Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số giải pháp tạo hứng thú trong giờ học tiếng việt cho học sinh lớp 6 ở trường THCS ngọc khê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.03 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGỌC LẶC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 6 Ở TRƯỜNG THCS
NGỌC KHÊ

Người thực hiện: Bùi Thị Tuyến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Ngọc Khê
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Ngữ văn

THANH HỐ NĂM 2021


MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Giải pháp
2.3.1. Tạo hứng thú trong khâu khởi động
2.3.2. Tạo hứng thú trong khâu phân tích ngữ liệu


2.3.3. Tạo hứng thú trong khâu làm bài tập nhanh
2.3.4. Tạo hứng thú trong khâu luyện tập
2.3.5.Tạo hứng thú trong khâu củng cố bài học
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

TRANG
2
2
2
3
3
3
3
4
5
5
8
11
13
15
17
17
17
18




2

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngữ văn là một mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là mơn học có
vai trị rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
Đồng thời mơn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư
tưởng, tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn, không những cung cho học sinh
những kiến thức cơ bản về Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn mà còn rèn
luyện cho học sinh kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tạo lập văn bản. Khác với các mơn
học khác, mơn Ngữ văn gồm có ba phân mơn đó là: Văn - Tiếng Việt - Tập làm
văn. Trong ba phân mơn, thì phân mơn Tiếng Việt có chức năng cơng cụ, hỗ trợ
đắc lực trong việc học tập hai phân mơn cịn lại là Văn (đọc – hiểu) và Tập làm
văn.
Phân môn Tiếng Việt tuy chiếm một dung lượng vừa phải nhưng lại có vị
trí quan trọng đáng kể cần được quan tâm. Bởi chức năng của Tiếng Việt là cung
cấp cho học sinh những tri thức cơ bản, khoa học và hữu ích về cách dùng từ,
đăt câu; cách lựa chọn diễn đạt chính xác, khoa học và gợi cảm. Học Tiếng Việt,
học sinh biết sử dụng từ ngữ đúng đến hay trong giao tiếp (nói, viết) hằng ngày;
nhờ học tiếng việt giúp học sinh nắm chắc các quy tắc dùng từ, đặt câu, hội
thoai… Từ đó để phân tích cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương. Cũng nhờ
nắm được quy tắc dùng từ, đặt câu, các hình thức hội thoại, các phép tu từ… nên
học sinh học phần Tập làm văn hiệu quả tốt hơn, biết dùng cách từ, đặt câu và
hình thành văn bản. Bởi vậy, có thể nói, muốn dạy tốt, học tốt môn Ngữ văn
trước hết cần dạy tốt, học tốt phân mơn Tiếng Việt.
Mơn Tiếng Việt có đặc trưng cơ bản của nó, đó là tính khách quan, khoa
học. Khác với hai phân mơn cịn lại, Tập làm văn hướng đến thực hành; Văn
(đọc – hiểu) hướng đến cảm – hiểu – rung động sâu sắc với cảm xúc trong tác
phẩm, thì Tiếng Việt mang một thiên hướng khác là ngắn gọn, rõ ràng, chính
xác, địi hỏi phương pháp đặc trưng là qui nạp – thực hành. Bởi vậy, đôi lúc

trong dạy và học Tiếng Việt, cả người học và người dạy đều có cảm giác nhàm
chán, khơ khan, cứng nhắc. Học sinh không mấy hứng thú với môn học, dẫn đến
chất lượng học môn Ngữ văn chưa cao. Vậy làm thế nào để khắc phục được
những hạn chế nêu trên? Làm thế nào để tạo một không khí thoải mái, linh hoạt
và hấp dẫn trong giờ học Tiếng Việt là vấn đề khiến tôi luôn trăn trở và khơng
ngừng tìm tịi, nghiên cứu. Vì vậy, tơi xin mạnh dạn đưa ra “Một số giải pháp
tạo hứng thú trong giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 6 ở Trường THCS
Ngọc Khê”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Q trình nghiên cứu đề tài này nhằm giúp nâng cao chất học tập phân
môn Tiếng Việt cho học sinh. Học sinh nắm vững, hiểu sâu những kiến thức
Tiếng Việt trong từng bài học, từ đó nâng cao chất lượng học tập bộ mơn, đồng
thời tạo cho học sinh một tâm lí học tập thoải mái, hứng thú, khơi gợi tình yêu
văn học.
Bên cạnh đó, việc giải quyết các vấn đề đặt ra trong đề tài, cũng là cơ hội
để giáo viên tìm tịi, học hỏi, đúc rút kinh nghệm. Đó cũng là một hình thức tự


3

học tự bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện của ngành giáo dục nói chung và nâng cao chất lượng dạy học mơn
Ngữ văn nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là các giải pháp cụ thể tạo hứng thú
trong giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 6 (Lớp: 6A1, 6A2) tại Trường THCS
Ngọc Khê.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này tôi đã áp dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận

+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp thưc tiễn
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
+ Phương pháp thu thập xử lí thơng tin.
+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp dạy học thực nghiệm trên lớp
+ Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Đất nước ta đã và đang trên đà phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
vấn đề chất lượng nguồn lực con người là vấn đề rất cần được quan tâm. Đào tạo
con người có đạo đức, có tri thức là nhiệm vụ của ngành giáo dục. Trong sự đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục, thì đổi mới phương pháp dạy học là một trong
những yêu cầu cấp thiết.
Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng đào tạo. Phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện
để giáo viên và người học phát huy hết khả năng trong việc truyền đạt tri thức,
lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy. Phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm
thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo hứng thú, say mê và sáng tạo của
người học.
Hứng thú là một trong những yếu tố cần thiết trong cơng việc nói chung,
trong học tập nói riêng. Nhà văn M. Gorki đã từng khẳng định: “Thiên tài chỉ
nảy nở từ tình u đối với cơng việc”. Đối với học sinh lớp 6 thì hứng thú lại
càng có ý nghĩa hơn, bởi các em cịn mang nhiều nét tư duy của học sinh Tiểu
học – kiểu tư suy hình tượng. Cách suy nghĩ của các em cịn đơn giản, nên việc
tự học, tự khám phá, chủ động và tích cực trong học tập là khơng dễ, nhất là khi
các em thiếu đi sự hứng thú. Tạo hứng thú trong học tập đồng nghĩa với việc tạo
động lực, sự thúc đẩy mạnh mẽ từ bên trong để các em tiếp thu bài hiệu quả hơn.
Đối với phân môn Tiếng Việt, nội dung bài học là những ngữ liệu gồm các
câu văn, đoạn văn rời rạc, những khái niệm mang tính khoa học, trừu tượng,

khơ khan, thì việc tạo ra hứng thú trong học tập trong giờ lại cần hơn bao giờ
hết. Có hứng thú, người dạy sẽ đi con đường ngắn nhất để giúp học sinh lĩnh hội
tri thức; người học sẽ chủ động khám phá, tiếp nhận kiến thức một cách nhẹ
nhàng và nhanh nhất.


4

Từ những cơ sở trên, tơi nhận thấy việc tìm các giải pháp tạo hứng thú
cho học sinh trong giờ học Tiếng Việt lớp 6 là rất cần thiết.
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Về phía người dạy
Do đặc trưng mơn học, một số giáo viên thường có tâm lí chủ quan đối
với phân môn Tiếng Việt, cho rằng đây là môn học tương đối dễ dạy, dễ học, nên
không thật sự đầu tư, chú trọng vào sự đổi mới phương pháp. Cho nên, giờ dạy
Tiếng Việt thường rập khuôn theo một công thức có sẵn: từ ngữ liệu (trong sách
giáo khoa) rút ra khái niệm, bài học; từ bài học đến lấy ví dụ và thực hành. Bởi
vậy hiệu quả dạy và học Tiếng Việt đôi khi chưa được như mong muốn. Năng
lực thực sự của người dạy, người học chưa được phát huy một cách tối đa.
Việc đầu tư, làm mới giờ học, tạo hứng thú học tập cho học sinh địi hỏi
nhiều cơng phu, mất nhiều thời gian, cơng sức. Và không phải giáo viên nào
cũng dày công tâm huyết chuẩn bị.
Việc khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh cần phải sử dụng linh hoạt
các phương pháp và hoạt động dạy học. Làm thế nào để không phá vỡ mạch
kiến thức là yêu cầu không dễ với các giáo viên dạy văn.
2.2.2. Về phía học sinh
Học sinh lớp 6 tuổi còn nhỏ, đa số các em ngoan, biết vâng lời. Tuy nhiên,
do mới bước ra từ ngôi trường Tiểu học nên còn nhiều bỡ ngỡ. Các em đang
trong giai đoạn làm quen với trường mới, thầy cô, bạn bè mới; làm quen với
cách đánh giá, giao tiếp cùng thầy cô trong tiết học; làm quen với các bộ môn

mà các em chưa từng biết. Vừa học vừa làm quen với nhiều điều mới lạ khiến
các em không khỏi lúng túng. Điều này ảnh hướng ít nhiều tới tâm lí các em.
Khơng những thế, việc thay đổi phương pháp học tập bộ môn ở cấp Trung
học cơ sở (THCS) so với Tiểu học, cũng là khó với học sinh lớp 6. Các em sẽ
phải phát huy tính tự giác cao hơn, chủ động trong lĩnh hội kiến thức. Thầy cơ
chỉ là người định hướng, hướng dẫn, cịn học sinh phải tự học, tự nghiên cứu. Để
học sinh làm quen và thực hiện tốt phương pháp học tập mới, không thể trong
ngày một, ngày hai, mà có khi phải mất vài tháng đến cả năm học.
Từ những đặc điểm trên mà tình yêu và hứng thú học tập của học sinh lớp
6 đối với bộ mơn Ngữ văn nói chung, phân mơn Tiếng Việt nói riêng chưa thật
sự cao.
2.2.3. Kết quả của thực trạng
Từ những thực trang nêu trên nên dẫn đến kết quả dạy và học môn Văn
chưa đem lại hiệu quả cao. Ta dễ nhận thấy điều này qua các bài kiểm tra định
kì, qua các kì thi. Khi đọc một văn bản học sinh tạo lập giáo viên có thể dễ dàng
nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết
chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu lơgic. Đặc biệt có những
bài văn diễn đạt ngơ nghê, tối nghĩa... Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến
và thậm chí là đáng báo động của học sinh nói chung và học sinh lớp 6 nói
riêng.
Điều này thể hiện rất rõ trong kết quả học tập của các em. Bản thân tôi đã
tiến hành thực hiện khảo sát chất lượng và hứng thú học tập phân môn Tiếng


5

Việt trước khi chưa vận dụng đề tài vào dạy học ở khối lớp 6 gồm 6A1, 6A2 đơn
vị trường THCS Ngọc Khê năm học 2020-2021.
* Kết quả khảo sát chất lượng học phân môn Tiếng Việt của học sinh
trước khi áp dụng sáng kiến:

Lớp Sĩ số
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm trung
Điểm yếu
bình
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
6A1
35
1
3%
5
14,3%
16
45,7%
13
37,1%
6A2
36
0
0%
4
11,1%

17
43,6
15
41,6%
*Kết quả khảo sát tình yêu và hứng thú học tập phân môn Tiếng Việt
của học sinh lớp 6 (trước khi áp dụng sáng kiên kinh nghiệm)
Lớp Sĩ số Rất u thích
u thích
Bình thường
Khơng u
thích
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
6A1
35
0
0%
6
17,1%
19
50,3%
11
31,4%
6A2

36
0
0%
5
13,9%
17
47,2%
14
38,9%
Từ hai bảng số liệu trên có thể thấy, điểm bài kiểm tra không cao, tỉ lệ đạt
điểm giỏi thấp, ít học sinh u thích và có hứng thu học phân mơn tiếng Việt.
Điều này sẽ có ảnh hưởng tới chất lượng chung bộ môn Ngữ văn. Cũng từ hai
bảng số liệu ta có thể nhận ra một điều, hứng thú và chất lượng học tập có ảnh
hưởng qua lại với nhau, trong đó hứng thú được xem là yếu tố ban đầu. Vì thế,
muốn cải thiện chất lượng học tập thì đầu tiên phải khiến các em u thích mơn
học.
Xuất phát từ thực tế trên, tơi đã mạnh dạn đề ra các giải pháp để thay đối
suy nghĩ, tình cảm của các em đối với mơn học. Nhằm góp phần cải thiện chất
lượng mơn Ngữ văn, cụ thể là phân môn Tiếng Việt ở tại đơn vị.
2.3. Giải pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ học Tiếng
Việt lớp 6 ở trường THCS Ngọc Khê.
Hứng thú không tự nhiên nảy sinh và khi đã nảy sinh nếu khơng duy trì,
ni dưỡng cũng có thể bị mất đi. Hứng thú được hình thành, duy trì và phát
triển nhờ mơi trường giáo dục với vai trị dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của giáo
viên. Giáo ciên là người có vai trị quyết định trong việc phát hiện, hình thành,
bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh. Hứng thú học tập phải được duy trì
trong tất cả các khâu, các bước của tiến trình một giờ dạy và học.
Để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Tiếng Việt, tôi đã thực hiện
các giải pháp và biện pháp cụ thể sau:
2.3.1.Tạo hứng thú trong khâu khởi động.

Đây là khâu nhiều giáo viên dễ bỏ qua vì xem nhẹ vai trị của nó. Khâu
này thực hiện tốt sẽ giúp học sinh chuẩn bị sẵn sàng tâm thế cho bài học đồng
thời có được hứng thú học tập ngay từ đầu. Và cách khởi động hiệu quả, tiết
kiệm thời gian nhất là cách lồng ghép luôn vào kiểm tra bài cũ. Tuy nhiên đây là
cách không dễ để thực hiện, vì có nhiều bài khơng hoặc rất ít sự liên kết để liên
hệ. Tuy nhiên đây là cách mà nếu làm được sẽ gây được hứng thú với học sinh.
Học sinh sẽ có được tâm thế vào bài học tốt và khơi gợi được tâm lí muốn tìm


6

tòi nội dung bài học. Sau đây là một vài hình thức cụ thể trong khâu khởi động
bài mới.
* Khởi động bằng cách tổ chức trị chơi
Trị chơi: Mở ơ chữ
Ví dụ: Khi dạy bài Từ mượn (Tiết 15, Ngữ văn 6, học kì 1), tơi đã cho
học sinh chơi như sau:
- Giáo viên trình chiếu ơ chữ (nếu có máy), hoặc kẻ sẵn lên bảng phụ các
ô chữ theo hàng ngang, hàng dọc phù hợp với đáp án đã định sẵn.
- Giáo viên giới thiệu nội dung và quy luật chơi
Các câu hỏi sẽ cùng xuất hiện một lúc. Học sinh sẽ lựa chọn ơ hàng ngang
bất kì để điền. Các câu hỏi như sau:
1. Hàng ngang thứ nhất có 5 chữ cái: Từ chỉ có một tiếng có nghĩa gọi
là…(bắt đầu bằng chữ T).
2. Hàng ngang thứ 2 có 6 chữ cái: Từ được tạo bởi hai tiếng đều có nghĩa
gọi là … (bắt đầu bằng chữ T).
3. Hàng ngang thứ 3 có 8 chữ cái: Tìm một từ láy diễn tả sự rộng lớn, bao
la của không gian? (Bắt đầu bằng chữ m).
4. Hàng ngang thứ 4 có 6 chữ cái: Ơm vật gì đó thật chặt, không chịu
buông ra, được diễn tả bằng một từ láy, đó là từ gì? (Bắt đầu bằng chữ K).

5. Hàng ngang thứ 5 có 8 chữ cái: Một từ ghép có hai tiếng, dùng miêu tả
màu da thiếu sức sống, khơng được hồng hào, khơng cịn tươi tắn. (Bắt đầu bằng
chữ nh).
6. Hàng ngang thứ 6 có 5 chữ cái: Từ láy diễn tả tiếng khóc nấc lên từng
hồi, khơng kiềm chế được. (Bắt đầu bằng chữ n).
Đáp án: lần lượt là Từ đơn, từ ghép, mênh mông, khư khư, nhợt nhạt, nức
nở. Ơ hàng dọc là Từ mượn.
1
T

2
3

T

ư

đ

ơ

n



g

h

é


p

M

ê

n

h

m

ơ



t

4

K

h

ư

k

h


ư

5

N

h



t

n

h



c

n



6

N

n


g

Sau khi ô hàng dọc xuất hiện, giáo viên dẫn vào bài: Các từ hàng ngang
mà các em vừa tìm ra đều là những từ đọc lên ta hiểu ngay nghĩa của nó. Những
từ này do người dân Việt Nam ta sáng tạo ra, gọi là các từ Thuần Việt. Vậy còn


7

“Từ mượn” là những từ như thế nào? Tại sao người ta gọi là từ mượn? Bài học
hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu nhé!
Với trị chơi này, học sinh khơng chỉ được ơn lạ kiến thức cũ, mà cịn có
hứng thú, tâm lí vui vẻ trước giờ học bài mới.
Trò chơi: Thi sáng sác đồng dao
Khi dạy bài Danh từ (Tiết 1, tiết theo PPCT- 41), để tạo sự hấp dẫn, tôi đã
cho học sinh quan sát một bài đồng dao mà tôi đã chuẩn bị sẵn. Tôi nhờ một học
sinh đọc bài đồng dao này. Nội dung bài đồng dao như sau:
Cào cào có cánh
Địn gánh có mấu
Củ ấu có sừng
Bánh chưng có lá
Con cá có vây
Ơn thầy có sách
Đào ngạch có dao ….
Sau khi nghe bài đồng dao, giáo viên cho học sinh ba tổ thi sáng tác thêm
các câu cho khớp với bài đồng dao này. Thời gian khoảng 1 phút 30 giây. Sau
thời gian trên, thành viên các tổ trình bày phần sáng tác. Tổ nào sáng tác đúng
vần và được nhiều câu hơn sẽ dành chiến thắng.
Học sinh rất thích thú về sự tiếp nối không thể dứt của bài đồng dao này.

Từ không khí đó giáo viên gợi dẫn vào bài mới bằng các câu hỏi, như:
- Để sáng tác tiếp các em cần phải có điều kiện gì? (Các em phải nhớ tên
các sự vật tiếp theo, càng nhiều càng tốt.)
- Vậy các sự vật được nhắc tới trong bài đồng dao thuộc từ loại nào ta đã
học ở Tiểu học? (Danh từ).
Như vậy, ngoài việc dùng để gọi tên các sự vật (chức năng định danh), thì
danh từ cịn có những đặc điểm nào? Chức năng của chúng trong câu là gì, bài
danh từ mà chúng ta học hơm nay sẽ giúp các em hiểu rõ hơn những điều đó.
* Khởi động bằng một bài hát.
Chẳng hạn khi dạy bài Số từ và lượng từ( tiết 50- Ngữ văn 6, kì I), tôi đã
nhờ một em trong lớp hát cho cả lớp nghe bài hát Đếm sao. Các học sinh khác
vừa nghe vừa quan sát lời bài hát được ghi trên bảng phụ. Lời bài hát, trong đó
có đoạn như sau:
Một ông sao sáng, hai ông sáng sao.
Ba ông sao sáng, sáng chiếu mơn ánh vàng
Bốn ơng sáng sao
Kìa năm ơng sao sáng
Kìa sáu ơng sáng sao, trên trời cao.
Đây là bài hát rất quen thuộc mà các em đã được biết từ bậc Tiểu học. Sau
khi học sinh nghe xong, giáo viên yêu cầu như sau:
- Em hãy cho biết, trong lời của bài hát, có những chữ số nào (gọi là chữ
số vì nó là các số viết dưới dạng chữ, chứ không phải các con số như trong Tốn
học) đã được nhắc tới? (Đó là các số: một, hai, ba, bốn, năm, sáu,…)


8

- Nếu trong Tốn học và một số mơn khoa học tự nhiên khác, các con số
sẽ được viết một cách tự nhiên như nó vốn có. Ví dụ 1,2,3…và thường dùng để
tính đếm, cộng, trừ, nhân, chia và thường thì nó cũng khơng biểu thị các ý nghĩa

sâu xa nào cả. Tuy nhiên, trong môn Ngữ văn cũng như trong một số mơn nghệ
thuật khác, thì các con số thường tồn tại dưới hình thức là các chữ hay còn gọi là
từ. Chẳng hạn như trong lời bài hát kia, người ta viết “một ông sao”, chứ người
ta không viết là 1. Vậy khi là số từ nó có được dùng để tính đếm như trong Tốn
học khơng, hay dùng để làm gì? Bài học về “Số từ và lượng từ” hơm nay chúng
ta cùng tìm hiểu nhé!
2.3.2. Tạo hứng thú trong khâu phân tích ngữ liệu
Ở khâu này nếu học sinh không chú ý hoặc sự tập trung khơng tốt thì sẽ
khơng biết khái niệm sẽ được rút ra như thế nào. Sẽ khó cho học sinh nếu phải
lấy ví dụ tương tự hoặc vận dụng vào làm bài tập.
Đây là khâu dễ gây nhàm chán cho học sinh. Nhàm chán có thể từ cách
dẫn dắt của giáo viên, nhàm chán bởi sự quen thuộc của những ngữ liệu đã có
sắn trong sách giáo khoa và đơi khi ngữ liệu mà sách giáo khoa cung cấp mới
chỉ đáp ứng được yêu cầu tối thiểu là đúng thôi chứ chưa hay chưa hấp dẫn theo
suy nghĩ của học sinh. Vậy làm sao để tạo được hứng thú, lôi kéo được sự chú ý
của các em ở khâu này? Theo tôi, các giáo viên nên mạnh dạn làm mới khâu này
theo hai cách sau đây:
Cách thứ nhất: Giáo viên không nên quá lệ thuộc vào các câu hỏi và tiến
trình mà sách giáo khoa cung cấp. Bởi nhiều câu hỏi và tiến trình khai thác kiến
thức mà sách giáo khoa đưa ra, nhiều khi không thật sự phù hợp với tất cả các
đối tượng học sinh. Vì vậy giáo viên nên hiểu học sinh của mình và vận dụng
linh hoạt.
Chẳng hạn, ở bài Danh từ (tiết 41, Ngữ văn 6 tập 1). Ngay ở yêu cầu đầu
tiên của sách giáo khoa là: Dựa vào những kiến thức đã học ở bậc Tiểu học, hãy
xác định danh từ trong cụm danh từ dưới đây?
Với học sinh lớp 6 Trường THCS Ngọc Khê phần đa các em sẽ khơng có
hứng thú và không tập trung được vào bài học với yêu cầu này. Vì một mặt do
câu hỏi có sẵn trong sách, khơng có gì mới lạ; mặt khác các em cịn chưa kịp
định hình danh từ là gì, mặc dù các em đã được học. Một số em quên do thời
gian, còn một số em quên là do chưa bao giờ nhớ. Với những em chưa bao giờ

nhớ, thì khái niệm danh từ là gì sẽ hồn tồn mới. Trong khi đó sách yêu cầu
ngay việc xác định danh từ sẽ là cái khó cho các em.
Chính vì vậy, trước khi đưa ra yêu cầu này, giáo viên nên có một yêu cầu
khác để, một mặt tạo ra hứng thú, sự khác lạ, đồng thời cho các em biết và nhớ
lại danh từ là gì. Chẳng hạn giáo viên có thể yêu cầu học sinh như sau:
- Em hãy gọi tên những người mà em biết, tên các động vật, thực vật, các
vật thể, hiện tượng trong tự nhiên?
Với câu hỏi trên, giáo viên dễ dàng đưa cả lớp vào một hướng tập trung
mới lạ. Học sinh sẽ tập trung vào trả lời câu hỏi mà quên mất là mình đang học.
Từ câu trả lời đơn giản trên, giáo viên cũng dẫn dắt để cả lớp nhớ lại kiến thức
mà các em đã học ở cấp I. Vì những sự vật mà các em vừa gọi tên nó ra đó chính


9

là danh từ. Giáo viên gọi một học sinh yếu hoặc kém (nếu có) để trả lời câu hỏi
này. Vì đây là câu hỏi dễ, cần để cho những em yếu, kém trong lớp có cơ hội
được tham gia giờ học. Khi đã củng cố được kiến thức cũ danh từ là gì, giáo
viên mới nêu câu hỏi thứ nhất trong sách giáo khoa.
Cách thứ hai: Giáo viên có thể bổ sung các ngữ liệu và các bước khai
thác ngữ liệu, để bài dạy trở nên phong phú hơn. Tôi đã áp dụng các điều đó, cụ
thể trong bài Danh từ (tiết thứ nhất). Mục I của bài Danh từ (Tiết 1) sẽ được thiết
kế như sau:

Hoạt động của giáo viên và học sinh
Hoạt động 1:Hướng dẫn học sinh ôn
lại khái niệm danh từ và tìm hiểu đặc
điểm của danh từ.
- GV đặt câu hỏi để dẫn dắt hs vào bài
? Em hãy gọi tên của những người đang

có mặt trong lớp?
- Học sinh: bạn Trang, bạn Tiên, bạn
Nam,…
? Em hãy kể tên các đồ vật đang có
trong phịng học này, các lồi thực vật
mà em nhìn thấy ở sân trường, các động
vật, các hiện tượng của tự nhiên, một
vài khái niệm trong các môn học.(Học
sinh kể)
- GV: Các từ mà các em vừa gọi tên ra
dùng để chỉ người, đồ vật, cây cối, các
hiện tượng, các khái niệm như trên, gọi
là danh từ.
? Vậy danh từ là gì, em hãy nhắc lại
khái niệm về danh từ?
- Học sinh: Danh từ là những từ chỉ
người, vật, hiện tượng, khái niệm,...

Nội dung chính cần đạt
I. Đặc diểm của danh từ
1. Khái niệm danh từ:

- Danh từ là những từ chỉ người, vật,
hiện tượng, khái niệm,…

- GV: Ngồi ra danh từ cịn dùng để gọi
các yếu tố tình cảm, tinh thần của con
người, như tình yêu, tình mẫu tử, niềm
tự hào, niềm vui, nỗi buồn,…
? Vậy danh từ có đặc điểm gì? Ta sang

phần hai nhỏ, đặc điểm của danh từ.
- GV: Cho học sinh quan sát ví dụ trên
bảng phụ, đồng thời yêu cầu một HS
đọc to, cả lớp theo dõi.
? Trong các từ in đậm đã cho, em hãy
cho biết, từ nào là danh từ? (Học sinh:

2. Đặc điểm của danh từ.


10

con trâu)
? Phía trước từ “con trâu” là từ gì? Từ
đó giúp ta hiểu thêm điều gì về “con
trâu”?
- Học sinh: ta biết thêm ở đây có ba con
trâu, tức là biết thêm thơng tin về số
lượng
- GV: Ngồi việc dùng từ chỉ số “ba”
như trong ví dụ, thì khi cần ta có thể
thay số ba bằng các số khác được
khơng? (Học sinh: Ta có thể thay được)
? Phía sau từ “con trâu” là từ gì? Từ
“ấy” giúp ta hiểu thêm thơng tin gì về
“con trâu”?
- Học sinh: để xác định cụ thể ba con
trâu đó là ba con trâu nào trong trường
hợp có nhiều con trâu cùng xuất hiện.
? Ngoài việc dùng từ “ấy” để xác định

con trâu trong khơng gian thì cịn có thể
dùng các từ nào khác nữa, mà vẫn có tác
dụng như thế?
- Học sinh: này, nọ, kia, đấy, đó,…
- GV: Như vậy, bên cạnh danh từ thì
phía trước và phía sau của các danh từ
đều có thể có các từ ngữ khác, khơng
phải là danh từ, đi kèm để bổ sung thêm
thông tin cho các danh từ ấy trở nên cụ
thể hơn. Và cả một tập hợp các từ bao
gồm danh từ và các từ đi kèm đó, người
ta gọi là cụm danh từ.
? Như vậy, một danh từ có thể trở thành
một cụm danh từ. Theo em, khi nào một
danh từ trở thành một cụm danh từ?
- Học sinh: khi nó kết hợp phía trước
với các từ chỉ số lượng, và kết hợp phía
sau với các từ “này, kia, ấy, nọ, đấy, đó
- GV: Đó cũng chính là đặc điểm thứ
nhất của danh từ.
? Em hãy đặt câu với một trong số các
danh từ mà chúng ta vừa kể ra? (Học
sinh: đặt câu)
- GV chọn trong số các câu mà học sinh
đã đặt để chọn hai câu tiêu biểu, yêu cầu
học sinh phân tích để rút ra đặc điểm

- Danh từ có thể kết hợp với từ chỉ số
lượng phía trước, các từ này, kia, ấy,
nọ, đấy, đó,…ở phía sau để tạo thành

cụm danh từ.


11

tiếp theo của danh từ.
GV: Cung cấp hai ví dụ:
+ Bông hoa rất đẹp
+ Mẹ em là công nhân
GV: Hãy xác định chủ ngữ vị ngữ trong
các câu trên? (Học sinh: xác định.)
? Từ hai ví dụ vừa phân tích, em hãy
- Chức vụ điển hình trong câu là chủ
cho biết, danh từ có thể giữ chức vụ gì
ngữ. Khi làm vị ngữ, danh từ cần có
trong câu?
từ “là” đứng trước.
- Học sinh: chủ ngữ và vị ngữ
* Ghi nhớ (SGK- Trang 86)
? Khi thực hiện các chức vụ đó, chúng
có đặc điểm gì?
- Học sinh: Danh từ thường làm chủ ngữ
trong câu. Khi làm vị ngữ phải có từ là
đứng trước
- GV: Đó cũng là đặc điểm thứ hai của
danh từ.
- GV: Một em đọc to ghi nhớ sách giáo
khoa trang 86.
- GV: Chốt lại nội dung kiến thức phần I
và chuyển sang II:

Như vậy các em vừa được ôn lại
khái niệm danh từ và chúng ta cũng biết
thêm được hai đặc điểm của danh từ.
Vậy danh từ được phân ra làm mấy
loại, đó là những loại nào? Chúng ta
cùng sang phần II sẽ rõ nhé.
2.3.3. Tạo hứng thú trong khâu làm bài tập nhanh
Bài tập nhanh là bài tập ngắn, được làm ngay sau khi khái niệm vừa được
rút ra, học sinh vừa đọc xong ghi nhớ. Bài tập nhanh giúp các em củng cố lí
thuyết, đồng thời bớt căng thẳng, thay đổi khơng khí và hứng thú hơn với bài
học trước khi sang phần mới. Bài tập nhanh khơng sẵn có trong sách giáo khoa,
giáo viên tự sưu tầm. Giáo viên nên dành khoảng thời gian 5 phút để học sinh
làm loại bài tập này.
Cách thứ nhất: Giáo viên sử dụng các đoạn bài hát, những câu văn,
những đoạn văn ngồi chương trình, đáp ứng được u cầu củng cố kiến thức
cho nội dung vừa học, đồng thời phải hay (phù hợp tâm lí lứa tuổi học sinh lớp
6).
Ví dụ 1, tiết 41, bài Danh từ (tiết thứ nhất). Sau khi HS đọc nghi nhớ đầu
tiên về đặc điểm của danh từ, giáo viên đưa ra bài tập sau:
Cho hai câu hát: “Em như chim bồ câu tung cánh giữa trời; Em như chim
bồ câu trắng bay giữa trời” (Trích lời bài hát “Em như chim bồ câu trắng”).
- Hãy chỉ ra các danh từ có trong hai câu hát trên? (Các danh từ bao gồm:
em, chim bồ câu, trời).


12

Bài tập này khá dễ, hơn nữa lại là lời của các câu hát mà em rất quen, nên
gây được sự chú ý cho các em. Qua bài tập này giáo viên nhắc lại thêm lần nữa
về nội dung ghi nhớ, điều đó khiến các em sẽ càng khắc sâu hơn kiến thức lý

thuyết.
Ví dụ 2: Tiết 58, bài Động từ. Sau ghi nhớ thứ nhất, giáo viên cho học
sinh quan sát một đoạn bài hát thiếu nhi và nhờ một học sinh hát. Sau đó u cầu
học sinh tìm các động từ trong đoạn bài hát đó.
“Mời bạn lại đây ngắt lá xếp thuyền
Thả dịng ngược xi đi khắp bao miền
Bạn bè cùng vui theo những lá thuyền
Thuyền chở về đâu những ước mơ ngoan”...
(Trích bài hát “Con thuyền ước mơ”)
(Các động từ: mời, lại, ngắt, xếp, thả, đi, vui, chở, về).
Đây cũng là một bài tập khơng khó. Tuy nhiên nó rất mới lạ so với bài tập
có trong sách giáo khoa, nên cũng dễ gây được sự chú ý với học sinh.
Cách thứ hai: Giáo viên đưa ra các tình huống gần gũi với học sinh, sau
đó yêu cầu các em vận dụng kiến thức vừa học để giải quyết các tình huống đó.
Ví dụ 1: Tại bài Nhân hóa (tiết 94, Ngữ văn 6 tập 2), sau khi học xong
phần II - Các kiểu nhân hóa, giáo viên chuẩn bị bảng phụ, trên đó ghi sẵn tên
hai con vật ni trong gia đình (cụ thể là chó, mèo). Đây là con vật gần gũi, thân
thiết với các em. Sau đó yêu cầu hai học sinh (lấy tinh thần xung phong) lên
bảng thể hiện tình cảm của mình với một trong hai con vật đó, thơng qua cách sử
dụng bốn kiểu nhân hóa vừa học. Kết quả có thể như sau:
+ Bạn cún nhà tơi rất đáng yêu. (Dùng từ gọi người “bạn” để gọi cho
vật)
+ Bạn ấy rất thông minh, trông coi nhà cẩn thận. (Dùng từ ngữ chỉ hoạt
động, tính chất của người để để chỉ hoạt động, tính chất của vật: thơng minh,
trơng coi)
+ Tới đây tơi phải xa bạn vài ngày, bạn có buồn và nhớ tơi khơng?
(Trị chuyện, xưng hơ với vật như với người).
Sau khi học sinh hoàn thành, giáo viên hỏi:
- Tình cảm của em với con vật ni vừa rồi là tình cảm gì? (Học sinh:
u, q, biết ơn).

Từ tình huống vừa rồi, giáo viên giúp học sinh củng cố lại kiến thức của
phần II- Các kiểu nhân hóa, thêm một lần nữa.
Ví dụ 2:Tại bài So sánh (Chủ đề 2, Ngữ văn 6 tập 2), sau khi học xong
phần I, GV chuẩn bị bảng phụ để cho hai học sinh tham gia thi giải tình huống.
Tình huống như sau: Trong lớp có bạn nữ có làn da rất trắng. Các em hãy lần
lượt ghi ra những hình ảnh có nét tương đồng để so sánh với làn da trắng của
bạn ấy. (Nếu trong lớp khơng có bạn nào như thế, giáo viên có thể lựa chọn một
trường hợp khác mà các em đều biết, hoặc có thể thay bằng trường hợp bạn hát
hay, múa giỏi, vẽ tốt,…). học sinh sẽ phát huy trí tưởng tượng để tìm các hình
ảnh tương đồng. Các em ở dưới cũng tìm ra giấy nháp, để bổ sung sau. Kết quả
có thể như sau:


13

- Da bạn trắng như tuyết.
- Da bạn trắng như bơng.
- Da bạn trắng như trứng gà bóc,…
Từ những hình ảnh so sánh mà học sinh cung cấp, giáo viên giúp học sinh
nhận thấy: có những hình ảnh so sánh chỉ có tác dụng gợi hình (như trường hợp
1,2), và có trường hợp so sánh vừa có giá trị gợi hình, lại vừa có giá trị gợi cảm
(đó là trường hợp 3). Với việc so sánh da bạn như trứng gà bóc, khơng chỉ gợi
cho người đọc hình dung về hình ảnh một làn da trắng trẻo mà cịn rất mịn
màng. Hơn nữa, trứng gà là vật giàu dinh dưỡng nên được mọi người quí trọng,
nâng niu. Khi so sánh da bạn như trứng gà bóc tức là người so sánh thể hiện
được sự yêu mến, trân trọng với vẻ đẹp làn da của bạn. Từ tình huống trên, học
sinh rút ra được kinh nghiệm, trong viết, nói khi cần thiết phải sử dụng phép so
sánh, các em cần cân nhắc lựa chọn trong rất nhiều hình ảnh tương đồng, để
chọn ra được hình ảnh vừa giàu giá trị gợi hình lại vừa giàu giá trị biểu cảm.
Như vậy có thể thấy, các bài tập nhanh tuy chiếm một lượng thời gian nhỏ

trong tiết học, nhưng có tác động lớn tới tâm lý học sinh. Do đó giáo viên nên
đầu tư sưu tầm, làm mới lạ các bài tập này. Hơn nữa, các bài tập như thế này
thường vừa sức, có tác dụng khích lệ các em rất nhiều trong tiết học Tiếng Việt.
2.3.4. Tạo hứng thú trong khâu luyện tập
Như chúng ta đã thấy, dụng ý xây dựng hệ thống các bài tập sau các phần
lí thuyết rất hợp lí, khoa học. Hợp lí và khoa học ở chỗ, các bài tập có mức độ
khó tăng dần. Sau mỗi bài thường hướng người giải đến với việc củng cố hoặc
mở rộng, hoặc liên kết với một đơn vị kiến thức nào đó. Vì thế, sau mỗi bài tập
giải xong, giáo viên cần cho học sinh rút ra được đơn vị kiến thức mà bài tập đó
vừa cung cấp. Cách làm đó một lần nữa giúp học sinh củng cố, nắm kiến thức
tốt hơn.
Thông thường, các giáo viên chỉ làm mới khâu này trong những giờ dạy
có người dự. Cịn bình thường khâu này hầu như khơng được làm mới, vì thế nó
khá chàm chán đối với học sinh. Vậy làm cách nào để gây hứng thú cho học sinh
ở khâu làm bài tập tưởng chừng như khơng có gì là hấp dẫn này? Ở dạng này
giáo viên không thể thay đổi bài tập hay câu hỏi, mà chỉ có thể thay đổi các hình
thức giải bài tập để tạo hứng thú cho học sinh. Chẳng hạn, giáo viên có thể cho
học sinh làm theo nhóm, giữa các nhóm có sự thi đua xem nhóm nào làm nhanh
và chính xác nhất; hoặc cho thi đua theo cặp (hai em ngồi một bàn); hoặc giáo
viên có thể chỉ định các em học đuối trong lớp tham gia thi với nhau xem ai
nhanh hơn ở một số bài tập dễ...
Đối với nhóm bài tập nhận biết, giáo viên nên dành sự ưu tiên cho các
đối tượng học sinh có lực học từ trung bình trở xuống.
Ví dụ : Tại bài tâp 2 (trang 26-Sgk Ngữ văn 6 tập 2) Chủ đề 2, bài So
sánh (tiết thứ nhất). Câu hỏi như sau: Dựa vào những thành ngữ đã biết, hãy viết
tiếp vế B vào những chỗ trống dưới đây để tạo thành phép so sánh:
- khỏe như...
- trắng như...
- đen như...



14

- cao như...
Đây là loại bài tập dễ, vì các thành ngữ này hầu như các em đều đã nghe
trong giao tiếp, trong cuộc sống hàng ngày. Vì dễ nên giáo viên nên dành cho
các em học đuối hơn các em khác trong lớp. Giáo viên chọn ra 4 em, thi Ai
nhanh hơn, mỗi em một câu, yêu cầu làm việc độc lập, khơng theo nhóm. Các
em cịn lại cùng suy nghĩ tìm đáp án để nhận xét, bổ sung. Sau thời gian 1 phút,
bốn em phải viết xong đáp án và chạy lên bảng gắn câu trả lời của mình lên
bảng, chỗ có vế A cơ giáo đã viết sẵn (giáo viên phải chuẩn bị sẵn viên nam
châm). Sau khi đã có kết quả, giáo viên gọi học sinh khác nhận xét, với các câu
hỏi sau:
- Câu trả lời của bạn đã đúng chưa?
- Em có thể bổ sung thêm đáp án khác không?
- Qua bài tập vừa rồi chúng ta cần ghi nhớ điều gì?
(Thứ nhất: phép so sánh chỉ được diễn ra khi có đầy đủ hai vế. Thứ hai:
Hai vế tham gia so sánh phải có nét tương đồng nào đó; Thứ ba: phép so sánh
đơi khi được dùng rất rộng rãi trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, dưới dạng các
thành ngữ).
Sau đó giáo viên chốt đáp án, học sinh ghi bài vào vở.
Đối với nhóm bài tập u cầu học sinh ở mức thơng hiểu, giáo viên có
thể linh hoạt, tùy bài phù hợp có thể cho học sinh thảo luận nhóm nhỏ (hai em
cùng bàn một nhóm) giữa các nhóm thi với nhau.
Ví dụ 1: Tại bài tập 4 (Sgk Ngữ văn 6 tập 2, trang 59), tiết 94 bài Nhân
hóa. Đề bài như sau: Hãy cho biết phép nhân hóa trong mỗi đoạn trích dưới đây
được tạo ra bằng cách nào và tác dụng của nó như thế nào?
Bài tập này có 4 câu (a,b,c,d). Yêu cầu bài tập tương đối khó, vì thế giáo
viên nên cho học sinh làm theo nhóm, mỗi nhóm một câu, thời gian 3 phút. Sau
3 phút các em lên bảng gắn đáp án lên vị trí các câu giáo viên định sẵn. Giáo

viên gọi các nhóm nhận xét chéo, tiếp tục cho nhóm khác bổ sung. Như vậy, dù
chia mỗi nhóm làm một câu nhưng hầu như tất cả các em đều được tham gia bài
tập của nhóm bạn. Sau cùng giáo viên chốt đáp án, học sinh ghi bài tập vào vở.
Đối với nhóm bài tập đòi hỏi sự tổng hợp kiến thức hoặc phát hiện
mới, giáo viên nên cho các em làm theo nhóm lớn (khoảng bốn em, hai bàn một
nhóm). Dạng bài tập này, nếu để học sinh làm việc cá nhân thì chỉ số ít em trong
lớp làm được, các em cịn lại sẽ khơng được tham gia, vì khơng biết cách làm.
Nếu cùng được làm việc trong nhóm, thì các em chưa biết cách làm sẽ có cơ hội
được tham gia, được trao đổi. Vì tinh thần đồng đội, các em sẽ thích và hào
hứng với bài tập hơn.
Ví dụ 2: Bài tập 2, trang 84 (sgk) ở bài Hoán dụ. Bài tập u cầu như
sau: Hốn dụ có gì giống và khác ẩn dụ? Cho ví dụ minh họa?
Với bài tập này, giáo viên cho học sinh làm theo nhóm bốn em, hai bàn
một nhóm. Thời gian khoảng 3 phút. Sau thời gian đó, giáo viên gọi hai nhóm
giơ tay nhanh nhất lên trình bày trên bảng phụ. Các nhóm còn lại quan sát để bổ
sung, nhận xét. Sở dĩ cho hai nhóm cùng lên bảng làm một bài tập, là để tạo sự
hấp dẫn, gay cấn. Đồng thời giáo viên sẽ dễ phát hiện ra chỗ sai (nếu có) để giúp


15

Ẩn
dụ

gì?

Ẩn dụ
cách
thức
Ẩn

d
phẩ ụ
m
chấ
t

Các
ẩn d kiểu


Mục đích: làm
tăng sức gợi
hình, gợi cảm
cho sự diễn đạt
i
há t,

, k vậ
s ở: g
ng sự
Cơ tươn ên tượ tên
nét ồng ọi t hiện ằng ái
đ g ,
b h
Là vật này g, k
sự m ượn c
niệ n t khá
hiệ ệm
ni


Ẩn dụ
hình thức

các em rút kinh nghiệm, hoặc tìm ra nhiều nhất những ưu điểm, để khích lệ các
em. Nhờ đó mà dù giải bài tập khó, khơng khí lớp học vẫn vui vẻ, thoải mái.
2.3.5. Tạo hứng thú ở khâu củng cố bài học.
Củng cố là khâu cuối cùng trong mỗi bài học. Khâu này diễn ra tương đối
nhanh, đơi khi vì chủ quan hoặc áp lực thời gian mà giáo viên rất có thể sẽ cắt
xén. Tác dụng của khâu này hẳn thầy cô nào cũng biết, đó là một lần nữa giúp
học sinh khái qt lại nội dung chính của bài học, từ đó kiến thức bài học sẽ
được khắc sâu hơn. Vậy làm sao để tạo hứng thú ở khâu cuối cùng, khi mà học
sinh rất có thể đã rơi vào trạng thái mệt mỏi, căng thẳng, sự tập trung giảm?
Theo tôi, giáo viên nên cho học sinh thi vẽ Sơ đồ tư duy bài học. Các em vừa sử
dụng kiến thức, sự sáng tạo trong môn Mĩ thuật, đồng thời tái hiện lại các nội
dung chính nhất của bài học. Giáo viên nên cho hai em lên thi vẽ trên bảng phụ
(bằng bút dạ, bút màu). Các em ở dưới vẽ vào giấy nháp bằng bút màu. Sau khi
hai học sinh trên bảng vẽ xong, các em dưới lớp được nhận xét, bổ sung để hồn
thiện (nếu sơ đồ của bạn cịn hạn chế).
Một sơ đồ tư duy được xem là khoa học khi các em thể hiện được các
mức độ của nội dung bài học bằng những nét vẽ tương đồng. Ví dụ những nội
dung cùng cấp thì phải cùng màu, hoặc cùng độ đậm nhạt.
Ví dụ : Học sinh có thể vẽ Sơ đồ tư duy để củng cố nội dung bài học Ẩn
dụ, như hình sau:

n
yể c
u
h á
ụ c m gi
d

Ẩn ổi cả
đ

Ẩn
dụ


16

Một ví dụ khác của sơ đồ tư duy để củng cố nội dung bài Hốn dụ:
HỐN DỤ

Khái niệm

Các kiểu hoán dụ

Là gọi tên sự vật, hiện
tượng, khái niệm này
bằng tên, sự vật, hiện
tượng, khái niệm khác có
quan hệ gần gũi, nhăm
tăng sức gợi hình, gợi
cảm cho diễn đạt.

Lấy một bộ
phận để gọi
toàn thể.

Lấy vật
chứa đựng

để gọi vật
bị chứa
đựng.

Lấy
dấu
hiệu của sự
vật để gọi
sự vật.

Lấy cái cụ
thể để gọi
cái
trừu
tượng.

Một ví dụ khác về sơ đồ tư duy củng cố cho bài Nhân hóa:
Dùng từ vốn chỉ
hoạt động, tính chất
cảu người để chỉ hoạt
động, tính chất của
vật

Nhân hóa là gọi hoặc tả on vật,
cây cối, đồ vật,…bằng những từ
ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả
người; làm cho thế giới loài vật, cây
cối, đồ vậ,…trở nên gần gũi với con
người, biểu thị được những
tư tưởng, tình cảm của con

người

Dùng từ vốn
gọi người để
gọi cho vật.

i

K



nh Cá
ân c
hó ki ể
a u

Trị
chuyện, xưng hơ với
vật như với người.

ni

m


N

A
N



17

Dùng Bản đồ tư duy để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống
kiến thức sau mỗi chương, phần: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để
học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng
cách vẽ Bản đồ tư duy. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi
kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi
cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Qua đó giúp các em cũng tự ơn lại kiến
thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích
hứng thú học tập của học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua một thời gian nghiên cứu và áp dụng đề tài tôi đã tiến hành khảo sát
lại chất lượng kết quả thu được cụ thể như sau:
* Kết quả khảo sát chất lượng học phân môn Tiếng Việt của học sinh
sau khi áp dụng sáng kiến:
Lớp Sĩ số
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm trung
Điểm yếu
bình
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL

Tỉ lệ
6A1
35
3
8,6%
9
25,7%
20
57,1%
3
8,6%
6A2
36
2
5,5%
8
25%%
22
61,1%
4
11,1%
Thông qua những kết quả này cho thấy việc vận dụng những kinh
nghiệm nêu trên, trong thời gian chưa dài nhưng kết quả tương đối khả quan
mặc dù kết quả chưa hoàn toàn được như mong muốn, nhưng dù sao cũng đã
cải thiện phần nào chất lượng học tập của học sinh, số học sinh yếu cũng được
giảm đi. Kết quả này cao hơn so với thời điểm chưa áp dụng phương pháp vào
giảng dạy. Vậy chứng tỏ rằng vận dụng một số giải pháp trong dạy Tiếng Việt đã
có hiệu quả. Đặc biệt là học sinh đã giảm bớt đi tâm lí ngại học mơn Ngữ văn
nói chung và phân mơn Tiếng Việt nói riêng; các em đã có hứng thú học tập.
Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy, nhóm điểm từ trung bình đến khá, giỏi

đã tăng cao rõ rệt.
Sau đây là bảng thống kê về Hứng thú học tập và tình yêu của học sinh
lớp 6A1,A2 với phân môn Tiếng Việt.
*Kết quả khảo sát tình u và hứng thú học tập phân mơn Tiếng Việt
của học sinh lớp 6 (Sau khi áp dụng sáng kiên kinh nghiệm)
Lớp Sĩ số Rất u thích
u thích
Bình thường
Khơng yêu
thích
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
6A1
35
6
17,1%
13
37,1%
16
45,7%
0
0%
6A2
36

5
13,9%
12
33,3%
19
53,8%
0
0%
Như vậy, qua bảng thống kê này có thể nhận thấy hứng thú, sự u thích
của các em đối với phân môn Tiếng Việt đã được cải thiện đáng kể.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Dạy học ln là một q trình sáng tạo, người giáo viên phải đào sâu suy
nghĩ để tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả nhất và vận dụng một cách linh


18

hoạt sáng taọ các phương pháp đó vào trong giảng dạy phù hợp với đặc điểm
của bộ môn và điểu kiện cơ sở vật chất của từng nhà trường hiện nay nhằm đem
lại hiệu quả tốt nhất trong dạy học. Trong các phương pháp dạy học khơng có
một phương pháp nào là tối ưu. Để đem lại hiệu quả cao trong dạy và học người
thầy phải biết kết hợp linh hoạt các phương pháp. Phương pháp này kết hợp với
các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình… có
tính khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học
Bước đầu cho thấy việc vận dụng “Một số giải pháp tạo hứng thú trong
giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 6 ở Trường THCS Ngọc Khê” đã đem lại
kết quả khả quan. Phương pháp này sẽ làm cho học sinh giảm bớt đi tâm lí ngại
học mơn văn nói chung và phân mơn Tiếng Việt nói riêng. Các em được học
những tiết học nhẹ nhàng, thoải mái, không căng thẳng, áp lực. Đặc biệt các em

đã có được hứng thú trong học tập, có những suy nghĩ tích cực và u mơn Ngữ
văn nhiều hơn, góp phần cải thiện chất lượng dạy học môn Ngữ văn.
3.2. Kiến nghị
Để việc đổi mới phương pháp dạy học trở thành việc làm thường xuyên
và có hiệu quả, bản thân tơi có những đề xuất sau đây:
- Đối với Phòng giáo dục: Cần tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên
bộ môn Ngữ văn từng năm để giáo viên có cơ hội được học tập, trao đổi kinh
nghiệm, tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả, góp phần tích cực vào việc nâng
cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn.
- Đối với các nhà trường: Cần đầu tư mua sắm thêm trang thiết bị, tài liệu
tham khảo phục vụ cho công tác dạy và học; Các nhà trường cần tăng cường
sinh hoạt chuyên môn theo cụm, tổ nhóm để trao đổi, rút kinh nghiệm trong q
trình đổi mới phương pháp dạy học.
- Tổ chun mơn: Tích cực dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm, tổ chức sinh
hoạt chuyên môn đúng kế hoạch; Thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức
sinh hoạt chun mơn, khuyến khích đổi mới phương pháp dạy học.
Trên đây là một vài kinh nghiệm được rút ra từ thực tế giảng dạy phân
môn Tiếng Việt của bản thân tại Trường THCS Ngọc Khê. Tơi rất mong nhận
được sự góp ý của các đồng nghiệp để đề tài áp dụng vào thực tế giảng dạy đạt
hiệu quả cao nhất.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Ngọc Lặc, ngày 10 tháng 04 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Bùi Thị Tuyến



19

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập 1,2 - NXB Giáo dục.
2. Sách giáo viên Ngữ văn 6- NXB Giáo dục
3. Ngữ pháp Tiếng Việt của Nguyễn Quốc Dũng -NXB Thừa Thiên - Huế.
4. Phương pháp dạy học Tiếng Việt của Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh
Toán - NXB Giáo dục.
5. Các phương pháp dạy học hiệu quả - Nguyễn Hồng Vân dịch từ tài liệu nước
ngoài - NXB Giáo dục.


20

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Bùi Thị Tuyến
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THCS Ngọc Khê

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,

Tỉnh...)

1

Sử dụng bản đồ tư duy
nhằm nâng cao hệu quả học
môn Ngữ văn của học sinh
lớp 9

Phòng
GD&ĐT
Ngọc Lặc

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

2014-2015




×