Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học theo hướng chuẩn kiến thức kỹ năng không để HS ngồi sai lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.97 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục .........................................................................................................................1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3
4. Giả thuyết khoa học.................................................................................................4
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI............................................................................4
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC THEO HƯỚNG CHUẨN KIẾN THỨC KỸ
NĂNG .........................................................................................................................5
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
1. Giải pháp thứ nhất: Giúp giáo viên vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù
hợp với từng đối tượng HS; giáo viên cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ HS..............5
2. Giải pháp thứ 2: Người giáo viên phải làm gì để học sinh nhận thức chậm, hay
quên; học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn học tốt hơn?......................................9
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
3. Giải pháp thứ 3: Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình không
khoán trắng cho nhà trường và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình
là rất cần thiết?............................................................................................................12
IV. KIỂM CHỨNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC............................................................13
1. Kết quả đạt được.....................................................................................................13
2. Mặt tích cực và hạn chế của việc vận dụng các giải pháp dạy học theo hướng
chuẩn kiến thức kỹ năng.............................................................................................14
3. Phạm vi tác dụng.....................................................................................................15


4. Bài học kinh nghiệm...............................................................................................15
KẾT LUẬN.................................................................................................................16
1


PHỤ LỤC....................................................................................................................17

“Giáo dục không nhằm mục tiêu nhồi nhét kiến thức mà là thắp sáng niềm tin”
(Education is not the filling of a pail, but the lighting of a fire)
- W. B. Yeats -

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Chất lượng dạy và học là mối quan tâm hàng đầu của nền giáo dục trên thế giới,
hầu hết các nước đều ra sức tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và học.
Với mong muốn là làm sao để người dạy truyền đạt được kiến thức một cách dễ
dàng, người học nắm bắt và vận dụng được kiến thức đó trong thời gian ngắn nhất
vào thực tế, do vậy càng lúc càng đặt ra những yêu cầu gay gắt trong việc nâng cao
chất lượng giảng dạy và cách đánh giá người học như thế nào là khách quan, công
bằng, là động lực thúc đẩy để người học thấy đó là động lực, mục tiêu phấn đấu. Ai
cũng biết rằng kiến thức chính là chìa khóa vạn năng để mở mọi cánh cửa ở tương
lai và kiến thức chính là sự kế thừa thế hệ trước và sự phát triển của thế hệ nối tiếp
sau.
Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều quan
tâm, bởi vì “Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”, để ngày mai thế giới có những
chủ nhân tốt, xã hội có những công dân tốt thì ngay từ ngày hôm nay chúng ta phải
đào tạo thế hệ trẻ có kiến thức cơ bản về tự nhiên xã hội và có phẩm chất đạo đức
của con người để các em được học lên các cấp học trên dễ dàng. Nhiệm vụ giáo dục
học sinh luôn luôn được xã hội quan tâm nhưng quan trọng hơn cả vẫn là nhà
trường, đặc biệt là trường tiểu học. Bởi vì nhà trường nói chung và trường tiểu học

nói riêng là nơi kết tinh trình độ văn minh của xã hội trong công tác giáo dục trẻ
em. Đứa trẻ ngày hôm nay và mai sau trở thành những người như thế nào là tuỳ
thuộc rất nhiều vào cấp tiểu học các em được học những gì.

2


Xã hội ngày nay đang nói rất nhiều về giáo dục, về chất lượng học sinh lên lớp,
về những học sinh ngồi sai lớp từ khi có cuộc vận động “Hai khơng” của Bộ trưởng
Bộ giáo dục và đào tạo. Những người làm giáo dục như tơi khơng khỏi suy nghĩ
phải làm gì, làm như thế nào để “sản phẩm” của mình phải có chất lượng, những lí
do trên đã thơi thúc tơi cần phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể góp phần đưa chất
lượng học sinh trong nhà trường đạt hiệu quả tốt. Là một giáo viên dạy lớp và một
tổ trưởng chun mơn cơng việc chủ yếu là giảng dạy và cùng với phó hiệu trưởng
chun mơn dự giờ theo dõi việc giảng dạy của giáo viên trong tổ. Qua giảng dạy
và dự giờ giáo viên trong tổ, tơi nhận thấy chất lượng giảng dạy chưa đáp ứng được
mục tiêu giáo dục đặt ra. Đặc biệt là từ khi Bộ GD-ĐT đưa ra u cầu dạy học theo
chuẩn kiến thức kỹ năng theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ban hành chương
trình giáo dục phổ thơng – cấp Tiểu học ngày 05/5/2006, tơi đặc biệt chú trọng đến
việc dạy và học theo chuẩn kiến thức kỹ năng, nếu các em khơng đạt được chuẩn
kiến thức kỹ năng của lớp đang học thì lên lớp trên các em sẽ bị hổng kiến thức.
Như vậy dạy học như thế nào để người học đạt được chuẩn kiến thức kỹ năng? Đây
là câu hỏi mà mọi người đều đặt ra và cũng có nhiều câu trả lời cho vấn đề đó. Ở
đây chúng ta khơng bàn về những câu trả lời mà chỉ trao đổi một vài vấn đề về giải
pháp giảng dạy giúp hs đạt chuẩn kiến thức kỹ năng vì đây chính là yếu tố quyết
định để người dạy và người học hồn thành nhiệm vụ trọng tâm của mình.
Từ thực tế giảng dạy và theo dõi về chun mơn tơi đã chọn đề tài: “Một số giải
pháp nâng cao chất lượng dạy và học theo hướng chuẩn kiến thức kỹ năng
khơng để HS ngồi sai lớp” làm đề tài phát triển kinh nghiệm cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu:

Nghiên cứu đề tài nhằm nắm được mục tiêu, u cầu về chuẩn kiến thức kỹ năng
mà hs cần đạt ở từng khối lớp. Từ đó đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu đưa ra những
giải pháp dạy học thích hợp theo hướng chuẩn kiến thức kỹ năng nhằm giúp hs đạt
được chuẩn kiến thức kỹ năng khơng để hs ngồi sai lớp.
3. Một số phương pháp sử dụng trong q trình nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu : Nghiên cứu tài liệu, sách báo có liên quan
đến đề tài.
3


- Phương pháp quan sát: Sử dụng phương pháp này để nghiên cứu, quan sát các
hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh.
- Phương pháp đối thoại: Trực tiếp trò chuyện với học sinh để cập nhật những
thơng tin phản hồi từ học sinh cho phương pháp điều tra.
- Phương pháp điều tra: Đây là phương pháp chủ đạo nhằm thu thập những số
liệu, hiện tượng từ đó phát hiện ra vấn đề cần giải quyết có liên quan đến việc
tiếp thu tri thức của HS.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của học sinh: Được dùng để khảo
sát và đánh giá trình độ học tập của HS thơng qua các bài thực hành và kiểm tra.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp này để xử lí các số liệu
đi đến kết luận phù hợp với giả thuyết khoa học.
4. Giả thuyết nghiên cứu: Nếu đề tài nghiên cứu thành cơng đề ra được những
giải pháp dạy học thích hợp theo hướng chuẩn kiến thức kỹ năng sẽ giúp hs đạt
được chuẩn kiến thức kỹ năng, HS sẽ khơng ngồi sai lớp.

II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Qua q trình giảng dạy và theo dõi chất lượng giáo dục của tổ nói chung và của
lớp tơi phụ trách nói riêng, tơi nhận thấy chất lượng giảng dạy theo chuẩn kiến thức
kỹ năng đạt hiệu quả chưa cao có rất nhiều ngun nhân, nhưng tập trung vào
những ngun nhân chủ yếu sau đây:

1. Đối với giáo viên: Vận dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp với từng đối
tượng học sinh nên chất lượng chưa cao, một số giáo viên chưa nhiệt tình giúp đỡ
HS.
2. Đối với học sinh: Một bộ phân HS bị bệnh lý bẩm sinh học hay qn; lười
học; do hồn cảnh gia đình; vào học khơng tập trung, chủ quan trong giờ học.
3. Đối với phụ huynh: Một số gia đình khơng quan tâm đến con em mình, phó
mặc khốn trắng cho nhà trường.

4


III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC THEO HƯỚNG CHUẨN
KIẾN THỨC KỸ NĂNG:
Học sinh Tiểu học khi mới vào trường các em còn rất bỡ ngỡ và mọi thứ còn rất
mới lạ, trong thời gian đầu các em được học những gì và được dạy gì phụ thuộc
phần lớn vào thầy cô ở trường. Vì thế, để dạy cho các em đạt được chuẩn kiến thức
kỹ năng của bậc học nói chung và ở từng khối lớp nói riêng thì ngay từ năm đầu cấp
đòi hỏi người giáo viên phải luôn tìm hiểu và nghiên cứu nội dung, phương pháp
dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, hiểu được hoàn cảnh của các em,
hiểu được tâm lý các em và đòi hỏi phải có sự nhiệt tình tâm huyết của người thầy.
Chính vì những lý do đó mà ngay từ đầu tôi đã phân loại học sinh ở lớp tôi phụ
trách, bắt đầu từ cuối tháng 9 cụ thể như sau:
*Tổng số học sinh của lớp (3/1): 23/13 em
 Học sinh đọc, viết, làm toán, làm tính theo chuẩn: 16/10 em
 Học sinh đọc, viết, làm toán, làm tính chậm so với chuẩn: 7/4 em (Có danh
sách HS kèm theo)
Từ những số liệu về tình hình học sinh mà tôi đã thống kê, cùng với quá trình
BGH dự giờ để tìm hiểu rõ nguyên nhân nào các em lại đọc, viết, làm toán, làm
tính chậm so với yêu cầu chuẩn, tôi cùng Ban giám hiệu nhà trường họp giáo
viên trong tổ để đưa ra những giải pháp cụ thể và tiến hành ngay để làm sao

nâng dần chất lượng dạy theo chuẩn kiến thức kỹ năng cho các em học sinh. Sau
đây là một số giải pháp dạy học theo hướng chuẩn kiến thức kỹ năng giúp HS
đạt được chuẩn kiến thức kỹ năng không để HS ngồi sai lớp:
1. Giải pháp thứ nhất: Giúp giáo viên vận dụng linh hoạt phương pháp dạy
phù hợp với từng đối tượng HS; giáo viên cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ
HS.
1.1. Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng:
-Yêu cầu giáo viên phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối
tượng như sau:
• Nhóm 1: Gồm những học sinh chậm, yếu
• Nhóm 2: Gồm những học sinh trung bình
5


• Nhóm 3: Gồm những học sinh khá
• Nhóm 4: Gồm những học sinh giỏi
-Giáo viên có thể thay tên nhóm 1,2,3,4 thành tên khác như nhóm
A,B,C,D…Trong quá trình dạy giáo viên vẫn phải lấy chuẩn để làm thước đo nhưng
ở các tiết ôn tập, các giờ ôn của buổi chiều hay các giờ ngoại khóa giáo viên yêu
cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 4 mức khác nhau trong cùng một giờ học.
Ví dụ: Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 3 và 4. Các
dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương này. Chẳng hạn bài 46 vần
ÔN, ƠN các em chỉ cần viết ôn, ơn, con chồn, sơn ca, mỗi vần, mỗi từ chỉ một
dòng, trong khi đó các em ở nhóm 3, 4 viết nhiều hơn mỗi loại như trên từ 2 đến 3
dòng. Các em ở nhóm 2 chỉ cần viết theo yêu cầu chuẩn.
-Ban giám hiệu cùng giáo viên thống nhất trong các giờ học ngoại khóa cho
những em học sinh chậm, yếu ở lại phòng học, giáo viên tiếp tục kèm cho các em
đọc, viết nội dung nào các em còn yếu.
1.2. Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật
thật….cho học sinh học chậm.

Ở lứa tuổi HS tiểu học khả năng tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em
phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu
cầu giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo
viên tự làm. Đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển tải thông tin và là nội dung
truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó
có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng
trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy
học có tác dụng rất lớn trong quá trình truyền thụ kiến thức kỹ năng cho học sinh,
nhất là các em học sinh học chậm.
Ví dụ: Ở những bài học về vần. Chẳng hạn như Bài 41 trang 86 Sách giáo khoa
Tiếng Việt 1 Tập 1: Dùng tranh vẽ (hoặc vật thật) trái lựu; Tranh con hươu sao để
học sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau khi các em đã nhận diện vần ưu và ươu ở
phần đầu tiết học. Từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác

6


hơn các vần và các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật thật đến vần của
bài học.
Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học sinh nhớ
vần và từ tốt hơn.
-Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết
tập đọc môn Tiếng Việt lớp 1 – học kì II.
Ví dụ: Bài Chuyện ở lớp – Trang 100 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập II –
Phần luyện nói: Tìm tiếng ngoài bài: Có vần uôt. Giáo viên treo tranh một người
đang tuốt lúa – Giáo viên hỏi nội dung bức tranh, sau đó cho các em nói câu có vần
uôt, động viên các em học chậm nói trước, nhìn vào tranh tự các em có thể nói được
như: Mẹ (cô, chị, dì) đang tuốt lúa hoặc là máy tuốt lúa. Dùng tranh, ảnh trong các
phần này tôi nghĩ rằng có tác dụng rất lớn đối với các em học chậm, các em vừa nói

được câu có vần cần tìm và còn hiểu được nghĩa của câu đó. Tuy nhiên các em HS
khá, giỏi nói các câu khác cũng có vần uôt như con chuột, sáng suốt mà không cần
dựa vào tranh.
Ví dụ: Dạy bài “Phòng bệnh lao phổi” môn TNXH – Lớp 3. Giáo viên cho học
sinh xem một đoạn phim phóng sự về thông tin người bệnh lao phổi và biện pháp
phòng bệnh lao phổi. Học sinh sẽ dễ dàng biết được nguyên nhân gây bệnh, con
đường truyền bệnh, tác hại của nó và cách phòng bệnh. Học sinh còn nhớ bài được
lâu hơn.
Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo tranh,
ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh khá giỏi lại vừa tạo
sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm.
Giáo viên cần lưu ý: Đồ dùng phải khoa học, thẩm mĩ, có tính sư phạm. Giáo
viên không nên lạm dụng mà cần sử dụng đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ, dùng xong
nên cất ngay để tránh gây mất tập trung cho các em.
1.3. Động viên các em
Bất kì một ai cũng đều thích mình được khen ngay cả người lớn cũng vậy. Ở
lứa tuổi học sinh tiểu học lại càng thích được khen nhiều hơn. Đối với các em học
yếu, cơ hội các em được khen là rất ít. Do đó, giáo viên cần trân trọng mọi cố gắng

7


của các em, khen ngợi các em cho dù đó là sự tiến bộ rất nhỏ. Giáo viên cần tạo
điều kiện để các em được khen. Trong tiết học giáo viên cần có những câu hỏi gợi
mở phù hợp với các em để các em trả lời được.
Ví dụ: Dạy bài tập đọc “Nhớ Việt Bắc” môn tập đọc – Lớp 3. Đối với câu hỏi
1/SGK: Người cán bộ về xuôi nhớ những gì ở Việt Bắc? Giáo viên có thể hỏi thêm
câu “Trong bài thơ, ta chỉ ai? mình chỉ ai? để giúp các em dễ hiểu “ta” chỉ tác giả là
người cán bộ về xuôi; còn “mình” chỉ người Việt Bắc là người ở lại. Như vậy, với
các em học chậm mới có thể trả lời tốt câu hỏi 1/SGK được. Nếu không các em dễ

bị nhầm lẫn giữa “ta” và “mình”.
Ngoài ra tôi thấy sử dụng mô hình “Vườn hoa học tốt” là một phương pháp
khuyến khích học tập rất hay. Các em rất thích được khen thưởng hoa. Các em sẽ cố
gắng làm bài cho tốt, tích cực phát biểu để được giáo viên khen thưởng hoa.
Giáo viên cần lưu ý thêm nếu học sinh có trả lời sai thì cần khuyến khích cho
các em ở lần sau được tốt hơn. Tránh những lời nói làm cho các em mặc cảm với
bạn bè, không dám phát biểu nữa.
1.4. Người giáo viên cần có lòng nhiệt tình, luôn quan tâm giúp đỡ HS.
Ở lứa tuổi các em việc tiếp thu kiến thức còn thông qua hình thức: Học mà
chơi, chơi mà học, giáo viên phải nhẹ nhàng, ân cần dạy bảo các em luôn tạo không
khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học, một lời nhận xét động viên các em giúp các em
thấy tự tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, tránh quát mắng các
em khi các em làm sai hay chưa làm được. Đặc biệt không được ngồi một chỗ bảo
các em đọc đi, viết đi mà giáo viên phải đi xuống bên học sinh xem em nào đã làm
được còn em nào làm chưa được nhắc nhở các em, chỉ cụ thể để các em làm cho tốt.
Làm sao để mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Giáo viên phải gần gũi
với học sinh thì mới hiểu được về học sinh của mình, để hình ảnh ân cần của cô
luôn là hình ảnh đẹp trong ánh mắt của các em, bản thân các em cũng thấy cô giáo
như người thân trong gia đình sẵn sàng kể cho cô nghe những niềm vui hoặc những
khó khăn của mình trong học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày mà cần cô giúp đỡ.
Ví dụ: Em Hà lớp 3/1 em viết rất hay sai, không đúng cỡ chữ, không ngay
hàng, một số chữ hay lẫn lộn trong 3 tháng đầu năm học. Nhưng qua quá trình rèn

8


luyện cùng với lời khen dù chỉ là tiến bộ nhỏ nhất, đến nay em đã tiến bộ rõ rệt, chữ
viết đã đúng, rõ ràng, thẳng hàng hơn.
*Tóm lại: Qua việc chỉ đạo và theo dõi quá trình dạy học của giáo viên toàn
trường nói chung và giáo viên khối 3 nói riêng, tôi nhận thấy nếu người giáo viên

biết lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp với từng trình độ học sinh của một lớp
cùng với lòng nhiệt tình, quan tâm giúp đỡ học sinh học chậm thì chất lượng học
sinh sẽ ngày một nâng lên.
2. Giải pháp thứ 2: Người giáo viên phải làm gì để học sinh nhận thức
chậm, hay quên; học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn học tốt hơn?
Có lẽ nguyên nhân này là nguyên nhân lớn làm giảm chất lượng học sinh,
qua dự giờ ở tất cả các khối lớp trong tổ, những người làm giáo dục chúng tôi thực
sự băn khoăn và trăn trở bởi số học sinh này không phải chỉ có 1 hay 2 em, nên tôi
nghĩ cần có kế hoạch cụ thể để giúp giáo viên khối 3 nói riêng và giáo viên toàn
trường nói chung dạy những học sinh này như thế nào cho đạt kết quả tốt, không
phải trong một tháng mà trong cả một năm học, có khi cả trong hè.
2.1. Đối với học sinh nhận thức chậm, hay quên.
-Yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải phân loại và nắm được số lượng dạng học
sinh này, giáo viên cần có một phương pháp dạy và dạy một lượng kiến thức phù
hợp cho các em. Tuy nhiên với học sinh cả lớp giáo viên vẫn lấy chuẩn để làm mục
tiêu phấn đấu, còn những em này nếu dạy chung theo chuẩn của chương trình đề ra
thì các em không thể theo kịp, vì thế yêu cầu trước hết giáo viên sắp xếp chỗ ngồi
cho các em phù hợp và có tác dụng thúc đẩy.
Ví dụ: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự giúp đỡ từ
bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc lại câu của bạn nói,
được các bạn nhắc nhở luôn với hình thức này là điều kiện rất tốt cho các em hoạt
động nhóm đôi, tránh cho các em cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi cuối cùng
của lớp, cần tạo điều kiện cho các em học tốt để các em biết phát huy những ưu
điểm của bạn

9


-Dạy các em lượng kiến thức phù hợp như: Về viết chỉ yêu cầu các em viết
một số dòng nếu như những học sinh bình thường có thể viết nhiều dòng trở lên

(phân môn Tập viết).
-Dạy tập làm văn chỉ cần các em viết đoạn văn đảm bảo đủ các gợi ý của bài;
Môn chính tả, các em viết quá yếu thì trong giờ chính tả cho các em nhìn sách viết,
sau đó gv sẽ đọc lại cho các em viết trong giờ ra chơi.
-Về đọc tăng cường gọi các em đọc nhiều lần, luyện đọc nhiều lần từ khó
(cho HS đọc câu, đoạn kết hợp trả lời những câu hỏi dễ).
-Gv cần có sự chuẩn bị kĩ cả về giáo án và đồ dùng dạy học. Dự đoán trước
những tình huống có thể xảy ra và chuẩn bị sẵn một hệ thống câu hỏi gợi mở để học
sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức.
Ví dụ: Dạy Tự nhiên xã hội, bài: Quả (Lớp 3)
- Đồ dùng dạy học: một số loại quả
- Hệ thống câu hỏi:
+ Quả gồm những bộ phận nào? Chỉ rõ các bộ phận đó?
+ Bóc hoặc gọt vỏ, nhận xét về vỏ quả xem có gì đặc biệt?
+ Bên trong vỏ gồm những bộ phận nào? Chỉ phần ăn được của quả
đó?
Ngoài ra giáo viên cần có kế hoạch về thời gian để kèm cặp, phụ đạo cho
phù hợp. Giáo viên cần phải linh động trong việc giảng dạy. Và với hình thức khoán
chương trình cho giáo viên, giáo viên được chủ động đưa ra kế hoạch giảng dạy,
nhưng vẫn đảm bảo dạy đủ, dạy đúng kiến thức theo chương trình Tiểu học. Ví dụ:
Dạy hai bài “xem đồng hồ”, giáo viên có thể dạy gộp thành một bài (vì hai bài kiến
thức đơn giản). Như vậy giáo viên có thêm thời gian phụ đạo, kèm học sinh yếu.
Giáo viên cố gắng cuối mỗi buổi học cho thêm các bài tập nào các em còn
yếu về nhà làm. Có câu “Trăm hay không bằng tay quen”. Các em được tính toán
nhiều từ từ sẽ nhớ cách làm bài. Hôm sau, giáo viên cố gắng lên lớp sớm khoảng 15
phút vào kiểm tra các em tất cả những gì giáo viên đã dặn và hướng dẫn thêm cho
các em nếu các em làm chưa tốt.

10



Ngoài ra giáo viên có thể kèm thêm vào giờ chơi hoặc các tiết giáo viên bộ
môn nghỉ. Nhưng sử dụng giờ chơi cũng cần hạn chế vì tuổi các em là vừa học vừa
chơi. Nếu chúng ta “nhồi nhét” quá sẽ vô dụng.
Trong lớp gv thành lập “đôi bạn cùng tiến”, hai em (học tốt và học chậm)
ngồi cùng bàn theo dõi lẫn nhau, khi đó giáo viên giao việc cụ thể cho em học tốt
giúp bạn như thế nào, gv phải quan tâm đặc biệt tới những em học chậm theo dõi
sát khi các em đọc, viết,… cho các em đọc nhiều hơn, gợi mở cho các em phát biểu,
động viên các em mỗi khi các em có tiến bộ.
Đối với các em lười học, gv đặc biệt quan tâm và cần có sổ liên lạc riêng về
nhà hằng ngày, giao việc cụ thể trong sổ để phụ huynh hướng dẫn ở nhà thêm. Điều
này tôi nói rõ hơn ở giải pháp thứ ba.
Sau một thời gian thực hiện tôi nhận thấy các em có sự chuyển biến tích cực,
viết chính tả ít sai hơn, đọc khá hơn, làm toán đã khá hơn. Như vậy giáo viên cần có
lòng nhiệt tình, kiên trì hơn với những học sinh này.
2.2. Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình như mồ côi, cha mẹ
bất hoà, cuộc sống khó khăn.
-Nguyên nhân này cũng là yếu tố làm giảm chất lượng học sinh, trong quá
trình tìm hiểu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết bài, ngồi ngơ ngác có
khi còn ngủ gật, không chú ý cô giảng bài…Đối tượng học sinh này cần được quan
tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy muốn các học sinh này học tốt giáo
viên phải nắm được hoàn cảnh thực tế của các em từ đó mới có biện pháp cụ thể để
dạy các em.
-Để giúp giáo viên về biện pháp dạy và tạo điều kiện tốt cho các em học tập,
tôi bàn với Ban giám hiệu trường chủ động tham mưu với hội phụ huynh học sinh,
các cơ quan đóng trên địa bàn giúp đỡ về vật chất như tập, đồ dùng, quần áo.
Như: Tặng cho các em sách vở, quần áo, đồ dùng học tập. Cần động viên các
em trong mọi hoạt động nhất là với những em mồ côi, gần gũi quan tâm các em khi
các em bệnh, ốm, tạo không khí thoải mái trong học tập, để các em thấy cô giáo là
người mẹ thứ hai của mình, các em không còn thấy cô đơn khi tới trường.


11


*Tóm lại: Đối với học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, giáo viên cần quan tâm,
giúp đỡ, động viên các em giúp các em tự tin trong học tập và hoà nhập với cộng
đồng, cần giúp đỡ các em cả vật chất và tinh thần.
3. Giải pháp thứ 3: Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em
mình không khoán trắng cho nhà trường và thấy được sự phối hợp giữa nhà
trường và gia đình là rất cần thiết?
Từ thực tế cho thấy nhiều cha mẹ học sinh cho con đến trường là xong nhiệm
vụ còn trách nhiệm dạy, giáo dục con mình là phần thầy cô giáo, có những em bị
bệnh nhưng cha mẹ không hề biết vẫn cho con đi học có khi các em đi học cả buổi
mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả khi các em bị ốm mà phụ huynh cũng không quan tâm
tới các em. Với các trường hợp này đòi hỏi giáo viên cần phải thường xuyên liên lạc
với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để họ hiểu rằng kết quả học tập của các em
có tốt là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và nhà trường. Yêu cầu quan
tâm tối thiểu như cha mẹ các em cần kiểm tra bài vở của các em sau mỗi buổi học ở
trường xem con mình đã học những môn nào, các em có ghi chép đủ không, giúp
các em soạn sách vở trong thời gian đầu và theo dõi kiểm tra nhắc nhở các em việc
soạn sách vở khi cho các em đã tự làm, hướng dẫn các em đọc bài nhiều lần ở nhà,
chuẩn bị cho bài mới. Còn giáo viên ngoài họp phụ huynh theo kế hoạch chỉ đạo
định kì chung 3 lần/ năm học, phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh
bằng phiếu liên lạc hay trực tiếp trao đổi với phụ huynh khi cần thiết. Bên cạnh đó
giáo viên cần phối hợp với hội phụ huynh của lớp nhờ hội trưởng của lớp giúp đỡ.
Ngoài ra, giáo viên nên có sổ theo dõi liên lạc riêng đối với các em này, đặc
biệt các em lười học thì phải có. Giáo viên sẽ nhận xét tình hình của các em sau
buổi học và nêu những yêu cầu cần thực hiện cho ngày hôm sau để phụ huynh
hướng dẫn trước ở nhà cho các em. Nếu được giáo viên cố gắng liên lạc hằng ngày
còn như không thì có thể liên lạc hằng tuần để phụ huynh kịp thời nắm bắt tình hình

học của con mình. Đối với HS học yếu GV có thể đến nhà nắm hoàn cảnh của các
em để có biện pháp giáo dục tốt hơn.
Ví dụ: Năm nay lớp tôi có 4 em thường xuyên quên mang tập vở, không làm
bài ở nhà và không viết chính tả trước ở nhà. Tôi trao đổi với phụ huynh các em sau

12


buổi học; gửi sổ liên lạc riêng về hằng ngày, trong đó ghi rõ công việc ở nhà cần
thực hiện. Yêu cầu phụ huynh kí tên khi gửi sổ lại cho giáo viên. Chẳng hạn: Ngày
mai, thứ ba, giáo viên giao việc về nhà cho em như sau:
+ Viết chính tả bài “Bài tập làm văn” vào vở nháp (2lần).
+ Làm toán trong vở bài tập; ôn lại các bảng nhân, chia từ 2 – 6.
+ Đọc lại bài tập đọc “Bài tập làm văn” và đọc bài mới “Nhớ lại buổi đầu đi
học”.
Ngày sau giáo viên kiểm tra những gì đã dặn và nhận xét tình hình học của
em ngày hôm đó vào sổ liên lạc về cho phụ huynh biết. Sau khoảng 4 tháng, tôi
nhận thấy chính tả các em có tiến bộ hơn nhiều, chữ viết đã rõ ràng hơn, bài viết đạt
điểm trên trung bình có khi đạt được điểm 9. Những lần như vậy tôi khen ngợi rất
nhiều, các em rất vui và luôn cố gắng.
* Tóm lại: Giáo viên cần giữ mối liên hệ thường xuyên với phụ huynh học
sinh, cần nhiệt tình, mềm dẻo trước những phụ huynh khó tính, phải thường xuyên
trao đổi và cả tư vấn cho phụ huynh hiểu được quá trình học tập của các em tốt phải
có sự hỗ trợ quan tâm từ phía gia đình.

13


IV. KIỂM CHỨNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
1. Kết quả đạt được:

Qua một học kỳ tôi đã vận dụng những điều trên vào việc giảng dạy, tôi nhận
thấy số lượng hs chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng của lớp giảm dần, cụ thể như
sau:
Phân loại học sinh
HS đọc, viết, làm toán, làm tính tốt
HS đọc, viết, làm toán, làm tính theo chuẩn
HS đọc, viết, làm toán, làm tính chậm so

Đầu năm học
Tổng số học

Cuối học kì I
Tổng số học

sinh lớp 3/1
23/13
5/3
11/6
7/4

sinh lớp 3/1
23/13
8/6
13/7
2/0

với chuẩn
Ngoài số liệu trên tôi còn nhận thấy rõ kết quả tác động của các giải pháp
dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng giúp hs đạt chuẩn không để hs ngồi sai lớp:
* Giáo viên biết vận dụng khéo léo và vận dụng linh hoạt các phương pháp

dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp.
* Tìm hiểu rõ được nguyên nhân và hoàn cảnh của các em, giáo viên chủ
động bàn bạc với Ban giám hiệu nhà trường với các thành viên trong tổ khối tìm
giải pháp hợp lí, sẵn sàng nhiệt tình giúp đỡ các em.
* Học sinh có sự chuyển biến tích cực trong học tập, tự giác học và có rất
nhiều cố gắng nhất là các em có hoàn cảnh đặc biệt, các em có bệnh lí đồng thời các
em còn cảm nhận được sự gần gũi, yêu thương của thầy cô, biết hoà đồng cùng các
bạn, biết chia sẻ những vui, buồn, khó khăn với bạn bè, thầy cô. Các em tự tin trong
học tập và thực sự thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
* Dạy học theo chuẩn làm nền móng tốt cho các em học lên lớp trên, tạo đà
để chất lượng học tập ngày một tốt hơn.
* Một số phụ huynh nhận thấy rõ vai trò của gia đình trong quá trình giáo
dục con em mình, nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm tới các em nhiều hơn, thường xuyên
giữ mối liên hệ với nhà trường, hiểu được tầm quan trọng của sự kết hợp giữa nhà
trường và gia đình.

14


2. Mặt tích cực và hạn chế của việc vận dụng các giải pháp dạy học theo chuẩn
kiến thức kỹ năng:
a. Tích cực:
- Vận dụng nhiều phương pháp dạy tích cực kích thích hứng thú tiếp thu kiến thức
hs.
- Học sinh hứng thú trong học tập, tích cực học hơn.
- Phối hợp chặt chẽ hơn với phụ huynh.
b. Hạn chế
- Đòi hỏi giáo viên phải có sự nhiệt tình, tận tụy với học sinh, quan tâm tìm hiểu
hoàn cảnh học sinh.
- Giáo viên cần có kế hoạch sắp xếp thời gian để kèm cặp các em.

3. Phạm vi tác dụng:
Từ những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã thực hiện và qua việc phân tích
những biện pháp trên, tôi thấy có thể vận dụng cho các lớp học khác ở bậc tiểu học.
4. Bài học kinh nghiệm
Với kết quả đạt được ở trên, bản thân tôi rút ra bài học sau:
- Là giáo viên phải chuyên tâm, nhiệt tình trong công việc, không ngừng học tập để
nâng cao kiến thức, biết đổi mới nhiều hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với
từng đối tượng học sinh.
- Cần tìm hiểu nguyên nhân và hoàn cảnh của các em.
- Biết tham mưu với Ban giám hiệu nhằm tìm hướng giúp đỡ cho học sinh có hoàn
cảnh khó khăn.
- Cần nhẹ nhàng, khéo léo, động viên các em, giúp đỡ các em trong học tập.
- Giữ mối liên hệ tốt giữa nhà trường – gia đình – xã hội.

V. KẾT LUẬN

15


Nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo con người cho ngày hôm nay và cho mai sau
là làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có tư duy sáng tạo. Muốn thực
hiện được yêu cầu này đòi hỏi người quản lí và giáo viên tất cả các cấp học phải chú
ý, quan tâm tới chất lượng giáo dục đặc biệt tập trung ngay từ cấp Tiểu học. Chất
lượng dạy và học chính là thước đo giá trị của nhà trường, để mục đích cuối cùng
tạo một nguồn nhân lực bao gồm những con người có đức có tài, ham học hỏi,
thông minh sáng tạo, được chuẩn bị tốt về văn hoá. Để hoàn thành nhiệm vụ này
người GV phải tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi và tìm ra giải pháp hợp lí, vận dụng
các phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng
dạy học giúp HS đạt được chuẩn kiến thức kỹ năng, tạo tiền đề tốt cho các em học
lên các lớp trên.

Để nâng cao chất lượng giáo dục tránh tình trạng HS ngồi sai lớp, mỗi chúng
ta đều phải hiểu rõ ý nghĩa của việc dạy học và giáo dục học sinh là trách nhiệm của
mỗi giáo viên với thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước mà xã hội đã giao phó
cho ta. Tuy công tác giáo dục không phải là chuyện một ngày, một bữa, cũng không
phải là chuyện đơn giản như chúng ta “trồng cây” có thể uốn nắn như thế nào theo ý
ta cũng được, mà là công việc “trồng người” xây dựng con người có nhân cách, tri
thức, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống, giúp ích cho xã hội, cho đất
nước. Vì thế nó mang tính trừu tượng và lâu dài. Đúng như lời di huấn của Bác: “Vì
lợi ích mười năm trồng cây”, “Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Trên đây là một vài kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy tôi đã đúc kết
được. Tôi hy vọng với lòng yêu nghề, nhiệt tình của một nhà giáo sẽ góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục.

PHỤ LỤC
16


UBND HUYỆNCAO LÃNH
Trường TH-THCS Gáo Giồng

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do- Hạnh phúc

DANH SÁCH HỌC SINH ĐỌC VIẾT LÀM TÍNH LÀM
TOÁN CHẬM SO VỚI CHUẨN – LỚP 3/1
TRƯỜNG TH – THCS GÁO GIỒNG
NĂM HỌC 2011-2012
(THÁNG 09/2011)
TT
1

2
3
4
5
6
7

HỌ VÀ TÊN HỌC
SINH
Trần Vũ Hà
Mai Thị Thảo Ly
Mai Văn Ngoan
Nguyễn Văn Thuận
Lê Thị Như Tiên
Nguyễn Thị Anh Thư
Trần Thị Thúy

LỚP

ĐỌC

VIẾT

3/1
3/1
3/1
3/1
3/1
3/1
3/1


















LÀM
TÍNH








LÀM
TOÁN









GHI
CHÚ

Danh sách có: 07 HS
Người lập

Nguyễn Thị Kim Tho

17


UBND HUYỆNCAO LÃNH
Trường TH-THCS Gáo Giồng

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do- Hạnh phúc

DANH SÁCH HỌC SINH ĐỌC VIẾT LÀM TÍNH LÀM
TOÁN CHẬM SO VỚI CHUẨN – LỚP 3/1
TRƯỜNG TH – THCS GÁO GIỒNG
NĂM HỌC 2011-2012
(THÁNG 10/2011)
TT

1
2
3
4
5
6

HỌ VÀ TÊN HỌC
SINH
Trần Vũ Hà
Mai Thị Thảo Ly
Mai Văn Ngoan
Nguyễn Văn Thuận
Lê Thị Như Tiên
Trần Thị Thúy

LỚP

ĐỌC

VIẾT

3/1
3/1
3/1
3/1
3/1
3/1
















LÀM
TÍNH







LÀM
TOÁN








GHI
CHÚ

Danh sách có: 06 HS
Người lập

Nguyễn Thị Kim Tho

18


UBND HUYỆNCAO LÃNH
Trường TH-THCS Gáo Giồng

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do- Hạnh phúc

DANH SÁCH HỌC SINH ĐỌC VIẾT LÀM TÍNH LÀM
TOÁN CHẬM SO VỚI CHUẨN – LỚP 3/1
TRƯỜNG TH – THCS GÁO GIỒNG
NĂM HỌC 2011-2012
(THÁNG 11/2011)
TT
1
2
3
4

HỌ VÀ TÊN HỌC

SINH
Trần Vũ Hà
Mai Thị Thảo Ly
Mai Văn Ngoan
Nguyễn Văn Thuận

LỚP

ĐỌC

VIẾT

3/1
3/1
3/1
3/1











LÀM
TÍNH






LÀM
TOÁN





GHI
CHÚ

Danh sách có: 04 HS
Người lập

Nguyễn Thị Kim Tho

19


UBND HUYỆNCAO LÃNH
Trường TH-THCS Gáo Giồng

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do- Hạnh phúc

DANH SÁCH HỌC SINH ĐỌC VIẾT LÀM TÍNH LÀM
TOÁN CHẬM SO VỚI CHUẨN – LỚP 3/1

TRƯỜNG TH – THCS GÁO GIỒNG
NĂM HỌC 2011-2012
(THÁNG 12/2011)
TT
1
2
3

HỌ VÀ TÊN HỌC
SINH
Trần Vũ Hà
Mai Thị Thảo Ly
Nguyễn Văn Thuận

LỚP

ĐỌC

VIẾT

3/1
3/1
3/1










LÀM
TÍNH




LÀM
TOÁN




GHI
CHÚ

Danh sách có: 03HS
Người lập

Nguyễn Thị Kim Tho

20


UBND HUYỆNCAO LÃNH
Trường TH-THCS Gáo Giồng

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do- Hạnh phúc


DANH SÁCH HỌC SINH ĐỌC VIẾT LÀM TÍNH LÀM
TOÁN CHẬM SO VỚI CHUẨN – LỚP 3/1
TRƯỜNG TH – THCS GÁO GIỒNG
NĂM HỌC 2011-2012
(THÁNG 01/2012)
TT
1
2

HỌ VÀ TÊN HỌC
SINH
Trần Vũ Hà
Nguyễn Văn Thuận

LỚP
3/1
3/1

ĐỌC

VIẾT



LÀM
TÍNH


LÀM

TOÁN



GHI
CHÚ

Danh sách có: 02 HS
Người lập

Nguyễn Thị Kim Tho

21



×