận xét.

Đối với học sinh lớp Bốn việc sửa chữa và tự nhận xét bài cho nhau là việc
làm rất khó khăn, ít em tự thực hiện được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra,
rà soát lại bài viết về cả nội dung và cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết,
nó khơng chỉ giúp các em nâng cao khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu
văn, đoạn văn, bài văn của các em mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng
trình bày, diễn đạt vấn đề. Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết
sức chú trọng việc tập cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn
cho phù hợp. Khi các em hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc
lại bài, đối chiếu với yêu cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã
đảm bảo chưa? Câu văn, ý văn đã rõ ràng, đủ ý chưa?...Thời gian đầu các em sẽ
rất bỡ ngỡ, khó thực hiện, tơi tập cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài

18


bài, sau đó là cùng thực hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra,
rà soát trên bài làm của mình. Ngay trong quá trình các em làm bài, tôi cũng
theo dõi, giúp các em tự nhận xét, kiểm tra, điều chỉnh kịp thời những chỗ chưa
hay, chưa phù hợp, tập cho các em biết chú trọng đến cách diễn đạt sao cho
đúng, đủ, rõ ý.Ngoài ra, tơi cịn thường xun tổ chức cho các em nhận xét,
đánh giá bài của bạn (cách dùng từ, đặt câu, ...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng
vào bài của mình theo các bước:
+ Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, suy nghĩ tìm ý hay, cách
chỉnh sửa những ý chưa hay, chưa phù hợp.
+ Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài
làm của mình.
2.3.10.Giải pháp 10: Khen ngợi, động viên kịp thời.
Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả giáo viên hãy
dành cho các em những lời khen thích đáng. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và
phát huy được khả năng tiềm tàng của bản thân, từ đó loại bỏ được những lo âu,

tự ti cố hữu.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp 4B kết
quả kiểm tra giữa kì 2 cụ thể như sau:
Hồn thành
Chưa hồn thành
Số học Hồn thành tốt
Lớp
sinh
SL
%
SL
%
SL
%
4B
36
12
33.3%
24
66.7%
0
0
Ngồi ra tơi cịn áp dụng các biện pháp trên đối với các em học sinh trong
câu lạc bộ Trí tuệ tuổi thơ mơn Tiếng việt lớp 4 do tôi phụ trách. Kết quả kì giao
lưu cấp huyện có 7 học sinh đạt giải. Trong đó có 2 giải nhì, 1 giải ba và 4 giải
KK.
Bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết văn miêu tả giàu
hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ

thuật như: Nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ…bài làm sinh động, cảm
xúc chân thật. Tuy vẫn cịn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của
đối tượng miêu tả nhưng khơng có hiện tượng sao chép văn mẫu, khơng có bài
làm na ná như nhau. Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi song trong giảng dạy
Tập làm văn thì kết quả như vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các biện pháp
trên mới chỉ được áp dụng khi dạy văn miêu tả lớp 4, nếu có thể thực hiện từ khi
dạy Tập làm văn miêu tả ở lớp 2, 3 thì tơi tin chắc rằng chất lượng làm văn của
các em sẽ khả quan hơn rất nhiều.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi
mới chương trình sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực
trong công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc nâng cao chất
lượng dạy học là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược phát triển
giáo dục từ nay đến 2025. Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng

19


giáo dục đó là đội ngũ giáo viên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên
phải không ngừng học hỏi, sáng tạo trong giảng dạy, đem hết khả năng và niềm
đam mê, lịng nhiệt tình cho cơng tác thì mới có được những kết quả như mong
muốn. Với việc dạy tập làm văn, nhất là văn miêu tả con vật lớp 4 thì việc làm
này càng cần thiết hơn bởi việc dạy tập làm văn là rất khó, học sinh lớp 4 tuy đã
gần cuối cấp tiểu học nhưng việc làm văn cũng mới dừng ở mức độ "tập", nội
dung chương trình lại hồn tồn mới.
Khơng phải ai sinh ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn chương
mà khả năng ấy phải được bồi đáp dần qua năm tháng, qua trang sách và những
bài giảng hàng ngày của thày cơ. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học sinh
thì chính mỗi giáo viên phải định hướng, gợi mở cho các em phương pháp học

tập như những cây non được ươm trồng cần bàn tay con người chăm sóc, vun
xới thì nó sẽ trở nên tươi tốt. Với học sinh lớp 4, các em không thể vừa bắt tay
vào viết văn đã có được những dòng văn hay mà văn hay là kết quả của một quá
trình rèn luyện liên tục, bền bỉ, dẻo dai. Văn hay khơng thể có được ở những học
trị lơi là đèn sách. Với tinh thần đó, việc rèn kỹ năng làm văn vừa để nhằm mục
đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng cao ý thức tự rèn luyện của học
sinh. Đó chính là động lực thúc đẩy tơi hồn thành bài tập nghiên cứu khoa học
này.
3.2. Kiến nghị
* Đối với Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT:
- Hàng năm cần tổ chức các phong trào thi đua viết thơ văn, sáng tác nhỏ
của tuổi thơ để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình.
- Thường xuyên mở các hội thảo, nói chuyện chuyên đề với các chuyên gia
về dạy và học tập làm văn để giáo viên được tiếp xúc, học hỏi kinh nghiệm trong
công tác giảng dạy.
- Trong các kỳ hội giảng, hội thi nên khuyến khích giáo viên dạy tập làm
văn để trao đổi tìm ra phương pháp hay.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường: Trang bị những thông
tin hiện đại, máy tính nối mạng Internet để giáo viên có thể tra cứu, tìm các
thơng tin phục vụ cho giảng dạy.
* Đối với ban giám hiệu nhà trường:
- Tăng cường đầu sách trong thư viện để giáo viên có đủ tư liệu tham khảo phục
vụ cho giảng dạy nhất là các tạp chí: Giáo dục Tiểu học, Thế giới trong ta…
- Nâng cao hiệu quả các giờ chuyên môn, khuyến khích giáo viên đầu tư
trao đổi kế hoạch bài học, cùng thống nhất soạn giáo án tập thể để phát huy sở
trường của từng cá nhân và sức mạnh của tập thể.
- Hàng năm thường xuyên tổ chức cho giáo viên và học sinh đi thăm quan
du lịch để nâng cao hiểu biết về cảnh vật, đất nước và con người Việt Nam.
XÁC NHẬN CỦA
Quảng Xương, ngày 10 tháng 04 năm

HIỆU TRƯỞNG
2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Trần Thị Giao Hằng
20


Dương Thị Chung

21


MỤC LỤC

Nội dung
1. Mở đầu
1.1 . Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4.Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2. Nội dung sáng kiến
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Giải pháp 1: Tạo động cơ học văn miêu tả cho học sinh
2.3.2. Giải pháp 2: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm của văn miêu tả
2.3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu

tả, cách lựa chọn hình ảnh, nội dung miêu tả.
2.3.4. Giải pháp 4: Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu
tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả.
2.3.5. Giải pháp 5. Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết
bài và xây dựng bố cục bài văn
2.3.6. Giải pháp 6: Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện
pháp nghệ thuật trong viết văn.
2.3.7. Giải pháp 7: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn.
2.3.8. Giải pháp 8: Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo
dục bảo vệ mơi trường.
2.3.9. Giải pháp 9: Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với
các phương pháp dạy học tích cực.
2.3.10. Giải pháp 10: Khen ngợi, động viên kịp thời
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
1
2
2
2
2
2
3
5

5
6
8
9
10
12
13
14
15
19
19
19
19
20

22


Mẫu 1 (2)

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:.Dương Thị Chung
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Tân Phong 1
T
T

Tên đề tài SKKN


1. Rèn kĩ năng viết chính tả cho học
sinh lớp 4
2. Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải tốn
tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của
chúng bằng sơ đồ đoạn thẳng
3. Một số biện pháp nâng cao chất
lượng giò dạy kể chuyện lớp 4
4. Một số biện pháp nâng cao chất
lượng giờ dạy kể chuyện lớp 4
5. Một số biện pháp nâng cao chất
lượng giò dạy kể chuyện lớp 4
6. Một số biện pháp rèn kĩ năng viết
văn miêu tả cho học sinh lớp 4.

Tỉnh

Kết quả
đánh giá
xếp loại
B

Năm học
đánh giá
xếp loại
2007-2008

Huyện

C


2008-2009

Huyện

B

2011-2012

Tỉnh

B

2011-2012

Huyện

B

2015-2016

Huyện

C

2018-2019

Cấp đánh
giá xếp loại


23


PHỤ LỤC
. Phương pháp dạy học Tiếng việt ở Tiểu học –Bộ GD và ĐT – Tác giả: Lê
Phương Nga- Đặng Kim Nga
(2) . Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 4 – Tập 1
(3)Kiến thức Tiếng việt và bài văn mẫu lớp 4 Tập 2/ Lê Anh Xn; Hồng Bình,
Nguyễn Thị Hương Lan, Trịnh Cẩm Ly, Hoàng Yến.- H.: ĐHQG Hà Nội, 2010.
(1)

24


25


×