Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao chât lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ
HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 2

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường tiểu học Lý Tự trọng
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn):Tiếng việt

THANH HỐ NĂM 2021


MỤC LỤC

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
1. Vị trí, vai trị của phân môn Luyện từ và câu.
2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu.
3. Tác dụng của phân môn Luyện từ và câu


2.2 Thực trạng của việc dạy và học phân môn luyện từ và câu.
1. Đối với giáo viên
2. Đối với học sinh
2.3 Giải pháp và tổ chức thực hiện.
1. Các giải pháp chính
2. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo.

2
3
3
3
3
3
3
4
4
4
5
5
5
5
12
14
14



1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Tiếng Việt là mơn học góp phần quan trọng trong việc giúp các em học các
môn học khác. Dạy Tiếng Việt ở tiểu học là dạy phát triển ngôn ngữ cho người bản
ngữ vì bản thân các em đã biết tiếng mẹ đẻ. Chúng ta cần dạy cho các em biết cách
sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp. Trong môn Tiếng Việt ở tiểu học bao gồm
nhiều phân môn như : Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Tập làm văn, Tập viết và
Luyện từ và câu. Mỗi phân mơn đều có những vai trị quan trọng riêng. Trong đó
phân mơn Luyện từ và câu đóng vai trị quan trọng đối với việc phát triển ngơn ngữ
của học sinh nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng.
Trong thực tế, phân mơn Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng, là chìa khố
mở ra kho tàng văn hố trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con người, là công
cụ giao tiếp, tư duy và học tập. Mục đích u cầu của mơn Tiếng Việt trong trường
tiểu học là nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt để giao tiếp và học
tập. Thông qua việc học Tiếng Việt rèn cho học sinh năng lực tư duy, phương pháp
suy nghĩ, giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm trong sáng, rèn cho các em một
số phẩm chất như : óc thẩm mĩ, tính kỷ luật, đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng
yêu quý Tiếng Việt. Qua đó đào tạo học sinh thành những con người phát triển tồn
diện.
Trong q trình dạy học tơi nhận thấy, phân mơn Luyện từ và câu hiện nay
nhìn chung kết quả đạt chưa cao vì nhiều lí do khách quan mang lại vốn từ sử dụng
các ngơn từ cịn hạn hẹp, chưa biết cách chắt lọc giữa ngôn ngữ nói và ngơn ngữ
viết.
Mặt khác trong q trình học phân mơn Luyện từ và câu học sinh cịn rất khó
khăn trong việc phân biệt câu, từ, chữ và tiếng. Trong giao tiếp nhiều khi các em
dùng từ nói câu chưa chính xác, đơi khi cịn lủng củng vì các em còn nhỏ tuổi, tư
duy phát triển chưa cao nên các em thường nói và làm như suy nghĩ thực tế của
mình mà chưa có sự lựa chọn từ, câu cho thích hợp, chưa có sự chau chuốt trong
cách dùng từ, câu trong các câu nói.

Từ thực tế nêu trên, tơi đi sâu vào tìm hiểu khả năng phân biệt từ và câu, khả
năng nhận biết từ và cách dùng từ để đặt câu của học sinh tiểu học, cụ thể là học
sinh lớp 2 để thấy được những ưu điểm và khuyết điểm của học sinh trong quá học
tập nói chung và học Luyện từ và câu nói riêng. Vì vậy tôi đã chọn đề tài “ Một số
giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học Luyện từ và câu ở lớp 2 ”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
- Chọn đề tài thích hợp với các cơng tác dạy của bản thân
- Góp phần vào hồn thiện kỹ năng phát triển toàn diện của học sinh, giúp
học sinh học tốt mơn Luyện từ và câu trong q trình học tập.
- Qua đó giúp cho các Thầy ( Cơ ), các bạn đồng nghiệp có kinh nghiệm
nâng cao chất lượng dạy và học Luyện từ và câu lớp 2 cho học sinh đạt hiệu quả
trong thời gian tới.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- Lý luận dạy - học phân môn luyện từ và câu ở Tiểu học.
- Thực tiễn dạy – học luyện từ và câu lớp 2 trường Tiểu học Lý Tự Trọng.
1


- Học sinh lớp 2G Trường Tiểu học Lý Tự Trọng.
- Các biện pháp nâng cao chất lượng dạy – học luyện từ và câu cho học sinh
Tiểu học Lý Tự Trọng.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Để thực hiện nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đề tài, tơi đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn: thu thập một số vấn đề lí luận làm cơ sở
khoa học cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp kiểm tra đánh giá.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: nhằm thu thập những thông tin cần
thiết về dạy và học phân môn luyện từ và câu lớp 2.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận:
Luyện từ và câu là một phân môn của môn Tiếng Việt, giúp học sinh nắm
được nghĩa của từ, biết dùng từ đặt câu, sử dụng đúng các kiểu câu trong giao
tiếp, góp phần làm cho vốn từ ngữ của các em phong phú, sinh động và trong
sáng hơn.... Muốn nói hay, viết giỏi đều phải dùng từ. Từ là vật liệu để cấu
thành ngơn ngữ. Hiểu được nghĩa của từ đã khó, còn phải biết dùng từ như thế
nào cho hợp văn cảnh, đúng ngữ pháp cịn khó hơn. Cho nên, việc dạy cho
học sinh nắm vững Tiếng Việt không thể không coi trọng việc dạy phân môn
Luyện từ và câu, đặt nền móng cho việc tiếp thu tốt các mơn học khác ở các
lớp học trên. Tuy nhiên, với học sinh lớp 2, là lớp đầu tiên làm quen và học
phân mơn này thì thật khơng dễ chút nào.
Phân mơn luyện từ và câu lớp 2 cung cấp cho học sinh một số khái niệm về
từ và câu cơ bản, cung cấp cho các em một số kiến thức cơ bản ban đầu và cần
thiết về từ, câu, các kiểu từ, các kiểu câu… vừa sức đối với lứa tuổi các em.
Trang bị cho học sinh một số hệ thống khái niệm, sự hiểu biết về cấu trúc
ngôn ngữ và những quy luật của nó. Cụ thể, Luyện từ và câu ở tiểu học giúp cho
học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về từ và câu.
Giúp cho học sinh rèn các kĩ năng : Biết dùng từ, câu trong nói và viết; nói
đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay; nhận ra những từ, câu không có văn hố
để loại ra khỏi vốn từ. Ngồi ra, học sinh cịn nắm được văn hố chuẩn của lời nói.
Phân mơn luyện từ và câu cịn rèn cho học sinh khả năng tư duy lơgíc và khả năng
thẩm mĩ.
Chính vì vậy mà việc dạy luyện từ và câu lớp 2 chiếm vị trí vai trị rất quan
trọng, khơng có vốn từ đầy đủ thì khơng thể nắm được ngơn ngữ như một phương
pháp giao tiếp. Việc dạy từ và câu ở giai đoạn này chính là tạo điều kiện để học
sinh học tập và phát triển toàn diện.


2


2.2. Thực trạng của vấn đề dạy luyện từ và câu ở lớp 2:
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy tại khối lớp 2, qua dự giờ thăm lớp của
đồng nghiệp tôi nhận thấy thực trạng dạy luyện từ và câu ở lớp 2 như sau:
* Đối với giáo viên:
- Do các tiết dạy Luyện từ và câu là khó so với các phân mơn khác. Trong
Tiếng Việt có nhiều từ , câu chưa phân định rõ ràng (đang còn nhiều tranh cãi), nên
xác định và chốt lại cho học sinh là khó, trong khi giảng dạy giáo viên cịn bí từ và
giải nghĩa từ cho học sinh cịn lúng túng.
- Phần đa giáo viên chưa hiểu hết ý nghĩa của việc dạy học Luyện từ và câu.
Chính vì vậy mà giáo viên vẫn không biết cách dạy tiết luyện từ và câu sao cho
hiệu quả. Đồng thời khi đọc bài dạy Luyện từ và câu, giáo viên không hiểu được
dụng ý của SGK viết đối với từng dạng bài.
- Các giờ dạy luyện từ và câu thường khô khan, trầm không sôi nổi.
- Giáo viên mới tập trung vào để giải quyết các bài tập và cung cấp đủ kiến
thức ở sách giáo khoa cho học sinh mà chưa chú trọng đến chất lượng và hứng thú
học tập của học sinh.
- Phương pháp mà giáo viên thường sử dụng trong tiết Luyện từ và câu là:
giảng giải, hỏi đáp, gợi mở, làm mẫu, luyện tập… cùng với phương pháp trực
quan.
* Đối với học sinh
- Do môn luyện từ và câu ở lớp 2 mới bắt đầu và tương đối khó, dẫn đến phần
lớn học sinh khơng thích học phân mơn này.
- Vốn từ của học sinh lớp 2 cịn ít, hạn chế việc học tập phân môn luyện từ và
câu.
Đối với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp Hai nói riêng, nhận thức
của các em chủ yếu là cảm tính nên sự vận dụng vốn sống vào trong bài tập cịn
thiếu chính xác. Bên cạnh đó khả năng xác định từ, câu của học sinh còn kém, các

em còn nhầm lẫn giữa dấu chấm và dấu chấm hỏi.
Trong q trình giảng dạy tơi nhận thấy khả năng tư duy và sáng tạo của học
sinh chưa cao, với bài tập đòi hỏi sự tư duy và sáng tạo thì kết quả làm bài tập của
các em cịn hạn chế.
Việc rèn luyện bốn kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết của học sinh chưa
thường xun vì vậy khả năng diễn đạt của các em chưa thực sự tốt ở cả hai mặt
nói và viết. Khi giao tiếp, tơi thấy học sinh nói chưa lưu lốt. Đồng thời các em
thường nói theo đúng suy nghĩ trẻ thơ của mình.
Đứng trước thực trạng dạy và học phân mơn luyện từ và câu ở lớp 2, ngay
sau khai giảng năm học được 1 tháng học luyện từ và câu tôi đã tiến hành khảo sát
chất lượng phân môn luyện từ và câu tại lớp giảng dạy và thu được kết quả:
Kết quả khảo sát chất lượng phân môn luyện từ và câu ở lớp 2G đầu
năm như sau:

3


Sĩ số HS
36

Hoàn thành
tốt
SL
TL
9
25%

Hoàn thành
SL
23


TL
64%

Chưa hoàn
thành
SL
TL
4
11%

Từ kết quả của thực trạng trên tôi tiến hành áp dụng các biện pháp để nâng
cao chất lượng dạy và học phân môn luyện từ và câu lớp 2.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Giải pháp 1: Hệ thống và phân loại các dạng bài trong phân môn luyện từ
và câu lớp 2:
Để dạy tốt phân môn luyện từ và câu lớp 2 người giáo viên người giáo viên
phải hiểu rõ ý nghĩa, vai trò của việc dạy học Luyện từ và câu. Để làm được điều
đó tơi đã nghiên cứu sách giáo khoa hệ thống và phân loại các dạng bài trong phân
môn luyện từ và câu lớp 2.
Ở lớp 2 phân môn luyện từ và câu được phân bố mỗi tuần 1 tiết, chủ yếu là
các tiết mở rộng vốn từ theo chủ điểm (có 27 bài mở rộng vốn từ ); Có 6 bài dạy về
mẫu câu Ai là gì?; Ai làm gì?; Ai thế nào? . Có 5 bài dạng đặt và trả lời câu hỏi:
Khi nào? Ở đâu? Như thế nào? Vì sao? Để làm gì ? Tất cả các dạng bài tập trên
được dạy lồng ghép trong một tiết học. Mỗi tiết luyện từ và câu ở lớp 2 thường có
3- 4 bài tập
Đối với các tiết dạy luyện từ và câu thường thông qua các bài tập thực hành
giúp học sinh phát hiện, lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Nội dung rèn
luyện về từ, câu được xây dựng thông qua 4 dạng bài tập cơ bản sau:
- Dạng bài tập giúp học sinh mở rộng vốn từ theo chủ điểm hoặc từ loại.

- Dạng bài tập giúp học sinh nhận diện các dấu hiệu liên quan đến câu.
- Dạng bài tập giúp học sinh vận dụng từ và sử dụng từ..
- Dạng bài tập giúp học sinh Đặt và trả lời câu hỏi.
Nội dung các kiến thức môn Tiếng Việt được xây dựng theo quan điểm tích
hợp. Các phân mơn của mơn Tiếng Việt có liên quan chặt chẽ với nhau, xoay
quanh trục chủ điểm và các bài tập đọc. Như vậy, từ việc đi sâu nghiên cứu chương
trình Sách giáo khoa, người giáo viên cần nắm chắc đặc điểm chương trình, dạng
bài từ đó tìm ra phương pháp, hình thức dạy học phong phú, gợi mở để học sinh
hiểu và nắm vững kiến thức của bài học một cách hiệu quả cao nhất.
* Ví dụ: Đối với các bài tập giúp học sinh mở rộng vốn từ thì nội dung từ được
mở rộng có liên quan đến các bài tập đọc, chính tả,... giáo viên chú ý đi sâu giúp
học sinh phát hiện từ của chủ điểm để kết hợp giảng, giúp học sinh khi mở rộng
vốn từ về chủ điểm sẽ thuận lợi hơn.
2.3.2. Giải pháp 2: Lựa chọn các hình thức dạy phù hợp với từng dạng bài.
a) Các dạng bài tập mở rộng vốn từ theo chủ điểm hoặc từ loại:
* Tìm từ bằng cách dựa vào các tranh ảnh cho sẵn, đi từ nhận diện, gọi
tên cụ thể đến phân loại khái quát. Với loại bài tập này, là một giáo viên trực
tiếp đứng lớp giảng dạy để cung cấp vốn từ cho học sinh tôi đã thực hiện như sau:

4


* Ví dụ 1: Tuần 1: chọn tên gọi cho mỗi người, mỗi sự vật, mỗi việc được vẽ
trong tranh.
Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập:
- Chọn tên gọi cho mỗi người, mỗi vật, mỗi việc được vẽ dưới đây:

(học sinh, nhà, xe đạp, múa, trường, chạy, hoa hồng, cô giáo)
M: 1. trường
5. hoa hồng

+ 8 bức tranh trong sách giáo khoa vẽ người, vẽ vật hoặc việc. Bên cạnh mỗi
bức tranh có số thứ tự. Em hãy chỉ tay vào các số thứ tự ấy và đọc lên (1, 2, 3, 4, 5,
6, 7, 8).
+ 8 bức tranh vẽ có 8 tên gắn với một vật hoặc một việc được vẽ trong tranh.
Em hãy đọc tên 8 tên gọi (được đặt sẵn trong ngoặc đơn).
+ Em cần xem tên gọi nào là của người, vật hoặc việc.
Sau đó giáo viên tiến hành đọc tên gọi của từng người, vật hoặc việc. Học
sinh chỉ tay vào tranh vẽ người, vật hoặc việc đọc số thứ tự của tranh ấy lên (thí
dụ: số 1; trường; số 2: học sinh…). Học sinh từng nhóm (nhóm đơi) trao đổi bài
tập như một trị chơi. Học sinh đổi vai thực hiện bài tập.
Học sinh phát hiện từ gắn với tranh sau đó học sinh đổi vai nói tên từ phù
hợp với tranh chính là giúp học sinh đi từ cụ thể và thơng qua hình thức trị chơi để
củng cố, khắc sâu kiến thức chính là một hình thức giúp học sinh hiểu bài nhưng
khơng bị gị bó, kiến thức dễ khắc sâu.
Như vậy thơng qua bài tập đã hình thành kỹ năng: Tìm, chọn từ thích hợp
cho mỗi tranh, mỗi người, vật hoặc việc nhằm khai thác và mở rộng vốn từ cho học
sinh, học sinh đã biết dựa vào các tranh ảnh cho sẵn, đi từ nhận diện đến gọi tên
cho từng tranh vẽ.
* Ví dụ 2: Tuần 3:

5


- Tìm những từ chỉ sự vật (người, đồ vật, con vật, cây cối,…) được vẽ dưới
đây:

Sau khi tổ chức cho học sinh tìm được những từ thích hợp với từng tranh
cho sẵn. Giáo viên cần củng cố để học sinh nêu được:
+ Từ chỉ người: Bộ đội, công nhân.
+ Từ chỉ đồ vật: ô tô, máy bay

+ Từ chỉ con vật: Voi, trâu
+ Từ chỉ cây cối: Dừa, mía
Tìm từ dựa vào tranh chính là nhận thức của học sinh đi từ trực quan sinh
động để phát hiện từ phù hợp.
Sau đó cần khái quát cho học sinh thấy rằng: những từ chỉ người, đồ vật, con
vật, cây cối… là những từ chỉ sự vật.
Như vậy bằng cách dựa vào các tranh ảnh có sẵn, giáo viên đã giúp học sinh
đi từ nhận diện từ đến gọi tên cụ thể đến phân loại và khái quát hóa vốn từ. Với
cách làm này có tác dụng khơi gợi kinh nghiệm ngơn ngữ đã có của học sinh, giúp
các em nắm bắt tri thức về từ loại Tiếng Việt trên cơ sở ý thức và hệ thống hóa vốn
từ mà mình đã có. Học sinh có những hiểu biết ban đầu về từ loại Tiếng Việt.
* Bài tập tìm từ dựa theo một chủ đề:
- Những bài tập tìm từ dựa theo một chủ đề chính là mở rộng vốn từ cho học
sinh, là thể hiện hướng dạy học đi từ việc giúp học sinh khai thác vốn từ tiếng mẹ
đẻ đến việc hệ thống hóa chúng, phân loại chúng đưa chúng vào bộ não. Khi thực
hiện bài tập dạng này, giáo viên cần phải giúp học sinh tự mình huy động những
vốn từ sẵn có, sự hiểu biết của bản thân trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, vận
dụng để hồn thành nội dung bài tập.
Ví dụ: Đối với bài tập 3 – Tiết Luyện từ và câu tuần 6 (Tiếng việt 2 – trang
52). Giáo viên giúp học sinh mở rộng vốn từ: Từ ngữ về học tập.
Hình ảnh minh họa:
6


- Tìm các đồ dùng học tập ẩn trong tranh sau. Cho biết mỗi đồ vật ấy
được dùng để làm gì.

Giáo viên hướng dẫn học sinh phải quan sát kỹ bức tranh, phát hiện các đồ
dùng học tập ẩn rất khéo trong tranh, gọi tên và nói rõ đồ vật được dùng để làm gì.
Bằng phương pháp sư phạm, giáo viên kích thích ở học sinh tính tị mị, tìm

tịi sáng tạo, sự tinh nhanh học sinh sẽ phát hiện tinh khơng bỏ sót một đồ vật nào
trong tranh bằng cách:
Giáo viên tổ chức cho các nhóm học sinh quan sát tranh và thi tìm xem
nhóm nào tìm được nhiều, đủ, đúng các đồ vật trong trang nhất. Sau đó gọi từng
nhóm lên trình bày kết quả của nhóm mình. Giáo viên và học sinh nhận xét và
tuyên dương nhóm thắng cuộc.
Như vậy thông qua bài tập đã cung cấp cho học sinh những vốn từ rất gần
gũi đối với các em ngay trong cuộc sống học tập. Học sinh chủ động tìm và làm
giàu thêm cho “kho từ” của mình.
* Dạng bài tập tạo từ:
Đó chính là ghép tiếng thành từ, tạo các từ có cùng một tiếng mẫu gợi ý.
Loại bài tập này với mục đích là làm giầu vốn từ, làm phong phú thêm vốn từ cho
học sinh. Từ đó học sinh biết vận dụng vốn từ đó vào trong cuộc sống hàng ngày
của mình.
Với dạng bài tập này, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi đã mở rộng
vốn từ cho học sinh bằng cách như sau:
Cụ thể với bài tập 1 – tiết Luyện từ và câu tuần 2 (Tiếng Việt 2 tập 1 trang
17). Giáo viên cần giúp học sinh hiểu yêu cầu bài: Tìm các từ ngữ có tiếng “học” ,
tiếng “tập”. Tìm được càng nhiều càng tốt.
Các em có thể tìm từ có tiếng “học”, tiếng “tập” đứng trước hoặc đứng sau
đều được.
Sau đó mời 2 học sinh lên bảng làm: Một em tìm từ có tiếng “học” , một em
tìm từ có tiếng “tập”. Học sinh khác làm vở.
Giáo viên cùng với cả lớp nhận xét bài làm trên bảng, bổ sung từ ngữ.
Với bài tập này, học sinh có thể đưa ra một số cụm từ chứ không phải từ.

7


Ví dụ: học bài, học việc, tập đi… trong trường hợp này vẫn chấp nhận. Vì ở

Tiểu học chưa đặt vấn đề phân biệt từ với cụm từ, đồng thời tiếng “học” và “tập” ở
đây vẫn cùng nghĩa với “học” và “tập’ trong các từ “học tập”, “học hành”. Với các
từ mang nghĩa khác thì khơng chấp nhận. Ví dụ: Tập sách, tập tễnh…
Với cách làm như vậy, học sinh đã tạo được rất nhiều từ, từ một tiếng theo
mẫu và đã làm cho vốn từ của học sinh giàu lên một cách nhanh chóng.
* Dạng bài tập phân loại từ theo trường nghĩa: Đó là những bài tập dạng:
+ Loại trừ những từ không cùng loại đã gợi ý.
+ Phân loại đối tượng sự vật theo tiêu chí cụ thể (Tiếng Việt tập 2 – Tr27)
+ Nhóm từ theo loại từ đã gọi ý có kèm tranh (Tiếng Việt tập 2 – Tr73)
Các loại bài tập này tạo điều kiện cho học sinh bước đầu rèn luyện các thao
tác tư duy cơ bản như phân tích, cụ thể hóa cho những loại, đặc điểm khái quát,
thao tác phân loại và khái quát)
Với loại bài tập này, tôi đã thực hiện như sau:
Xếp tên các loài chim cho trong ngoặc đơn vào nhóm thích hợp:
a) Gọi tên theo hình dáng.
M: chim cánh cụt
b) Gọi tên theo tiếng kêu.
M: tu hú
c) Gọi tên theo cách kiếm ăn.
M: bói cá
(cú mèo, gõ kiến, chim sâu, cuốc, quạ, vàng anh)
Ví dụ: Bài tập 1 – tuần 21.
Bước 1: Để giúp học sinh xếp tên các lồi chim đã cho vào nhóm thích hợp
theo mẫu. Giáo viên cần cho học sinh thấy được những đặc điểm cơ bản của từng
loài chim bằng cách giáo viên mơ tả thêm về hình dáng, tiếng kêu, cách kiếm ăn
của từng loài chim bằng cách sau khi học sinh đọc đề bài, hiểu yêu cầu của bài tôi
cho chiếu video clip về tên 3 loài chim mẫu đồng thời chú ý về cách kiếm ăn, hình
dáng, tiếng kêu để học sinh phát hiện, xếp vào nhóm thích hợp.
Bước 2: Sau khi học sinh đã hoàn thành bài tập, tôi sẽ mở rộng vốn từ bằng
cách cho học sinh xem video clip có thuyết minh một số lồi chim khác. Từ đó học

sinh sẽ có những thao tác tư duy cơ bản, sự tự phân loại theo những tiêu chí cụ thể
và học sinh sẽ hồn thành bài tập một cách có hiệu quả. Đồng thời thơng qua bài
tập đã mở rộng vốn hiểu biết cho các em về đặc điểm cơ bản của từng loài chim,
tạo hứng thú cho học sinh trong học tập.
Tơi chọn hình thức cho học sinh xem video clip để học sinh thấy được hình
ảnh động giúp học sinh hiểu bài có tính cụ thể. Học sinh không phải tưởng tượng
và làm bài theo cảm tính mà khơng có hình ảnh cụ thể. Từ hình ảnh cụ thể sẽ giúp
học sinh phân loại từ đúng.
b) Các dạng bài tập liên quan đến luyện câu:
* Tạo lập câu: Với những thể loại như tạo câu kể theo nội dung tranh (nói
hay viết), đặt câu với từ tìm được, dùng những từ dời xếp thành câu, đặt câu hỏi
theo một chủ đề (ngày, tháng) dựa vào bộ phận in đậm trong câu cho sẵn, tìm bộ
phận nào trả lời cho một từ hỏi, thay từ hỏi bằng từ hỏi khác. Thông qua các bài
tập này, tri thức về câu được tiếp nhận tích hợp với tri thức về từ loại. Kiến thức về
kiểu câu được tiếp nhận tích hợp với kiến thức về các bộ phận của câu.

8


Ví dụ với dạng bài: Tạo câu kể theo nội dung tranh (bài tập 3 – tiết Luyện từ
và câu tuần 1)
Hãy viết một câu nói về người hoặc cảnh vật trong mỗi tranh sau:

M: Huệ cùng các bạn vào vườn hoa.
Ở bài tập này để giúp học sinh tạo lập được câu. Giáo viên cần cho học sinh
quan sát kỹ 2 bức tranh và thể hiện nội dung mỗi tranh bằng một câu. Yêu cầu câu
phải đủ ý, thể hiện rõ nội dung. Học sinh sẽ tiếp nối nhau đặt câu thể hiện nội dung
từng tranh theo câu mẫu. Và với một bức tranh học sinh có thể nói được nhiều câu
khác nhau. Với những em đặt câu sai sẽ suy nghĩ để nói lại.
Với học sinh lớp 2, khả năng nói và viết thành câu cịn kém, vốn từ chưa

phong phú, do đó các em quan sát tranh để đặt và nói thành câu cịn có em làm
chưa tốt. Với một tranh, các em có thể nói nhiều câu sẽ giúp các em nói và viết
thành câu, những học sinh khác có thể áp dụng vào bài của mình do vậy hiệu quả
của bài tập đạt hiệu quả cao hơn.
Với cách làm như vậy, nhiều em học sinh được nói và giáo viên cũng củng
cố được kỹ năng tạo lập câu cho nhiều học sinh, vừa là để kiểm tra đánh giá.
Tiếp sau đó cho học sinh viết vào vở 2 câu văn thể hiện nội dung 2 tranh.
Giáo viên luyện cho học sinh cách viết câu theo đúng dấu hiệu ngữ pháp và và vừa
khắc sâu kỹ năng tạo lập câu cho học sinh.
* Dạng bài tập biến đổi câu: Đây là dạng bài tập mà học sinh phải tạo một câu có
cấu trúc khác với câu cho sẵn mà ý không đổi.
Cụ thể đối với bài tập 2 – tiết Luyện từ và câu tuần 6.
+ Tìm cách nói có nghĩa giống với nghĩa của các câu sau:
Câu a: Mẩu giấy khơng biết nói.
Câu b: Em khơng thích nghỉ học.
Câu c: Đây khơng phải là đường đến trường.
Mẫu:
- Mẩu giấy khơng biết nói đâu!
- Mẩu giấy có biết nói đâu!
- Mẩu giấy đâu có biết nói!

9


Giáo viên cần cho học sinh nắm vững yêu cầu của đề: Từ một câu cho sẵn
hãy tìm (biến đổi) thành câu khác mà không thay đổi nghĩa.
Học sinh dựa theo câu mẫu để nói các câu tiếp theo. Với bài tập này giáo
viên cần nhấn mạnh cho học sinh thấy: “Câu cho sẵn” mang ý nghĩa phủ định, biến
đổi thành câu khác chính là các cách nói khác nhau của câu phủ định (mặc dù
không dạy thuật ngữ này). Giáo viên cần nhấn mạnh ở những từ “khơng”, “đâu”,

“có”, “đâu có”. Trong câu mẫu để học sinh dễ nhận ra các cách nói ở câu phủ định.
Như vậy bằng những ý hiểu của mình, học sinh đã biết cách tạo câu khác với câu
đã cho mà không làm thay đổi ý.
Đây là một dạng bài khó, trừu tượng, học sinh chưa hiểu thuật ngữ “Khẳng
định” “Phủ định”. Để giúp học sinh làm được bài tập này hiệu quả. Giáo viên cần
giúp học sinh nắm chắc 3 cặp từ: “khơng…có”, “đâu có”, “có…đâu”. Sau đó cho
học sinh thực hành bằng cách nói miệng theo cặp, 1 bạn đọc câu mẫu, cịn học sinh
kia nói phủ định bằng cách dùng 3 cặp từ rồi đổi vai.
Thông qua dạng bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh nhiều cách nói
phủ định về một sự việc mà không làm thay đổi nghĩa câu.
* Dạng bài tập Hoàn thành câu: Đây là kiểu bài tập đòi hỏi học sinh phải
điền vào chỗ trống với một từ chỉ hoạt động, đặc điểm thích hợp
Bài tập 4 : Tuần 7 trang 59
+ Chọn từ chỉ hoạt động thích hợp với mỗi chỗ trống dưới đây:
- Cô Tuyết Mai… môn Tiếng Việt. (từ điền vào: dạy)
- Cô… bài rất dễ hiểu. (từ điền vào: giảng)
- Cô… chúng em chăm học. (từ điền vào: khen)
Học sinh sẽ tìm những từ chỉ hoạt động thích hợp để điền vào chỗ trống cho
hồn thành các câu. Thơng qua bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh cách
chọn từ ngữ với ngữ cảnh của câu văn.
* Dạng bài tập sử dụng dấu câu: Dấu chấm, dấu hỏi, dấu phẩy, dấu chấm
than. Thường là những bài tập: đặt dấu câu thích hợp vào cuối mỗi câu, ngắt các
câu của một đoạn văn bằng cách đặt dấu câu.
Với những bài tập này kiến thức về dấu câu được tiếp nhận tích hợp với kiến
thức về kiểu câu qua bài sử dụng dấu câu.
Bài tập 3 tuần 24 trang 55
Điền dấu chấm hay dấu phẩy vào ô trống:
Từ sáng sớm Khánh và Giang đã náo nức chờ đợi mẹ cho đi thăm vườn thú
Hai chị em mặc quần áo đẹp, hớn hở chạy xuống cầu thang Ngoài đường
người và xe đi lại như mắc cửi. Trong vườn thú trẻ em chạy nhảy tung tăng.

Với bài tập này, để luyện tập về dấu chấm, dấu phẩy cho học sinh tôi đã làm
như sau:
- Cho học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.,
- Tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân. Học sinh tự làm bài vào vở bài
tập. Sau đó giáo viên chiếu slide có nội dung bài tập, gọi 1 học sinh lên bảng làm
bài. Từng học sinh đọc kết quả bài làm của mình trong vở. Cả lớp và giáo viên
nhận xét và sửa chữa, chốt lời giải đúng. Giáo viên cần củng cố khắc sâu cho học
sinh về cách dùng dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy) bằng câu hỏi cụ thể:

10


- Tại sao ở ô trống thứ nhất con dùng dấu phẩy? (Vì chưa thành câu)
- Tại sao dùng dấu phẩy nhưng chữ Giang lại viết hoa?
- Dấu phẩy ở đây dùng để làm gì? (Tách bộ phận trả lời câu hỏi khi nào với
bộ phận khác)
- Dấu phẩy thứ 4, 5 dùng để làm gì? (Tách bộ phận trả lời câu hỏi Ở đâu
với các bộ phận khác)
- Tại sao con dùng dấu chấm ở ô trống thứ hai?
- Dấu chấm dùng để làm gì?
Học sinh đọc lại văn sau khi đã dùng dấu chấm, dấu phẩy đúng để củng cố
cách đọc khi dùng dấu chấm, dấu phẩy.
Như vậy thông qua bài tập thực hành, học sinh được trang bị những kiến
thức kỹ năng sử dụng dấu câu.
c) Dạng bài tập Dạy bài mẫu câu
Đối với các dạng mẫu câu: Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? Là những dạng
câu vô cùng mới mẻ đối với học sinh lớp 2. Chính vì vậy mà giáo viên khi hướng
dẫn học sinh phải giúp học sinh nắm vững các kiểu câu, xác định chính xác từng
bộ phận của từng kiểu câu. Bằng cách dựa vào một số căn cứ như:
Ví dụ: - Căn cứ 1: Kiểu câu Ai thế nào? Là kiểu câu có một bộ phận câu trả

lời cho câu hỏi “Ai?”, một bộ phận câu trả lời cho câu hỏi “thế nào?”
- Căn cứ 2: Bộ phận câu trả lời cho câu hỏi Ai? Thường là những từ chỉ người,
vật, sự vật, đồ vật, cây cối,... và thường đứng ở đầu câu. Bộ phận câu trả lời cho
câu hỏi thế nào? Là những từ chỉ đặc điểm, tính chất, trạng thái và thường đứng
sau bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?.
Giáo viên cần linh hoạt sử dụng kết hợp các phương pháp như: trực quan,
hỏi đáp, để phân tích, so sánh và giảng giải để rút ra kiến thức của bài học.
Các bài tập nhận diện, phân tích trong q trình hướng dẫn học sinh làm bài
tập giáo viên cần đặt ra những câu hỏi thích hợp đối với mỗi thành phần học sinh
nhận diện ra chúng. Những bài tập xây dựng tổng hợp chủ yếu nằm ở cấp độ câu,
nó được xây dựng thành nhóm:
Nhóm các bài tập theo mẫu gồm:
- Bài tập viết theo mẫu làm rõ ý nghĩa của câu
- Trả lời câu theo mẫu có sẵn.
Nhóm các bài tập này, giáo viên đưa ra các ví dụ và làm mẫu. Ở đây ví dụ
phải là mẫu đích thực và câu hỏi cần dần dần tăng độ khó.
Ví dụ: Khi dạy câu kiểu : Ai / là gì ? Trước khi vào bài dạy giáo viên cần
phân tích mẫu, cho học sinh lấy ví dụ theo câu kiểu Ai / là gì ? Sau đó mới đi vào
thực hành nói và viết theo câu kiểu Ai / là gì ?
Câu kiểu Ai / là gì ? (tức là giới thiệu về người, vật … nào đó).
Ví dụ: - Lan / là học sinh lớp 2B (Ai / là gì ?)
Ai
là gì
- Điện thoại / là phương tiện thơng tin nhanh nhất (Cái gì / là gì ?)
Cái gì
là gì
- Cị và Vạc / là đơi bạn thân (con gì / là gì?)
Con gì
là gì


11


Sau đó giáo viên cho học sinh thực hành với bài tập sau:
Bài tập 1: Đặt câu theo mẫu dưới đây rồi ghi vào chỗ trống:
Ai (hoặc cái gì, con gì)
Mẫu: Bạn Lan Anh
………………………………………

là gì ?
là học sinh lớp 2B
………………………………………

Bài tập 2: Ghi từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để tạo thành câu:
Ai (hoặc cái gì, con gì)

Là gì ?

Em

……………………………………..

………………………………………

Là đồ dùng học tập thân thiết của em.

Các nhóm bài tập sáng tạo gồm các dạng bài tập như sau: bài tập biến dạng
các kiểu câu, bài tập xác định dấu câu và tự viết hoa, bài tập xây dựng theo cấu
trúc đã cho, bài tập dựa vào tranh để đặt câu, cho từ yêu cầu đặt câu… Với nhóm
bài tập này giáo viên cần đưa tranh để phân tích chủ đề và làm mẫu… Hướng dẫn

học sinh làm bài và bổ sung thêm từ để có những câu văn hay, có cấu trúc đầy đủ
và có sức biểu cảm đồng thời dùng phương pháp trị chơi để kích thích sự sáng tạo,
thi đua học tập của học sinh.
d) Dạng bài tập đặt và trả lời câu hỏi Khi nào? Ở đâu? Như thế nào? Vì
sao? Để làm gì ?
Đây là kiểu bài tập đòi hỏi học sinh phải dựa theo nội dung một bài đã học
hoặc dựa theo kinh nghiệm, sự hiểu biết của mình để trả lời câu hỏi.
Ví dụ bài tập 2 – tiết Luyện từ và câu tuần 23.
Dựa vào hiểu biết của em về các con vật, trả lời các câu hỏi sau:
- Thỏ chạy như thế nào?
- Sóc chuyền từ cành này sang cành khác như thế nào?
- Gấu đi như thế nào?
- Voi kéo gỗ như thế nào?
Với loại bài tập này, giáo viên cần giúp học sinh huy động những vốn hiểu
biết của mình trong thực tiễn cuộc sống để trả lời các câu hỏi hồn thành bài tập.
Giáo viên có thể tổ chức từng cặp cho học sinh thực hành hỏi đáp trước lớp. Làm
như vậy lớp học sẽ sôi nổi và đồng thời khắc sâu kiến thức cho học sinh vừa rèn kỹ
năng trả lời các câu hỏi cho học sinh.
VD: Bài 3 - LTVC tuần 29
Đặt câu hỏi có cụm từ Để làm gì?” để hỏi về từng việc làm vẽ trong các tranh
dưới đây. Tự trả lời cho các câu hỏi ấy?

12


- Giáo viên hướng dẫn HS quan sát tranh cho biết các bạn trong tranh đang
làm gì ?
- Học sinh nêu nội dung của từng tranh.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tập nói hội thoại theo tranh, một bạn hỏi,
một bạn trả lời và đổi vai ngược lại. Sau đó học sinh trình bày trước lớp. Giáo viên

và học sinh sẽ nghe, nhận xét sửa câu sai.
- Sau cùng giáo viên cho học sinh thực hành viết lại mẫu câu vừa hội thoại
trên.
Với cách làm như vậy giáo viên đã giúp học sinh nắm vững mẫu câu hỏi và
câu trả lời cho từng dạng bài tập đặt và trả lời câu hỏi. Học sinh biết vận dụng kiến
thức và kỹ năng vào trong cuộc sống cũng như tiếp thu kiến thức ở lớp trên.
2.3.3. Giải pháp 3: Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh phát huy tối đa vốn từ
cá nhân trong các tiết học Tiếng Việt.
- Chương trình phân mơn luyện từ và câu ở lớp 2 được xây dựng rất gần
gũi với đời sống thường ngày của HS, đó cũng là một thuận lợi cho việc học tập
của các em, chính vì thế GV phải biết tận dụng vốn kiến thức bản thân HS để
chuyển tải kiến thức một cách linh hoạt.
* Chẳng hạn: Khi dạy bài “ Từ ngữ về đồ dùng và công việc gia đình” HS
sẽ rất dễ khi kể về cơng việc những người thân đã làm : quét nhà, rửa chén, nấu
cơm, làm cỏ vườn… Nhưng đôi khi sẽ lúng túng khi kể về công việc mà bản thân
làm được. Một phần vì tuổi các em cịn nhỏ chưa tham gia nhiều vào việc nhà, một
phần vì có em là con cưng trong gia đình nên khơng phải làm việc nhà…Khi gặp
trường hợp như thế giáo viên cần động viên nhắc nhở các em cố gắng tham gia vào
việc nhà, làm những gì mình có thể, ví dụ: cho gà ăn, phụ mẹ dọn cơm, gấp quần
áo… Đó cũng chính là liên hệ thực tiễn vào bài học và khắc sâu kiến thức bài học
hình thành cho HS kỷ năng sống tích cực hơn, biết chia sẽ cơng việc với người
thân, biết quan tâm giúp đỡ ông bà cha mẹ.
- Thường trong một lớp có nhiều đối tượng HS khá, giỏi, trung bình, yếu.
Những HS yếu sẽ rất ngại khi nói, bởi đơi khi các em nói khơng đúng u cầu. Nên
khi hướng dẫn thực hành bài tập giáo viên sẽ dành cho HS yếu được nói trước
những gì các em nghĩ được, tránh để HS khá giỏi nói trước, HS yếu sẽ mất tự tin,
13


sợ giống ý kiến của bạn, sợ sai. Không phải HS yếu bao giờ cũng nói khơng đúng,

vì vậy khi dạy phân mơn luyện từ và câu khơng khó khăn lắm khi GV cho HS yếu
được tham gia hoạt động. Giáo viên sẽ ít tốn thời gian hơn trong việc giũ trật tự lớp
học (bởi HS không làm việc sẽ nói chuyện riêng). Cũng từ việc được tham gia nói
và trình bày học sinh sẽ nhớ lâu và tích lũy vốn từ của mình ngày càng phong phú.
Từ đó học sinh sẽ vận dụng từ vào trong nói và viết một cách rõ ràng, mạch lạc
hơn.
2.3.4. Giải pháp 4: Vận dụng linh hoạt một số trò chơi gây hứng thú trong học
luyện từ và câu cho học sinh.
Học tập thông qua trị chơi là phương pháp có hiệu quả cao trong dạy học
phân mơn Luyện từ và câu.Trị chơi học tập khơng chỉ nhằm vui chơi giải trí mà
cịn góp phần củng cố kiến thức, kĩ năng học tập cho học sinh
- Trị chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động hấp dẫn học sinh,
nó tạo cho các em ghi nhớ sâu hơn kiến thức vừa được học.
- Trị chơi học tập là hình thức tổng hợp trí tuệ giữa các đội chơi, đã tổ chức
chơi thì đội nào cũng muốn giành chiến thắng nên các em đều cố gắng hết mình vì
vậy kết quả học tập sẽ được nâng cao.
- Việc sử dụng trò chơi học tập làm cho tiết học giảm bớt phần khô khăn
tăng thêm phần sinh động, hấp dẫn. Những bài tập tổ chức chơi trò chơi thường là
các bài tập cuối tiết hoặc các bài tập dưới dạng củng cố mở rộng kiến thức nó
thưởng diễn ra khoảng 5 đến 6 phút.
* Ví dụ: - Giáo viên có thể sử dụng Trị chơi: “Tìm nhanh từ cùng chủ đề” để ơn
tập, củng cố vốn từ theo chủ điểm.
Với trò chơi này giúp học sinh: - Mở rộng vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so
sánh. Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thơng minh và cách ứng xử nhanh. Trị
chơi này có thể được sử dụng ở các bài:
+ Kể tên các môn em học ở lớp 2 (tuần 7).
+ Hãy kể tên những việc em đã làm ở nhà giúp cha mẹ (tuần 13).
+ Tìm những từ chỉ đặc điểm của người và vật (tuần 15).
+ Viết tên các con vật trong tranh (tuần 16).
+ Nói tên các lồi chim trong tranh (tuần 22).

+ Tìm các từ ngữ có tiếng "biển" (tuần 25).
+ Kể tên các con vật sống ở dưới nước (tuần 26).
+ Kể tên các loài cây (tuần 28)
+ Tìm những từ ngữ chỉ nghề nghiệp (tuần 33);
- Giáo viên cũng có thể sử dụng trị chơi: “Hỏi nhanh, đáp giỏi”. Trò chơi
này giúp cho học sinh rèn kỹ năng hỏi và trả lời câu hỏi, rèn luyện tư duy và phản
ứng nhanh, củng cố các dạng Bài tập: Đặt và trả lời câu hỏi: Khi nào? Ở đâu? Như
thế nào? Vì sao? Để làm gì ?
Trị chơi này có thể áp dụng được với các dạng bài: Bài tập 3,4 Tuần 19; Bài
tập 2 Tuần 28; Bài tập 2,3 Tuần 30
Việc sử dụng trò chơi trong các tiết luyện từ và câu lớp 2 giúp học sinh thấy
giờ học sinh động, nhẹ nhàng, dễ tiếp thu kiến thức, học sinh học tập một cách tích

14


cực cũng như giúp học sinh củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh
nghiệm được tích lũy qua trò chơi.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sĩ số HS
36

Hoàn thành
tốt
SL
TL
20
55%

Hoàn thành

SL
16

TL
45%

Chưa hoàn
thành
SL
TL
0

Như vậy kết quả thu được là tương đối tốt, hầu hết học sinh đều có ý thức làm
bài tập, có thái độ tích cực trong việc học và làm bài tập Luyện từ và câu. Xét một
cách toàn diện các em đều nắm được những kiến thức và kĩ năng cơ bản về Luyện
từ và câu. Các dạng bài tập cụ thể các em đều tự độc lập suy nghĩ
làm bài theo đúng khả năng của mình, khơng nhìn bài của bạn.
Một số em làm bài tập đạt kết quả tương đối cao, biết cách trình bày bài và
chữ viết sạch đẹp. Qua bài tập dùng từ đặt câu, dùng dấu chấm, dấu chấm hỏi học
sinh đã bộc lộ được tình cảm trong sáng của lứa tuổi học trò. Cụ thể là lứa tuổi tiểu
học hồn nhiên của các em. Qua các bài tập Luyện từ và câu, các em đã thể hiện
được tình cảm, đạo đức, tình u đồng loại và lịng u q hương đất nước, bày tỏ
được suy nghĩ, tư tưởng tiến bộ rất đáng trân trọng của các em.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Phân mơn luyện từ và câu có một vị trí rất quan trọng trong việc phát triển
văn hố của đất nước, bởi vì một đất nước phát triển thì trước tiên con người phải
phát triển. Cho nên việc rèn luyện từ và câu cho học sinh là thiết thực và cần thiết.
Thực tế cho thấy trong phân mơn Luyện từ và câu thì kỹ năng dùng từ để đặt
câu là rất cơ bản và là trọng tâm của môn Tiếng Việt. Muốn làm tốt bài tập Luyện

từ và câu, học sinh phải nắm chắc lý thuyết và các quy tắc, định nghĩa, kỹ năng
làm bài tập.
Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở
lớp 2, tôi thấy để tiết dạy có kết quả tốt cần thực hiện tốt các giải pháp, biện pháp
như đã nêu ở trên.
3.2. Kiến nghị:
Sau khi thực hiện đề tài này, tôi nhận thấy học sinh không những học tốt phân
môn Luyện từ và câu mà cịn học tốt cả những phân mơn khác trong môn Tiếng
Việt như : Tập đọc, Tập làm văn…
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

P. Đông Sơn, ngày tháng năm …..
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.

15


Nguyễn Thị Hương
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Lý Tự Trọng.

TT


1.
2.

Tên đề tài SKKN

Một số biện pháp dậy dạng bài kể, nói và
viết về 1 số chủ đề của phân môn Tập làm
văn lớp 3
Mộ số Giải pháp sử dụng đồ dùng dạy học
giúp học sinh học tốt phân môn lịch sử lớp
5 trường TH Nga Thạch

Cấp đánh
giá xếp
loại
(Ngành GD
cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại


Huyện

B

2015-2016

B

2018-2019

Huyện

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A, Đỗ Xuân Thảo – Giáo trình Tiếng Việt 1, Nhà xuất bản giáo dục, 1997
2. Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh – Giáo trình Tiếng Việt 2, Nhà xuất bản giáo dục, 1997
3. Lê Phương Nga, Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh – Phương pháp dạy học Tiếng Việt I, Nhà
xuất bản giáo dục, 1998.
4. Lê Phương Nga – Dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học, Nhà xuất bản giáo dục.
5. Nguyễn Minh Thuyết – Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2003.
6. Sách giáo viên Tiếng Việt 2, Nhà xuất bản giáo dục, 2003.
7. Vở bài tập Tiếng Việt 2, Nhà xuất bản giáo dục, 2003.
8. Các tạp chí giáo dục tiểu học và một số tài liệu khác có liên quan.

17




×