Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Áp dụng các hình phạt chính không tước tự do từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒNG BÍCH SƠN

ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT KHƠNG TƯỚC TỰ DO TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒNG BÍCH SƠN

ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT KHƠNG TƯỚC TỰ DO TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình do tơi tự nghiên cứu kết
hợp với sự hướng dẫn khoa học của thầy giáo hướng dẫn. Số liệu nêu trong
luận văn được thu thập từ nguồn thực tế, được công bố trên các báo cáo của
các cơ quan nhà nước; được đăng tải trên các tạp chí, báo chí, các website hợp
pháp. Những thơng tin và nội dung nêu trong đề tài đều dựa trên nghiên cứu
thực tế và hồn tồn đúng với nguồn trích dẫn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2018
Tác giả luận văn


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH
KHƠNG TƯỚC TỰ DO .................................................................................... 9
1.1. Khái niệm và vai trị của các hình phạt chính khơng tước tự do ............ 9
1.2. Khái niệm, ngun tắc và căn cứ áp dụng hình phạt chính không tước
tự do ............................................................................................................. 13
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHƠNG
TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .......... 28
2.1. Quy định của pháp luật về các hình phạt chính khơng tước tự do ....... 28
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các hình
phạt chính khơng tước tự do tại thành phố Hồ Chí Minh ............................ 41
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
HÌNH PHẠT CHÍNH KHƠNG TƯỚC TỰ DO .................................................... 59
3.1. Các u cầu bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính không tước tự
do ................................................................................................................. 59
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt khơng tước tự do 63
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1.

Các hình phạt chính khơng tước tự do được áp dụng
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng, là
phương tiện không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường
của xã hội nói chung và của bình n của xã hội nói riêng. Pháp luật vừa là
công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, vừa tạo hành lang pháp lý an toàn, tin
cậy, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với việc khơng ngừng

xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật, công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, đưa pháp luật vào cuộc sống trở thành yêu cầu cấp thiết, cần được thực
hiện thường xuyên, liên tục và hiệu quả. Điều đó khơng chỉ nhằm mục đích
xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo
vệ và phát triển các giá trị chân chính. Hệ thống hình phạt đang được áo dụng
hiện nay được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015, trước đây là Bộ luật
hình sự năm 1999 là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung trên cơ sở tổng
kết thực tiễn áp dụng và thi hành các loại hình phạt của các cơ quan bảo vệ
pháp luật và Tòa án nhân dân các cấp. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã ghi
nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, là cơ sở hiến định của hệ thống
pháp luật Việt Nam. Do vậy, việc mở rộng áp dụng hình phạt khơng tước tự
do là rất cần thiết, giúp BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có tính khả thi
cao và hiệu quả cao hơn. Trong hệ thống hình phạt khơng tước tự do hiện nay
có 4 hình phạt khơng tước tự do của người phạm tội, gồm cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ và trục xuất, song các hình phạt này khơng được áp
dụng nhiều trong thực tế. Áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng hình
phạt nói riêng là vấn đề rất quan trọng khi Tòa án nhân danh Nhà nước ra bản
án, quyết định thi hành án.


Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số
nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020”; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” với nội dung: Việc tăng cường
áp dụng các hình phạt chính khơng tước tự do thể hiện rõ nét nhất chính sách
phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, tạo
điều kiện cho người phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm mà không phải cách
ly khỏi xã hội; đồng thời còn giúp giảm bớt chi phí của Nhà nước trong việc

giam giữ người phạm tội, tăng cường tính răn đe, giáo dục trong cộng đồng,
góp phần hiệu quả vào cơng cuộc phịng, chống tội phạm và các vi phạm pháp
luật khác [2]...
Lịch sử lập pháp hình sự cho thấy Bộ luật hình sự của nước ta càng
ngày càng được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn, được thể hiện rõ nét khi so
sánh BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với BLHS năm 1999. Đối
với các hình phạt chính khơng tước tự do có nhiểu sửa đổi, bổ sung quan
trọng, như điều kiện áp dụng, đối tượng áp dụng, phạm vi áp dụng… được cụ
thể và mở rộng hơn. Điều đó nói lên vị trí, vai trị của các hình phạt chính
khơng tươc tự do trong hệ thống hình phạt của BLHS nước ta.
Về thực tiễn áp dụng các hình phạt khơng tước tự do trên toàn quốc
cũng như tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng có những thay đổi đáng kể cả về
nhận thức và thực tiễn xét xử. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vi phạm, sai lầm cần
được làm sáng tỏ, đặc biệt là nguyên nhân và điều kiện của những vi phạm,
sai lầm đó. Thành phố Hồ Chí Minh cũng không phải là ngoại lệ. Để khắc
phục những bất cập, vướng mắc trong quy định và áp dụng pháp luật về các


hình phạt chính khơng tước tự do, góp phần hồn thiện pháp luật hình sự
trong thời gian tới, đồng thời, nhằm đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm và bảo đảm quyền con người của người phạm tội thì việc
nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận về các hình phạt chính khơng tước
tự do, làm rõ những ưu điểm cũng như bất cập trong quy định và thực tiễn áp
dụng các hình phạt này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ đó làm cơ sở
để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định về các hình phạt chính
khơng tước tự do trong pháp luật hình sự Việt Nam là vấn đề cần thiết. Chính
vì những lý do trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Áp dụng các hình phạt
chính khơng tước tự do từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp thác sĩ chuyên ngành luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Các hình phạt chính khơng tước tự do có vai trị quan trọng khơng chỉ
bảo đảm ngun tắc phân hố trách nhiệm hình sự và cá thể hố hình phạt mà
cịn thể hiện được rõ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
Việc tăng cường hiệu quả của các hình phạt chính khơng tước tự do là một
trong những vấn đề đang được đặt ra trong quá trình sửa đổi Bộ luật Hình sự
năm 2015 nhằm tiếp tục tăng cường chính sách nhân đạo, tính hướng thiện
trong việc xử lý người phạm tội đã được thể hiện trong Nghị quyết số 48NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Chính vì vậy, đã có
rất nhiều tác giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu
về vấn đề này, tác giả tìm đọc các đề tài, luận án, bài viết khoa học, cụ thể:
Một số nghiên cứu của các tác giả nước ngồi về áp dụng hình phạt nói
chung và hình phạt khơng tước tự do nói riêng: H.L.A. Hart, Punishment and
Responsibility, Oxford, 1968; Cragg, Wesley, The Practice of Punishment:
Towards a Theory of Restorative Justice, New York, Routledge, 1992; M.


Bellmore, H.J.Greenberg and J.J.Jarvis, Generauzed Penalty - function
concepts in Mathematical optization, Georgia Institute of Technology,
Atlanta, Georgia Received June 17, 1968… Cịn ở Việt Nam, khoa học luật
hình sự là một trong những ngành khoa học pháp lý phát triển nhất so với các
ngành khoa học pháp lý khác, do đó xét riêng về hình phạt, cho thấy có nhiều
cơng trình nghiên tiêu biểu ở các cấp độ khác nhau.
Cấp độ luận văn thạc sĩ ở Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có đề
tài của Lê Khánh Hưng, Các hình phạt khơng tước tự do trong luật hình sự
Việt Nam, Hà Nội, 2010, tác giả đã nghiên cứu lý luận về hình phạt khơng
tước tự do; Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các hình phạt
khơng tước tự do trong Luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Nghiên
cứu về các hình phạt khơng tước tự do trên các phương diện lập pháp và thực
tiễn áp dụng để từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn; Nguyễn Văn Cảnh (2010),
Hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên

phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Hà Nội đã làm rõ những đặc thù của tội
phạm chưa thành niên thấy rằng một phần không nhỏ người chưa thành niên
thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng
đắn của cá nhân, không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, các hình phạt chính khơng tước do thể hiện tinh thần
nhân đạo đối với người phạm tội, đặc biệt phù hợp với đối tượng này.
Bên cạnh đó, tác giả tìm hiểu và phân tích các tác phẩm của các tác giả
như: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Hình phạt và các biện pháp tư pháp trong luật
hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 8/2000; Một số vấn đề cơ
bản về hình phạt, Tạp chí Cơng an nhân dân, số 5/2001; Hình phạt và hệ
thống hình phạt, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 7/2007; GS. TSKH. Lê Cảm;
Nguyễn Văn Trượng, Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn áp dụng hình phạt cải


tạo khơng giam giữ, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 4, tháng 2/2009; Hình phạt
tiền và thực tiễn áp dụng của tác giả Đỗ Văn Chỉnh, Tạp chí Tịa án nhân dân,
số 5, tháng 3/2009; TS Dương Tuyết Miên, Các hình phạt bổ sung trong
BLHS năm 1999 và hướng hồn thiện, Tạp chí Tịa án nhân dân số 8, tháng
4/2009; Luận án Tiến sỹ “Các hình phạt bổ sung trong Luật hình sự Việt
Nam” của Trịnh Quốc Toản, Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội … Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (phần chung) của tác giả Võ Khánh Vinh (2012), Nxb Cơng
an nhân dân; Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đồi, bổ sung năm
2017 (Phần chung) của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa (2017), Nxb Tư pháp, Hà
Nội.
Vấn đề liên quan các hình phạt khơng cách ly người bị kết án ra khỏi xã
hội còn được nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng đề cập đến như: Cơng
ước chống đối xử hoặc hình phạt tàn bạo, được thông qua bằng Nghị quyết số
39/46 ngày 10/2/1984 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Nxb Công an nhân
dân, năm 1999; Các quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về các biện
pháp không giam giữ (các quy tắc Tôkyô, 1990), được thông qua bằng Nghị

quyết số 45/110 ngày 14/12/1990 của Đại hội đồng Liên hợp quốc…
Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các đề tài, luận án, bài viết khoa học nếu
trên cho thấy, ở nước ta vấn đề áp dụng hình phạt khơng tước tự do đã có một
số cơng trình nghiên cứu đã phân tích khái qt và hệ thống về hình phạt
chính và hình phạt bổ sung trong đó có hình phạt chính không tước tự do. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu áp dụng hình phạt khơng tước tự do được BLHS quy
định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho
xã hội, nghiên cứu tại một địa phương cụ thể là Thành phố Hồ Chí Minh chưa
được quan tâm nghiên cứu đúng mức, với tư cách là một hình phạt chính quan
trọng trong hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Qua đó, giúp cho
tác giả hiểu thêm về khái niệm, điều kiện áp dụng các hình phạt chính khơng


tước tự do, là cơ sở cho việc nghiên cứu của luận văn “Áp dụng các hình phạt
chính khơng tước tự do từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra những kiến nghị nhằm hồn
thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với các hình phạt khơng
tước tự do và các điều kiện cần và đủ áp dụng các hình phạt này trong thực
tiễn.
Luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận về các hình phạt khơng tước tự do, cụ thể
là các quan điểm về hình phạt khơng tước tự do, khái niệm, căn cứ áp dụng
hình phạt khơng tước tự do;
Hai là, phân tích lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ
trước đến nay về áp dụng hình phạt khơng tự do và làm rõ, so sánh các quy
định này tại BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017) về các hình phạt chính khơng tước tự do, điều kiện áp dụng để thấy
được quá trình phát triển, kế thừa của các quy định hiện hành.
Ba là, đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,

phân tích những vi phạm, sai lầm và nguyên nhân; từ đó đưa ra các giải pháp
bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu, đối tượng nghiên cứu là
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt khơng tước tự do,
cũng như thực trạng áp dụng các hình phạt không tước tự do do trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh các hình
phạt khơng tước tự do đối với người phạm tội được quy định trong BLHS
năm 1999. Đồng thời, nghiên cứu, rút ra những điểm sửa đổi, bổ sung về các
hình phạt chính khơng tước tự do được quy định tại BLHS năm 2015. Khơng
nghiên cứu các hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
Luận văn phân tích thực tiễn áp dụng các hình phạt chính khơng tước tự
do trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2017 trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, con người và tinh thần nhân đạo. Đồng thời, đề tài
luận văn đã phân tích và làm rõ các nội dung trên cơ sở lý thuyết về khoa học
luật hình sự và tố tụng hình sự.
Các phương pháp cụ thể gồm:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử để tìm hiểu lịch sử hình thành và phát
triển các quy định về các hình phạt chính khơng tước tự do trong pháp luật
hình sự Việt Nam.
Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những đặc điểm giống và

khác nhau trong các quy định về các hình phạt chính khơng tước tự do trong
BLHS năm 1999 và năm 2015 với các giai đoạn trước đó nhằm đánh giá được
quá trình phát triển của pháp luật liên quan đến vấn đề này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: trong quá trình nghiên cứu luận văn
áp dụng phương pháp này để phân tích các nội dung cần nghiên cứu như các


quy định, các nhận định về các hình phạt chính không tước tự do và nhận thức
một cách khái quát các vấn đề được nghiên cứu thông qua đánh giá những kết
quả đạt được, hạn chế và các nguyên nhân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hệ thống, phân tích những vấn đề lý luận về hình phạt không tước tự
do; đưa ra quan điểm mới về khái niệm, đặc điểm và vai trị của hình phạt
khơng tước tự do. Khái quát, làm sáng tỏ qúa trình hình thành, phát triển và
của các hình phạt khơng tước tự do trong Luật hình sự Việt Nam từ năm 1945
đến nay, đặc biệt là những quy định tại BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015.
Đánh giá toàn diện các quy định về hình phạt khơng tước tự do trong PLHS
Việt Nam và thực tiễn áp dụng; thơng qua đó phát hiện ra những điểm bất
cập, hạn chế và nguyên nhân. Đưa ra những kiến nghị khoa học nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng hình phạt khơng tước tự.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khảo Luận
văn gồm có ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt chính khơng
tước tự do
Chương 2. Quy định của pháp luật về các hình phạt chính khơng tước
tự do và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt
chính khơng tước tự do



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH
KHƠNG TƯỚC TỰ DO
1.1. Khái niệm và vai trị của các hình phạt chính khơng tước tự do
1.1.1. Khái niệm các hình phạt chính khơng tước tự do
Hình phạt là hình thức chủ yếu của trách nhiệm hình sự và là công cụ
pháp lý của Nhà nước để đấu tranh phịng chống tội phạm. Quy định về hình
phát được nêu rõ tại Điều 26, BLHS năm 1999, đồng thời kế thừa và phát
triển quy định về hình phát được làm rõ hơn tại Điều 30, BLHS năm 2015
quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với
người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [20].
Dựa trên cơ sở các quan niệm về hình phạt đã nêu trong Luận văn, tác
giả đưa ra khái niệm khoa học về hình phạt như sau: Hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất về hình sự của Nhà nước do Tồ án có thẩm
quyền quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật nhằm tước bỏ hay
hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật
hình sự
Hệ thống hình phạt trong Bộ luật Hình sự Việt Nam (được quy định từ
Điều 28 đến Điều 40) gồm 7 hình phạt chính và 7 hình phạt bổ sung. Hình
phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà cịn giáo dục họ trở thành
người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa. Hình phạt chính bao gồm các biện pháp như: Cảnh
cáo; phạt tiền; cải tạo khơng giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù chung thân
và tử hình; Hình phạt chính được vận dụng riêng rẽ chứ không đồng thời áp


dụng đối với người phạm tội chỉ áp dụng một trong các hình phạt chính. Hình

phạt chính đánh thẳng vào các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do,
quyền sống… Hình phạt bổ sung bao gồm các biện pháp như: Cấm đảm
nhiệm chức vụ,cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; tước một số
quyền công dân; tịch thu tài sản; cấm cư trú; quản chế; cấm cư trú; quản chế;
Phạt tiền, khi khơng áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi khơng áp dụng
là hình phạt chính. Trong đó, có 2 hình phạt có thể là hình phạt chính, có thể
là hình phạt bổ sung là phạt tiền và trục xuất. Hệ thống hình phạt của nước ta
với nhiều hình phạt khác nhau nên căn cứ vào những tiêu chí khác nhau,
nhằm vào những mục đích khác nhau mà có các cách phân loại hình phạt
khác nhau phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam. Điều 28 BLHS năm 1999 đã
chia Hệ thống hình phạt đang được áp dụng tại Việt Nam thành hai loại là:
hình phạt chính và hình phạt bổ sung [19, tr.12].
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả đi sâu nghiên cứu
về sáu loại hình phạt khơng tước tự do bao gồm: 1) Cảnh cáo; 2) Phạt tiền; 3)
Cải tạo không giam giữ; 4) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định; 5) Tước một số quyền công dân; 6) Tịch thu tài sản.
Khi bị áp dụng các loại hình phạt này, người bị kết án bị tước bỏ quyền
tự do cư trú ở một số địa phương nhất định (như ở hình phạt cấm cư trú) hoặc
bị buộc phải cư trú, làm ăn sinh sống ở một đơn vị hành chính cụ thể (đối với
người bị tuyên phạt hình phạt quản chế), và cấm cư trú trên phạm vi toàn lãnh
thổ (khi bị áp dụng hình phạt trục xuất).
Hình phạt khơng tước tự do là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
về hình sự của Nhà nước do Toà án quyết định trong bản án kết tội có hiệu
lực pháp luật để buộc người bị kết án phải chịu một hoặc một số hậu quả pháp


lý bất lợi (nhưng không tước hoặc hạn chế quyền tự do thân thể, quyền tự do
cư trú), nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội, phòng và chống tội phạm.
Trên cơ sở khái niệm hình phạt được quy định tại Điều 30 BLHS năm
2015, cũng như tính chất của sự tước bỏ, tác giả xin đưa ra khái niệm về hình

phạt khơng tước tự do như sau: “Hình phạt chính khơng tước tự do là để thực
hiện biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, được quy định
trong BLHS và do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc
hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội mà không buộc họ phải cách ly ra
khỏi mơi trường xã hội bình thường”.
Mục đích của hình phạt khơng tước tự do cũng giống như các hình phạt
nói chung được quy định tại điều 31, BLHS năm 2015: “Hình phạt khơng chỉ
nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm
tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tơn trọng pháp luật,
phịng ngừa và đấu tranh chống tội phạm” [20] và hướng tới giáo dục người
phạm tội nhận ra sai lầm của mình để từ đó ý thức tn thủ pháp luật, chuẩn
mực xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội.
Chính sách pháp luật hình sự là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất
quán và hệ thống của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xây dựng cơ chế
điều chỉnh pháp luật hình sự có hiệu quả, sử dụng văn minh các phương tiện
pháp luật để đạt được mục đích của hình phạt, góp phần quan trọng trong đấu
tranh phịng, chống tội phạm; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; bảo
đảm quyền con người. Chính sách pháp luật hình sự là một trong các yếu tố
quan trọng tác động đến xu hướng áp dụng pháp luật hình sự.


Hình phạt khơng tước tự do mang đầy đủ những dấu hiệu chung của
hình phạt đồng thời có những dấu hiệu riêng biệt, có thể kể ra một số dấu hiệu
cơ bản như sau:
- Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội. Người bị kết án tự cải
tạo với sự giám sát, giúp đỡ và giáo dục của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội, chính quyền địa phương và gia đình. Xu hướng nhân đạo, hướng thiện
cũng thể hiện trong nhiều quy định của pháp luật hình sự, cơ sở pháp lý của
áp dụng pháp luật hình sự. Khi mới thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ

cộng hịa, các văn bản pháp luật hình sự lúc bấy giờ có xu hướng xử lý
nghiêm khắc hành vi phạm tội.
1.1.2. Vai trị của các hình phạt chính khơng tước tự do
Việc quy định các hình phạt khơng tước tự do trong hệ thống hình phạt
mang lại nhiều vai trò quan trọng:
Thứ nhất, trong xã hội hiện nay, nền kinh tế ngày càng phát triển kéo
theo một hệ lụy là các tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và phong phú.
Do đó, việc nhà làm luật quy định các hình phạt khơng tước tự do trong
BLHS nước ta đã góp phần đa dạng hóa hệ thống hình phạt nói riêng và các
biện pháp xử lý hình sự nói chung trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội
phạm. Với nhiều loại hình phạt khác nhau được quy định thì khoảng cách
giữa chúng càng nhỏ đi và tính chính xác càng cao.
Thứ hai, việc quy định các hình phạt chính khơng tước tự do trong hệ
thống hình phạt của BLHS Việt Nam đã góp phần thực hiện nguyên tắc xử lý
có phân biệt và nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong chính sách hình sự của
Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay [19].
Thứ ba, các hình phạt khơng tước tự do góp phần thể hiện ngun tắc
nhân đạo xã hội chủ nghĩa của phápluật hình sự nước ta. Đó chính là bản chất


nhân đạo rõ nét của các hình phạt khơng tước tự do trong hệ thống hình phạt
nước ta. Với ưu thế về số lượng 4/7 hình phạt khơng tước tự do đã thể hiện rõ
chính sách nhân đạo trong hệ thống hình phạt của nước ta.
Thứ tư, trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của nước ta, việc tổ chức
thi hành các bản án phạt tù đang là vấn đề phức tạp như tình trạng nhà tù quá
tải, người phạm tội sau khi mãn hạn tù gặp rất nhiều khó khăn (về việc làm,
về tâm lý...) để hoà nhập cuộc sống nên lại tái phạm…. Hiệu quả của hình
phạt tù đối với những người bị kết án về tội ít nghiêm trọng, tội vơ ý... khơng
cao.
1.2. Khái niệm, nguyên tắc và căn cứ áp dụng hình phạt chính khơng

tước tự do
1.2.1. Khái niệm áp dụng các hình phạt chính khơng tước tự do
Hoạt động áp dụng hình phạt là một giai đoạn của quá trình áp dụng
pháp luật hình sự và chỉ có Tịa án mới được thực hiện thông qua việc Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân tiến hành đối với người phạm tội theo một trình tự
thủ tục đã được pháp luật quy định. Tịa án căn cứ vào kết quả điều tra, kết quả
thẩm vấn, tranh tụng để lựa chọn một trong những hình phạt cụ thể được quy
định trong pháp luật hình sự và xác định một mức hình phạt cụ thể đối với bị
cáo.
Khi thực hiện áp dụng hình phạt, Tịa án cần bảo đảm rằng hình phạt
phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm đối với xã hội mà tội
phạm đã thực hiện, bảo đảm tính xác định, tính lập luận và bắt buộc có lý do.
Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội, họ được cải tạo, giáo dục,
nên việc áp dụng hình phạt không tước tự do được thực hiện trong môi trường
sống và hoạt động với các cơng dân bình thường khác. Như vậy, trong phạm
vi của luận văn, căn cứ vào nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn có thể nêu một


cách khái quát về khái niệm áp dụng hình phạt không tước tự do trong thực
tiễn hiện nay như sau: Áp dụng hình phạt khơng tước tự do là hoạt động của
Tòa án buộc người phạm tội phải chịu một trong các hình phạt khơng tước tự
do phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm
bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội
mới, cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội.
1.2.2. Nguyên tắc áp dụng các hình phạt chính khơng tước tự do
1.2.2.1. Ngun tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc chủ đạo, quan
trọng và được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, là nguyên tắc cơ bản đối
với tổ chức và hoạt động của bộ máy nước ta hiện nay nói chung và trong lĩnh

vực áp dụng các hình phạt chính khơng tước tự do nói riêng. Đảm bảo nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong áp dụng hình phạt chính không tước tự do
là yêu cầu hàng đầu trong tổ chức và hoạt động áp dụng các hình phạt của
Nhà nước ta. Trong việc áp dụng các hình phạt khơng tước tự do, nội dung
chủ yếu của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa chính là việc áp dụng các
hình phạt này hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên tắc bảo đảm Pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 thể hiện định hướng tổ chức, hoạt động tố tụng đối với quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Ngun tắc này địi hỏi phải thực hiện các bảo đảm để
tăng cường pháp chế khi tiến hành các hoạt động tố tụng hướng tới mục đích
xác định sự thật khách quan vụ án; tôn trọng, bảo vệ quyền con người; bảo vệ
trật tự pháp luật; bảo vệ quyền lợi ích của thể nhân, pháp nhân, nhà nước và
xã hội. Bài viết này nghiên cứu nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ


nghĩa (XHCN) trong tố tụng hình sự (TTHS) từ thực tiễn hoạt động tố tụng
của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về nguyên tắc
này.
1.2.2.2. Nguyên tắc dân chủ
Nguyên tắc dân chủ là một nguyên tắc hiến định, thể hiện tại Điều 3
Hiến pháp năm 2013 và nội dung của nguyên tắc này thể hiện: các quy phạm
pháp luật áp dụng các hình phạt khơng tước tự do đều thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân. Việc kiểm tra, giám sát cần được tiến hành
thường xuyên bởi các thiết chế nhà nước cũng như các thiết chế xã hội.
Khuyến khích và động viên những người phải chịu các hình phạt khơng tước
tự do thực hiện tốt nghĩa vụ và hiểu được các quyền của mình. Sự bình đẳng
trong nguyên tắc này là sự bình đẳng trong việc vận dụng các dấu hiệu cấu
thành tội phạm đối với một hành vi phạm tội, đối với hình phạt cũng như các

biện pháp tư pháp khác về người phạm tội, chống những biểu hiện phân biệt
đối xử giữa những người phạm tội có địa vị xã hội khác nhau “dân thì xử
nặng, quan thì xử nhẹ”.
1.2.2.3. Ngun tắc nhân đạo
Nói tới truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, không thể không
nhắc đến những tư tưởng, quan điểm đạo đức mang giá trị nhân văn, thể hiện
đạo lý về tình thương con người bao trùm trên các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Trong việc xây dựng nền tảng của hệ thống pháp luật nói chung
và pháp luật hình sự nói riêng, tư tưởng nhân đạo càng được thể hiện sâu sắc
hơn bao giờ hết.
Trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
có thể thấy tư tưởng nhân đạo được phản ánh rõ nét, là tư tưởng bao trùm,


xuyên suốt trong quan điểm, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm. Tư
tưởng này cũng được xác định là kim chỉ nam trong suốt lịch sử lập pháp qua
các thời kỳ khác nhau và trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
tư tưởng nhân đạo một lần nữa được thể hiện rõ nét và sâu sắc, thể hiện được
bản chất giai cấp của nhà nước ta trong từng chế định pháp luật.
Ngun tắc này khơng những góp phần cụ thể hóa Điều 20 Hiến pháp
năm 2013 “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; khơng bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [21] mà cịn được ghi nhận tại Điều 5
Tun ngơn thế giới về nhân quyền: “Khơng ai có thể bị tra tấn hoặc bị trừng
phạt đối xử vô nhân đạo, tàn bạo” [40].
Trong hệ thống hình phạt, trong đó các hình phạt chính được sắp xếp
theo một trật tự nhất định từ hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng, từ hình phạt ít
nghiêm khắc đến hình phạt nghiêm khắc nhất, mặt khác trong các hình phạt
khác nhau có nhiều hình phạt khơng tước tự do, điều đó thể hiện được tinh

thần trong đường lối xử lý của nhà nước ta là đi từ cải tạo, giáo dục sau đó
mới tới trừng trị đối với người phạm tội. Hình phạt, về bản chất không phải là
sự trả thù của Nhà nước đối với người phạm tội mà mục đích chính là giáo
dục, cải tạo họ trở thành cơng dân tốt, có ích cho xã hội.
Từng hình phạt khác nhau cũng có sự thay đổi về nhận thức và áp dụng
theo xu hướng chung là mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt ít nghiêm
khắc đồng thời hạn chế phạm vi áp dụng các hình phạt nghiêm khắc. Cụ thể,
nguyên tắc này được thể hiện rõ trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối nhằm hạn chế áp dụng hình
phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt khơng tước tự do đối với người phạm tội,


đặc biệt đối với những đối tượng có tình tiết giảm nhẹ. Theo đó, hình phạt
khơng tước tự do được mở rộng khả năng áp dụng là hình phạt chính khơng
chỉ đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (như quy định của BLHS năm
1999) mà còn được áp dụng ngay cả đối với người phạm các tội nghiêm trọng
trong BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Riêng đối với nhóm các
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, mơi trường thì hình phạt tiền cịn có thể
áp dụng đối với một số tội rất nghiêm trọng. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015
cịn sửa đổi hình phạt cải tạo khơng giam giữ theo hướng tăng cường tính
cưỡng chế nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của loại hình phạt này, đặc biệt
là các đối tượng người phạm tội chưa thành niên. Ngồi ra, đối với hình phạt
tù, BLHS năm 2015 khẳng định nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối
với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý (khoản 2 Điều 37 của Bộ
luật này), theo đó, tại Phần các tội phạm, số lượng các khoản khơng quy định
hình phạt tù tăng từ 6 khoản lên 31 khoản so với quy định của BLHS năm
1999, đây chính là sự thay đổi tích cực thể hiện tính nhân văn của pháp luật
Việt Nam nhưng vẫn đảm bảo được tính nghiêm minh, hiệu quả. Quy định
này cho thấy chính sách rõ ràng của pháp luật hình sự Việt Nam là chỉ áp
dụng hình phạt tù như là biện pháp cuối cùng khi có đầy đủ căn cứ cho rằng

các biện pháp khác không phát huy được tác dụng. Đây là nguyên tắc rất quan
trọng định hướng cho hoạt động áp dụng pháp luật của hội đồng xét xử, đồng
thời bảo đảm tốt nhất lợi ích cho người phạm tội dưới 18 tuổi, giúp họ có cơ
hội tối đa khơng bị tách khỏi gia đình và cộng đồng; giúp họ có nhiều hơn cơ
hội nhận được sự giúp đỡ chân tình, quý báu của gia đình, cộng đồng và xã
hội để họ sớm nhận ra lỗi lầm, sớm trở thành người có ích cho xã hội.
1.2.2.4. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và trước cơ quan thi hành án trên
thực tế là nguyên tắc có thể bị vi phạm và ảnh hưởng tiêu cực và rất dễ phát


sinh, kéo theo khơng chỉ bản thân những người có liên quan trong việc chấp
hành nghĩa vụ thi hành án khơng được hưởng sự cơng bằng bình đẳng mà cịn
làm cho tính nhân đạo, tính dân chủ của hoạt động áp dụng các hình phạt
khơng tước tự do bị sai lệch. Sự bình đẳng trong nguyên tắc này là sự bình
đẳng trong việc vận dụng các dấu hiệu cấu thành tội phạm đối với một hành
vi phạm tội, đối với hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác về người
phạm tội, chống những biểu hiện phân biệt đối xử giữa những người phạm tội
có địa vị xã hội khác nhau “dân thì xử nặng, quan thì xử nhẹ”. Nguyên tắc này
không chỉ là nguyên tắc của BLHS khi xử lý hành vi phạm tội, mà còn là
nguyên tắc đối với các đạo luật khác; không chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng mà đối với tồn xã hội, cần phải có thái độ công bằng
đối với người phạm tội dù họ là ai. Khi khẳng định nguyên tắc “mọi người
phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật”, nhưng khơng phải vì thế mà cho
rằng khơng có sự phân hóa “nghiêm trị ai, khoan hồng đối với ai” và điều này
càng thể hiện nội dung của khái niệm “bình đẳng, cơng bằng” khơng đồng
nhất với khái niệm “bình quân, cào bằng”.
1.2.2.5. Nguyên tắc kết hợp giáo dục, cải tạo với cưỡng chế
Hình phạt khơng chỉ có nội dung trừng trị mà cịn có cả nội dung giáo
dục, cải tạo. Chúng ta chỉ có thể nói đến hình phạt khi có sự tồn tại của hai

yếu tố đó. Nếu hình phạt chỉ có nội dung trừng trị mà khơng có nội dung giáo
dục, cải tạo thì nó chỉ là biện pháp trả thù thuần túy. Mối quan hệ giữa cưỡng
chế và thuyết phục cũng như giữa trừng trị và cải tạo, giáo dục trong hình
phạt mang tính biện chứng, chúng ln ln vận động, chuyển biến, tác động
qua lại với nhau. Trong sự thâm nhập qua lại đó tồn tại sự biện chứng của
những mối quan hệ bên trong của chúng: Cưỡng chế, thuyết phục và trừng trị,
giáo dục, cải tạo tạo thành cặp và liên hiệp với nhau với sự tác động có tính
thuyết phục của sự cưỡng chế. Chính vì vậy, khơng thể đặt đối lập, tách rời


nhau với tính chất là một phần hoặc bộ phận độc lập mà cần phải kết hợp chặt
chẽ, hài hòa giữa cưỡng chế và thuyết phục, giữa trừng trị và giáo dục, cải
tạo, chỉ có như vậy mới đạt được hiệu quả của hình phạt trong thực tiễn áp
dụng và thi hành.
Đây là nguyên tắc được cụ thể hóa từ nguyên tắc khoan hồng, nhưng
chỉ đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng và cũng chỉ có Tịa án áp
dụng, vì chỉ có Tịa án mới được quyết định hình phạt. Đây là nguyên tắc
quyết định hình phạt nhưng khơng vì thế mà cho rằng Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát không cần quan tâm đến nguyên tắc này, vì quán triệt nguyên
tắc này sẽ giúp cho Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát ngay từ khi khởi tố bị
can, nếu khơng thật cần thiết thì không nên áp dụng biện pháp tạm giam đối
với người phạm tội. Đây cũng không phải là nguyên tắc quyết định hình phạt
duy nhất, vì khi quyết định hình phạt Tòa án còn phải căn cứ vào nhiều
nguyên tắc khác, khơng chỉ có ngun tắc này.
Ngun tắc khơng áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tội
ít nghiêm trọng còn là cơ sở quy định các chế định khác về quyết định hình
phạt như: Căn cứ quyết định hình phạt; quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS; án treo…
Nguyên tắc nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, phân hóa tội phạm là
nguyên tắc xuyên suốt trong q trình áp dụng BLHS, là chính sách hình sự

của Nhà nước đối với tội phạm. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử,
các cơ quan tiến hành tố tụng phải luôn luôn quán triệt nguyên tắc này để xử
lý tội phạm. Nguyên tắc này còn là cơ sở để quy định các chế định, các quy
định khác về tội phạm và hình phạt trong cả Phần thứ nhất và Phần thứ hai
của BLHS. Quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc này còn là cơ sở để thực
hiện các nguyên tắc khác.


×