Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số giải pháp rèn chữ, giữ vở cho học sinh lớp 2 ở trường tiểu học na mèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.28 KB, 16 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong cuộc sống con người luôn có nhu cầu giao lưu về tình cảm với nhau,
nhằm truyền đạt những khái niệm, tri thức,…cho nhau, chính vì vậy mà ngôn
ngữ xuất hiện.
Đọc một văn bản viết, điều đầu tiên gây cho người đọc khó chịu nhất là nét
chữ xấu và viết sai chính tả. Vấn đề này không phải chỉ xảy ra ở học sinh mà đôi
lúc vẫn còn xảy ra ở người lớn ( đặc biệt là giáo viên dạy tiểu học chúng ta). Nói
thế có nghĩa là vấn đề viết sai chính tả có thể xảy ra mọi lúc, mọi nơi và ở mọi
đối tượng.
Năm học 2016-2017, tôi được phân công dạy lớp 2 khu Na Mèo –
trường Tiểu học Na Mèo. Sau khi kiểm tra chất lượng đầu năm, phát hiện
ra các em đa số yếu về phần viết chính tả và không biết giữ gìn sách vở cẩn
thận . Không chỉ ở lớp tôi mà nó còn rải đều ở các lớp khác. Trước tình
trạng đó, tôi vô cùng lo lắng. Làm cách nào để giảm bớt lỗi chính tả cho
các em? Và giúp các em biết giữ gìn sách vở sạch sẽ, cẩn thận.Tìm hiểu,
học hỏi ở rất nhiều đồng nghiệp với nhiều hình thức khác nhau xoay quanh
nội dung “Kinh nghiệm giảm thiểu lỗi chính tả ở học sinh lớp 2”. Sau
những năm tích lũy kinh nghiệm, tôi đã tìm ra cho bản thân một số giải
pháp riêng, vận dụng vào đặc thù học sinh vùng miền núi - một trong
những đơn vị vùng sâu xa của Huyện với một chuyên đề không mới nhưng
nhằm góp một phần công sức nhỏ bé trong việc luyện viết cho học sinh
huyện nhà.
Là giáo viên dạy Tiểu học, tôi luôn trăn trở suy nghĩ một câu hỏi: Làm thế
nào dạy các em viết đẹp? Sau nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy rằng đối với
học sinh nếu cùng một lúc đòi hỏi các em viết đúng, viết đẹp ngay là một điều
không thực tế, khó có thể thực hiện được. Do vây đối với từng lớp, giáo viên cần
lựa chọn mục tiêu trọng tâm của môn học phù hợp với lứa tuổi để học sinh tiếp
thu bài một cách vững chắc. Tôi đã xác định muốn viết chữ đẹp thì việc đầu tiên
cần làm là rèn cho trẻ có nề nếp và kĩ thuật viết chữ đúng thì mới có cơ sở để
viết chữ đẹp. Đây chính là yêu cầu có tính quyết định trong việc rèn viết chữ đẹp


cho suốt quá trình học tập của học sinh.
.
Xuất phát từ những lí do trên và qua thực nghiệm thực tế đối với 17 học
sinh của lớp 2 khu Na Mèo, trường Tiểu học Na Mèo năm học 2016-2017 do
chủ nhiệm. Tôi mạnh dạn tìm hiểu và đưa ra “Một số giải pháp rèn chữ, giữ vở
cho học sinh lớp 2 ở Trường Tiểu học Na mèo” trong năm học này. Vì có viết
đúng chính tả học sinh mới có điều kiện để học tốt các môn học khác và cũng là
tiền đề để các em bước vào lớp ba của bậc Tiểu học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Để giải quyết vấn đề dạy học giúp học sinh lớp 2 “ Rèn chữ - giữ vở ”
Một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất. Tôi khảo sát kỹ năng viết của học sinh lớp 2
để Tìm ra giải pháp rèn kỹ năng giữ vở sạch ,viết chữ đẹp qua mỗi tiết tập viết
và luyện viết cũng như thông qua tất cả các môn học khác.
1


III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Một số giải pháp rèn chữ viết và giữ vở cho học sinh lớp 2 khu Na Mèo
Trường Tiểu học Na Mèo.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
-Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp dạy thực nghiệm.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu .

2


B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ “RÈN CHỮ, GIỮ VỞ” CHO HỌC

SINH LỚP 2
Truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt Nam là đào tạo nên những con
người có trí tuệ và nhân cách. Văn hóa ấy để lại bằng chữ viết (bút tích). Ở Việt
Nam có hai loại chữ ảnh hưởng đến sự phát triển mọi mặt của dân tộc là chữ Nôm
và chữ Quốc ngữ. Sự đô hộ ngàn năm của phong kiến phương Bắc đã để lại cho
dân tộc ta một thứ văn tự mà nhiều thế hệ sau vẫn còn sử dụng. Đó là chữ Hán, để
phản bác lại sự đồng hóa của ngoại bang, chữ Nôm đã ra đời. Nhờ có chữ Nôm
mà nhiều tác phẩm sáng tác bằng Tiếng Việt có giá trị lưu truyền đến ngày nay.
Tuy nhiên do khó đọc, khó viết, không thống nhất cao,….nên khi chữ Quốc ngữ
ra đời và thịnh hành thì chữ Nôm đã dần dần không được sử dụng.
Những cụ đồ, nhà nho, nhà giáo ngày xưa đã để lại những nét chữ chân
phương trong kho tàng thư tịch và những nét chữ rồng bay phượng múa trong
nghệ thuật thư pháp độc đáo. Tuy nhiên, những năm gần đây trước sự phát triển
nhanh chóng của khoa học kĩ thuật, của công nghệ thông tin, chữ viết tuy ít được
sử dụng trong các văn bản, đơn từ. Vì vậy dần dần chữ viết ít được gia đình và
nhà trường quan tâm, mặc dù cũng có phong trào thi “Vở sạch, chữ đẹp” nhưng
thường chọn những em nổi trội trong lớp chứ chưa quan tâm rèn chữ cho học
sinh trong cả lớp. Chính vì thế câu nói : “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết
người, dạy cho học sinh viết đúng, viết đẹp, viết cẩn thận, là góp phần rèn luyện
cho các em tính cẩn thận, tính kỉ luật, lòng tự trọng đối với mình và bạn đọc bài
của mình”của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu cũng rất chính xác và là
nền tảng trong công tác rèn chữ viết cho học sinh.
Là một giáo viên giảng dạy ở khối lớp 2, trong quá trình công tác, tôi luôn
tập trung nghiêm cứu nhằm rèn luyện chữ viết và giữ vở cho học sinh lớp mình
ngày càng phát triển tốt về “Chữ viết đẹp - giữ vở sạch ” để góp phần vào việc
nâng cao kết quả học tập của các em ngày càng tốt hơn.
Muốn học sinh viết đúng đẹp, giữ gìn sách vở cẩn thận, trước hết và chủ
yếu có sự dạy dỗ công phu của các thầy cô theo phương pháp khoa học và kinh
nghiệm đã được đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên, sâu sát của các bậc
phụ huynh, sự nổ lực kiên trì của mỗi học sinh

II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC “RÈN CHỮ, GIỮ VỞ” Ở LỚP 2 CỦA
TRƯỜNG TIỂU HỌC NA MÈO
1. Thực trạng của trường lớp
Ở trường tiểu học Na Mèo phần lớn học sinh là con em dân tộc Thái, là một
bản có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, bố mẹ đều làm nông nghiệp, nên ít
có điều kiện quan tâm đến tình hình cũng như mua sắm các trang thiết bị phục
vụ cho quá trình học tập của con em mình. Họ chưa ý thức được tầm quan trọng
của việc đi học, nên ngoài thời gian ở trường các em về nhà còn phải phụ giúp
bố mẹ công việc gia đình, bên cạnh đó ngôn ngữ các em giao tiếp hằng ngày
bằng tiếng dân tộc mình nên khi đến trường phát âm tiếng phổ thông còn chưa
rõ và phát âm chưa đúng dẫn đến việc viết chữ cũng sai rất nhiều.
3


Đến trường các em có cảm giác sợ bị cô giáo gọi lên bảng, nhiều em
thường có tư tưởng chán học và nếu không đựợc coi trọng đầu tư phụ đạo rất có
thể các em học đã yếu lại càng yếu hơn. Nguy cơ bỏ học sẽ là điều sớm muộn.
- Trong quá trình thực hiện “Rèn chữ - giữ vở cho học sinh” tôi đã gặp một
số thuận lợi và khó khăn như sau:
* Thuận lợi
+ Được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát và luôn được ban lãnh đạo nhà trường
tạo những điều kiện thuận lợi để những người giáo viên chúng tôi làm tốt nhiệm
vụ được giao.
+ Được sự hỗ trợ giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp và một số phụ huynh học
sinh.
* Khó khăn
a. Về phía học sinh
- Đa số các em điều rơi vào một trong những trường hợp, lý do tương đối
giống nhau là:
+ Tiếp thu chậm; bị quên nhiều những kiến thức đã học sau những ngày

nghỉ học.
+ Các em ở lứa tuổi nhỏ, mải chơi nên còn rất hiếu động, viết chưa cẩn
thận.
+ Do gia đình thuộc diện nghèo, còn khó khăn về kinh tế nên ít quan tâm
đến việc học ở nhà của con em mình.
+ Các em chưa có ý thức trong học tập, nhất là trong việc rèn luyện chữ viết.
b. Về phía giáo viên
+ Phụ trách lớp gồm nhiều đối tượng khác nhau, việc phân chia kiến thức
trong một tiết học còn nhiều khó khăn và hạn chế.
+ Ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể ở trường và hoạt động xã hội, thời
gian phụ đạo học sinh còn ít.
c. Về phía nhà trường
+ Đồ dùng và trang thiết bị phục vụ cho môn tập viết còn hạn chế.
Đầu năm học nhà trường tiến hành kiểm tra khảo sát đầu năm kết quả lớp
tôi đạt được như sau:
2 Kết quả về vở sạch, chữ đẹp
a . Kết quả về vở sạch:
Loại A
Loại B
Loại C
Tổng số HS
SL
TL (%)
SL
TL (%)
SL
TL (%)
17
0
0

7
41,2
10
58,8
b. Kết quả về chữ đẹp:
Loại A
Tổng số HS
SL
TL (%)
17
0
0

Loại B
SL
TL (%)
5
29,5

Loại C
SL
TL (%)
12
70,5

4


Nhìn vào kết quả khảo sát trên, tôi thấy chất lượng vở sạch, chữ đẹp của học
sinh lớp 2 khu Na Mèo còn thấp, cần phải tìm ra các giải pháp để giúp các

em khắc phục tình trạng này. Chính vì vậy mà tôi đã nghiên cứu, tìm ra
các giải pháp để nâng cao chất lượng “Vở sạch, chữ đẹp” cho học sinh.
III . CÁC GIẢI PHÁP “RÈN CHỮ - GIỮ VỞ ” CHO HỌC HỌC SINH
LỚP 2 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC NA MÈO.
Để tìm ra cách dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh lớp mình
phụ trách, năm học này tôi vẫn tiếp tục sử dụng các phương pháp: đàm
thoại, trực quan, thực hành, luyện tập. Nhưng tôi đã mạnh dạn đưa thêm
phương pháp: “ So sánh, kiểm tra lẫn nhau” vào giờ Tập viết. Bên cạnh đó
tôi có chú trọng hơn đến phương pháp hướng dẫn học sinh luyện tập và
thực hành đối với tất cả học sinh trong lớp. Đặc biệt, tôi quan tâm và hướng
dẫn tỉ mỉ hơn với những em viết yếu. Sau khi kết hợp các phương pháp
giảng dạy như trên trong một tiết học, tôi thấy kết quả bài viết của các em
có tiến bộ hơn, điểm đạt cao hơn.
Học sinh lớp 2 tư duy của các em có phát triển so với lớp 1, song khi
hướng dẫn viết vẫn đòi hỏi phải thật tỉ mỉ và chuẩn xác. Chính vì thế
tôi tiến hành qua từng bước cụ thể như sau:
1. Khắc phục về cơ sở vật chất
Để đảm bảo chất lượng về bàn ghế cho học sinh ngồi học, phù hợp với
độ tuổi, ngay từ đầu năm học, tôi đề xuất với ban giám hiệu nhà trường đã chỉ
đạo cho các giáo viên chủ nhiệm chọn lọc và sắp xếp các loại bàn ghế cho phù
hợp với đối tượng học sinh ở mỗi khối lớp.
Cụ thể:
Bàn ghế thấp cho học sinh khối 1, 2, 3 ngồi. Những bộ bàn ghế cao hơn
sắp xếp cho học sinh khối 4, 5.
Những phòng học chưa đủ ánh sáng thì được bố trí lắp thêm bóng điện.
2. Rèn ý thức giữ vở sạch cho học sinh
Nhìn chung đa số học sinh chưa có ý thức tự giác giữ vở sạch vì các em
chưa hiểu được ý nghĩa của những cuốn vở sạch là gì? và vì sao phải giữ vở
sạch? Bên cạnh đó, các em chưa biết cách làm thế nào để có được những quyển
vở sạch, nên ngay sau khi tìm ra được nguyên nhân của thực trạng, tôi đã tổ

chức giới thiệu cho các em xem những quyển vở mẫu của học sinh các năm học
trước đạt giải trong việc “ Rèn chữ - Giữ vở” và vở luyện viết mẫu của giáo viên
trong trường, để từ đó các em hiểu thế nào là quyển vở sạch, chữ viết đẹp. Ngoài
ra, tôi còn giúp các em hiểu được ý nghĩa, tác dụng của những cuốn vở sạch sẽ
giúp các em tính cẩn thận, tỉ mỉ trong cuộc sống của bản thân hơn.
Cụ thể:
Vở sạch đẹp là quyển vở được bọc bìa, dán nhãn cẩn thận, không bị rách vở,
long bìa. Vở không bị quăn góc, không bị dây mực ra vở, không tẩy xoá nhiều,
trình bày đúng quy định, khoa học và không bỏ phí giấy.
5


Để học sinh có những quyển vở sạch đẹp, ngay từ đầu năm học giáo viên
thống nhất cách bọc vở, dán nhãn cho học sinh như sau:
- Dán nhãn vở vào góc phải trên của quyển vở rồi bọc thêm một bìa bằng ni
lông nhựa ép platstic (loại nhựa này giữ cho vở sạch và bền cả năm). Vở phải
mua loại có hàng kẻ rõ ràng, các ô li đều nhau, giấy trắng và không bị thấm
mực.
- Để tránh không bị đổ mực, giây mực ra vở, giáo viên yêu cầu các em
không được để lọ mực lên bàn, mà phải bơm mực đầy bút trước khi đi học. Mỗi
em phải có sẵn một miếng giẻ nhỏ bỏ trong hộp bút. Để vở không bị quăn góc,
không bị vết bẩn do mồ hôi tay và hạn chế chữ bị thấm mực từ trang này sang
trang khác, giáo viên yêu cầu mỗi em phải sử dụng thêm một tờ giấy kê (loại
giấy bìa dày). Khi viết trang nào lật trang đó lên và một tờ giấy kê rời để kê tay
mỗi khi viết giữ cho mồ hôi tay không làm bẩn vở. Lưu ý cho các em không làm
quăn mép vở, luôn vuốt cho vở phẳng góc.
- Để có những quyển vở đẹp, giáo viên chú ý hướng dẫn các em cách trình
bày bài viết, bài làm một cách khoa học có tính thẩm mĩ cao, hướng dẫn các em
trình bày theo quy định của giáo viên về cách trình bày bài văn xuôi, bài thơ lục
bát, thơ tự do ( Khi viết chính tả, luyện viết và tập làm văn) tuỳ theo số lượng

chữ để trình bày bài cho cân đối trang vở ( tránh trình bày lệch sang một bên của
trang viết).
Cụ thể:
- “ Thứ, ngày, tháng, năm” Giáo viên lưu ý cho học sinh viết lùi vào 2 ô
( kể từ lề kẻ đỏ);
- Tên phân môn: Viết lùi vào 4 hoặc 5 ô (Tuỳ theo số chữ);
- Tên bài học: Viết lùi vào 2 đến 3 ô hoặc 4 ô (Tuỳ theo số lượng chữ);
- Hết mỗi bài phải dùng thước kẻ, gạch dưới đó một dòng;
- Tên môn ( phân môn): Tiêu bài hay lời giải, đáp số phải dùng thước kẻ
để gạch dưới ngay ngắn.
Bên cạnh đó, để mỗi bài viết được sạch, đẹp, giáo viên cũng cần hướng
dẫn các em bỏ câu, chữ viết sai. Cũng dùng thước gạch sát dưới chữ viết sai rồi
viết câu, chữ đúng bên cạnh, chứ không được tẩy xoá hoặc bôi đen.
Ngoài ra giáo viên yêu cầu học sinh không được dùng bút xoá, không vẽ
bậy vào vở hoặc bìa vở.
3. Rèn chữ đẹp cho học sinh
3.1. Về phía giáo viên
a. Chữ viết:
Muốn dạy cho học sinh viết đúng, trước hết giáo viên phải viết đúng và
đẹp. Chữ viết của giáo viên phải chuẩn mực, đúng theo mẫu chữ hiện hành trong
trường Tiểu học khi chấm bài, chữa bài, lời nhận xét, khi viết bảng, trình bày
bảng, khi viết mẫu và luyện nét... Để có được chữ viết chuẩn mực, giáo viên
phải nắm chắc được cấu tạo và quy trình viết các chữ cái, chữ số, chữ hoa theo
mẫu chữ quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Cụ thể:
6


Về chữ viết thường (cỡ nhỏ):
Các chữ nét khuyết b, h, l, g cao 2,5 đơn vị;

Các chữ d, đ, p, q viết độ cao 2 đơn vị;
Các chữ r, s cao 1,25 đơn vị;
Chữ t cao 1,5 đơn vị;
Các chữ hoa viết ở độ cao 2,5 đơn vị (riêng G,Y hoa cao 4 đơn vị);
Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1dòng kẻ li và thường được đặt
trên đầu âm chính ghi tiếng (thanh nặng đặt dưới âm chính);
Khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng bằng thân một con chữ O;
Chữ số cao 2 đơn vị và rộng 1 đơn vị.
Bên cạnh đó để thuận lợi trong quá trình rèn chữ cho học sinh, giáo viên
phải nhớ tên gọi các nét cơ bản, điểm đặt bút, dừng bút để thể hiện rõ đặc điểm
thống nhất của các nét cơ bản trong từng nhóm chữ, nắm chắc kĩ thuật viết liền
mạch giữa các chữ theo quy định, vị trí đặt dấu thanh, dấu phụ... để hướng dẫn
học sinh khi luyện viết.
Ngoài ra, để có được chữ viết chuẩn mực, giáo viên phải thường xuyên
luyện viết theo mẫu chữ của từng loại chữ, phải có vở luyện viết riêng để luôn
luôn củng cố và rèn giũa chữ viết của mình trở thành kĩ năng.
b. Bồi dưỡng niềm tin và lòng say mê "rèn chữ - giữ vở" cho học sinh:
Giáo viên giúp các em hiểu được ý nghĩa của việc "Rèn chữ - giữ vở" để
bồi dưỡng lòng say mê và tinh thần quyết tâm rèn chữ đẹp, giữ vở sạch cho học
sinh.
Trước tiên tôi kể cho các em nghe câu chuyện “ Văn hay, chữ tốt” nói về
danh nhân Cao Bá Quát nổi tiếng là văn hay, chữ đẹp, để giáo dục các em biết vì
sao phải rèn chữ đẹp. Từ đó các em hiểu được rằng cần phải viết chữ đẹp vì bài
văn, bài toán dù có hay, có tốt đến đâu mà chữ xấu không ai đọc được cũng
không có giá trị. Để từ đó các em tự rèn cho mình một thói quen tốt “ Rèn chữ Giữ vở” và tính kiên trì, chịu khó, cẩn thận, trong rèn luyện.
Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em- tư duy trừu tượng chưa
phát triển cao, chủ yếu đang thiên về trực quan, hình ảnh, bắt chước nhanh. Bởi
vậy nên tôi đã cho các em trực tiếp quan sát những bài viết mẫu của giáo viên,
bài viết đẹp của các em học sinh trong những khoá học trước đã đạt giải cấp
huyện. Ngoài ra tôi còn sưu tầm, phô tô những bài viết đạt giải cao cấp tỉnh của

những em học sinh các trường trong huyện khác cho học sinh quan sát tham
khảo.
Từ những cảm nhận và hiểu biết được ý nghĩa về vở sạch chữ đẹp của học
sinh, giáo viên hình thành ý thức tự giác, tích cực rèn luyện chữ viết, lòng ham
mê và tinh thần quyết tâm “rèn chữ - giữ vở” cho các em.
Các em có hiểu được ý nghĩa, tác dụng của việc “rèn chữ - giữ vở” thì các
em mới chăm chỉ tự giác và hứng thú rèn chữ sao cho đẹp, giữ vở sao cho sạch.
Một yếu tố cũng hết sức quan trọng để góp phần tạo nên sự thành công của
giáo viên khi rèn chữ cho học sinh. đó là lòng nhiệt tình uốn nắn cho các em
từng nét chữ, từng tư thế ngồi, cầm bút, đưa bút, kĩ thuật viết liền mạch và theo
7


dõi sự tiến bộ của học sinh, để có biện pháp phù hợp. Giáo viên khen khích lệ
những em có sự tiến bộ nhanh, ý thức rèn chữ tốt, động viên kịp thời những em
chậm tiến bộ để các em tự tin hơn mà không chán nản khi rèn luyện.
c. Giúp học sinh hiểu được đặc điểm của chữ đẹp:
Để giúp các em viết chữ đẹp, giáo viên cần cho học sinh hiểu chữ đẹp
phải là chữ viết đúng cỡ chữ theo mẫu chữ quy định của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Chữ phải đều, các nét phải rõ ràng. Đồng thời các nét nối giữa các con chữ
phải gọn, không được rườm rà. Khoảng cách giữa các chữ phải đều, đúng quy
định. Chữ viết phải mềm mại, đặt dấu thanh, dấu phụ đúng vị trí,. . .
d. Tổ chức phong trào thi đua giữa các tổ, nhóm:
Để học sinh trong lớp có khí thế rèn luyện chữ viết sôi nổi, tôi đã phát
động phong trào thi đua " Vở sạch- chữ đẹp" giữa các tổ, nhóm trong lớp, nhằm
kích thích tinh thần đoàn kết, tính tự giác cho các em.
Giáo viên kết hợp với các nhóm trưởng trong lớp chấm “vở sạch- chữ đẹp”
của lớp 2 khu Na Mèo vào giờ sinh hoạt hàng tuần. Biểu dương nhóm có số
lượng vở xếp loại A cao. Nhắc nhở, động viên nhóm có số lượng vở chưa đạt
cần tiến bộ. Sau đó xếp loại kết quả đánh giá chất lượng về “vở sạch- chữ đẹp”

của các em theo tuần, tháng.
Từ những kết quả xếp loại thi đua đó, giáo viên chỉ ra những hạn chế mà
các em cần khắc phục và những ưu điểm cho các em cần phát huy. Học sinh
được chỉnh sửa, rèn giũa chữ một cách kịp thời có hiệu quả.
3.2. Về phía học sinh
Để viết được chữ đẹp, giữ được vở sạch học sinh luôn phải nhận thức được
tầm quan trọng của việc "Rèn chữ - giữ vở ". Các em cần phải hiểu muốn có chữ
đẹp, vở sạch thì cần phải cố gắng, chịu khó, kiên trì rèn luyện và chuẩn bị đầy
đủ đồ dùng cần thiết theo yêu cầu của giáo viên, mỗi em phải có:
+ Hai bộ vở luyện viết lớp 2 (tập 1, tập 2);
+ Vở có ô li rõ ràng, giấy trắng không thấm mực;
+ Bút mực ra đều mực, nét rõ và đều (không dùng bút bi);
+ Thước kẻ, giấy kê, bọc bìa, dán nhãn.
Để viết chữ đẹp các em cần phải ngồi ngay ngắn, đúng tư thế:
- Lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi. Mắt cách vở khoảng 20
đến 25cm. Tay trái tì vào mép vở, giữ cho vở không bị xê dịch khi viết. Hai chân
vuông góc với mặt đất một cách thoải mái nhất.
- Ngoài ra, các em cần phải chú ý tập cho mình thói quen cầm bút thoải mái
khi viết. Yêu cầu khi viết phải cầm nhẹ bút (không nắm chặt và nhận bút), tay
mềm mại, cần phối hợp cử động giữa cổ tay, ngón tay, khuỷu tay và cánh tay.
Để chữ viết được đẹp, ngoài bộ vở luyện viết trên lớp ra, các em cần phải
có thêm một bộ vở luyện viết ở nhà để luyện viết thường xuyên sau mỗi khi học
và làm bài xong.
4. Về phía phụ huynh
Để công việc " Rèn chữ - Giữ vở” cho học sinh đạt hiệu quả cao, ngoài
những yêu cầu cần thiết đối với học sinh và những kiến thức, kĩ năng cơ bản mà
8


giáo viên cần có ra, giáo viên cần chú ý đến vai trò của phụ huynh để kết hợp

với phụ huynh quan tâm nhắc nhở các em khi học và làm bài ở nhà.
Giáo viên tư vấn cho phụ huynh hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của việc
rèn chữ cho học sinh để cùng thống nhất các biện pháp rèn giũa chữ viết cho các
em khi học ở trường và ở nhà.
Rèn chữ giữ vở là một quá trình liên tục mang tính lâu dài nên trong buổi
họp phụ huynh, tôi đã đề nghị các bậc phụ huynh phải thường xuyên liên lạc với
giáo viên cùng phối hợp với nhà trường để việc rèn chữ, giữ vở của các em đạt
hiệu quả cao hơn.
Ngoài ra, tôi còn tuyên truyền cho cha mẹ học sinh biết về mẫu chữ mới
quy định trong trường tiểu học của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đồng thời cũng đưa
ra yêu cầu 100% học sinh phải:
- Có đủ hai loại vở phục vụ cho luyện chữ:
1. Vở tập viết, luyện viết lớp 2 ( tập 1, tập 2): 2 bộ.
2. Vở chính tả ( bìa in lôgô của nhà trường): mỗi em 2 quyển ( Đăng
kí nhà trường mua hộ).
- Viết bằng bút mực (không được viết bằng bút bi) và thống nhất sử dụng
cùng một loại mực màu đen. Điều này có tác dụng về thẩm mĩ rất lớn trong quá
trình " Rèn chữ - giữ vở'' cho các em.
5. Thực nghiệm rèn chữ cho học sinh thông qua việc chia chữ theo loại
nhóm
Để công việc “Rèn chữ - giữ vở” cho học sinh đạt hiệu quả cao, tôi đã chia
chữ theo từng nhóm để rèn luyện cho các em.
Các em học sinh lớp 2 đã được biết tên gọi của các nét cơ bản từ lớp 1. Để
thuận lợi cho quá trình "Rèn chữ - giữ vở", bước đầu tôi tiến hành cho các em ôn
lại tên gọi, cấu tạo và quy trình viết của tất cả các nét cơ bản như:
- Nét gạch ngang;
- Nét sổ thẳng;
- Nét cong trái, cong phải;
- Nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu;
- Nét khuyết trên, nét khuyết dưới;

- Nét thắt;
- ........
Sau khi ôn cho học sinh nhớ và nắm chắc lại toàn bộ tên gọi, cấu tạo và quy
trình của các nét cơ bản rồi, tôi mới cho học sinh rèn chữ viết. Khi đó, các em sẽ
luyện viết một cách dễ dàng hơn.
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo của các nét chữ và mối quan hệ về cách viết
các chữ cái, để rèn chữ cho học sinh, tôi đã phân loại chữ và chia chúng ra thành
các nhóm:
5.1. Loại chữ cái viết thường
*Nhóm 1: Gồm các chữ cái n, m, i, u, ư,t, p
Nhóm chữ này trọng tâm là rèn nét móc xuôi, nét móc ngược và nét móc
hai đầu cho các em. Ngay từ buổi rèn đầu tiên, giáo viên cho học sinh ôn thuần
9


thục lại những chữ cái có nét móc, điểm đặt bút, dừng bút. Từ các nét cơ bản
trên, các em sẽ dễ dàng viết đúng các chữ cái có nét móc còn lại.
Cụ thể:
Chữ "n" gồm hai nét: nét móc xuôi và nét móc hai đầu;
- Đầu móc xuôi cao 1/3 li;
- Đầu móc ngược cao 1/2 li.
Lưu ý cho học sinh viết nét móc tròn, nhỏ, xiên để tránh trường hợp viết nét
móc tròn to quá hoặc viết nét móc ngược bị nhọn.
*Nhóm 2: Gồm các chữ cái l, h, g, y.
Nhóm chữ này chủ yếu nhằm củng cố lại nét móc và rèn nét khuyết. (Nhóm
chữ này học sinh thường viết sai nhiều nhất).
Để học sinh viết các chữ nét khuyết đúng và đẹp, giáo viên cần chú ý rèn
viết cho các em bất đầu từ nét sổ thẳng. Vì kinh nghiệm xưa thường nói "Ngang
bằng, sổ thẳng". Học sinh viết được nét sổ thẳng ngay ngắn thì sẽ tiến hành viết
được những nét khuyết đẹp mà không bị gãy thân chữ.

Cụ thể:
Nét khuyết trên lượn ở đường kẻ li 3, tròn đều và cắt nhau tại đường kẻ li 2,
cao 2,5 đơn vị.
Khi luyện tập, củng cố, giáo viên nên chú ý chỉnh sửa từng nét chữ, từng
dòng cho học sinh. Cần lưu tâm nhất là điểm cắt và điểm lượn của nét khuyết.
Đặc biệt là bụng của nét khuyết phải tròn, đều và rộng 1/2 li kẻ. Nếu giáo viên
phát hiện thấy em nào viết sai, viết chưa đúng về cấu tạo, kích thước, tỉ lệ chữ,. .
. cần chỉnh sửa kịp thời cho các em.
*Nhóm 3: Gồm các chữ cái o, ô, ơ, a, ă, â, d, đ, q, c, x, e, ê.
Nét cơ bản cần rèn luyện trong nhóm chữ này là nét cong (cong trái, cong
phải, cong khép kín), kết hợp củng cố nét móc ngược cho học sinh.
Nhóm chữ này, các em thường viết sai vể tỉ lệ chữ và điểm đặt bút. Bởi vậy
cho nên trong quá trình rèn luyện cho học sinh, giáo viên chú ý điểm đặt bút,
dừng bút sao cho nét cong của chữ phải tròn, đều, nhất là khi các em viết các
chữ cái có nét cong tròn khép kín.
*Nhóm 4: Gồm các chữ cái r, s, v, b, k
Trọng tâm nhóm chữ này là ôn củng cố nét khuyết, nét móc và rèn nét thắt
cho học sinh.
Giáo viên lưu ý kích thước, tỉ lệ và quy trình viết các chữ trong nhóm chữ
này cho các em. Đặc biệt lưu ý cho các em vị trí của nét thắt trong từng con chữ.
Cụ thể:
Chữ " r ": nét thắt nằm trên đường kẻ li 2;
Chữ " k ": nét thắt nằm ở vị trí 1/2 dòng kẻ li 1.
5.2. Loại chữ hoa
Căn cứ vào cấu tạo các nét cơ bản giống nhau của các chữ hoa, tôi cũng đã
chia các chữ hoa thành 8 nhóm nhỏ để dễ dàng trong quá trình ôn luyện, củng cố
và rèn chữ cho học sinh.
Nhóm 1. Gồm các chữ hoa: U, Ư, V.
10



Nhóm 2. Gồm các chữ hoa: L, E.
Nhóm 3. Gồm các chữ hoa: N, M .
Nhóm 4. Gồm các chữ hoa: X, Y.
Nhóm 5. Gồm các chữ hoa: A, T, H, I.
Nhóm 6. Gồm các chữ hoa: P, R, B, D, Đ.
Nhóm 7. Gồm các chữ hoa: C, G, S.
Nhóm 8. Gồm các chữ hoa: O, Ô, Ơ, Q.
Khi ôn và rèn luyện các chữ hoa có rất nhiều thuận lợi cho học sinh vì các
em dễ nhớ kích thước của các chữ. Giáo viên hướng dẫn các em dựa vào các nét
cơ bản của chữ thường để vận dụng viết chữ hoa cho đúng yêu cầu.
Tất cả các chữ hoa đều nằm trong một khung chữ nhất định có độ cao 2,5
đơn vị. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh khi viết các chữ hoa phải chú ý đến
điểm đặt bút và quy trình viết chữ hoa đã được học ở lớp 1, lớp 2.
5.3. Loại chữ số
Dựa vào cấu tạo của các chữ số, tôi cũng hướng dẫn học sinh vận dụng các
nét cơ bản để viết số và các chữ số đúng với kích thước và tỉ lệ đã quy định.
Tóm lại, sau khi phân chia chữ thường, chữ hoa và chữ số thành các nhóm
nhỏ có cùng đặc điểm để thuận lợi cho quá trình rèn chữ cho học sinh, tôi bắt
đầu cho học sinh thực hành qua từng tiết luyện viết trong các buổi học đại trà và
giờ học chính tả, tiết tập làm văn. Bên cạnh đó, tôi cũng luôn chú ý nhắc nhở,
uốn nắn tư thế ngồi, cách cầm bút và rèn giũa chữ viết cho các em trong tất cả
các giờ học khác một cách cập nhật vì đối tượng học sinh của tôi là các em lớp 2
nên trong quá trình rèn chữ cho các em, tôi luôn kết hợp vừa rèn chữ, vừa chú ý
đến tốc độ viết và kĩ thuật viết liền mạch cho các em.
Bên cạnh đó, khi học sinh luyện viết, giáo viên cần phải thường xuyên quan
tâm chỉnh sửa từng nét chữ sao cho đều, khoảng cách giữa các chữ sao cho đúng
quy định và nhắc nhở các em vị trí đặt dấu thanh, dấu phụ cho hợp lí. Vì viết
đúng nhưng đặt dấu phụ không đúng vị trí thì bài viết cũng sẽ không chính xác.
Có làm được như vậy thì chữ viết của các em mới tiến bộ một cách rõ rệt.

Trong quá trình hướng dẫn, giáo viên lưu ý cho học sinh các trường hợp
sau:
- Khi viết những chữ có dấu thanh, cần lưu ý đặt dấu thanh phía trên (đối
với thanh huyền, sắc, hỏi, ngã), phía dưới (đối với thanh nặng) âm chính của
chữ ghi tiếng.
- Con chữ "b" khi viết tạo tiếng với các con chữ khác thì viết nét thắt nhỏ
để nối, nhưng khi viết với con chữ "e" để tạo tiếng thì phải kéo nét thắt to để nối
với con chữ "e". (Ví dụ khi viết tiếng be).
- Khi viết chữ có các con chữ: "ơ, ư", giáo viên nên lưu ý cho học sinh viết
"o" hoặc "u" rồi điền dấu phụ (,) nghiêng về phía bên phải chữ "o, u" (không
viết dấu phụ thẳng, sẽ rất xấu) để được "ơ, ư".
Ngoài ra, khi luyện viết chữ cho học sinh, giáo viên cần phải thường xuyên
chấm bài kèm theo lời nhận xét cụ thể, hoặc chỉ ra những lỗi mà đa số các em
thường mắc phải để hướng dẫn chung cho cả lớp. Hàng tuần, hàng tháng, giáo
11


viên nên có những nhận xét cụ thể về sự tiến bộ của các em trong việc " Rèn chữ
- Giữ vở", nhằm kích thích lòng ham mê rèn luyện cho các em. Đồng thời, giáo
viên cũng chỉ ra những hạn chế mà các em cần phải sửa chữa. Từ đó đưa ra các
biện pháp cụ thể cho các em khắc phục.
Biện pháp nêu gương cũng rất cần thiết trong quá trình rèn giũa cho các
em, nó có tác dụng khích lệ và củng cố niềm tin cho các em trong quá trình học
tập và rèn luyện.
Biểu dương trước lớp những bài viết đẹp, những bài viết tuy chưa độc đáo
lắm nhưng cũng đã có nhiều cố gắng trong rèn luyện.
Trong quá trình kèm cặp, rèn rũa chữ viết cho học sinh, giáo viên có thể
nâng cao hơn kĩ thuật viết nét thanh, nét đậm cho những em có năng khiếu về
chữ viết.
Cụ thể:

- Tạo nét thanh bằng các nét đưa lên nhẹ tay;
- Tạo nét đậm bằng các nét kéo xuống đậm tay.
Giáo viên nhắc nhở các em: để bài viết của mình đẹp thì khi viết các em
phải ngồi đúng tư thế, không nên cầm bút chặt mà phải lỏng cơ tay, cổ tay và
đưa bút một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Muốn vậy, các em không được lên gân
tay mỗi khi viết.
IV. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC “RÈN CHỮ, GIỮ VỞ” CHO HỌC SINH
THÔNG QUA MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 2 ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG
Qua những năm áp dụng phương pháp giảng dạy “ Rèn chữ - giữ vở cho học
sinh lớp 2 ” để kiểm chứng lại chất lượng chữ viết của học sinh, cuối tháng 3
năm học 2016 - 2017 tôi đã tiến hành ra đề kiểm tra viết cho học sinh lớp 2 khu
Na Mèo (lớp chủ nhiệm) ở phần khảo sát thực trạng. Đồng thời cùng kết hợp với
Ban giám hiệu và các tổ khối chuyên môn trong nhà trường kiểm tra chéo để
chấm bài, đánh giá, xếp loại vở sạch, chữ đẹp của học sinh. Kết quả thu được rất
khả quan. Chất lượng “vở sạch - chữ đẹp” của lớp 2 khu Na Mèo tương đối tốt
so với kết quả đầu năm học.
Cụ thể kết quả đạt được qua bảng thống kê như sau:
* Chất lượng về vở sạch- chữ đẹp:
- Chất lượng về vở sạch:
Tổng số HS
Loại A
Loại B
Loại C
17
Sl
%
Sl
%
Sl

%
13
76,4
4
23,6
0
0
- Chất lượng về chữ đẹp:
Loại A
Loại B
Loại C
Tổng số HS
SL
TL (%)
SL
TL (%)
SL
TL (%)
17
7
41,2
10
58,8
0
0
Từ biểu bảng thống kê trên, so với kết quả khảo sát thực trạng của đầu năm
học 2016 - 2017 cho thấy khi áp dụng những biện pháp " Rèn chữ - giữ vở" mà
tôi đã đưa ra thì chất lượng vở sạch, chữ đẹp của học sinh được nâng lên rõ rệt.
12



Tỉ lệ vở sạch xếp loại A đạt gần 76,4, không còn vở xếp loại C. Tỉ lệ học
sinh viết chữ đúng, đẹp tăng lên nhiều so với đầu năm học. Cuối năm học 20162017 lớp tôi đã có 4 em đạt giải về viết chữ đẹp , giữ vở sạch cấp huyện.
Qua gần một năm học, áp dụng triệt để những biện pháp trên vào quá trình
"Rèn chữ - giữ vở" cho học sinh lớp 2 khu Na Mèo trường Tiểu học Na Mèo
(lớp chủ nhiệm), tôi nhận thấy tình hình chữ viết của các em có sự tiến bộ rõ rệt.
Hiện tượng viết sai mẫu chữ quy định giảm nhiều, lỗi chính tả cũng không còn.
Chữ viết của học sinh được nâng dần từ viết đúng đến viết đẹp. Đa số các em rất
say mê và hứng thú luyện viết. Các em viết nhanh theo tốc độ quy định nhưng
vẫn đảm bảo đúng chính tả, đúng mẫu chữ quy định hiện hành trong nhà trường
tiểu học. Chữ viết đều, trình bày bài sạch sẽ, khoa học. Sách vở không bị giây
mực hay giây bẩn và đặc biệt không còn hiện tượng sách vở nhàu nát, quăn mép,
long bìa nữa.
Chính những kết quả đạt được khả quan trong việc áp dụng sáng kiến vào
thực tế giảng dạy đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đại trà
trong nhà trường và phần cơ bản hơn là đảm bảo được chất lượng tối thiểu trong
nhà trường được duy trì .
Ngoài ra ,học sinh trường Tiểu học Na Mèo là học sinh vùng đặc biệt khó
khăn , các em chủ yếu là học sinh dân tộc thiểu số nên việc nghiên cứu và áp
dụng sáng kiến vào thực tế giảng dạy trong khu trường của bản thân vả nhân
rộng trong toàn trường đã giúp học sinh hình thành ý thức tự giác, tích cực rèn
luyện chữ viết, lòng ham mê và tinh thần quyết tâm “rèn chữ - giữ vở” cho các
em cả trong và ngoài nhà trường. Đặc biệt kết quả khả quan của sáng kiến nay là
giúp các em hiểu được ý nghĩa, tác dụng của việc rèn chữ giữ vở thì các em mới
chăm chỉ, tự giác và hứng thú rèn chữ sao cho đẹp, giữ vở sao cho sạch.
Trên đây là những thành công bước đầu của sáng kiến kinh nghiệm mà bản
thân tôi đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy và trao đổi cùng đồng
nghiệp trong nhà trường tiểu học Na Mèo. Trong những năm học tới tôi cùng
đồng nghiệp sẽ duy trì và phát huy những ưu điểm của sáng kiến vào thực tế
giảng dạy để chất lượng về việc “rèn chữ - giữ vở” cho học sinh nói riêng và các

môn học khác trong nhà trường nói chung được nâng lên rõ rệt, đáp ứng được
chuẩn kiến thức kỹ năng của giáo dục Tiểu học.

13


C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Như chúng ta đã biết chữ viết không đơn thuần chỉ dùng để ghi lại âm tiết
Tiếng Việt, mà chữ viết còn thể hiện tính cách của mỗi con người. "Rèn chữ- giữ
vở" cho học sinh chính là rèn luyện cho các em những phẩm chất đạo đức tốt
đẹp. Như rèn tính cẩn thận, tinh thần kỉ luật cao, óc thẩm mĩ, lòng tự tin và tính
tự trọng.
Từ thực tế giảng dạy và những kết quả đạt được qua việc áp dụng các biện
pháp trên vào quá trình "Rèn chữ - giữ vở" cho học sinh, bản thân tôi đã rút ra
được một số kinh nghiệm như sau:
1. Để cho việc làm này đạt hiệu quả cao đòi hỏi người giáo viên ngoài
những hiểu biết về chuyên môn còn phải có tính kiên trì và bền bỉ, cẩn thận, yêu
nghề, mến trẻ và phải hiểu được đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh của mình để
rèn rũa, uốn nắn các em sao cho "Nét chữ " là "Nết người" như cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã nhận định.
2. Bên cạnh đó mỗi giáo viên cũng cần chú ý đến các yếu tố sau:
- Phối hợp "Rèn chữ - giữ vở" cho học sinh ở tất cả các môn, phân môn
trong chương trình học.
- Quan tâm chỉnh sửa tư thế ngồi, cầm bút, cách để vở cho toàn thể học sinh
trong lớp.
- Chấm, chữa và nhận xét bài một cách cập nhật, thường xuyên.
- Có biện pháp khen thưởng, động viên, khích lệ học sinh một cách kịp thời.
- Tổ chức phong trào "Vở sạch - chữ đẹp" giữa các tổ, nhóm trong lớp.
- Thường xuyên trao đổi với đại diện phụ huynh của lớp và phối kết hợp chặt

chẽ với cha mẹ học sinh để cùng thống nhất phương pháp kèm cặp, uốn nắn các
em ở trường và ở nhà.
- Một yếu tố nữa cũng hết sức quan trọng để dẫn đến sự thành công, đó là
giáo viên đừng quên bồi dưỡng niềm tin và lòng say mê ham học hỏi, rèn luyện
cho các em.
II. KIẾN NGHỊ
+ Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại
sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ phân môn tập viết, chính tả.
+ Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều
thành tích cao trong giảng dạy và học tập.
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân đúc rút trong quá trình dạy học.
Tôi đã mạnh dạn áp dụng vào thực tế giảng dạy tại lớp mình chủ nhiệm và ít nhiều
cũng đã đạt được hiệu quả. Tuy nhiên những kinh nghiệm này còn mang tính cá
nhân nên rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, các bạn dồng
nghiệp trên để chuyên đề của tôi được hoàn thiện hơn.

14


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quan Sơn, ngày 20 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
bản thân mình viết, không sao chép
nội dung của người khác
TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Tư

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu “Phương pháp dạy học Tiếng Việt Tiểu học”LêThị Nga-Đặng
Kim Nga. Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm, 2005.
2. Sách Giáo khoa Tiếng Việt lớp2, tập1-Nguyễn Minh Thuyết-Nhà xuất bản
Giáo dục,Việt Nam, năm 2015.
3. Sách Giáo khoa Tiếng Việt lớp2, tập 2 -Nguyễn Minh Thuyết-Nhà xuất bản
Giáo dục,Việt Nam, năm 2015.
4. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2 tập1- Nguyễn Minh Thuyết-Nhà xuất bản
Giáo dục-Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2 tập1- Nguyễn Minh Thuyết-Nhà xuất bản
Giáo dục-Bộ Giáo dục và Đào tạo.
6. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2 tập2-Nguyễn Minh Thuyết-Nhà xuất bản
Giáo dục-Bộ Giáo dục và Đào tạo.
7. Sách Tập viết lớp 2 , Tập I & II – Mạc Văn Thiện-Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam , 2016.
8. Vở Thực hành luyện viết,viết đúng, viết đẹp-lớp 2 tập1&2-Nguyễn Bá
Cường- Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm .
9. Mẫu chữ viết trong Trường Tiểu học ( Theo quyết định số 31/2002/QĐBGĐTngày 14/6/2002 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)-Xuất bản 2005

16



×