Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN vận dụng các hoạt động trải nghiệm nhằm nâng cao hứng thú và hiệu quả học tập môn ngữ văn 12 cho học sinh tại trường THPT quan hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.64 KB, 13 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Nhà triết học Hi Lạp Xôcrat (470 – 399 TCN) nêu quan điểm: “Người ta phải
học bằng cách làm một việc gì đó; Với những điều bạn nghĩ là mình biết, bạn sẽ
thấy khơng chắc chắn cho đến khi làm nó”. Đây được coi là một trong những
nguồn gốc tư tưởng đầu tiên của giáo dục trải nghiệm.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo
dục và đào tạo đã nêu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức,
kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học
chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã
hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học”[3].
Luật Giáo dục Việt Nam, điều 28.2 đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phổ thơng
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[2]. Vì vậy,
dạy học trải nghiệm là hết sức cần thiết giúp người học tích cực, chủ động trong
việc lĩnh hội kiến thức và hơn thế nữa còn mang kiến thức ra phục vụ đời sống thực
tiễn.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được áp dụng khá phong phú trong môn Ngữ
văn. Việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường nói chung,
trong mơn Ngữ văn nói riêng đã tạo ra những phương pháp, hình thức dạy học tích
cực. Dạy học Ngữ văn qua trải nghiệm sáng tạo không chỉ giúp học sinh lĩnh hội tri
thức mà cịn phát triển kĩ năng mềm, khơng chỉ khơi dậy những xúc cảm cá nhân
học sinh trong khám phá tác phẩm văn học, mà cịn hình thành và rèn luyện ở các
em những phẩm chất, năng lực cần thiết, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hiện đại.
Khi học là một trải nghiệm sống thì kiến thức, kĩ năng, cảm xúc có được trong q
trình học sẽ trở thành những ấn tượng không thể nào quên đối với mỗi học sinh.


Bằng những câu hỏi khơi dậy kinh nghiệm, đặc biệt là quá trình thực hiện những
dự án học tập tích hợp kiến thức, giáo viên cho học sinh có cơ hội được sống trong
những tình huống thực tế hoặc tình huống giả định, khiến các em phải huy động kĩ
năng tổng hợp để giải quyết những yêu cầu từ thực tiễn đặt ra.Vì vậy, phẩm chất và
năng lực của các em được bộc lộ và phát triển.
Nhận thức được điều đó, năm học vừa qua tơi đã mạnh dạn tổ chức các hoạt
động trải nghiệm cho học sinh khối 12, xin được chia sẻ với quý đồng nghiệp qua
đề tài “Vận dụng các hoạt động trải nghiệm nhằm nâng cao hứng thú và hiệu quả
học tập môn Ngữ văn 12 cho học sinh tại trường THPT Quan Hóa”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1


Góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo yêu cầu của chương trình phổ
thơng mới, nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú với môn học,
khắc sâu kiến thức, phát huy tính tự giác, độc lập sáng tạo, hình thành và phát triển
năng lực, phẩm chất người học trong nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 12 trường THPT Quan Hóa.
- Nội dung bài: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí; Nghị luận về một hiện tượng đời
sống; “Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tuân; “Ai đã đặt tên cho dòng sơng” của
Hồng Phủ Ngọc Tường; “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi; “Vợ Nhặt” của Kim
Lân; “Chiếc thuyền ngồi xa” của Nguyễn Minh Châu; “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” của Lưu Quang Vũ.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Tiến hành thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nghiên cứu tài liệu và các cơng trình nghiên
cứu đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng tổ chức hoạt động trải
nghiệm, sáng tạo; nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức các hoạt động trải nghiệm.
- Phương pháp chuyên gia: lấy ý kiến đóng góp của đồng nghiệp và các nhà quản lí

giáo dục.
- Phương pháp thực tập sư phạm: thực nghiệm sư phạm ở trường THPT Quan Hóa,
tiến hành theo quy trình của đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu
quả của đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết
quả thu được.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1.1 Khái niệm của hoạt động trải nghiệm
Theo Từ điển tiếng Việt: “Trải nghiệm là trải qua, kinh qua”. Quan niệm này
có phần đồng nhất với quan điểm triết học khi xem trải nghiệm chính là kết quả của
sự tương tác giữa con người với thế giới khách quan. Sự tương tác này bao gồm cả
hình thức và kết quả của các hoạt động thực tiễn trong xã hội, bao gồm cả kĩ thuật
và kĩ năng, các nguyên tắc hoạt động và phát triển thế giới khách quan.
Dưới góc nhìn sư phạm, trải nghiệm được hiểu chính là sự thực hành trong
quá trình đào tạo và giáo dục; là một trong những phương pháp đào tạo nhằm giúp
người học không những có được năng lực thực hiện mà cịn có những trải nghiệm
về cảm xúc, ý chí và nhiều trạng thái tâm lí khác. Nói như vậy, học qua trải nghiệm
sẽ gắn liền với kinh nghiệm và cảm xúc cá nhân.
Theo chương trình giáo dục phổ thơng: Hoạt động trải nghiệm và hoạt động
trải nghiệm, hướng nghiệp là hoạt động giáo dục do nhà giáo dục định hướng, thiết
kế và hướng dẫn thực hiện, tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế, thể nghiệm các
cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có và huy động tổng hợp kiến
thức, kĩ năng của các môn học để thực hiện những nhiệm vụ được giao hoặc giải
quyết những vấn đề của thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội phù hợp với
2


lứa tuổi; thơng qua đó, chuyển hóa những kinh nghiệm đã trải qua thành trí thức
mới, hiểu biết mới, kĩ năng mới góp phần phát huy tiềm năng sáng tạo và khả năng

thích ứng với cuộc sống, mơi trường và nghề nghiệp tương lai.
Ở cấp THPT, hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp giúp học sinh phát triển
các phẩm chất, năng lực đã được hình thành ở cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở.
Kết thúc giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, học sinh có khả năng thích
ứng với các điều kiện sống, học tập và làm việc khác nhau; thích ứng với những
thay đổi của xã hội hiện đại; có khả năng tổ chức cuộc sống, cơng việc và quản lí
bản thân; có khả năng phát triển hứng thú nghề nghiệp và ra quyết định lựa chọn
được nghề nghiệp tương lai; xây dựng được kế hoạch rèn luyện đáp ứng yêu cầu
nghề nghiệp và trở thành người cơng dân có ích[1].
Hoạt động trải nghiệm trong mơn Ngữ văn ở trường phổ thông lấy học sinh
(HS) là chủ thể của hoạt động, là hạt nhân với vai trò khám phá sáng tạo. Ở đây, HS
không thừa hưởng một cách thụ động, mà chủ động tham gia vào quá trình tìm
kiếm con đường, lựa chọn những phương pháp, biện pháp để đạt đến kết quả cao
nhất nhằm thỏa mãn mục tiêu đặt ra. Ở mức độ thấp, tính tích cực của người học
thể hiện ở những nỗ lực cố gắng học hỏi cách giải quyết từng vấn đề, từng nhiệm
vụ học tập dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ của giáo viên; với sự cộng tác, giúp đỡ của
bạn bè. Ở mức độ cao hơn, người học chủ động, độc lập giải quyết các vấn đề đặt
ra, chủ động tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau cho cùng một vấn đề. Ở
mức độ lí tưởng, người học chủ động vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học để
sáng tạo ra cách giải quyết mới, độc lập và có hiệu quả hơn.
Từ thực tiễn hoạt động trải nghiệm trong mơn Ngữ văn ở trường phổ thơng
có thể thấy: hoạt động trải nghiệm là một hoạt động học tập bổ ích, có hiệu quả đối
với HS. Thơng qua hoạt động trải nghiệm, HS được phát huy vai trò chủ động, tích
cực và sáng tạo trong hoạt động học tập của mình. Bồi dưỡng và phát triển năng lực
đặc thù của môn học như năng lực đọc hiểu, năng lực thẩm mĩ, năng lực thưởng
thức, cảm thụ văn chương, năng lực đánh giá cái hay, cái đẹp của văn chương, năng
lực vận dụng…Từ đó có thể tham gia vào q trình giao tiếp văn học, giao tiếp đời
sống một cách có hiệu quả.
2.1.2. Tác dụng của hoạt động học tập trải nghiệm
- Giáo dục nhận thức: hoạt động trải nghiệm giúp HS củng cố, đào sâu, mở rộng

những tri thức đã học trên lớp, ngoài ra giúp HS vận dụng tri thức đã học vào giải
quyết những vấn đề thực tiễn đời sống đặt ra theo phương châm học đi đôi với
hành, lí thuyết gắn liền với thực tiễn.
- Rèn luyện kĩ năng: hoạt động trải nghiệm rèn luyện cho HS khả năng tự quản, kĩ
năng tổ chức, điều khiển, làm việc theo nhóm, ngồi ra cịn góp phần phát triển kĩ
năng giao tiếp, giải quyết vấn đề.
- Giáo dục tinh thần thái độ: hoạt động trải nghiệm tạo hứng thú học tập, khơi dậy
lịng ham hiểu biết, lơi cuốn HS tự giác tham gia nhiệt tình các hoạt động, phát huy
tính tích cực, nỗ lực của HS.
3


- Rèn luyện năng lực tư duy, hoạt động trải nghiệm có thể rèn luyện cho HS các
loại tư duy: tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy kinh nghiệm, tư duy phân tích,
tư duy tổng hợp, tư duy sáng tạo.
- Khi chủ động tham gia tích cực vào q trình học, học sinh được rèn luyện về tính
kỷ luật. Học sinh cũng có thể học các kỹ năng sống mà được sử dụng lặp đi lặp lại
qua các bài tập, hoạt động, từ đó tăng cường khả năng ứng dụng các kỹ năng đó
vào thực tế. Với phương pháp học thông qua trải nghiệm luyện được cho học sinh
cả về kiến thức và kĩ năng học tập, tìm tịi, phân tích và áp dụng thực tiễn. Nhờ vậy,
các em sẽ có được một kho tàng kiến thức vững chắc, trang bị cho bản thân kĩ năng
xã hội một cách toàn diện.
2.1.3. Đặc điểm cơ bản của hoạt động học tập trải nghiệm
Học tập trải nghiệm là hoạt động của chính bản thân người học. Thơng qua
những trải nghiệm giúp học sinh chủ động, sáng tạo trong học tập. Học sinh khơng
phải học thuộc lịng những kiến thức trong sách vở mà được rèn luyện óc quan sát,
cách miêu tả, phỏng vấn, cách thu thập tài liệu, thảo luận và xử lí thơng tin. Học tập
trải nghiệm có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Hoạt động học tập trải nghiệm mang tính xã hội – địa phương: Khi tham gia trải
nghiệm, học sinh sẽ được tiếp xúc, gặp gỡ, đối mặt với thiên nhiên, con người thực

tế ở địa phương.
- Tính linh hoạt về nội dung và hình thức: Học tập trải nghiệm không chỉ được tổ
chức trong trường mà cịn thơng qua các hoạt động bên ngồi trường với những
hình thức đa dạng, sáng tạo.
- Hoạt động trải nghiệm hướng đến các giá trị nhân văn: Để hoàn thành nhiệm vụ,
học sinh cần tương trợ, giúp đỡ nhau trong các hoạt động, mặt khác HS từ những
giá trị cao đẹp lĩnh hội qua tác phẩm sẽ biết mở lòng, chia sẻ và trân trọng những
điều tốt đẹp trong cuộc đời.
- Việc tổ chức hoạt động trải nghiệm có sự hướng dẫn của giáo viên (GV). Trên cơ
sở đó, HS sẽ u thích cơng việc, hoạt động tích cực, có hiệu quả và phát triển
được năng lực của mình.
- Số lượng HS tham gia khơng hạn chế, có thể là theo nhóm nhưng cũng có thể là
tập thể đơng người. Trong điều kiện cho phép có thể huy động HS tồn trường
tham gia, khơng phân biệt trình độ HS.
- Có kế hoạch cụ thể về mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, lịch
hoạt động cụ thể và thời gian thực hiện.
- Kết quả hoạt động trải nghiệm của HS không đánh giá bằng điểm số mà đánh giá
thơng qua tính tích cực, sáng tạo của HS và sản phẩm của q trình hoạt động.
Ngồi ra, kết quả của hoạt động được đánh giá một cách cơng khai thơng qua cả
GV và HS.
2.1.4. Vai trị của giáo viên trong tổ chức học tập trải nghiệm

4


- Ln theo dõi q trình HS thực hiện các nhiệm vụ để có thể giúp đỡ kịp thời, đặc
biệt là những tình huống phát sinh ngồi dự kiến, kịp thời điều chỉnh những nội
dung diễn ra không đúng kế hoạch.
- Đối với những hoạt động diễn ra ở quy mơ lớn như khối lớp, trường thì GV đóng
vai trị là người tổ chức, điều khiển các hoạt động. Đồng thời GV cũng phải là

người trọng tài để tổ chức cho HS có thể tham gia tranh luận hay bảo vệ ý kiến của
mình về những nội dung hoạt động.
- Đối với những hoạt động diễn ra ở quy mô nhỏ như trong tổ, nhóm, một lớp HS
thì cần để cho HS hoàn toàn tự chủ cả việc tổ chức và thực hiện nhiệm vụ được
giao, GV chỉ có vai trị hướng dẫn khi HS gặp khó khăn hoặc việc khơng xử lí
được.
- Sau mỗi đợt tổ chức hoạt động trải nghiệm thì GV phải đánh giá, rút kinh nghiệm
để điều chỉnh nội dung, hình thức và phương pháp cho hợp lí để tổ chức những đợt
trải nghiệm về sau đạt kết quả cao hơn.
2.1.5. Kỹ thuật dạy - học qua trải nghiệm
Quy trình dạy - học qua trải nghiệm được thể hiện bằng “Vịng tuần hồn” theo
mơ hình 5 bước khép kín như dưới đây: GV điều hành lớp; HS thảo luận nhóm, làm
bài tập, đóng vai, trị chơi mô phỏng...; HS thông báo kết quả, cảm tưởng, phản ứng
và phát hiện ra cách giải quyết vấn đề; HS và GV cùng nhau phân tích theo hướng:
ai, cái gì, ở đâu, khi nào, tại sao..; GV khái quát hóa kiến thức và đúc kết bài học và
những hướng vận dụng kiến thức vào thực tế.
2.1.6. Các hình thức thường vận dụng trong dạy học trải nghiệm
- Thảo luận nhóm: Nhiệm vụ cụ thể của GV là giúp đỡ, dẫn dắt HS, làm nảy sinh tri
thức ở HS. Trong một bài học, GV chỉ nêu ra các tình huống, học sinh được đặt
trong các tình huống ấy sẽ cảm thấy có vấn đề cần giải quyết. Các em phải tự tìm ra
các phương pháp có thể hy vọng giải quyết vấn đề, và cuối cùng phải tìm ra một
phương pháp tối ưu. Sau đó HS thảo luận, trao đổi với nhau và đi đến các kết luận
phù hợp.
- Nghiên cứu tình huống: Có nhiều cách dạy học bằng tình huống: có thể dùng các
bài đọc (sách, báo) làm các ví dụ minh họa và mở rộng vấn đề cho từng đề mục lý
thuyết; dùng vài tình huống lớn để giảng dạy.
- Đóng vai, trị chơi: GV hướng dẫn học sinh đóng vai hoặc tham gia một số trị
chơi để giải quyết một số tình huống thực tế.
- Học tập từ thực tế: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát thực tế, ghi chép các
vấn đề có liên quan đến nội dung học tập, sau đó trao đổi, chia sẻ với bạn và giáo

viên để đi đến kết luận.
Tất nhiên tùy tính chất của mơn học và quy mơ của lớp học mà chúng ta có
thể sử dụng các kỹ thuật nêu trên một cách linh hoạt và hiệu quả.
2.1.7. Những điều kiện cần thiết để tổ chức dạy - học theo hướng trải nghiệm
5


- Thứ nhất, cần có đủ điều kiện và phương tiện giảng dạy tiên tiến, trang thiết bị
hiện đại như phịng thí nghiệm, phương tiện nghe nhìn, học cụ, thư viện với đầy đủ
tài liệu.
- Thứ hai, qui mô lớp học phải hợp lý, không quá đông học sinh, đảm bảo để giáo
viên có thể quán xuyến, theo dõi, hỗ trợ học sinh một cách tốt nhất.
- Thứ ba, cần có sự thay đổi của giáo viên, bản thân mỗi giáo viên phải thường
xuyên học tập, nâng cao trình độ, có vốn hiểu biết và kỹ năng giải quyết các thắc
mắc của học sinh nảy sinh trong quá trình học tập thực tế.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Trường THPT Quan Hóa nói riêng và huyện Quan Hóa nói chung là “vùng
trũng” về giáo dục và đào tạo của tỉnh nhà. Thuộc địa bàn vùng cao của tỉnh, là một
trong số hơn 80 huyện nghèo của cả nước, huyện Quan Hóa có vơ vàn khó khăn
trong phát triển kinh tế và giáo dục. HS Trường THPT Quan Hóa hơn 90% là con
em các dân tộc thiểu số, phải đi học xa nhà, ở trọ, khơng có gia đình quản lí, lực
học phần lớn là yếu kém, khơng nhiều em có mục tiêu phấn đấu trong học tập nên
việc học nói chung và học tập mơn Ngữ văn nói riêng chưa được học sinh quan
tâm, coi trọng. Với HS lớp 12, các em sẽ là những lao động chủ lực của gia đình và
địa phương sau khi tốt nghiệp THPT Quốc gia. Song hằng năm, tình trạng học sinh
các khối lớp bỏ học giữa chừng luôn xảy ra, tỉ lệ đậu tốt nghiệp và đậu vào các
trường Đại học, Cao đẳng của nhà trường luôn ở mức thấp so với trong tỉnh và cả
nước.
Vấn đề này do nhiều nguyên nhân:
Về xã hội: với sự phát triển của khoa học, công nghệ, xã hội, HS ngày càng

có nhiều kênh giải trí nên việc đọc sách báo, tác phẩm văn học khơng cịn là kênh
thơng tin, giải trí hấp dẫn nhất với HS. Vì vậy đam mê, tình yêu với văn học và các
trang văn của HS giảm sút.
Về học sinh: hầu hết học sinh học tại trường THPT Quan Hóa đều có lực học
yếu, kém, số học sinh học lực trung bình và trung bình khá rất ít. Hơn nữa, học sinh
lười học, ham chơi, đi học xa nhà, phải ở trọ nên dễ bị cám dỗ bởi những thú vui
khơng bổ ích. Các em HS cũng khơng có phương pháp học tập đúng đắn, hiệu quả
và khơng có mục đích, động lực trong học tập. Mặt khác, đa phần HS là người dân
tộc thiểu số, hồn cảnh sống khó khăn, ít được tiếp xúc với phương tiện dạy học
hiện đại nên ngôn ngữ tiếng Việt còn nghèo, nhiều khi trong lớp các em cịn giao
tiếp bằng ngơn ngữ riêng của dân tộc mình, kĩ năng đọc, viết, diễn đạt câu, phát âm
tiếng phổ thơng nhiều khi chưa chính xác. Chưa hết, các em tư duy khá chậm, khi
gặp tình huống phức tạp thường bối rối khơng nhanh chóng tìm ra phương án, khả
năng tư duy trừu tượng, tư duy logic biện chứng chưa cao. Các em quen tư duy cụ
thể, bắt chước, dập khn nên gặp bài khó, phức tạp khơng tích cực suy nghĩ mà
chờ sự hướng dẫn của giáo viên. Khả năng vận dụng, liên hệ thực tế còn hạn chế,
khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh cịn yếu.
6


Về phía giáo viên: giáo viên đã thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học
bộ môn Ngữ văn theo hướng phát huy tính tích cực của HS như sử dụng phương
pháp vấn đáp tìm tịi, sử dụng phương tiện trực quan, đóng vai, trị chơi, thảo luận
nhóm… Tuy nhiên, việc giảng dạy mới chỉ dừng lại ở các tiết học chính khóa với
các bài giảng theo phân phối chương trình. Tổ chức học tập trải nghiệm để học sinh
vận dụng kiến thức bộ môn phục vụ đời sống thực tiễn hầu như chưa được thực
hiện. Việc tổ chức cho học sinh học tập trải nghiệm đòi hỏi phải đầu tư thời gian, trí
tuệ, tâm huyết, đồng thời giáo viên phải có năng lực tổ chức, điều khiển q trình
dạy học, năng lực công nghệ thông tin, đây là một trở ngại đối với giáo viên chưa
tận tâm, chưa nhiệt huyết, chưa trăn trở với nghề nên nhiều giáo viên (ngay cả bản

thân) nhiều lúc còn phạm vào cách dạy đọc chép, dạy nhồi nhét, thiếu sự hợp tác
giữa thầy và trò, trò với trò, khiến HS học thụ động, thiếu sáng tạo, thiếu hứng thú
và đam mê.
Tiến hành khảo sát bằng phiếu học tập việc học môn Ngữ văn tơi thu được
kết quả như sau:
STT Lớp Rất thích học
Thích học
Bình
Khơng thích Ghi chú
thường
Số lượng %
SL
%
SL
%
SL
%
(SL)
1
12a1
01
2.6
06
15.8 17 44.7 14
36.9
2
12a4
0
0
0

0
14 46.7 16
53.3
3
12a5
0
0
0
0
20 60.6 13
39.4
4
12a6
0
0
0
0
15 48.4 16
51.6
Thực trạng trên bức thiết đòi hỏi phải tìm ra những cách thức dạy học khác,
mới mẻ hơn, nhằm tăng hứng thú, đam mê, hiệu quả trong học tập môn Ngữ văn
cho học sinh khối 12.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
Khi tiến hành dạy học Ngữ văn cho HS khối 12 tôi đã áp dụng các hoạt động
trải nghiệm sau:
Một là, hình thức tiết học ngồi trời
+ Khái niệm, đặc điểm
Hình thức tổ chức dạy học (HTTC DH) ngoài trời là HTTC DH trong đó
giáo viên tổ chức, chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh ở địa điểm ngồi khơng
gian lớp học nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh nắm vững, mở rộng kiến

thức thông qua các hoạt động và các mối quan hệ đa dạng từ môi trường học tập.
HTTC DH ngồi trời có tổ chức, có kế hoạch, có phương hướng xác định,
thực hiện theo chương trình kế hoạch dạy học, được học sinh tiến hành dưới sự chỉ
đạo, hướng dẫn của GV nhằm nâng cao hiệu quả học tập cho HS.
Đây là HTTC DH linh hoạt, cho phép kiến tạo mơi trường học tập đa dạng,
kích thích được hứng thú học tập của học sinh, giúp cho việc dạy học trong nhà

7


trường gắn liền với thực tiễn, giúp học sinh có điều kiện trải nghiệm và chia sẻ có
hiệu quả.
Do khơng gian học tập rộng rãi, HTTC DH ngoài trời phát huy hiệu quả của
nhiều phương pháp học tập như: hoạt động nhóm, hình thức trị chơi… Học sinh
cảm thấy hứng thú, không bị nhàm chán, mệt mỏi, dễ tiếp thu kiến thức, có cơ hội
để bộc lộ và phát huy cá tính, năng lực bản thân, có điều kiện để tìm hiểu mơi
trường xung quanh.
+ Phạm vi vận dụng
HTTC DH ngoài trời được vận dụng trong bài dạy: Nghị luận về một hiện
tượng đời sống.
+ Tổ chức thực hiện: tổ chức một tiết học bên ngồi khn viên nhà trường.
Bước 1: Xác định kiến thức
Đối với các tiết học ngoài nhà trường thì việc tổ chức khá phức tạp do phải
di chuyển học sinh, bảo đảm an toàn cho các em nên cần được sự nhất trí và đồng
thuận của BGH nhà trường, các bậc cha mẹ học sinh. Vì vậy, khi tổ chức, giáo viên
giảng dạy cần xác định được các nội dung kiến thức phù hợp, chọn được khơng
gian thích hợp, đặc biệt là các khu vực trong địa bàn huyện, vừa giúp các em có tiết
học thú vị, phát huy sự chủ động, sáng tạo, vừa giúp các em có điều kiện tìm hiểu,
khám phá mơi trường xung quanh mình.
Trong chương trình Ngữ văn 12, khi dạy bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo

lí gắn liền với các đạo lí “uống nước nhớ nguồn – đền ơn đáp nghĩa” GV tổ chức
cho HS đi quét dọn nghĩa trang liệt sĩ huyện vào cuối tuần, ngày 27/7 thăm và tặng
quà gia đình các thương binh nặng khu phố 4 – địa bàn nhà trường tọa lạc. Dạy bài
Nghị luận về một hiện tượng đời sống GV tổ chức cho các em đi xe đạp điện dọc
bờ sông Mã, đến những vùng nước quẩn trên sông để các em tìm hiểu tình trạng
chất lượng nước, vấn đề rác thải, xả thải ra dịng sơng từ đó có ý thức bảo vệ sơng
Mã nói riêng, bảo vệ mơi trường nói chung.
Bước 2: Lập kế hoạch:
Sau khi xác định bài học có thể tổ chức phù hợp các tiết học ngoài trời, GV
lập kết hoạch chi tiết, xin ý kiến của Ban giám hiệu Nhà trường và Cha mẹ HS.
Bước 3: Thực hiện (Phụ lục 1)
- Chuẩn bị của giáo viên và học sinh: Giáo viên và học sinh chuẩn bị các nội
dung và phương tiện dạy học cần thiết cho tiết học.
- Tiến trình giờ học: Di chuyển học sinh đến không gian diễn ra tiết học và
thực hiện giờ học.
- Bước 4: Đánh giá kết quả.
Hai là, đọc và cảm thụ tác phẩm văn học qua phương pháp vẽ tranh với
tên gọi “Tác phẩm văn học trong tôi”
+ Phạm vi vận dụng: vận dụng vào các bài dạy “Người lái đị sơng Đà” của
Nguyễn Tn, “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” của Hồng Phủ Ngọc Tường.
+ Tổ chức thực hiện: thực hiện vẽ tranh ngay trên lớp và thuyết trình về bức
tranh với lớp 12a1 vì đây là lớp có nhiều học sinh lực học tốt, có năng khiếu về hội
8


họa và văn học hơn các bạn cùng khối. Với các lớp còn lại yêu cầu các em vẽ tranh
ở nhà, trình bày trước lớp về bức tranh của bản thân (phụ lục 2).
+ Đánh giá: GV cần khích lệ những cảm nhận của HS về tác phẩm thông qua
bức tranh, thậm chí là những sáng tạo, cách cảm nhận mới song cũng cần góp ý nếu
HS vẽ tranh “đi quá xa” so với nội dung tác phẩm.

Ba là, dạy học Ngữ văn gắn với hoạt động trải nghiệm “Áng văn đến trang
đời”
Nhà phê bình văn học Hồi Thanh trong bài “Ý nghĩa của văn chương” (Ngữ
văn 7) đã từng khẳng định: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lịng thương
người và rộng ra thương cả mn vật, mn lồi…”. Vì vậy, qua những tiết học
khơng chỉ giúp các em hình thành và phát triển các kĩ năng, cung cấp cho các em
kiến thức mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em, bồi đắp những giá trị
nhân văn cao đẹp: biết đồng cảm, chia sẻ, biết yêu thương con người…
Trong chương trình Ngữ văn 12, HS được học những tác phẩm văn học thấm
đẫm tinh thần nhân văn như: Vợ chồng A Phủ (Tơ Hồi), Vợ nhặt (Kim Lân), Chiếc
thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12) và rất nhiều tác phẩm tiêu biểu
khác. Chính việc tìm hiểu, khám phá những tác phẩm văn học ấy sẽ giúp học sinh
biết nhìn nhận lại bản thân để biết sống có ý nghĩa hơn. Các em sẽ có dịp đồng
cảm, chia sẻ khơng chỉ trên những trang văn mà còn còn biết trắc ẩn giữa những
trang đời.
Sau khi thấm đẫm giá trị nhân văn cao đẹp từ các tác phẩm, HS lớp 12a1 đã
trao quà Tết trị giá 650.000đ cho bạn Mùa A Tu, dân tộc Mông lớp 12a2 vì hồn
cảnh đặc biệt khó khăn của bạn: bị bố mẹ đẻ bán cho người cùng dân tộc để lấy tiền
mua vé xe vào nam xây dựng kinh tế mới từ khi lọt lịng (năm 2002), từ đó đến nay
bạn chưa bao giờ được gặp bố mẹ ruột. Sống với cha mẹ ni đến năm lớp 10, gia
đình cha mẹ nuôi đông con (7 cô con gái), người cha ni nghiện rượu khơng có
khả năng cho bạn đi học nên hàng ngày bạn phải vừa đi học vừa đi làm. Đến năm
học lớp 12 cha nuôi không cho bạn ở trong nhà nữa, bạn phải ở nhà chị gái và anh
rể. Cũng lớp 12a1 sau khi biết thông tin về hồn cảnh khó khăn của bạn Lị Văn
Hồn 10a2: mẹ mất, cha nghiện ma túy bị bắt đi cai nghiện, Hồn phải vừa đi học,
vừa đi làm ni bà nội đã già yếu, em gái đang học lớp 7, tập thể lớp đã ủng hộ bạn
số tiền 500.000đ. Đây là số tiền các bạn 12a1 đóng góp từ những đồng tiền tiết
kiệm của bản thân. Số tiền tuy ít nhưng tấm lòng thơm thảo của các bạn đã lan tỏa
trong toàn trường. Các bạn đã biến những áng văn đẫm giá trị nhân ái cao cả thành
hiện thực đời sống, đã “dám cho đi”, “biết cho đi” trong cuộc đời (phụ lục 3).

Bốn là, hình thức sân khấu hóa tác phẩm văn học
+ Khái niệm, đặc điểm
Sân khấu hóa là những hoạt động đại chúng (chính trị, văn hóa, giáo dục…)
được tiến hành theo đặc trưng của nghệ thuật sân khấu. Các nội dung sinh hoạt (có
chủ đề) được chuyển tải liên tục, chặt chẽ bằng cách dàn cảnh và biểu diễn. Sân
khấu hóa có thể mang hình thức chuyên nghiệp hoặc không chuyên.
9


Sân khấu hóa tác phẩm văn học trong nhà trường là hình thức hoạt động
khơng chun. Đây được coi là một hoạt động tiếp nhận văn học hấp dẫn, bổ ích,
phát huy năng lực sáng tạo của học sinh. Hình thức này được đánh giá là một trong
những phương pháp dạy học tích cực, phát huy tối đa vai trị chủ động chiếm lĩnh
kiến thức của học sinh. Với hình thức này, học sinh được hóa thân vào nhân vật,
trải nghiệm những cảm xúc và cảm nhận về nhân vật, được sống trong không gian
của tác phẩm và tái hiện tất cả trên sân khấu lớp học. Ngoài ra, học sinh còn được
trải nghiệm những sáng tạo của bản thân trong diễn xuất, các em sẽ có hứng thú
đọc hiểu kĩ văn bản, cảm nhận về nhân vật để có thể đối chiếu nhân vật trong tác
phẩm với nhân vật được tái hiện trên sân khấu lớp học. Những tiết học có hình
thức sân khấu hóa ln có sự chuẩn bị chu đáo từ người dạy và người học, tạo ra
những hiệu ứng tốt, giúp học sinh hiểu hơn những giá trị của tác phẩm văn học.
Hơn nữa, hình thức sân khấu hóa tác phẩm văn học trong nhà trường cịn có
ý nghĩa rất lớn, bởi nó hình thành và rèn luyện nhiều khả năng cho học sinh như:
làm việc nhóm, viết kịch bản, đóng vai diễn, thiết kế sân khấu… Sân khấu hóa tác
phẩm văn học cịn giúp cho giáo viên và học sinh được đặt mình trong “trường
sáng tạo” và “trường thưởng thức” của tác phẩm, từ đó có cách cảm nhận, đánh giá
tốt hơn về giá trị của tác phẩm văn học đó.
+ Phạm vi vận dụng: đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ
+ Tổ chức thực hiện
Để có thể sân khấu hóa tác phẩm văn học, GV chủ động hướng dẫn HS tự

khám phá và chuẩn bị các bước cần thiết, sau đó học sinh thể hiện trong tiết học
trên lớp, GV nhận xét, đánh giá. Quá trình ấy được thực hiện theo các tiến trình
sau:
Bước 1: Giáo viên trao đổi với HS, giao nhiệm vụ cho các nhóm về màn kịch trong
đoạn trích phải biểu diễn.
Bước 2: HS nghiên cứu bài học, xây dựng ý tưởng thực hiện và trao đổi với GV.
GV góp ý, bổ sung biến ý tưởng thành kế hoạch tổ chức thực hiện. HS tiến hành
luyện tập, GV cùng chỉnh sửa.
Bước 3: Trải nghiệm sân khấu hóa, giáo viên đánh giá (Phụ lục 4)
Năm là, hình thức xây dựng bộ tư liệu học môn Ngữ văn 12
+ Khái niệm, vai trò
Bộ tư liệu học tập được hiểu là tài liệu học tập bộ môn do học sinh xây dựng,
hệ thống trên cơ sở hướng dẫn của GV.
Xây dựng bộ tư liệu có vai trị rất quan trọng đối với mơn ngữ văn trong nhà
trường phổ thơng.Vì hiện nay, cịn duy nhất mơn ngữ văn đang giữ nguyên hình
thức thi tự luận. Việc xây dựng bộ tư liệu sẽ giúp học sinh củng cố, hệ thống hóa
kiến thức quan trọng. Hình thức học tập này cịn đặc biệt phù hợp và hiệu quả với
HS khối 12 trong việc thi THPT Quốc gia, giúp các em có được một lượng kiến
thức cơ bản giúp “phủ xanh đất trống đồi trọc” trong bài thi, tránh tình trạng để
giấy trắng khi đi thi.
+ Phạm vi vận dụng: các chuyên đề ôn thi THPT Quốc gia.
10


+ Tổ chức thực hiện
- Xác định các nội dung quan trọng, cần thiết phải xây dựng tư liệu
Các nội dung quan trọng cần xây dựng tư liệu là các nội dung nằm trong
chương trình mơn học, các chun đề ôn tập và củng cố kiến thức thi THPT Quốc
gia theo cấu trúc của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cụ thể:
Phần đọc hiểu: Toàn bộ kiến thức về Tiếng Việt, làm văn giúp học sinh thực

hiện tốt phần đọc hiểu. Thống kê toàn bộ các dạng câu hỏi ở các mức độ nhận biết,
thông hiểu, vận dụng trong phần đọc hiểu.
Viết đoạn văn 200 chữ.
Nghị luận văn học: Kiến thức trọng tâm của chương trình 12 theo từng bài.
+ Cách xây dựng bộ tư liệu môn Ngữ văn 12 tại trường THPT Quan Hóa
Bước 1: Giao nhiệm vụ cho từng nhóm học sinh của lớp 12a1.
Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ. Thống kê, nộp tài liệu theo nội dung
được phân cơng từng nhóm (phụ lục 5).
Bước 3: Giáo viên kiểm tra chất lượng tài liệu, chỉnh sửa, biên soạn.
2.4. Kết quả đạt được
Qua quá trình thực nghiệm tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh ở
trường miền núi THPT Quan Hóa, sự quan tâm và tạo điều kiện của Ban giám hiệu
nhà trường, sự giúp đỡ nhiệt tình của hội phụ huynh tơi đã thu được nhiều kết quả
khả quan như sau:
2.4.1. Kết quả định tính
- Về tạo hứng thú học tập cho học sinh: Hoạt động của các buổi trải nghiệm đã
tạo hứng thú học tập, khơi dậy lịng ham hiểu biết, lơi cuốn HS tự giác tham gia
nhiệt tình các hoạt động, phát huy tính tích cực, nỗ lực của HS. Qua chuỗi các hoạt
động trải nghiệm tôi nhận thấy các em bớt rụt rè, thể hiện mình nhiều hơn, nhất là
bộc lộ được những tình cảm cao đẹp vốn có của HS miền núi: trong sáng, chất
phác, trách nhiệm, nhân ái, phóng khống và phát huy được sự sáng tạo, nhiệt
huyết, tố chất nghệ sĩ của nhiều em cũng được bộc lộ.
- Về giáo dục nhận thức: Hoạt động buổi trải nghiệm đã giúp HS củng cố, đào
sâu, mở rộng những tri thức đã học trên lớp, ngoài ra giúp HS vận dụng tri thức đã
học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đời sống đặt ra theo phương châm học đi
đôi với hành, lí thuyết gắn liền với thực tiễn. Các em quan tâm nhiều hơn đến cuộc
sống xung quanh, biết mở lịng đón nhận những âm vang từ cuộc đời. Từ đó các em
xác đinh được vai trị, ý nghĩa của việc nỗ lực học tập để đem kiến thức phục vụ
đời sống và thêm yêu những tác phẩm văn chương đích thực.
- Về rèn luyện kĩ năng: Buổi hoạt động trải nghiệm đã rèn luyện cho HS khả

năng tự quản, kĩ năng tổ chức, điều khiển, làm việc theo nhóm, ngồi ra cịn góp
phần phát triển kĩ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề. Từ đó các em tự tin hơn trong
các hoạt động học tập cũng như trong đời sống.
2.4.2. Kết quả định lượng
- Với việc tổ chức các buổi trải nghiệm Ngữ văn, nhiều em học sinh đã có khả
năng tự học, tự sáng tạo, say mê tìm tịi để chiếm lĩnh tri thức và vận dụng vào thực
11


tiễn. Điển hình là lớp 12a1 với việc biết sẻ chia, nhân rộng truyền thống “Lá lành
đùm lá rách” của dân tộc.
- Từ sự hứng thú trong học tập, năm học 2020 – 2021 em HS Phạm Thị Thanh
Nhàn đạt giải Ba kì thi chọn HS giỏi mơn Ngữ văn cấp tỉnh.
- Tiến hành khảo sát lần 2 bằng phiếu học tập việc học môn Ngữ văn sau khi tổ
chức hoạt động học tập trải nghiệm tôi thu được kết quả như sau:
STT Lớp Rất thích học
Thích học
Bình
Khơng thích Ghi chú
thường
Số lượng %
SL
%
SL
%
SL
%
(SL)
1
12a1

04
24
10
0
0
2
12a4
0
0
01
18
11
3
12a5
02
13
18
02
4
12a6
01
12
17
01
- Kết quả bài kiểm tra giữa kì sau khi tổ chức trải nghiệm:
+ Lớp đối chứng (ĐC): 12a4
+ Lớp thực nghiệm (TN):12a1, 12a5, 12a6
Bảng phân loại trình độ HS lần kiểm tra sau TN

Lần Phương

Số bài
KT
án
1

Điểm yếu
SL
%

Điểm TB
SL
%

Điểm khá
SL
%

Điểm giỏi
SL
%

TN

102

08

42

48


04

ĐC

30

06

21

03

0

Qua kết quả nghiên cứu có thể thấy rằng, ở lớp thực nghiệm tỷ lệ đạt điểm khá
giỏi đều cao hơn lớp đối chứng. Ngược lại, tỷ lệ điểm trung bình và dưới trung bình
của lớp đối chứng lại cao hơn. Điều đó phần nào cho thấy học sinh lớp thực nghiệm
tiếp thu kiến thức nhiều hơn và tốt hơn. Một trong những nguyên nhân đó là: Ở lớp
thực nghiệm, học sinh được hoạt động trải nghiệm nên hứng thú học tập, tích cực,
chủ động, khả năng hiểu và nhớ bài tốt hơn. Những kiến thức trong sách vở đã
được các em tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn đời sống nên khả năng sáng tạo tốt
hơn rất nhiều.
Còn ở lớp đối chứng, lớp học vẫn diễn ra nghiêm túc ở các tiết nội khóa, học
sinh vẫn chăm chú tiếp thu bài giảng, nhưng các em tiếp thu thụ động về kiến thức,
vì thế khả năng vận dụng sáng tạo chưa cao, các em chưa thấy hết được ý nghĩa của
môn học trong đời sống nên chưa hứng thú tìm tịi, chưa chủ động trong học tập.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Việc tổ chức hoạt động trải nghiệm là một trong những sự thay đổi cần thiết

trong dạy học. Đây khơng phải là hoạt động có thể áp dụng ở tất cả các nôi dung
của chương trình nhưng nó có tác dụng vơ cùng to lớn làm tăng hứng thú của học
sinh đối với môn học. Các bài học Ngữ văn sẽ trở nên hấp dẫn, được các em mong
12


chờ để khám phá kiến thức mới. Và khi đã học tốt kiến thức, thấy bài học gần gũi
với đời sống hàng ngày, có thể sống cùng tác phẩm thì việc yêu mến văn bản văn
chương, vận dụng kiến thức để phục vụ đời sống là hết sức tự nhiên.
Tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học Ngữ văn địi hỏi người giáo viên
phải kiên trì, chịu khó tìm tịi, phải có nhiệt huyết nghề nghiệp. Hơn nữa đối với
học sinh ở một trường miền núi, chủ yếu là các em dân tộc thiểu số, đời sống khó
khăn, mức độ tiếp thu kiến thức cịn chậm thì người giáo viên phải thật sự “say
nghề”, phải tìm cách biến những bài học trở nên dễ hiểu, dễ nhớ, “học mà vui”.
Làm được như vậy các em sẽ có động cơ, hứng thú học tập và hiệu quả giáo dục sẽ
được nâng cao.
Việc tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học Ngữ văn cần được vận dụng
một cách linh hoạt, phối hợp với các môn học khác thành dạy học theo chủ đề tích
hợp sẽ làm tăng hiệu quả dạy học, nâng cao chất lượng bộ môn.
3.2. Kiến nghị
Để tổ chức được các hoạt động trải nghiệm trong dạy học Ngữ văn cần có sự
trợ giúp về phương tiện, nhất là máy chiếu. Tại trường THPT Quan Hóa chưa có
phịng học nào được lắp đặt máy chiếu, vì thế việc tôi mong được sự quan tâm của
các cấp, các ngành đối với cơ sở vật chất của nhà trường.
Việc tổ hoạt động trải nghiệm trong dạy học Ngữ văn sẽ mang lại hiệu quả cao
hơn nếu được sự đồng tình, phối hợp của phụ huynh học sinh để giúp các em mang
kiến thức ra đời sống thực tiễn áp dụng ngay tại mỗi gia đình, địa phương, làm cho
kiến thức trở nên gần gũi với học sinh. Vì vậy tơi mong muốn được sự quan tâm
của Ban giám hiệu nhà trường cùng sự đồng hành của hội Cha mẹ học sinh để thực
hiện được nhiều buổi trải nghiệm đạt kết quả cao hơn.

Trên đây là những kinh nghiệm rất nhỏ mà tơi đã đúc rút được từ q trình
giảng dạy ở trường miền núi THPT Quan Hóa, tơi xin chia sẻ với các đồng nghiệp.
Dù đã rất nhiều cố gắng nhưng chắc chắn khơng tránh khỏi sai sót. Tơi mong nhận
được sự đóng góp ý kiến từ Ban giám hiệu nhà trường, các đồng nghiệp để tôi bổ
sung, rút kinh nghiệm, tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp giáo dục miền núi.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Quan Hóa, ngày 03 tháng 5 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Phạm Thị Nghị

13



×