Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN sử dụng thơ văn trong giảng dạy môn lịch sử lớp 9 phần lịch sử việt nam (1919 1954) nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.53 KB, 23 trang )

1
MỤC LỤC
NỘI DUNG

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2. Thực trạng về hứng thú học tập của học sinh khi học phần Lịch
sử Việt Nam từ năm 1919-1954.
3. Các giải pháp thực hiện để gíải quyết thực trạng trên
3.1. Vai trò của thơ văn vào giảng dạy khi dạy phần Lịch sử Việt
Nam từ năm 1919- 1954
3.2. Một số lưu ý khi sử dụng thơ văn vào giảng dạy khi dạy phần
Lịch sử Việt Nam từ năm 1919-1954.
3.3. Sử dụng thơ văn khi dạy phần Lịch sử Việt Nam từ năm 19191954 để khắc họa về một nhân vật Lịch sử.
3.4. Sử dụng thơ văn thơ khi dạy phần Lịch sử Việt Nam từ năm
1919-1954 để nhấn mạnh về một sự kiện Lịch sử.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kêt luận
2. Kiến nghị

I.

Tran


g
2
2
3
3
3
3
4
4
5
8
8
9
10
15
19
22
22
22

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cùng với các môn học khác môn Lịch sử ở trường phổ thơng đang đóng
góp một phần quan trọng vào việc giáo dục nhân cách, phẩm chất đạo đức con


2
người Việt Nam mới. Tại Đại hội khoa học Lịch sử lần thứ III, tổng bí thư Đỗ
Mười đã phát biểu “Cùng với q trình quốc tế hóa ngày càng mở rộng thì trở về

nguồn là xu thế chung của các dân tộc trên thế giới. Với chúng ta đó là sự tìm tịi
phát hiện ngày càng sâu sắc hơn những đặc điểm xã hội Việt Nam, những phẩm
chất cao quí, những giá trị truyền thống và những bài học Lịch sử giúp chúng ta
lựa chọn và tiến hành những bước đi thích hợp hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tuy nhiên hiện nay mơn Lịch sử đang ngày càng ít được quan tâm, do đó
chất lượng dạy và học Lịch sử đang ngày càng giảm sút. Làm sao để học sinh
hứng thú khi học Lịch sử, làm sao để nâng cao chất lượng dạy và học Lịch sử,
làm sao để học sinh hiểu biết nhiều về Lịch sử dân tộc?…là nỗi trăn trở của rất
nhiều người Việt nam yêu nước, đặc biệt là của những thầy cô đang trực tiếp
giảng dạy bộ môn. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy Lịch sử và thấy được
thực trạng hiện nay của việc dạy và học Lịch sử tôi vô cùng lo lắng. Theo tơi để
học sinh u thích Lịch sử, để mơn Lịch sử có được “chỗ đứng” vững chắc trong
giai đoạn hiện nay thì cần nâng cao chất lượng dạy học bộ mơn, trong đó đổi
mới phương pháp và vận dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học có vai trị
cực kì quan trọng.
Mơn Lịch sử lớp 9 bao gồm 2 phần: Lịch sử thế giới hiện đại từ năm
1945 đến nay và Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay, trong đó Lịch sử Việt
Nam chiến tới 2/3 thời lượng chương trình. Tìm hiểu Lịch sử dân tộc là nội dung
cơ bản nhất của chương trình Lịch sử lớp 9. Lịch sử Việt Nam từ năm 19191954 chứng kiến cuộc đấu tranh anh dũng, bất khuất, bền bỉ của quân và dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đây là một giai đoạn cực kì quan trọng, chi
phối sự phát triển của Lịch sử dân tộc trong các giai đoạn tiếp theo. Nhằm nâng
cao chất lượng dạy học Lịch sử lớp 9 tôi đã chọn đề tài: “Sử dụng thơ văn trong
giảng dạy môn Lịch sử lớp 9 phần Lịch sử Việt Nam (1919-1954) nhằm nâng
cao hứng thú học tập cho học sinh” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình
2. Mục đích nghiên cứu
Kiểm tra, đánh giá thực trạng của việc học tập Lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919-1954 của học sinh. Qua đó giáo viên tìm ra những giải pháp nhằm nâng



3
cao ý thức, hứng thú, niềm đam mê tìm hiểu Lịch sử của học sinh, nâng cao kết
quả học Lịch sử cho học sinh.
Giáo dục lòng yêu nước, biết ơn những anh hùng có cơng với đất nước,
bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc, có tinh thần trách nhiệm cao đối với Tổ
Quốc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là bộ môn Lịch sử lớp 9 phần Lịch sử Việt Nam từ
năm 1919-1954 và học sinh lớp 9.
Để có cơ sở đánh giá hiệu quả của đề tài trong thực tế giảng dạy tôi chọn
2 lớp 9A, 9B năm học 2019-2020 của trường THCS thị trấn Lang Chánh I, làm
2 lớp thực nghiệm. Hai lớp này đều là hai lớp có sự tương đồng tương đối về
tinh thần, thái độ và kết quả học tập môn Lịch sử.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận duy vật Lịch sử và duy vật biện chứng
- Phương pháp phân tích- tổng hợp
- Phưng pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp thống kê.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Sáng kiến nêu lên cách sử dụng phối kết hợp những kiến thức thơ ca
nhằm nâng cao hứng thú học tập Lịch sử của học sinh khi học phần Lịch sử Việt
Nam từ năm 1919-1954.


4
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Sinh thời Bác Hồ đã căn dặn thế hệ trẻ Việt Nam :
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Có thể nói Việt Nam là một quốc gia có bề dày Lịch sử và văn hóa. Vậy
làm sao để thế hệ sau có được cái nhìn khách quan, tồn vẹn về Lịch sử dân tộc,
về những gì ơng cha ta đã làm để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc?
Tất cả những vấn đề này đặt lên vai môn Lịch sử và những người giảng dạy Lịch
sử. Trong tiến trình phát triển của Lịch sử dân tộc, ngồi những thành tựu văn
hóa, sự phát triển kinh tế đất nước, thì chiếm thời lượng khơng nhỏ trong
chương trình bộ mơn là những cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của dân tộc để
chống lại các thế lực ngoại xâm.
Tuy nhiên có một thực tế là những năm gần đây môn Lịch sử ở tất cả các
cấp học đang được rất ít học sinh chú ý đến. Bởi lẽ hiện nay cùng với sự phát
triển chung của xã hội thì nhiều người nghĩ rằng học Lịch sử khơng còn phù hợp
với thời “Kinh tế thị trường” so với các ngành nghề khác. Vì vậy đa số học sinh
chỉ chú ý học các môn khoa học tự nhiên mà rất ít chú ý đến các mơn học xã hội,
các mơn xã hội nói chung và mơn Lịch sử nói riêng đang bị xem nhẹ. Vẫn cịn
đó sự kiện gây nhức nhối trong xã hội, đó là năm học 2012-2013 học sinh
trường THPT Nguyễn Hiền (Thành phố Hồ Chí Minh) sau khi nghe Bộ GD-ĐT
thông báo các môn thi tốt nghiệp khơng có mơn Lịch sử thì lập tức vui mừng,
sung sướng xé tồn bộ tài liệu ơn thi mơn Lịch sử rồi tung trắng sân trường. Việc
làm đó của học sinh trường Nguyễn Hiền là một hồi chuông cảnh báo về vấn đề
học Lịch sử và ý thức đối với bộ môn Lịch sử hiện nay của học sinh THPT.
Để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, trước hết phải làm cho học sinh
hứng thú trong mỗi tiết dạy để từ đó các em thấy được sự lo gic, mối liên hệ
giữa sự kiện Lịch sử, thấy được Lịch sử rất gần gũi với cuộc sống. Nhờ vậy các
em sẽ thấy bài học Lịch sử khơng cịn khơ khan, nhàm chán nữa. Sử dụng thơ
văn trong dạy học Lịch sử là biện pháp hữu hiệu góp phần nâng cao hứng thú
học tập Lịch sử cho học sinh. Nâng cao hứng thú học tập Lịch sử cho học sinh
cũng có nghĩa là nâng cao hiệu quả học tập của môn học, nâng cao hiểu biết của
học sinh đối với Lịch sử dân tộc, từ đó góp phần giáo dục, đào tạo một đội ngũ
thế hệ trẻ Việt Nam có bản lĩnh trong quá trình hội nhập và phát triển, giàu lòng
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện



5
tốt chính sách pháp luật của nhà nước…..trong đó quan trọng nhất là phát huy,
khơi dậy lòng yêu nước đang tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam.
2. Thực trạng về hứng thú học tập của học sinh khi học phần Lịch sử
Việt Nam từ năm 1919-1954.
Ở trường THCS thị trấn Lang Chánh I trước khi dạy sang phần II Lịch sử
Việt Nam từ năm 1919-1954 tôi thường dành một ít thời gian để kiểm tra hứng
thú học Lịch sử của học sinh giai đoạn này, từ đó có thể rút ra những nguyên
nhân chính dẫn đến việc học sinh không hào hứng khi học Lịch sử, đưa ra những
biện pháp khắc phục những nguyên nhân của tình trạng trên nhằm nâng cao hiệu
quả giảng dạy bộ môn.
Tôi sử dụng phiếu điều tra về hứng thú học tập của học sinh lớp 9A, 9B ở
phần Lịch sử Việt Nam 1919-1954 (lưu ý phiếu điều tra không ghi tên người
được điều tra để đảm bảo yếu tố khách quan)
TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN LANG CHÁNH I

PHIẾU ĐIỀU TRA
Học sinh đánh dấu x vào ô trống
Mức độ hứng thú học tập
bộ môn Lịch sử
Rất thích

Bình thường

Khơng thích

Ngun nhân
Do học sinh thiên về học các môn tự

nhiên
Do kiến thức sách giáo khoa khô khan,
nặng nề
Do phương pháp giảng dạy khô khan,
buồn tẻ, nặng về trình bày các sự kiện
đã diễn ra
Ý kiến khác

Học sinh lớp 9 Trường THCS thị trấn Lang Chánh I tham gia khảo sát


6

Học sinh lớp 9 Trường THCS thị trấn Lang Chánh I tham gia khảo sát

Sau khi sử dụng phiếu điều tra kết quả thu được như sau:
Mức độ hứng thú
Rất thích
Bình thường
Khơng thích
Tổng

Năm học 2019-2020
Lớp 9A
Số lượng
%
6
16,8
12
33,6

17
49,6
35
100

Năm học 2019-2020
Lớp 9B
Số lượng
%
5
13,5
13
36,5
18
50,0
36
100

Qua bảng điều tra ta thấy số lượng học sinh rất thích mơn Lịch sử ở cả 2
lớp là rất ít. Còn lại đa số học sinh được điều tra cảm thấy bình thường hoặc
khơng thích học Lịch sử giai đoạn này. Đáng chú ý là ở cả 2 lớp các em khơng
thích học phần Lịch sử này chiếm tỉ lệ khá cao (Lớp 9A là 49,6% và 9B là
50,0%).
Hậu quả của thực trạng:
- Từ việc khơng thích học Lịch sử Việt Nam dẫn đến tình trạng vốn kiến thức
Lịch sử dân tộc của các em ngày càng bị thu hẹp, các em có lối sống mơ hồ,
thực dụng, thích hưởng thụ mà khơng có ý thức cống hiến.
- Nhiều em quay lưng với Lịch sử dân tộc, không hiểu được nguồn gốc, qui luật
phát triển của xã hội loài người dẫn đến một bộ phận thế hệ trẻ Việt Nam sống
lệch lạc, mất gốc, không biết trân trọng quá khứ.

- Do khơng thích học Lịch sử dân tộc, khơng tìm hiểu cụ thể về Lịch sử dân tộc
nên nhiều học sinh còn nhầm Lịch sử Việt Nam với Lịch sử thế giới, nhầm nhân
vật Lịch sử này với nhân vật Lịch sử khác, nhầm lẫn sự kiện này với sự kiện
khác… Nguy hiểm hơn nhiều em do không chú ý học Lịch sử dân tộc nên khi
học thường hiện đại hóa Lịch sử thậm chí xun tạc, bơi nhọ Lịch sử, khơng có
ý thức đấu tranh đúng mực trong cuộc sống, sống nơng nổi, nhất thời, lịng u
nước suy giảm nghiêm trọng.
- Các bài kiểm tra ở trên lớp, các kì thi do Phịng GD, Sở GD và ĐT tổ chức,
chất lượng các bài thi Lịch sử rất thấp. Các kì thi, cuộc thi gần đây đã cho thấy
chất lượng học Lịch sử trở nên báo động. Vẫn còn đó hàng nghìn thí sinh bị
điểm 0 trong kì thi đại học năm học 2010 - 2011, trong kì thi tuyển sinh đại học
năm học 2011- 2012 Lịch sử là mơn có điểm thấp nhất, số bài thi sử dưới điểm


7
trung bình là 80 - 90%, có những trường điểm sử cao nhất là 5,25 hay cả kì thi
chỉ có một thí sinh chọn thi mơn Lịch sử...
Ngun nhân của thực trạng trên
Trước những kết quả trên tôi đã giành thời gian tìm hiểu những ngun
nhân, từ đó đề ra những biện pháp để khắc phục việc học sinh chán học Lịch sử.
Qua tìm hiểu ở 2 lớp 9A và 9B năm học 2019 -2020 tôi thu được kết quả như
sau:

Lớp Sĩ số

9A
9B

35
36


Do học sinh
thiên về học
các môn tự
nhiên
SL
%
15
42,0
13
35,1

Nguyên nhân
Do kiến
Do phương pháp giảng
Ý kiến
thức SGK
dạy khô khan, buồn tẻ,
khác
khô khan, nặng về trình bày các sự
nặng nề
kiện đã diễn ra
SL
%
SL
%
SL %
10 28,0
08
24,4

02
5,6
16 43,2
7
21,7
0
0

Qua bảng thống kê trên ta thấy có nhiều ngun nhân dẫn đến học sinh
khơng hứng thú khi học Lịch sử, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất đó là do
phương pháp giảng dạy khơ khan, buồn tẻ, nặng về trình bày các sự kiện đã diễn
ra, việc học Lịch sử trở thành những buổi liệt kê những sự kiện đã xảy ra trong
quá khứ. Vì vậy, nhiều học sinh cảm thấy “sợ” khi phải học Lịch sử.
3. Các giải pháp thực hiện để giải quyết thực trạng trên
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1954 là một giai đoạn Lịch sử khá dài,
gắn với nhiều sự kiện Lịch sử có ý nghĩa quan trọng, nó chi phối sự phát triển
của Lịch sử dân tộc trong các giai đoạn tiếp theo. Vì vậy hiểu rõ được Lịch sử
giai đoạn này học sinh sẽ có được cái nhìn khái qt nhất về Lịch sử Việt Nam,
con người và dân tộc Việt Nam, thấy được chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt
Nam giai đoạn này được tỏa sáng hơn bao giờ hết. Vậy để làm được điều đó,
giáo viên phải đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hứng thú, niềm tin cho các
em trong từng tiết học. Để các em nhận ra rằng Lịch sử không đơn thuần là
những sự kiện khô khan cứng nhắc giáo viên cần kết hợp lồng ghép thơ văn và
một số phương pháp trong quá trình dạy.
3.1. Vai trị của thơ văn trong giảng dạy khi dạy phần Lịch sử Việt
Nam từ năm 1919- 1954
Có một thời kì dài trong nền giáo dục Việt Nam có quan niệm “văn - sử triết bất phân”. Qua đó ta thấy văn học và Lịch sử có mối quan hệ mật thiết với


8

nhau. Các nhà văn, nhà thơ dựa vào hiện thực Lịch sử để viết nên những tác
phẩm văn học phản ánh trung thực, sống động các hoạt động của con người.
Ngược lại khi đọc các tác phẩm văn học, bức tranh về Lịch sử dân tộc được hiện
ra một cách chân thực lôi cuốn.
Từ lâu môn Lịch sử thường được đánh giá là mơn học khơ khan, nặng nề
bởi có quá nhiều sự kiện được phản ánh buộc học sinh phải tiếp thu trong một
khoảng thời gian hạn hẹp. Mô típ “thời gian - sự kiện” cứ lặp đi lặp lại trong
mỗi bài học Lịch sử làm cho người dạy đau đầu, người học nhàm chán. Văn học
là món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với con người. Chúng ta nên tận
dụng những yếu tố tích cực của văn học để loại bỏ những hạn chế trong quá
trình dạy học Lịch sử, để giờ dạy học Lịch sử trở nên nhẹ nhàng, thu hút hơn.
Khi dạy Lịch sử kết hợp với việc đưa một số đoạn thơ, đoạn văn phù hợp vào sẽ
giúp học sinh nhớ lâu, nhớ kĩ, khắc họa đậm nét sự kiện, nhân vật Lịch sử. Các
em sẽ diễn đạt tốt các vấn đề Lịch sử, hành văn thuần thục hơn.
Tuy nhiên sử dụng văn học thôi chưa đủ, chúng ta cần phải kết hợp với
việc sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng bộ
môn. Hiện nay đổi mới phương pháp giáo dục đang được Đảng, Nhà nước, Bộ
GD- ĐT đặt ra một cách cấp thiết và là mục tiêu hàng đầu của giáo dục Việt
Nam thời kì đổi mới. Nhưng đổi mới phương pháp giáo dục không có nghĩa là
loại bỏ những phương pháp dạy học cũ và thay vào đó là những phương pháp
dạy học
mới mà cần phải duy trì những yếu tố tích cực của phương pháp cũ và đưa thêm
một số phương pháp mới phù hợp vào giảng dạy.
Lịch sử là một môn học có đặc thù riêng nên trong q trình giảng dạy
khơng thể thiếu phương pháp tường thuật, miêu tả. Bởi khi trình bày về diễn
biến của các trận đánh, tiến trình của những hội nghị, đại hội….mà không sử
dụng 2 phương pháp này thì bài giảng Lịch sử sẽ khơng đem lại hiệu quả.
3.2. Một số lưu ý khi sử dụng thơ văn trong gi dạy khi dạy phần Lịch
sử Việt Nam từ năm 1919-1954.
- Đối với việc sử dụng thơ văn: Học sinh có thể học văn để có những hiểu biết

thêm về Lịch sử dân tộc. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng biết được
điều này, và càng khơng phải ai biết cũng vận dụng một cách có hiệu quả. Do
vậy khi sử dụng thơ văn cần lưu ý:
+ Cần chọn lựa những nội dung văn học phù hợp với nội dung Lịch sử cần khắc
sâu cho học sinh và với thời gian mà sự kiện Lịch sử đang diễn ra. Đối với phần


9
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1954 giáo viên nên lựa chọn, sử dụng thơ văn
cách mạng của một số nhà thơ tiêu biểu như Tố Hữu (tác phẩm “Từ ấy”, “ Hoan
hô chiến sĩ Điện Biên”, “Việt Bắc”, “Bài ca xuân 1961”, “Theo chân Bác”…..),
Chế Lan Viên (tác phẩm “Người đi tìm hình của nước”, “Tiếng hát con
tàu”…..), nhà thơ Phan Bội Châu (Tác phẩm “Văn tế Nguyễn Thái Học:), nhà
thơ Viễn Phương (Bài văn bia tại đền tưởng niệm Bến Dược - Củ Chi)…Bên
cạnh đó giáo viên nên sử dụng những tác phẩm hiện thực phê phán của một số
nhà văn như Kim Lân (Tác phẩm “Làng”, “Lão Hạc”), Nam Cao (Tác phẩm
“Chí Phèo”, “Đời thừa”, “Một bữa no”…), Ngô Tất Tố với tác phẩm “Tắt
đèn”… Tránh lạm dụng, đưa quá nhiều nội dung văn học vào bài học, biến giờ
dạy Lịch sử thành giờ giới thiệu các tác phẩm văn học, ảnh hưởng tới sự tập
trung nhận thức của học sinh vào những vấn đề đang học.
+ Cần sử dụng ngữ điệu phù hợp với tài liệu văn học, với nội dung sự kiện cần
minh họa.
+ Tài liệu văn học phải có giá trị giáo dục, giáo dưỡng cao, phải là một bức
tranh sinh động về những sự kiện Lịch sử, nhân vật Lịch sử và phù hợp với trình
độ nhận thức của học sinh.
- Khi đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần lưu ý:
+ Cần phải lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng nội dung,
tránh gây nhàm chán cho học sinh
+ Không lạm dụng quá mức nhiều phương pháp dạy học trong 1 tiết học, 1 bài
học sẽ ảnh hưởng đến việc truyền đạt kiến thức cho học sinh.

3.3. Sử dụng thơ văn trong giảng dạy khi dạy phần Lịch sử Việt Nam
từ năm 1919-1954 để khắc họa về một nhân vật Lịch sử.
Một nhà văn đã viết “Nếu muốn phác họa về đất nước Việt Nam hãy vẽ
thanh kiếm và dịng máu đỏ”. Có thể nói chưa có một dân tộc nào trên thế giới
trải qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc như dân tộc Việt Nam. Trong cuộc chiến
tranh ấy nhân dân đã làm nên đất nước “Họ đã sống và chết. Giản dị và bình
tâm. Khơng ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên đất nước” (“Đất nước”Nguyễn Khoa Điềm). Như vậy trong sự phát triển của Lịch sử dân tộc nhân vật
Lịch sử có vai trị quan trọng. Bởi mỗi một cá nhân trong Lịch sử đã góp phần
tạo nên tượng đài bất tử cho dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu sâu sắc về nhân vật
Lịch sử góp phần giáo dục lịng biết ơn cho học sinh: Đó là sự biết ơn đối với
những người có cơng với nước, biết ơn những người xung quanh.


10
Ví dụ 1: Khi dạy bài 12: Phong trào các mạng Việt Nam sau chiến tranh
thế giới thứ nhất (1919-1925), ở phần II: Phong trào dân tộc dân chủ công khai
( 1919-1925), Giáo viên cần nhấn mạnh sự kiện Phạm Hồng Thái ám sát tên
toàn quyền Méclanh tại Sa Diện- Quảng Châu- Trung Quốc (19/6/1924) bằng
phương pháp miêu tả, sau đó giáo viên sử dụng bài thơ “Phạm Hồng Thái” của
nhà thơ Tố Hữu để khắc họa đậm nét hình ảnh người thanh niên yêu nước Phạm
Hồng Thái:
“Sống, chết được như anh
Thù giặc thương nước mình
Sống, làm quả bom nổ
Chết, như dịng nước xanh”.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài
trong những năm 1919-1925.
Trong tiến trình phát triển của Lịch sử dân tộc Nguyễn Ái Quốc có vai trị
quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Đã có rất nhiều sách báo, phim ảnh, tài
liệu nói về những đóng góp to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam. Tuy

nhiên để có thể khắc họa được đậm nét, chân thực về Người cho học sinh trong
một khoảng thời gian hạn chế lại là một điều vơ cùng khó. Vì vậy trong q
trình dạy tơi kết hợp truyền đạt kiến thức và lồng ghép thơ văn về Người để học
sinh dễ học, dễ nhớ.
Ở mục này sách giáo khoa đã trình bày khá đầy đủ, chi tiết về quê hương
và gia đình của Nguyễn Ái Quốc. Giáo viên cần nhấn mạnh để học sinh thấy
được một trong những nguyên nhân ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc là do tác động từ phía q hương và gia đình:
- Về phía quê hương: Nguyễn Ái Quốc sinh ra trên một vùng quê nghèo
như bao vùng quê khác ở Việt Nam, nhưng vùng quê này lại có truyền thống yêu
nước và cách mạng, GV sử dụng đoạn thơ sau để minh họa:
“Bác ơi quê Bác cũng nghèo
Quê hương của Bác cũng như nhiều quê hương
Bởi vì Bác nặng tình thương
Cho nên nắng đẹp bốn phương q Người”
(Tố Hữu)
- Về phía gia đình: Nguyễn Ái Quốc sinh ra trong một gia đình nhà nho
giàu lòng yêu nước, được sự dạy bảo ân cần, chu đáo của cả người cha và người


11
mẹ. Một trong những tác động tới lòng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc ngay từ
khi còn nhỏ là lời ru ngọt ngào của mẹ:
“À ơi…
Con ơi mẹ dặn điều này
Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm
Làm người đói sạch, rách thơm
Cơng danh phủi nhẹ, nước non phải đền”.
Ví dụ 3: Khi dạy bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp kết thúc 9 1953-1954) ở mục 2 (phần II): Chiến dịch Lịch sử Điện Biên

Phủ giáo viên cần nhấn mạnh:
- Đây là một chiến dịch lớn, thể hiện ý chí, tinh thần yêu nước và nghị lực
phi thường của nhân dân Việt Nam. Chiến dịch này góp phần kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mĩ.
- Giáo viên không nên chú ý trình bày về diễn biến của chiến dịch sẽ dẫn
đến bài học khô khan, học sinh nhàm chán không muốn học. Ở mục này giáo
viên sử dụng một đoạn trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ
Tố Hữu để khắc họa rõ nét hình tượng một số chiến sĩ đã chiến đấu hy sinh
trong chiến dịch:
“Những đồng chí thân trơn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, cịn ơm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện”

Đưa thơ văn vào tiết học môn Lịch sử lớp 9 tại trường THCS thị trấn Lang Chánh I

- Sau khi trích dẫn đoạn thơ,
giáo viên chiếu một số hình ảnh
để học sinh quan sát, sau đó
giáo viên đặt câu hỏi:

.


12
Em hãy cho biết các hình ảnh trên nhắc đến những nhân vật nào trong đoạn

thơ?
- Giáo viên kết luận: Đoạn thơ trên nói về những tấm gương chiến đấu hy sinh
quả cảm của anh Bế Văn Đàn (lấy thân mình làm giá súng), anh Phan Đình Giót
(lấy thân mình lấp lỗ châu mai), anh Tô Vĩnh Diện (lấy thân mình chèn pháo).
Đồng thời giáo viên sử dụng phương pháp tường thuật để nêu một cách ngắn
gọn về những hành động quả cảm của các anh:
+ Anh Bế Văn Đàn sinh năm 1931 tại tỉnh Cao Bằng trong một gia đình có
truyền thống cách mạng. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Bế Văn Đàn bị
thương, nhưng ông vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không
bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng chưa bắn
được vì khơng có chỗ đặt súng. Trong tình thế hết sức khẩn trương, Bế Văn Đàn
không ngần ngại chạy lại cầm 2 chân khẩu trung liên đặt lên vai mình và hơ
đồng đội bắn. Pù cịn do dự thì Bế Văn Đàn đã nói: Kẻ thù trước mặt, đồng chí
có thương tơi thì bắn chết chúng nó đi!. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng,
Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và hy sinh, hai tay vẫn cịn ghì chặt súng trên
vai mình.

Đưa thơ văn vào tiết học Lịch sử lớp 9 tại trường THCS thị trấn Lang Chánh I

+ Anh Phan Đình Giót sinh năm 1922 tại Hà Tĩnh trong một gia đình nghèo.
Trong đợt 1 của chiến dịch Điện Biên Phủ trận chiến giữa ta và địch diễn ra ác
liệt nhiều người bị thương, Phan Đình Giót bị thương vào đùi nhưng vẫn xông
lên chiến đấu tiếp anh lại bị thương vào vai, máu chảy đầm đìa. Nhưng Pháp vẫn
bắn rất mạnh vào đội hình ta. Lực lượng xung kích bị ùn lại, Phan Đình Giót đã
dùng hết sức mình còn lại nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai, miệng
hơ to: "Quyết hy sinh…vì Đảng…vì dân!!.." rồi rướn người lấy đ à, lao cả thân
mình vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hoả điểm lợi hại nhất của quân Pháp đã bị
dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam,
giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
+ Anh Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924 quê ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống

(nay thuộc huyện Triệu Sơn), tỉnh Thanh Hoá. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ
quân ta được lệnh kéo pháo ra khỏi trận địa. Trong quá trình kéo pháo dây tời bị


13
đứt, ngay lập tức anh Tô Vĩnh Diện đã lấy thân mình chèn pháo lại ngăn khơng
cho pháo lăn xuống dốc và anh đã hy sinh.
Khi hỏi về chiến dịch Điện Biên Phủ có thể nhiều học sinh sẽ trả lời ngay
được chiến dịch diễn ra qua 3 đợt, tuy nhiên qua nhiều năm giảng dạy tơi thấy
rất ít học sinh biết đến sự chiến đấu, hy sinh quả cảm của các anh. Vì vậy sử
dụng thơ văn và phương pháp tường thuật là một biện pháp hữu hiệu góp phần
nâng cao chất lượng giờ dạy.
3.4. Sử dụng thơ văn trong giảng dạy khi dạy phần Lịch sử Việt Nam
từ năm 1919-1954 để nhấn mạnh về một sự kiện Lịch sử.
Nội dung quan trọng nhất của Lịch sử là các sự kiện Lịch sử. Học Lịch sử
người ta qui là nhớ sự kiện. Vì vậy rất nhiều người cho rằng mơn Lịch sử là một
mơn học thuộc lịng các sự kiện đã diễn ra trong q khứ. Chính vì quan niệm
sai lầm này đã làm cho chất lượng bộ môn ngày càng suy giảm. Trong dạy học
Lịch sử, một câu hỏi luôn day dứt trong tôi là làm sao để biến các sự kiện khô
khan thành những nội dung dễ học, dễ nhớ? Câu hỏi này đặt ra với tôi trong rất
nhiều tiết dạy, là nỗi trăn trở của tôi khi soạn bài. Sau khi áp dụng rất nhiều
phương pháp tôi thấy việc sử dụng thơ văn đã phát huy tác dụng tích cực
Ví dụ 1: Khi dạy bài 14: Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất: ở
phần III: Xã hội Việt Nam phân hóa: giáo viên sử dụng một vài câu thơ sau:
“Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủng beo”.
Hay:
“Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Ðất Ðỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu

Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng!”
- Sau khi đọc hai đoạn thơ trên giáo viên đặt câu hỏi để học sinh suy nghĩ trả lời:
Em có nhận xét gì về đời sống của nơng dân, công nhân Việt Nam qua 2 đoạn
thơ trên?
Mặc dù chưa tìm hiểu nội dung sách giáo khoa nhưng qua những đoạn thơ
trên học sinh có thể hình dung được cuộc sống khó khăn, khổ cực của nơng dân,
cơng nhân Việt Nam thời kì Pháp thuộc và sự tàn bạo, độc ác của kẻ thù. Qua đó
học sinh cũng có thể lý giải được vì sao cơng nhân và nơng dân lại là lực lượng
đông đảo, hăng hái trong phong trào đấu tranh.


14
Ví dụ 2: Khi dạy bài 16:Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài
trong những năm 1919-1925. ở phần II: Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô ( 19231924). Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là tháng 7 năm 1920 Nguyễn Ái
Quốc đọc được bản sơ thảo lần thứ nhất “Luận cương của Lê nin về vấn đề dân
tộc và thuộc địa”. Bởi sau khi đọc được bản sơ thảo Người đã tìm thấy trong đó
con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, đó là con đường cách mạng vô sản.
Để khắc sâu sự kiện này, giáo viên trích đọc cho học sinh nghe một đoạn trong
bài thơ “Người đi tìm hình của nước ” của nhà thơ Chế Lan Viên:
“Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin.
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc:
“ Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
Hình của Ðảng lồng trong hình của Nước.
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”.
- Sau đó giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao Bác Hồ lại khóc khi đọc được bản Luận
cương của Lê Nin?
- Học sinh trả lời, giáo viên phân tích thêm: Qua đoạn thơ trên học sinh sẽ thấy

được cảm xúc bồi hồi xúc động của Người khi đọc được bản luận cương.
Bác đã bật khóc - những giọt nước mắt của hạnh phúc khi sau bao nhiêu năm
bôn ba nơi đất khách quê người Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc Việt Nam - đó là con đường cách mạng vô sản, giải quyết được
sự bế tắc về đường lối cho cách mạng Việt Nam.
Ví dụ 3: Khi dạy Bài 18: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, ở phần I: Hội
nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam để khắc sâu sự kiện Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời, giáo viên trích dẫn một đoạn thơ của nhà thơ Tố Hữu:
“Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ
Khơng áo cơm sương gió tơi bời
Đảng ta sinh ở trên đời
Một hịn máu đỏ nên người hơm nay”
- Qua đoạn thơ học sinh hiểu được hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
không diễn ra ở trong nước mà diễn ra ở nước ngoài (Trung Quốc). Điều này nói


15
lên nỗi nhục của những người dân mất nước và sự khó khăn của cách mạng thời
kì này.
Ví dụ 4: Khi dạy bài 21:Việt Nam trong những năm 1939-1945. Để khắc
họa về đời sống của nhân dân Việt Nam thời kì này, giáo viên sử dụng một số
tác phẩm văn học hiện thực phê phán như “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố,
“Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao…. Hoặc
đoạn văn: “Cuộc sống của người nơng dân Việt Nam thời đó thật khốn quẫn. Bị
tước đoạt hết gạo mà họ năm nắng mười sương mới kiếm được, hay mảnh vải
mà họ phải thức khuya dậy sớm để dệt thành, họ sống cầm hơi với hớp cháo
cám nhạt và trần mình chịu rét lúc đêm đơng”. Qua những hình ảnh văn học này
học sinh có thể hình dung được cuộc sống cơ cực tăm tối của người dân Việt
Nam trước cách mạng, từ đó các em có thể lí giải được vì sao nhân dân Việt
Nam lại đứng lên đấu tranh. Các em cũng có thể rút ra qui luật xun suốt q

trình học Lịch sử cũng như trong cuộc sống thực tại “tức nước vỡ bờ”, “có áp
bức, có đấu tranh”.
Ví dụ 5: Khi dạy bài 22: Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945 phần I: Mặt trận Việt Minh ra đời.: phần này gồm rất
nhiều sự kiện và nhiều mốc thời gian khác nhau. Vì vậy giáo viên nên có sự lựa
chọn, dồn trọng tâm vào những nội dung quan trọng Trong những nội dung của
phần này thì sự trở về của Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với
cách mạng Việt Nam, giáo viên trích dẫn đoạn trích trong bài thơ “Theo chân
Bác ” của nhà thơ Tố Hữu khi dạy phần này:
“Bác đã về đây Tổ Quốc ơi
Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy chân không mỏi
Mãi đến bây giờ mới tới nơi”.
Đoạn thơ trên sẽ cung cấp cho học sinh rất nhiều kiến thức: Đó là sự trở
về của Nguyễn Ái Quốc sau 30 năm bôn ba hải ngoại. Câu thơ “Ba mươi năm
ấy chân không mỏi” giúp học sinh có được sự liên kết giữa hai mốc thời gian:
khi Người ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 và khi người trở năm 1941 đúng
30 năm. Vì vậy khi học sinh nhớ thời điểm Người ra đi tìm đường cứu nước thì
sẽ nhớ được thời điểm Người trở về và ngược lại mà không cần học q máy
móc, khơng mất nhiều thời gian.
Giáo viên nhấn mạnh sự ra đời của căn cứ địa Việt Bắc (4/6/1945) và vai
trò của căn cứ địa Việt Bắc trong cuộc cách mạng tháng Tám. Đây là căn cứ địa


16
quan trọng của cả nước. Để nhấn mạnh nội dung này giáo viên sử dụng bài thơ
“Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu, trong đó có đoạn:
“Ở đâu u ám quân thù
Trông về Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nịi

Nhìn lên Việt Bắc mà ni chí bền”.
Ví dụ 6: Khi dạy bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945 và sự thánh
lập nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, mục III. Giành chính quyền trong cả
nước. Sau khi giáo viên tường thuật buổi lễ mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân
dân thủ đô và các vùng lân cận, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc
lập” thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hịa. Giáo viên có thể sử dụng bài
thơ sau về niềm vui của toàn thể dân tộc ta khi giành được độc lập để khắc sâu
sự kiện Lịch sử cho học sinh:
“Hơm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đơ hoa, vàng nắng ba Đình
Mn triệu tim chờ…chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!”
(Theo chân Bác - Tố Hữu)
Đưa thơ văn vào tiết học Lịch sử lớp 9 tại trường THCS thị trấn Lang Chánh I

Việc sử dụng tài liệu văn học trong bài tường thuật Lịch sử không những
làm
cho giờ học thêm sinh động, cuốn hút sự tập trung chú ý của học sinh mà còn
làm cho các em hiểu được sâu sắc hơn về sự kiện, hiện tượng, nhân vật Lịch sử.
Từ đó hình thành những tình cảm đạo đức đúng đắn cho học sinh.
Ví dụ 7: Khi dạy bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp kết thúc (1953-1954) , mục II. 2 Chiến dịch Lịch sử Điện Biên Phủ (1954).
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi có ý nghĩa Lịch sử hết sức to
lớn. Giáo viên có thể sử dụng đoạn thơ sau để minh họa, qua đó học sinh
thấy được đây là chiến thắng này đã giáng địn quyết định vào ý chí xâm lược


17
của thực dân Pháp, chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược, tạo điều kiện

cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi.
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
(“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên “ - Tố Hữu)
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Lịch sử, cho thấy việc đưa thơ
văn vào các tiết dạy phù hợp giúp tôi hồn thành cơng việc giảng dạy của mình
ngày một tốt hơn, thể hiện qua việc đánh giá kết quả học tập của học sinh
*Mức độ hứng thú của học sinh đối với việc học tập bộ môn Lịch sử
Lớp 9A

Mức độ hứng thú
Rất thích
Bình thường
Khơng thích
Tổng

Trước khi áp dụng đề tài

Sau khi áp dụng đề tài

Số lượng
6
12
17
35

Số lượng
14

13
8
35

%
16,8
33,6
49,6
100

%
41,2
36,4
22,4
100

Lớp 9B
Mức độ hứng thú

Trước khi áp dụng đề tài

Số lượng
Rất thích
5
Bình thường
13
Khơng thích
18
Tổng
36

*Về kết quả học tập cuối học kì II:
- Trước khi áp dụng đề tài
Lớp

Sĩ số

%
13,5
36,5
50,0
100

Kết quả

Sau khi áp dụng đề tài
Số lượng
16
10
10
36

%
46,0
27,0
27,0
100


18
Giỏi

9A
9B

35
36

SL
5
4

%
14,0
10,8

Khá

Trung bình
SL
%
15
44,0
14
40,6

Yếu, kém
SL
%
3
8,4
7

18,9

Kết quả
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%
15
44,0
10
28,0
14
40,6
11
29,7

Yếu, kém
SL
%
1
2,8
3
8,1

SL
12
11


%
33,6
29,7

- Sau khi áp dụng đề tài
Lớp
9A
9B

Sĩ số
35
36

Giỏi
SL
9
8

%
25,2
21,6

Qua hai bảng thống kê ta thấy có sự thay đổi hoàn toàn về hứng thú cũng
như kết quả học tập của học sinh khi chưa sử dụng thơ văn và khi đã sử dụng
thơ văn vào trong quá trình dạy học. Khi chưa sử dụng thơ văn vào giảng dạy ở
lớp 9A số lượng học sinh hứng thú với môn học chỉ chiếm 16,8% nhưng khi đã
sử dụng thơ văn vào trong quá trình giảng dạy số học sinh hứng thú với môn học
tăng lên rõ rệt, chiếm 41,2%. Lớp 9B từ 13,5% tăng lên 46%. Mặt khác trong
các giờ học có lồng ghép thơ văn học sinh học tích cực chủ động hơn, các em
hăng hái tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài làm cho giờ học Lịch sử trở nên

sơi nổi hơn. Vì vậy kết quả học tập cuối học kì II ở cả hai lớp cũng thu được kết
quả khả quan: Ở lớp 9A khi chưa sử dụng thơ văn vào giảng dạy số học sinh đạt
loại giỏi là 14,0%, loại yếu, kém chiếm tới 8,4%. Nhưng khi đã sử dụng thơ văn
vào trong quá trình giảng dạy ở lớp 9A số học sinh đạt loại giỏi tăng lên rõ rệt,
chiếm 25,2%, số học sinh yếu, kém giảm còn 2,8%. Tương tự ở lớp 9B số học
sinh giỏi tăng từ 10,8% lên 21,6%, số học sinh yếu, kém giảm từ 18,9% xuống
còn 8,1%
Học sinh Trường THCS thị trấn Lang chánh I sôi nổi, hào hứng trong tiết học môn
Lịch sử

Đa số học trị hứng thú với việc học tập bộ mơn Lịch sử hơn, ham thích
tham gia các hoạt động ngoại khóa của Lịch sử địa phương, phát huy tính tích
cực tự giác, sáng tạo trong học tập và cũng rèn khả năng tự tìm hiểu, sưu tầm
kiến thức về Lịch sử … Giờ đây những học sinh của tôi đã trở thành những em
năng động, sáng tạo trong học tập, hình thành ở các em thái độ trân trọng và tự
hào về Lịch sử địa phương cũng như Lịch sử dân tộc.


19

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Cùng với việc đưa thêm rất nhiều kĩ thuật dạy học vào trong quá trình giảng
dạy, sử dụng thơ văn trong giảng dạy sẽ góp phần nâng cao hiệu quả mơn học,
giúp mơn Lịch sử có được “chỗ đứng” vững chắc hơn trong lịng học sinh từ đó
phát huy được vai trị của bộ môn trong việc giáo dục học sinh.
2. Kiến nghị
- Đối với giáo viên: Cần khơng ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, tự học,
cập nhật những kiến thức mới vào trong q trình giảng dạy, đặc biệt là có thêm
vốn văn thơ để vận dụng hợp lí vào mỗi bài giảng Lịch sử, có những sáng kiến

hoặc sáng tạo trong việc biên soạn bài dạy phù hợp với đối tượng học sinh của
mình cũng như thực tiễn nhà trường.Tích cực đổi mới phương pháp dạy học,
ứng dụng công nghệ thơng tin vào dạy học, phát huy tính tự học tự tìm hiểu của
HS góp phần nâng cao hứng thú học tập cho học sinh.
- Đối với nhà trường: Cần quan tâm đầu tư các trang thiết bị dạy học hiện đại
phục vụ cho việc dạy học bộ môn. Chú trọng hơn đến vai trị của mơn Lịch sử
trong việc bồi dưỡng nhân cách của học sinh.Cần tăng cường tổ chức các giờ
ngoại khóa, các chuyên đề Lịch sử để học sinh và giáo viên có thể thơng qua đó
thảo luận, đóng góp ý kiến để có phương pháp dạy học Lịch sử. Nhà trường cần
bổ sung thêm tài liệu, sách báo về Lịch sử địa phương và thư viện nhà trường
cũng như bổ sung sử liệu vào phòng truyền thống nhà trường, để học sinh có thể
tham quan và tìm hiểu về Lịch sử xây dựng và phát triển của nhà trường trong
những năm qua; cần phân công trách nhiệm, tổ chức thực hiện từng nội dung bài


20
giảng một cách hợp lí, thích hợp với khả năng, năng lực của từng giáo viên, học
sinh và phát huy được tiềm năng của họ.
- Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo: Cung cấp đầy đủ tài liệu, sách hướng dẫn,
phương tiện hoạt động cho giáo viên và học sinh. Cần thường xuyên mở các lớp
tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, kĩ năng và phương pháp giảng dạy Lịch
sử cho giáo viên; tổ chức các chuyên đề, hội thảo, hội giảng.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tơi trong q trình giảng dạy. Tơi
hy vọng đề tài này có thể góp thêm một phần nhỏ để nâng cao chất lượng học
tập bộ môn, bồi đắp thêm lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ Việt
Nam khi các em có thêm hứng thú đối với việc học Lịch sử
Xác nhận của Hiệu trưởng

Lang Chánh, ngày 15 tháng 4 năm 2021
Tôi cam đoan đây là SKKN của tôi viết

Không sao chép, coppy của người khác
Người viết

Đặng Thị Lan


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu
2. Bài thơ “Hoan hô chiến Điện Biên” của Tố Hữu
3. Bài thơ “Phạm Hồng Thái” của Tố Hữu
4. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu
5. Các tài liệu tham khảo trên Internet


22

PHÒNG GD&ĐT LANG CHÁNH
TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN
LANG CHÁNH I

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Lang Chánh, ngày 26 tháng 4 năm 2021

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH

NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đặng Thị Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THCS Thị trấn Lang Chánh I

TT
1.

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

"Đổi mới kiểm tra, đánh giá
trong việc dạy học môn Lịch

Huyện

C

sử" ở Trường THCS Yên

2.

Năm học
đánh giá
xếp loại

2011

Khương.
Vận dụng phương pháp “khai
thác kênh hình” và phương
pháp “dạy học tích cực” để
nâng cao hiệu quả dạy mơn

Huyện
C

2014

Lịch sử 6 ở Trường THCS
3.

Yên Khương.
"Tạo hứng thú cho học sinh

2016


23
lớp 6- VNEN Trường THCS


Huyện

B

Tỉnh

C

2016

Huyện

A

2019

Thị Trấn Lang Chánh học bài
4.

Tìm hiểu quê hương em”
"Tạo hứng thú cho học sinh
lớp 6- VNEN Trường THCS
Thị Trấn Lang Chánh học bài

5.

Tìm hiểu quê hương em”
Giáo dục lòng yêu nước cho
học sinh qua cuộc khởi nghĩa

Lam Sơn tại Lang Chánh



×