Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đại trà môn ngữ văn cho học sinh khối 12 trường THPT nông cống 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.77 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU --------------------------------------------------------------------- 2
I.1 Lí do chọn đề tài --------------------------------------------------------- 2
I.2 Mục đích nghiên cứu-----------------------------------------------------4
I.3 Đối tượng nghiên cứu --------------------------------------------------- 4
I.4 Phương pháp nghiên cứu ------------------------------------------------5
II. NỘI DUNG ---------------------------------------------------------------5
II.1 Cơ sở lí luận ---------------------------------------------------------------5
II.2 Thực trạng dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT Nông Cống 4--6
II.2.1 Thuận lợi ---------------------------------------------------------------6
II.2.2 Khó khăn ---------------------------------------------------------------6
II.3 Cách thức và các giải pháp thực hiện ---------------------------------8
II.3.1 Vai trò của giáo viên --------------------------------------------------9
II.3.2 Vai trò của học sinh --------------------------------------------------16
II. 3.3 Vai trò của sự tương tác giữa giáo viên và phụ huynh ----------18
II, 3.4 Vai trị của cơng nghệ thơng tin ------------------------------------18
II.3.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm -------------------------------19
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ---------------------------------------20
1


III.1 Kết luận -----------------------------------------------------------------20
III.2 Kiến nghị ----------------------------------------------------------------21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ------------------------------------------------ 22.

MỞ ĐẦU
I.1.Lí do chọn đề tài.
Hoạt động chính trong Nhà trường là hoạt động dạy và học. Thông qua hoạt động
dạy không chỉ truyền đạt cho học sinh kiến thức, kĩ năng mà cịn hình thành cho học
sinh những năng lực, phẩm chất để các em bước vào cuộc sống. Tuy nhiên để thực
hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này không phải là dễ dàng đối với các môn học nói


chung trong đó có mơn Ngữ Văn.
Đặc thù của môn Ngữ văn là không chỉ dạy về kiến thức mà cịn giáo dục các
em về tình cảm, về đạo đức, về giá trị thẫm mĩ. Dạy văn là dạy cái hay cái đẹp. Phải
khai thác mọi vấn đề mà tác giả đặt ra trong tác phẩm, giúp các em có rung cảm thẩm
mĩ, có cái nhìn sâu sắc về cuộc sống và tự rút ra bài học cho chính bản thân mình.
Phạm văn Đồng đã từng nói: “ Cái quan trọng nhất trong giảng dạy nói chung và
2


trong dạy văn nói riêng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương
pháp nghiên cứu, phương pháp tìm tịi, phương pháp vận dụng kiến thức của mình”
( Trích tạp chí nghiên cứu giáo dục số 28, tháng 11 năm 1973). Từ ý kiến trên đặt ra
yêu cầu đối với người dạy là phải có phương pháp tích cực để giúp học sinh phát triển
tồn diện mọi kĩ năng cần thiết.
Cách kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh theo yêu cầu mới phải đảm bảo
bốn cấp độ từ thấp đến cao là: nhận biết – thông hiểu – vận dụng thấp – vận dụng
cao. Và như vậy địi hỏi người học phải khơng ngừng chủ động, sáng tạo, đặc biệt
phải nắm vững phương pháp và kĩ năng làm câu đọc - hiểu, vận dụng kiến thức để
làm tốt câu nghị luận xã hội, cũng như câu nghị luận văn học. Để làm được điều này
người giáo viên phải song hành với học sinh trong việc trau dồi kiến thức, rèn luyện
kĩ năng làm bài.
Dạy văn trong nhà trường phổ thông đang là một thử thách lớn với GV hiện nay.
Dạy như thế nào cho hay, hiệu quả cao, tạo sự hứng thú, say mê cho HS quả thực là
cả một vấn đề lớn. Việc HS khơng thích thú với mơn văn cũng có nhiều lí do, tuy
nhiên có một nguyên nhân khá quan trọng đó là: Thầy cô giáo chưa thực sự tạo ra sự
cuốn hút HS bằng bài giảng của mình. Thầy cơ chưa thực sự có những bước ngoặt
đột phá trong việc đổi mới phương pháp, vẫn nặng về phương pháp truyền thống thế
nên việc dạy và học chưa thực sự hiệu quả.
Vai trị của người giáo viên là vơ cùng quan trọng. Là người điều khiển, hướng dẫn
để học sinh khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn học và biết vận dụng kiến thức đã

3


học để làm tốt bài thi của mình. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra cho giáo viên là cần rèn
luyện cho học sinh tự nhạy bén, linh hoạt và tư duy nhanh, phát huy những khả năng
vốn tiềm ẩn mà lâu nay các em chưa có điều kiện khám phá.
Từ thực tiễn giảng dạy, tôi thấy khả năng vận dụng của học sinh đại trà còn hạn
chế bởi sự thơng hiểu cịn nơng cạn. Vì thế, khi gặp phải những bài tập, câu hỏi các
em còn lúng túng, mơ hồ, chưa biết cách làm…Vậy làm sao để nắm được kiến thức
và vận dụng kiến thức để làm bài thi đạt kết quả cao. Tích luỹ từ kinh nghiệm trong
quá trình giảng dạy của mình và trao đổi cùng đồng nghiệp tôi đã đưa ra một số cách
thức, biện pháp nâng cao chất lượng đại trà môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 mà
bản thân nhận thấy đem lại hiệu quả.
I.2. Mục đích nghiên cứu.
- Thơng qua đề tài, tôi muốn được chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp trong

trường, trong tỉnh về vấn đề nâng cao chất lượng đại trà môn ngữ văn
- Giúp học sinh hiểu rõ hơn về vai trị của mơn học đối với cuộc sống và cũng là một
trong ba môn bắt buộc trong kì thi TNTHPT. Từ đó hình thành ở các em kiến thức
để tự tin trước kì thi. Góp phần nâng cao chất lượng đại trà của nhà trường.
- Hình thành cho các em học sinh ý thức thực hiện tốt nội quy trường, lớp, xây dựng
môi trường học tập văn minh, mô phạm.
- Giúp học sinh hứng thú, say mê hơn đối với bộ môn Ngữ văn.
I.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Trong phạm vi đề tài này đối tượng mà đề tài hướng tới là học sinh lớp 12
4


- Hoạt động giáo dục của giáo viên và học sinh các lớp 12C2, 12C5 trường THPT
Nông Cống 4 năm học 2020- 2021

I. 4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu bộ môn: Sử dụng các phương pháp trong dạy học Ngữ
văn ở các bài học cụ thể, để hình thành kiến thức cho các em học sinh.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Tìm hiểu các khái niệm, các Nghị quyết có liên
quan đến chất lượng đại trà.
- Phương pháp thực nghiệm, phân tích: Tiến hành soạn và thực nghiệm các tiết dạy
cụ thể, để khẳng định tính khả thi, hiệu quả của đề tài.
- Phương pháp tổng hợp: Sau khi triển khai thực hiện vấn đề, tôi tổng hợp đánh giá
kết quả cuối cùng để thấy được thành cơng của đề tài. Từ đó áp dụng phổ biến trong
những năm học tiếp theo.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
II.1. Cơ sở lý luận.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục
và đào tạo. Đảng và nhà nước đã đặt ra vấn đề giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Phương pháp giáo dục vì vậy cũng phải đổi mới cho phù hợp với xu thế chung của
thời đại, trong đó đặc biệt phải ln phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động tư
duy sáng tạo, phát triển phẩm chất năng lực học sinh, nâng cao chất lượng đại trà.
5


Giáo dục thế hệ trẻ luôn là mối quan tâm đặc biệt của mỗi dân tộc , bởi vì “Sự
nghiệp đổi mới đất nước có thành cơng hay khơng, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI
có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không chủ yếu là do lực lượng
thanh niên ngày nay quyết định”. ( Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII, H,1993,tr23). Dạy Văn là “ dạy chữ để dạy người”, môn Văn
không chỉ trang bị cho thế hệ trẻ một vốn kiến thức cần thiết về Văn học, mà cịn
góp phần quan trọng bồi dưỡng kỹ năng sống cho học sinh như ý thức, tình yêu,
nhân cách, đạo lý, tinh thần trách nhiệm…
II. 2. Thực trạng việc dạy học môn Ngữ Văn ở trường THPT Nông Cống 4.
II. 2. 1. Thuận lợi:

Trường THPT Nơng Cống 4 đóng trên địa bàn xã Trường Sơn, huyện Nông
Cống - một vùng đất nơng nghiệp hiền hịa. Ln được sự quan tâm của cấp uỷ
Đảng bộ, BGH, Ban chuyên môn nhà trường. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, có trách
nhiệm cao. Học sinh trong trường chủ yếu là con em trong các gia đình thuần nơng,
với bản tính hiền lành, thân thiện, các em học sinh cơ bản đã thực hiện tốt nội quy
trường lớp, thái độ học tập đúng đắn, u thương, đồn kết.
Xã hội ngày càng phát triển, cơng nghệ thông tin và mạng Internet hiện đại đã
tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên thuận lợi trong việc nắm bắt thơng tin, tìm kiếm
tài liệu hỗ trợ cho việc dạy học.
6


II. 2.2. Khó khăn:
Vẫn cịn một bộ phận học sinh sống chây lười, ỷ lại, cố tình vi phạm nội quy
trường lớp như trong giờ học không ghi bài, không có sách giáo khoa, khơng hợp tác
trả lời đối thoại với cơ giáo, lệ thuộc vào mạng xã hội, có nhiều sở thích về mối quan
hệ bạn bè, xã hội... Nếu không giáo dục và định hướng tốt, các em sẽ đi lệch hướng,
thường xuyên vi phạm, dễ xa ngã trước các tệ nạn xã hội
Thực tiễn cho thấy quan niệm trong dạy và học Ngữ văn còn tồn tại nhiều sai lệch
như: cho rằng môn Ngữ văn chỉ là thi tốt nghiệp, phải ghi chép, đoc nhiều, phần đa
phụ huynh định hướng cho con học tốn theo các mơn tự nhiên để theo khối ngành
kinh tế, kĩ thuật, không có những hữu ích trực tiếp cho thời buổi kinh tế thị trường
…, Vì vậy, cả giáo viên và học sinh đều dạy và học Ngữ văn cịn mang tính hình
thức.
Bên cạnh đó, do khối lượng kiến thức cho mỗi tiết học nhiều nên giáo viên
nhiều khi phải “gắng sức” mới truyền tải được các kiến thức hơn nữa các em học
khối KHTN chỉ có 3 tiết chính khóa một tuần khơng được học phụ đạo, khơng thi
khảo sát. Vì vậy khi tiếp cận đề và làm bài thi với cấu trúc ba phần thì các em chỉ
làm sơ sài nên điểm khơng đạt điểm cao. Chính điều này đã khiến cho việc dạy học
Ngữ Văn và nâng cao chất lượng đai trà cũng gặp nhiều khó khăn.

Đứng trước khó khăn đó, cơng tác giảng dạy bộ mơn Ngữ Văn lại càng trở nên
quan trọng,Tuy nhiên, trước yêu cầu gắt gao đổi mới phương pháp dạy học bản thân
7


tôi và tôi tin là rất nhiều thầy cô khác cịn thấy lúng túng trong q trình áp dụng
phương pháp, kĩ thuật dạy học vào thực tiễn. Lí thuyết về các phương pháp, kĩ thuật
dạy học có thể các thầy cô đã nắm vững nhưng do các yếu tố: học sinh trong lớp cịn
đơng, chương trình cịn nặng nề …, nên khó áp dụng hiệu quả. Thực trạng ấy khiên
bản thân tơi và các đồng nghiệp của mình dã rất trăn trở.
Từ lí luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của việc nâng
cao chất lượng đại trà ở trường phổ thông là rất cần thiết. Điều đó khơng chỉ có ý
nghĩa trong việc nâng cao kiến thức mà cịn có ý nghĩa hướng các em nhận thấy u
và học Ngữ văn. Vì là mơn học góp phần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng hồn thiện
nhân cách đạo đức cho thế hệ trẻ.
Kết quả học thi khảo sát lần 1 các lớp tôi dạy như sau:
Lớp

Sĩ số Điểm 9-10
SL

%

Điểm 7- 8
SL

%

Điểm 5-6


Điểm dưới 5

S

%

SL

%

61

11

28

L
12C

42

0

0

5

11%

26


2
11C5

%
44

3

5%

19

45%

19

45
%

Với kết quả trên ta thấy:
8

%
3

5%


- Chất lượng chưa cao, số học sinh đạt khá giỏi cịn ít, lượng học sinh đạt mức độ

yếu vẫn cịn.
- Mức độ hứng thú học tập chưa cao vì học sinh cảm thấy khó cảm nhận, nhiều từ
ngữ, hình ảnh trừu tượng.
- Khả năng liên hệ vận dụng giải quyết các đề văn còn yếu, chưa cảm nhận đúng vấn
đề, vì vậy để đạt được điểm cao là khó.
- Với những thực trạng trên bản thân tôi thấy cần phải có cách dạy tích cực hơn thì
học sinh mới hứng thú học tập, khi thi mới đạt kết quả tốt hơn. Vì vậy tơi mới áp
dụng một số biện pháp để nâng cao chất lượng đại trà.
II. 3. Cách thức và biện pháp thực hiện.
Kế hoạch chuyên môn của trường THPT Nông Cống 4 năm học 2020-2021, số
12 ngày 5/9/2020 về việc hướng dẫn xây dựng, thực hiện chương trình giáo dục nhà
trường THPT theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh. Bên cạnh đó, tập
trung nâng cao chất lượng đại trà. Ngày 11/1/2021 tổ, nhóm chuyên môn cũng đã họp
và trao đổi kinh nghiệm nhằm năng cao chất lượng đại trà, tổ vinh dự được đồng chí
Trịnh Trọng Nam chun viên Văn về dự và góp ý kiến. Ngày 28/1/2021 nhà trường
đã tổ chức buổi hội thảo nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp trong đó có nâng cao
chất lượng đại trà.
9


Đối với bộ môn Ngữ văn năm học 2019 – 2020 điểm thi tốt nghiệp chỉ tiêu
trung bình điểm 6,6. Kết quả năm học đat 7,25. Năm học 2020 – 2021 nhà trường
đặt chỉ tiêu điểm trung bình 7,7. Việc nâng cao chất lượng đại trà đã trở thành một
trong những nhiệm vụ năm học. Vì vậy, tập thể sư phạm nhà trường nói chung và
bản thân nói riêng phải đưa ra những cách thức và phải pháp để thực hiện hiệu quả
chỉ tiêu đề ra.Từ thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để nâng
cao chất đại trà
II. 3. 1. Vai trò của giáo viên
Thầy cô là cầu nối giữa học sinh với tri thức, với những kỷ năng, kỷ xảo tương ứng
cho học sinh; chuẩn bị đầy đủ cho học sinh hành trang bước vào cuộc sống.

Dạy văn trong nhà trường phổ thông đang là một thử thách lớn với GV hiện nay.
Dạy như thế nào cho hay, hiệu quả cao, tạo sự hứng thú, say mê cho HS quả thực là
cả một vấn đề lớn. Việc HS khơng thích thú với mơn văn cũng có nhiều lí do, tuy
nhiên có một ngun nhân khá quan trọng đó là: Thầy cơ giáo chưa thực sự tạo ra sự
cuốn hút HS bằng bài giảng của mình. Thầy cơ chưa thực sự có nhưng bước ngoặt
đột phá trong việc đổi mới phương pháp.
Giáo viên phải có kiến thức, kỷ năng vững vàng. Đây chính là điều quan trọng nhất
đối với những ai đang làm nghề dạy học. Bởi nó chính là cái nền, yếu tố cơ bản tạo
nên một tiết dạy thành công. Dù phương pháp dạy học có tích cực, hợp lí đến mấy, dù
khả năng diễn đạt của thầy có lưu lốt đến mấy nhưng nếu kiến thức khơng chính
10


xác, khơng phong phú thì những yếu tố kia cũng khơng có cơ hội để phát huy. Kiến
thức vững vàng của người thầy còn khiến cho học sinh nể phục từ đó mới yên tâm,
nghe theo rồi làm theo thầy. Vì thế, tơi thường xun cập nhật kiến thức: học từ tài
liệu, học từ đồng nghiệp, từ bạn bè các trường khác, từ chính học trị…
Chú ý đổi mới phương pháp dạy phù hợp. Sự phù hợp về phương pháp dạy học
không phải nhất thiết phải từ bỏ những phương pháp dạy học truyền thống để lựa
chọn các phương pháp mà nhiều người cho là mới, là hiện đại. Theo tôi, sự phù hợp
là phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với nội dung bài dạy.
Ở mỗi giờ dạy thầy cơ cần:
 Kích thích hoạt động tư duy: Kĩ năng kích thích hoạt động tư duy nhằm phát
huy tích cực suy nghĩ của tập thể học sinh trong một tiết học. Nó loại trừ được
tính ỷ lại, trơng chờ. Nó địi hỏi thầy gợi mở để cả một tập thể động não, thoải
mái, tự nhiên trình bày hết ý tưởng không rụt rè, e ngại. Muốn vậy GV phải xác
định được nội dung vấn đề cần làm rõ qua những câu hỏi có sức gợi từ đơn giản
đến phức tạp. Người học càng có nhiều phát hiện những nội dung của vấn đề đặt
ra càng tốt. Người thầy phải thực sự linh hoạt để điều hành giờ học. Thầy không
vội đưa ra nhận xét đánh giá đối với bất cứ một ý kiến nào. Thầy biết động viên

khuyến khích các ý kiến của mỗi thành viên trong lớp đồng thời ghi vắn tắt trên
bảng thành nhóm ý kiến. Đặc biệt, thầy biết gợi ý, đưa ra câu hỏi để làm nảy sinh
những ý kiến mới. Người thầy phải nhạy bén, linh hoạt biết dừng đúng lúc để

11


tổng kết đánh giá từng nhóm ý kiến và rút ra kết luận theo phương án đã dự định
khi soạn bài.
Kích thích hoạt động tư duy của học trị trong một tiết học là thực sự góp phần vào
đổi mới phương pháp dạy học. Người thầy cần nắm rõ những u cầu có tính bắt
buộc:
- Động viên khuyến khích học trò phát biểu tham gia xây dựng bài qua những
câu hỏi gợi mở ngắn gọn từ đơn giản đến phức tạp
- Sắp xếp các ý kiến trình bày theo nhóm
- Không nên nhận xét đánh giá trong khi học sinh trình bày
- Biết dừng lại đúng lúc để đảm bảo thời gian tiết học
- Nhắc nhở học sinh biết ghi theo ý kiến thầy kết luận (thầy không đọc cho trị chép)
* Chia nhóm: Nhằm phát huy tính tập thể và kích thích hoạt động cá nhân trong
một nhóm nhỏ. Các thành viên trong nhóm có dịp bày tỏ hiểu biết của mình. Mỗi cá
nhân trong nhóm cũng tự nhận biết cần phải học, tìm hiểu, bổ sung cho nhận thức của
mình như thế nào. Biết mình, biết người để chia sẻ và hợp tác trong học tập. Kĩ năng
chia nhóm nhằm phát huy tính tích cực của mỗi cá nhân và có ý thức tập thể cao. Kĩ
năng này góp phần kích thích tinh thần thi đua ngầm giữa các nhóm. Thầy, cơ giáo
phải tùy theo từng bài mà áp dụng.
12


Cách làm: Thầy, cô giáo chủ động đưa vấn đề cần làm rõ ra trước tập thể. Các
nhóm đều lĩnh hội nội dung chung. Sau một thời gian nhất định, thầy, cơ phân cơng

từng nhóm làm rõ một nội dung. Các nhóm lần lượt trình bày cách hiểu, lí giải, phân
tích, chứng minh vấn đề mà nhóm mình đảm nhiệm. Các nhóm khác bổ sung hoặc thể
hiện quan điểm của nhóm mình. Thầy là người chịu trách nhiệm tổng kết lại và bổ
sung theo phương án đã chuẩn bị trước. Khi thầy tổng kết học sinh ghi theo lời thầy
( thầy khơng đọc cho trị chép)
 Kĩ năng hỏi- đáp tạo ra khơng khí cởi mở trong tiết học: Mỗi học sinh kể cả
cơ giáo đều bình đẳng khi tiếp cận nội dung bài học. Hỏi- đáp nhằm phát huy
tính tự do giữa người dạy và người học. Nó tạo cho học sinh tính tự tin và biết
cách lập luận để thuyết phục người nghe. Kĩ năng hỏi- đáp đòi hỏi thầy, cô giáo
phải chuẩn bị các câu hỏi và phương án trả lời hay nhất. Các câu hỏi phải căn cứ
vào đối tượng học sinh. Nội dung câu hỏi bám sát vào bài học và khơi dậy được
cách trả lời. Câu hỏi khơng q khó cũng khơng dễ dãi nhàm chán. Câu hỏi có
nhiều mức độ khác nhau. Có câu hỏi phát hiện nhận thức dành cho học sinh yếu
và trung bình. Câu hỏi yêu cầu học sinh hiểu biết vấn đề đặt ra trong bài học, biết
lí giải và phân tích chứng minh. Có câu hỏi u cầu học sinh biết liên hệ để mở
rộng kiến thức. Câu hỏi yêu cầu người học biết thực hành trong cuộc sống.
Những câu hỏi này dành cho học sinh khá giỏi. Thầy đặt câu hỏi sao cho học
sinh say mê tìm tòi cách trả lời. Các em phải động não.

13


Trong q trình hỏi- đáp, cơ tổng hợp, bổ sung và rút ra kết luận. (cô yêu cầu học
sinh ghi theo khơng đọc cho trị chép). Nội dung kết luận đều được cơ trị nhất trí cao
trong q trình hỏi- đáp.
* Đọc diễn cảm: là kĩ năng hết sức coi trọng trong tiết đọc- hiểu. Cô phải là người
đọc đúng, đọc hay. Sao cho luyện đọc là công việc thường xun của trị. Học sinh
khơng chỉ đọc trong giờ học mà đọc ở mọi nơi có điều kiện. Thầy cơ phải là người
kích thích cho việc đọc diễn cảm thành phong trào trong tập thể học sinh. Đọc diễn
cảm là yếu tố lơi cuốn người học phải tìm đến tác phẩm, hiểu biết, liên hệ và dẫn

đến thực hành tốt khi hỏi về tác phẩm đó. Lâu nay việc đọc bị coi nhẹ. Học sinh đã
không thiết tha mấy với môn Ngữ văn. Việc đọc trở thành xa vời, thậm chí các em
khơng cả soạn bài trước khi lên lớp. Thơng qua kĩ năng đọc biết học sinh có chuẩn
bị bài hay không. Nhưng vấn đề đặt ra đọc như thế nào cho hay và có sức lơi cuốn.
- Đọc lướt qua một lượt để nhận ra cảm xúc chủ yếu của thơ, vấn đề cơ bản đặt ra
trong bài văn chính luận, chủ đề và đặc điểm của nhân vật trong những áng văn xuôi,
trong các vở kịch
- Để diễn tả cảm xúc chủ đạo của bài thơ, tác giả sử dụng những biện pháp nghệ thuật
nào: âm thanh, giọng điệu, kết cấu, tu từ…
- Văn bản chính luận dùng cách lập luận nào: khẳng định hay phủ định, bi ai thống
thiết hay giầu tính chiến đấu mạnh mẽ
- Đặc điểm nhân vật, diễn tả tâm lí hay đối thoại trực tiếp
14


Thầy, cô giáo hướng dẫn học sinh căn cứ vào những yêu cầu trên đây để chọn âm
thanh, giọng điệu đọc cho phù hợp. Muốn vậy người đọc phải tìm hiểu văn bản. Quá
trình ấy đã giúp học sinh hiểu được rất nhiều về tác phẩm.
 Khả năng truyền đạt lưu lốt của người thầy: cũng rất quan trọng vì nó thể
hiện sự tự tin của một người thầy khi đứng trước học sinh. Nó giúp học sinh lĩnh
hội và tiếp thu kiến thức 1 cách nhanh chóng, có hứng thú trong học tập hơn, học
sinh cũng học tập ở thầy cách nói, cách diễn đạt trong cuộc sống.
Tác phong, lối sống của giáo viên cũng rất quan trọng: đó là cách ăn nói, đi đứng,
điệu bộ, cử chỉ, hành động, trang phục… Khơng thể có những buổi lên lớp thành
cơng nếu giáo viên có lối sống khơng lành mạnh, tác phong không chuẩn mực. Tác
phong làm việc của người thầy cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tác phong học, thậm chí
tác phong sống của trị.


Trong mỗi giờ học tơi ln cố gắng tạo khơng khí: Nghiêm túc mà thân thiện.

Sự nghiêm túc xác định cho học sinh ý thức, tư thế đúng mực trong quá trình tiếp
nhận tri thức. Sự thân thiện đem đễn cảm giác gần gũi, vui tươi, khơng khơ cứng
căng thẳng. Từ đó, việc học của các em cũng sẽ hiệu quả hơn

 Chủ động nắm bắt tâm tư, tình cảm, hồn cảnh ra đình của học sinh: Là
giáo viên tiếp xúc trong mỗi tiết dạy tôi luôn quan sát tư thế, hiểu rõ đặt điểm
từng học sinh ( lớp 12C2 có HS Trần Thị Hải Yến mắc bệnh trầm cảm, HS
Nguyễn Hoàng Tân; Trần Văn Thân, lớp 12C5 HS Nguyễn Thị Nga, Lê Văn
15


Huy, Nguyễn Văn Khoa) khả năng tiếp thu bài rất chậm. Chúng ta hãy trở thành
người bạn lớn của các em. Trở thành “những người truyền lửa”, tận tâm chỉ bảo
cho các em bằng những cách: Đó là sự động viên khuyến khích với những học
sinh trung bình,yếu khuyến khích các em biết làm đúng những nội dung cơ bản,
với học sinh Khá –Giỏi khơng chỉ làm đúng mà cị phải tìm tịi, sáng tạo. Đó cịn
là gieo đam mê, ước mơ qua những bài học cuộc sống. Từ đó, học sinh thấy được
q trình học tập của mình khơng chỉ là tiếp nhận tri thức, ko phải chỉ là thi cử,
mà còn là cuộc sống, là ước mơ, là đam mê, là tương lai của chính bản thân
mình.

Hình ảnh giờ Văn lớp 12C trường THPT Nông Cống 4
16


 Tổ chức các hoạt động ngoại khóa:
Để giúp học sinh phát triển toàn diện theo hướng chân- thiện- mĩ, tác động mạnh
mẽ đến tư tưởng, tình cảm, thái độ, đặc biệt là hành động, điều đương nhiên là tự
nguyện, nhằm xây dựng một môi trường học tập văn minh, mô phạm, tôi thường tổ
chức cho học sinh các tiết học ngoại khóa. Nhằm bổ trợ kiến thức, vui nhộn, nhẹ

nhàng, thoải mái, bổ sung các kỹ năng và kinh nghiệm sống, giúp các em u thích
mơn học hơn trở thành những con người toàn diện.
 Dạy học sinh kỹ năng làm bài: Trong quá trình giảng dạy kiến thức, tôi rất chú
trọng đến kĩ năng làm bài cho học sinh. Tơi ln nói với học sinh: Có kĩ năng
làm bài khơng khác gì mình đã xác định được đường đi từ điểm xuất phát tới
đích đúng đắn nhất, hiệu quả nhất. Khi có kĩ năng học sinh trước những u cầu
cụ thể biết mình phải làm gì. Tơi u cầu nghiêm khắc học sinh phải thực hiện
điều này. Vì thế, đứng trước những đề bài cụ thể học sinh biết phải làm như thế
nào. Học sinh khơng cịn sợ viết văn, sợ làm văn, bác bỏ quan điểm môn văn có
thể “bịa” được. Những kĩ năng làm bài đó sẽ được tôi thường xuyên bắt học sinh
áp dụng trong suốt quá trình làm bài trong các bài kiểm tra thường xuyên, Kiểm
tra định kì

17


Hinh ảnh học sinh lớp 12C5 trường THPT Nông Cống 4 luyện đề


Nghiêm túc hơn khi chấm bài và sửa bài cho học sinh: Khi chấm GV phải
ghi rõ những lỗi sai trong bài làm và cách sửa cho các em thấy được hết những
hạn chế của mình mà rút kinh nghiệm cho bản thân, khi trả bài GV chọ những
bài đạt điểm cao đọc trước lớp để các bạn khác học tập và cùng phấn đấu.
Khuyến khích tinh thần tự học của các em như chỉ cho các em đọc tham khảo
những bài viết có liên quan đến bài học



Một biện pháp cần thiết và quan trọng là phát phiếu thu nhận ý kiến
thường xuyên đến học sinh. Các em có quyền tự do phát biểu, nhận xét về

khơng khí học tập, phương pháp dạy học, thái độ của giáo viên với học sinh,…
trên phiếu có thể gợi ý cho học sinh đưa ra phương pháp nào là tốt nhất cho các
em tiếp thu bài nhanh nhất, đạt kết quả cao nhất, làm thế nào để học sinh có cảm
18


giác

thoải

mái

nhất,

vui

nhất

khi

đến

giờ

văn.

Đó là những giải pháp với đối tượng học sinh chỉ thi mơn văn để xét tốt
nghiệp. Cịn đối với những em sử dụng môn Văn để xét tuyển vào các trường đại
học thì đương nhiên các em đã yêu quý và chú tâm tới môn học này rồi. Giáo
viên dạy sâu hơn về kiến thức rèn cho các em kỹ năng diễn đạt thông qua các đề

luyện và chấm chữa bài.
Những kĩ năng trình bày trên đây địi hỏi người thầy hết sức linh hoạt, nhạy bén.
Thầy, cô giáo phải căn cứ vào từng loại bài, từng đối tượng học sinh để áp dụng sao
cho đạt hiệu quả giờ dạy khơng nên máy móc và tránh hình thức.
II.3.2 Vai trò của học sinh :
Trên lớp trong mỗi tết học phải có dụng cụ học tập, chú ý nghe thầy cô giảng, ghi
chép bài đầy đủ, tư duy trước những câu hỏi của giáo viên, tham gia thảo luận, trả lời
phát biểu bài, nắm được nội dụng bài học.
Sau mỗi bài học HS vẽ được sơ đồ tư duy. Hoạt động này khơng chỉ minh họa mà
cịn là nguồn tri thức, là cách chứng minh bằng quy nạp. Phát huy khả năng tái hiện
kiến thức văn học thông qua năng khiếu vẽ của các em. Tôi thiết nghĩ sự kết hợp
phương pháp truyền thống và hiện đại sẽ phát huy lịng ham học, sự say mê hứng thú,
tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.

19


Hình ảnh giờ học Văn lớp 12C5 trường THPT Nơng Cống 4
Ở nhà các em phải hoàn thành bài tập, học bài cũ nhớ được những kiến thức cơ bản
của mỗi tiết học về tác giả ( nhớ được đặc điểm từng nhà thơ nhà văn, nhận định về
tác giả), tác phẩm (nhớ hoàn cảnh sáng tác, nội dung, nghệ thuật và nhận định về tác
phẩm), soạn bài mới.
Sử dụng hiệu quả thời gian học ôn trên lớp, cố nhớ bài thầy cơ ơn tập; Hỏi thầy cơ
ngay những gì chưa hiểu, chưa rõ, dù là nghĩa một từ, một câu.
Khi làm bài kiểm tra cần đọc kĩ đề, viết đúng từ ngữ, trình bày rõ ràng, đúng chính
tả, dấu câu, vận dụng tốt những kiến thức đã học, phân bố thời gian hợp lý.
Đề thi TNPT cần nắm vững cấu trúc và mức độ của đề thi, Môn Ngữ văn là mơn
thi tự luận. Cấu trúc đề có 2 phần, thời gian 120 phút.
* Phần I. đọc hiểu ( 3 điểm).


20


Với 3 mức độ: Nhận biết, thông hiểu và vận dụng thấp, các thí sinh học Tự nhiên
hay Xã hội đều có thể đạt từ 2 đến 2,75 điểm phần đọc hiểu. Các em không thể học
ôn tất cả từng bài nhưng cần quan tâm trọng điểm sau:
-

Nhận biết 6 phong cách ngôn ngữ văn bản.

-

Xác định 5 phương thức biểu đạt

-

Nhận biết thể thơ bằng cách đếm số chữ của câu.

-

Nhận biết các phép tu từ từ vựng (so sánh, ẩn dụ, hốn dụ, lặp từ, nói q, nói

giảm, chơi chữ…); tu từ cú pháp (lặp cấu trúc câu, giống kiểu câu trước; đảo ngữ; câu
hỏi tu từ; liệt kê.). Các biện pháp tu từ có tác dụng làm rõ đối tượng nói đến, tăng
thêm gợi cảm, gợi hình ảnh, âm thanh, màu sắc, làm đối tượng hấp dẫn, sâu sắc.
- Văn bản trong đề chưa gặp bao giờ nên các trò cần đọc nhiều lần để hiểu từng câu,
từng từ, hiểu nghĩa và biểu tượng qua cách trình bày văn bản, liên kết câu, cách ngắt
dòng...Phần đọc hiểu chiếm 3 điểm nên HS cố giắng không để mất điểm phần này.
 Phần II. Làm văn:



Câu 1: NLXH . Viết đoạn văn 200 chữ cần:

-

Viết đúng trọng tâm yêu cầu của đề. Nên viết theo đoạn diễn dịch. Câu chủ đề
phải viết đúng vào yêu cầu của đề bài. Phải có từ khóa của đề trong câu mở
đoạn. Các câu sau giải thích vấn đề, bàn luận, dẫn chứng, bác bỏ, kết lại đoạn
văn bằng 2-3 câu bày tỏ cái tơi của mình hoặc rút ra bài học. phải tuyệt đối đúng
21


– trúng vào nội dung. Đoạn văn yêu cầu khoảng 200 chữ tương đương với
khoảng 20 dịng thì có thể ước lượng để viết.
 Câu 2: NLVH. Cảm thụ văn học để đạt điểm cao các em cần:
- Xác định đầy đủ, chính xác yêu cầu của đề thi trong khoảng thời gian nhanh
nhất; Vận dụng chính xác linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài các kỹ năng và
các thao tác nghị luận, bố cục rõ ràng, dầy đủ ý, đánh giá về nội dụng nghệ thuật
và bài làm sáng tạo.
Cũng cần lưu ý: Trong quá trình làm bài cần đọc kỷ đề, vạch dàn ý, phân bố thời
gian hợp lý, không được bỏ bât cứ câu nào, biết chắt chiu từng chút điểm nhỏ. Bởi
bài văn đạt điểm cao bao giờ cũng được làm nên từ những điểm số nhỏ trong từng ý
từng câu.
II.3.3. Vai trò của sự hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh học sinh
Đối với những em học sinh lười học trong lớp GV phải thường xuyên liên lạc với
phụ huynh để cùng phụ huynh động viên, nhắc nhở các em trong việc học và hồn
thành bài tập ớ nhà.
Mặt khác, mơn Văn đã trở thành 3 môn thi bắt buộc trong kỳ thi TNPT. Song sự
hợp tác của học sinh và phụ huynh với môn học vẫn chưa cao. Thực tế hiện nay các
ngành khoa học xã hội đang bị “ rớt điểm” nghiêm trọng trong nấc thanh ngành nghề

của xã hội, chính vì vậy học sinh thiếu tâm huyết với môn học. Lúc này, giáo viên
phải bằng tấm lòng và sự hiểu biết của mình để giảng giải, thuyết phục, khơi gợi lên
22


cho học sinh và phụ huynh niềm tin, định hướng tương lai. Việc làm này sẽ tạo lập
được mối quan hệ thầy trị gắn bó, thầy cơ đã trở thành chỗ dựa tinh thần tin cậy cho
học sinh. Ở lĩnh vực này, giáo viên dạy Văn hơm nay cịn phải là những nhà hướng
nghiệp có kinh nghiệm cho học sinh về tương lai.
II.3.4. Vai trị của cơng nghệ thơng tin
Với cách thức ra đề như hiện nay, đòi hỏi kiến thức ở bề rộng chứ khơng phải
chiều sâu thì việc sử dụng các phương tiện trực quan là điều cần thiết bởi nó hướng
đến hoạt động dạy học - tích cực, giảm tải các hoạt động của thầy trên lớp, lấy học
sinh là trung tâm, học sinh dễ dàng chiếm lĩnh kiến thức, hơn nữa nó cịn có tác dụng
lơi cuốn, tạo hứng thú trong các tiết dạy chủ động và sáng tạo hơn.
Trong quá trình dạy bài “Người lái đị Sơng Đà” của Nguyễn Tn GV chiếu hình
ảnh HS quan sát

Hình 1: Cảnh đá bờ sơng

Hinh 2: Những cái hút nước
23


Hình 3: Sơng Đà tn dài …

Hình 4: Sơng Đà nhìn từ trên cao

Kết luận: Dịng sơng Đà có hai đặc điểm: Hung bạo, dữ dội và trữ tình, thơ mộng.
II.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

Sau một năm nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng đại trà môn Ngữ văn cho học sinh khối 12 trường THPT Nông Cống 4”, tôi đã
bước đầu thu được những kết quả đáng ghi nhận, cụ thể như sau:
- Học sinh thấy hứng thú hơn trong mỗi tiết học và háo hức chờ đợi đến tiết học sau,
các băn khoăn của học sinh trong các tình huống liên quan đến bài học được đưa ra
thảo luận và giải đáp kịp thời. Cảm nhận bài học nhanh hơn.
-Nhiều học sinh được tham gia vào phần trình bày kết quả, nhất là nhóm học sinh có
mức độ nhận thức yếu hơn đư ợc khuyến khích và có sự tiến bộ rõ rệt
Kết quả làm bài khảo sát lần 3 sau khi áp dụng:
Lớp

Sĩ số

Điểm 9- 10

Điểm 7-8
24

Điểm 5- 6

Điểm dưới 5


SL

%

SL

%


SL

%

SL

%

12C2

42

0

0

30

65%

12

35%

0

0

11C5


44

10

19%

32

75%

2

6%

0

0

Đây là những kinh nghiệm mà trong quá trình dạy học tôi đã rút ra và vận dụng
vào việc dạy trực tiếp cho học sinh THPT của mình thấy có hiệu quả, chất lượng học
và bài làm của học sinh tăng lên rõ rệt. Vì vậy, tơi xin chia sẻ với các thầy cơ mong
rằng sẽ góp được phần nào vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn và thi
TNTH theo tinh thần đổi mới giáo dục.
III. Kết luận, kiến nghị.
III.1. Kết luận.
Các giải pháp mà chúng tôi đưa ra tuy chưa nhiều nhưng khá thiết thực. Song để
đạt được hiệu quả như mong muốn cần có một giải pháp đồng bộ từ chương trình
Sách giáo khoa của Bộ đến sự chỉ đạo của lãnh đạo Sở và Ban giám hiệu nhà trường
và tất nhiên không thể thiếu vai trò của người thầy, ý thức học tập của học sinh và sự

ủng hộ đồng tình của tồn xã hội. Có thể, những ý kiến của tơi đưa ra chưa thực sự
đầy đủ, bởi có rất nhiều cách, nhiều con đường khác nhau để nâng cao chất lượng
đại trà của môn Văn, nhưng tôi tin vào con đường mà tôi đã và đang đi và cũng hi
vọng gợi mở cho các đồng nghiệp nhiều suy nghĩ.
25


×