Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con người qua thực tiễn của tỉnh hải dương tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.29 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HUY TÀI

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỨC KHOẺ CỦA CON NGƢỜI
TỪ THỰC TIỄN CỦA TỈNH HẢI DƢƠNG

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04

TOM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


Cơng trình được hồn hành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn

Phản biện 1: PGS.TS. Trần Đình Nhã
Phản biện 1: GS.TS Đƣờng Minh Giới
Phản biện 1: PGS.TS. Đỗ Thị Phƣợng

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp
Học viện họp tại ............................................................................
vào hồi.............giờ........ phút, ngày........... tháng...... năm 2019



Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 3 Tuyên ngôn nhân quyền thế giới ngày 10/12/1948, đã quy
định: "Mọi người đều có quyền sống, được tự do và bảo đảm an ninh".
Quyền được bảo hộ về sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con
người, của công dân. Điều 20 Hiến pháp 2013 Việt Nam quy định: " Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về,
sức khoẻ, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe ....”. PLHS là một công
cụ sắc bén, hữu hiệu để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung,
các tội phạm XPSK của con người nói riêng, góp phần duy trì trật tự an
tồn xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, đảm bảo cho
mọi người sống trong một môi trường xã hội an tồn, lành mạnh, mang tính
nhân văn cao.
Xét về thực tiễn, tỉnh Hải Dương có tình hình tội phạm diễn biến
ngày càng phức tạp, có chiều hướng gia tăng, trong đó các tội XPSK của con
người. Tội phạm diễn ra ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh với cơ cấu tội phạm, tính
chất tội phạm, hình thức tội phạm, quy mô tội phạm khác nhau. Tuy nhiên việc
phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này cịn chậm, nhiều trường hợp
xử lý cịn thiếu chính xác, đặc biệt tình hình tội phạm n tội phạm xảy ra nhưng
chưa được phát hiện và xử lý còn nhiều; vấn đề áp dụng pháp luật, nhận thức
của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương còn chưa thống
nhất, dẫn đến việc giải quyết án kéo dài
Xét về mặt lý luận, mặc dù có một số cơng trình khoa học luật hình sự
đề cập đến các tội XPSK của con người dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau

nhưng khơng nhiều. PLHS của nước ta quy định về các tội XPSK của con
người còn những bất cập; nhiều quy định chưa mang tính tồn diện, nhiều
vấn đề nảy sinh trong điều kiện tình hình mới đã gây khó khăn cho các cơ
quan thực thi pháp luật. Các tình tiết “ người già yếu “, “ phạm tội…trong
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác” , “ trạng thái tinh thần bị kích
1


động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng”, “ phịng vệ chính
đáng”,….. vẫn chưa được hướng dẫn, giải thích của cơ quan có th m quyền
dẫn đến có nhiều cách hiểu, đánh giá, áp dụng khác nhau giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng. Vấn đề giám định thương tích sức khoẻ để làm căn cứ
xem xét TNHS đối với người phạm tội còn nhiều bất cập.
Từ những bất cập trong thực tiễn và lý luận nêu trên đã tác động
tiêu cực đến việc áp dụng TNHS đối với loại tội phạm này trong thực tiễn,
làm giảm hiệu quả đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và bảo vệ
sức khỏe của con người nói riêng, đồng thời dễ dẫn đến oan sai, bỏ lọt tội
phạm và giải quyết vụ án quá hạn luật định. Do vậy tác giả lựa chọn đề tài
“ Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khoẻ của con người từ
thực tiễn của tỉnh Hải Dương” để nghiên cứu làm luận án luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm rõ hơn những vấn đề về TNHS đối với các tội
XPSK của con người, đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự về tội phạm này từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở đó đề
xuất các giải pháp hoàn thiện PLHS về TNHS đối với các tội XPSK của
con người, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, xử lý loại tội phạm này trong tình
hình mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án xác định nhiệm vụ nghiên

cứu chính như sau:
- Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận của TNHS cơ sở
của TNHS, các đặc điểm của TNHS, hình thức của TNHS,.. .
- Phân tích các quy định của pháp luật về TNHS đối với các tội
XPSK của con người trong lịch sử pháp luật Việt Nam từ thời kỳ phong
kiến đến nay.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng TNHS đối với các tội XPSK của con người
từ thực tiễn ở tỉnh Hải Dương.
2


- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về TNHS đối
với các tội XPSK của con người.
3. Đối tƣợng và ph m vi nghiên cứu của luận án
3.1. ối tư ng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng chế định TNHS đối
với các tội phạm XPSK của con người trong PLHS Việt Nam.
3.2. hạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến TNHS đối
với các tội XPSK của con người dưới góc độ luật hình sự.
- Về không gian, địa bàn: tỉnh Hải Dương
- Về thời gian: từ năm 2006 đến năm 2018
4. Phƣơng pháp luận nghiên cứu của luận án
4.1. hương pháp luận: Luận án sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và các cặp phạm trù như: phạm
trù cái chung và cái riêng, phạm trù bản chất và hiện tượng, phạm trù nội dung
và hình thức, phạm trù nguyên nhân và kết quả, phạm trù khả năng và hiện
thực và phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên... được vận dụng để nghiên cứu các
tội XPSK của con người trong sự liên hệ với các nhóm tội khác trong

BLHS;
Nguyên lý về sự phát triển và các quy luật như: quy luật mâu thuẫn,
quy luật phủ định, quy luật lượng- chất và và được vận dụng nghiên cứu các
vụ việc, hành vi phạm tội trong thực tiễn luôn có sự phát triển; nhất là
những sự vụ việc, hành vi phát sinh mới, xâm phạm nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe của con người để kịp thời kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
TNHS đối với các tội XPSK của con người.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong qua trình nghiên cứu luận án, tác giả sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thê sau đây:
+ Phương pháp phân tích tài liệu
3


+ Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu thống kê
+ Phương pháp chuyên gia,
+ Phương pháp điều tra điển hình,.
Ở từng nội dung nghiên cứu luận án, vận dụng linh hoạt các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương pháp quy nạp,
diễn dịch, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích quy phạm, phương
pháp so sánh luật, phương pháp lịch sử, phương pháp logic pháp lý.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn. Luận án là cơng trình khoa học đầu tiên trong
khoa học hình sự Việt Nam nghiên cứu cụ thể về khái niệm, cơ sở của
TNHS và hình phạt- hình thức của TNHS đối với các tội XPSK của con
người; thực tiễn áp dụng TNHS đối với các tội XPSK của con người ở tỉnh
Hải Dương trong giai đoạn 13 năm ( 2006 - 2018 ; kết quả đấu tranh của
các cơ quan bảo vệ pháp luật và đưa ra các đề xuất hoàn thiện các quy định
của BLHS và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên địa bàn tỉnh

Hải Dương nói riêng và cả nước nói chung.
Luận án hệ thống hóa lịch sử phát triển của luật hình sự Việt Nam
quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người từ thời phong kiến
đến nay, đồng thời nghiên cứu các quy định liên quan đến TNHS đối với
các tội XPSK của con người trong BLHS Việt Nam và của một số nước
trên thế giới để đưa ra các nhận xét, đánh giá.
Thông qua những đánh giá, phân tích về thực tiễn xét xử các tội
XPSK của con người còn làm tư liệu cho các nhà làm luật nước ta nghiên
cứu, tham khảo khi thực hiện việc sửa đổi, bổ sung BLHS về các tội phạm
này dưới góc độ lập pháp hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Việc Luận án nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
TNHS đối với các tội XPSK của con người là rất cần thiết; góp phần bổ
4


sung thêm vào hệ thống lý luận của Luật hình sự Việt Nam về các tội
XPSK của con người và nâng cao nhận thức của các cơ quan, người tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đúng quy định, hạn
chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Qua đó bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về
sức khỏe con người, bảo vệ quyền con người.
Ngoài ra, Luận án còn là nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho
các sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự tại các cơ sở đào tạo luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án làm cơ sở để đưa ra giải pháp, kiến nghị tiếp tục hoàn thiện
các quy định của BLHS về TNHS đối với các tội XPSK của con người; góp
phần nâng cao hiệu quả áp dụng trong việc xét xử và đấu tranh phịng
chống tội phạm nói chung, trong đó có các tội về XPSK của con người, hạn

chế oan, sai bỏ lọt tội phạm, bảo vệ quyền con người.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục cơng trình nghiên cứu của
tác giả đã cơng bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận án chia làm 4 chương, 13 mục và các tiểu mục.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Các tài liệu nghiên cứu về TNHS đối với các tội XPSK của con
người được chia thành các nhóm chủ đề: Thứ nhất, nhóm tài liệu nghiên
cứu về khái niệm, đặc điểm, cơ sở của TNHS, hình thức và mục đích của
TNHS đối với các tội XPSK của con người. Thứ hai, nhóm các tài liệu
nghiên cứu khác có liên quan đến TNHS và TNHS đối với các tội XPSK
của con người.
5


Phần lớn các cơng trình nghiên cứu đều tập trung nghiên cứu các
dấu hiệu CTTP của các tội XPSK của con người. Chỉ có một số khơng
nhiều cơng trình có đề cập, nghiên cứu cả vấn đề TNHS đối với các tội
XPSK của con người nhưng chỉ dừng lại ở việc phân tích thuần tuý các quy
định của BLHS, chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề
TNHS đối với tội XPSK của con người. Đặc biệt chưa có những nghiên cứu
từ góc độ so sánh pháp luật nên chưa có một cái nhìn tổng qt, tồn diện
về TNHS đối với các tội XPSK của con người.
1.2. Tình hình nghiên cứu nƣớc ngồi
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, các tài liệu nghiên đã tập trung
và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản chung nhất của luật hình sự, chỉ ra các
đặc điểm cơ bản của tội XPSK. Đồng thời làm rõ lý thuyết, chính sách và

vấn đề thực tiễn trong việc ngăn chặn bạo lực gia đình trong đó có tội cố ý
gây thương tích với cách tiếp cận đa ngành đối với vấn đề bạo lực gia đình,
... Trong khoa học luật hình sự nước ngồi cũng chưa có cơng trình nào nghiên
cứu có hệ thống, tồn diện về lý luận, thực tiễn và tiếp cận dưới khía cạnh pháp
lý hình sự Việt nam về TNHS đối với các tội XPSK của con người.
1.3. Nhận xét, đánh giá các cơng trình khoa học và những vấn
đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
1.3.1. Nhận xét, đánh giá các cơng trình khoa học trong và ngoài
nước liên quan đến đề tài luận án
Một là, điểm nổi bật của những cơng trình khoa học nêu trên đã
hình thành hệ thống quan điểm, học thuyết về tội phạm, lí luận về CTTP và
các yếu tố CTTP; TNHS và hình phạt trong luật hình sự.
Hai là, Nội dung các cơng trình trong nước về cơ bản đã thông
nhất trong việc nêu khái niệm những dấu hiệu pháp lí hình sự và hình phạt
hoặc nội dung TNHS của nhóm các tội XPSK của con người.
Ba là, Việc nghiên cứu một số khía cạnh khác về các tội XPSK của
con người ở trong nước cũng được tiếp cận dưới góc độ khác nhau, qua

6


nghiên cứu cho thấy có một số cơng trình có giá trị tham khảo về khoa
học và thực tiễn.
Bốn là, các cơng trình khoa học ở nước ngồi chỉ đề cập đến các
tội phạm về bạo lực trong đó có tội cố ý gây thương tích như luật hình sự
của Việt Nam , đồng thời tập trung làm rõ lí thuyết, chính sách và xây dựng
các báo cáo chuyên đề và khuyến nghị các giải pháp phòng, chống bạo lực.
Năm là, chưa có cơng trình nghiên cứu tiếp cận tồn diện, khách
quan, đầy đủ các vấn đề về lí luận, thực tiễn và dưới khía cạnh pháp lí hình
sự Việt Nam về TNHS đối với các tội XPSK của con người.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất, Làm rõ hơn những vấn đề lý luận về TNHS đối với các
tội XPSK của con người như: khái niệm và đặc điểm, nội dung, hình thức
của TNHS đối với các tội XPSK của con người.
Thứ hai, Nghiên cứu quá trình lập pháp, các quy định của BLHS
Việt Nam, của nước ngoài về TNHS đối với các tội XPSK của con người;
đồng thời phân tích, đánh giá rút ra những ưu điểm và hạn chế trong quy
định của BLHS về các tội phạm này và trong công cuộc đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, phân tích, đánh giá đúng và chính xác thực tiễn áp dụng
quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người của BLHS trong
hoạt động xét xử của TAND các cấp trong những năm ( 2006- 2018) trên
địa bàn cả nước và của tỉnh Hải Dương. Từ đó chỉ ra những bất cập trong
q trình áp dụng để làm cơ sở cho kiến nghị tiêp tục hoàn thiện quy định
của BLHS Việt Nam năm 2015.
Thứ tư, kiến nghị bằng việc tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội
XPSK của con người trong BLHS Việt Nam năm 2015
Thứ năm, Đề xuất một số yêu cầu, giải pháp khác nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng đúng và chính xác quy định của BLHS về TNHS đối với
các tội XPSK của con người dưới góc độ thực tiễn xét xử.

7


Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI
VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHOẺ CỦA CON NGƢỜI
2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm ph m sức khỏe của con ngƣời
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự

Dưới góc độ khái qt chung nhất, TNHS là một dạng của trách
nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và
được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước do Luật hình sự quy định đối với người phạm tội.
2.1.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Cơ sở của TNHS là một trong những vấn đề rất quan trọng trong
PLHS. Cơ sở TNHS được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, tập trung nhất là
góc độ triết học và góc độ pháp lý. Trong BLHS của các quốc gia coi chủ
thể của tội phạm vừa là con người cụ thể thể nhân , vừa là pháp nhân thì
TNHS được áp dụng cho cả thể nhân và pháp nhân. Theo PLHS hiện hành
của Việt Nam thì chỉ người nào phạm một tội mà BLHS quy định mới phải
chịu TNHS. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm tột tội đã được quy định
tại Bộ luật hình sự mới phải chịu TNHS.
2.1.3. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm hình sự đối với các tội
X SK của con người
2.1.3.1. Khái niệm các tội XPSK của con người
Dưới góc độ luật hình sự, có thể đưa ra khái niệm về các tội XPSK
của con người như sau: Các tội XPSK của con người là những hành vi (
hành động và không hành động ) nguy hiểm cho xã hội, do người có đủ
năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý
XPSK của con người mà theo quy định của BLHS quy định phải xử lý bằng
chế tài hình sự.
8


2.1.3.2. Khái niệm TNHS đối với các tội XPSK của con người
Có thể đưa ra một cách diễn đạt về TNHS đối với các tội XPSK của
con người theo cách vừa trực tiếp thể hiện nội dung cơ bản của TNHS, vừa
phản ánh được mối quan hệ giữa các bên chủ thể của TNHS. Đó là: TNHS đối
với các tội XPSK của con người là hậu quả pháp lý bất lợi mà một người phải

gánh chịu do đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm XPSK của con người được
thể hiện trong các biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền áp dụng.
2.1.3.3. Đặc điểm của TNHS đối với các tội XPSK của con người
Từ khái niệm khoa học nêu trên, có thể chỉ ra các đặc điểm
TNHS đối với các tội XPSK của con người như sau:
Một là, TNHS đối với các tội XPSK của con người là dạng trách
nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý mà
người thực hiện các tội XPSK của con người bị áp dụng.
Hai là, TNHS đối với các tội XPSK của con người là sự lên án của
Nhà nước đối với những người thực hiện tội XPSK của con người.
Ba là, TNHS đối với các tội XPSK của con người là hậu quả pháp lý
của việc thực hiện tội phạm, TNHS chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội xảy ra.
Bốn là, TNHS đối với các tội XPSK của con người chỉ được thực
hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất
là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên là đại diện cho
Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội.
Năm là, TNHS đối với các tội XPSK của con người áp dụng đối
với cá nhân người phạm tội.
Sáu là, TNHS đối với các tội XPSK của con người mang tính chất cơng.
2.1.4. Ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm phạm sức khỏe của con người.
Thứ nhất, góp phần bảo đảm pháp chế và xử lý nghiêm minh,
kịp thời, công minh và đúng pháp luật các hành vi phạm các tội XPSK
của con người.
9


Thứ hai, góp phần bảo đảm ngun tắc cơng bằng, bình đẳng theo
PLHS Việt Nam.

Thứ ba, xác định rõ ranh giới giữa tội phạm với hành vi vi phạm
pháp luật khác và với các hành vi không phải là tội phạm, đồng thời phản
ánh chính sách hình sự của Nhà nước đối với các tội XPSK của con người.
2.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm ph m
sức khỏe của con ngƣời
Dưới góc độ khoa học, có thể đưa ra khái niệm cơ sở pháp lý của
TNHS đối với các tội XPSK của con người này như sau: Cơ sở của TNHS
đối với các tội XPSK của con người là CTTP của những tội XPSK của con
người ghi nhận trong BLHS.
Như vậy, cơ sở pháp lý của TNHS đối với các tội XPSK chính là
CTTP của các tội XPSK của con người; bao gồm: khách thể; mặt khách
quan; chủ thể và mặt chủ quan của các tội XPSK của con người.
2.3. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với các tội ph m
xâm ph m sức khoẻ của con ngƣời
Khái niệm hình thức TNHS chưa được ghi nhận trong PLHS. Trong
khoa học LHS, khái niệm này có được đề cập nghiên cứu nhưng khơng
nhiều. Trong số những quan điểm được nêu ra trong khoa học LHS về khái
niệm hình thức TNHS, chúng tơi ủng hộ quan điểm cho rằng: Hình thức
TNHS là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong LHS để
thực hiện TNHS và chỉ được áp dụng đối với người phạm tội.
2.3.1. Hình phạt
Hình phạt được hiểu là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tồ án áp dụng đối với người
phạm tội.
Trong BLHS các hình phạt được nhà làm luật quy định thành hệ
thống bao gồm hai loại hình phạt: các hình phạt chính và các hình phạt
bổ sung.
10



* Hình phạt chính là hình phạt có mức độ nghiêm khắc cao được
Toà án áp dụng một cách độc lập đối với mỗi tội phạm, gồm: phạt cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo khơng giam giữ, tù có thời hạn
* Hình phạt bổ sung là hình phạt có tính chất hỗ trợ cho hình phạt
chính để đạt được mục đích hình phạt và là hình phạt khơng được tun
một cách độc lập mà chỉ có thể được tuyên kèm theo hình phạt chính
Đối với các tội XPSK của con người,BLHS quy định ba loại hình
phạt chính được áp dụng, đó là: cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt
tù và hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công
việc nhất định. Chỉ áp dụng hình phạt tù như một biện pháp cuối cùng khi
xét thấy khơng cịn cách nào khác là phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã
hội thì mới đạt được mục đích cải tạo, giáo dục họ.
2.3.2. Miễn hình phạt
Tịa án áp dụng biện pháp miễn hình phạt trong trường hợp
đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn
TNHS Điều 54 BLHS 1999 .
2.3.3. Miễn trách nhiệm hình sự
Là một trong những chế định quan trọng của luật hình sự Việt Nam,
miễn TNHS thể hiện chính sách phân hóa TNHS và nguyên tắc nhân đạo
của Nhà nước ta đối với người phạm tội, đồng thời động viên, khuyến khích
người phạm tội lập cơng chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo,
nhanh chóng hịa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội
2.3.4. Các biện pháp tư pháp
Các biện pháp tư pháp cụ thể được áp dụng là: Tịch thu vật, tiền
trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh.
2.3.5. Án tích
2.3.6. Trách nhiệm hình sự trong một số trường h p đặc biệt
TNHS trong một số trường hợp đặc biệt như: TNHS trong đồng phạm,

TNHS trong trường hợp chu n bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hay tự ý nửa
11


chừng chấm dứt việc phạm tội trên cơ sở những nguyên tắc và quy định chung,
bảo đảm sự phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt.
2.3.7. Các trường h p loại trừ TNHS
Một số trường hợp có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được loại trừ
TNHS là các hành vi có ích, được Nhà nước động viên, khuyến khích và
động cơ của người thực hiện là vì bảo vệ lợi ích chung, đó là trường hợp
phịng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người
phạm tội.
Chƣơng 3
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI
3.1. Pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ trƣớc năm 1945 về
TNHS các tội xâm ph m sức khỏe của con ngƣời
3.1.1. Thời kỳ Hậu Lý
Năm 1042, Lý Thái Tông, vị vua thứ hai triều Lý đã cho biên soạn và
ban hành bộ luật Hình Thư, đó là bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử pháp
chế Việt Nam. Thời kì nhà Lê 1428 - 1789 , Lê Thánh Tông đã ban hành
Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật, đánh dấu một bước
tiến mạnh mẽ về kỹ thuật lập pháp, trong đó có lập pháp hình sự.
3.1.2. Thời kỳ Gia Long
Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long )đầu thế kỷ XIX thời
Nguyễn tuy có nhiều hạn chế do mơ phỏng luật hình của Triều Mãn Thanh
Trung Quốc, nhưng vẫn có ý nghĩa lịch sử nhất định
Từ việc nghiên cứu 02 Bộ luật Quốc triều Hình luật và Hồng Việt
luật lệ có thể rút ra các nhận xét sau: Thứ nhất, Nhà nước phong kiến Việt
Nam đặc biệt quan tâm đến nhóm tội XPSK của con người. Số lượng các

điều luật cũng như tỷ trọng các điều luật quy định về các tội XPSK của con
người trên tổng số các điều luật của hai Bộ luật này khá nhiều. Thứ hai, các
nhà lập pháp phong kiến đã thực hiện triệt để nguyên tắc phân hóa tội phạm
và cá thể hóa hành vi phạm tội đối với nhóm tội XPSK của con người. Thứ
12


ba, quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người trong PLHS
phong kiến được ghi nhận tương đối toàn diện.
3.1.3. Thời kỳ háp thuộc
Thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đã ban hành 3
BLHS áp dụng trên ba miền Bắc- Trung- Nam.
3.2. Pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ năm 1945 đến nay
về TNHS các tội xâm ph m sức khỏe của con ngƣời
3.2.1. Từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ Luật hình sự
năm 1985
Cách mạng tháng Tám thành cơng, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã
ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày 10-10-1945 với nội dung là cho đến khi
ban hành được những bộ luật pháp duy nhất cho tồn cõi nước Việt Nam.
Sau khi miền Bắc giải phóng năm 1954 , PLHS dần dần được bổ sung. Các
tội XPSK của con người được quy định tại Thông tư số 442-TTg ngày
19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ. Sau ngày miền Nam được hồn tồn
giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và
hình phạt với 7 loại tội phạm, trong đó có quy định về các tội XPSK của
con người. TAND tối cao đã hướng dẫn pháp ban hành Chỉ thị số 07TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính
mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt q phịng vệ chính đáng.
3.2.2. Các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người
trong Bộ luật Hình sự năm 1985
BLHS 1985 ra đời là một thành tựu lớn của trí tuệ lập pháp hình sự

nước ta. Các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người gồm
03 điều, gồm các tội: Tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người
khác trong khi thi hành công vụ Điều 103 ;btội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ người khác Điều 109 , tội vô ý gây thương tích
nặng hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác Điều 110 . Hình phạt và
trong mỗi khung thì có mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ
13


nguy hiểm của hành vi phạm tội, trong đó, mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội này là 20 năm tù.
3.2.3. Các quy định về TNHS đối với các tội X SK của con người
trong Bộ luật Hình sự năm 1999
Tập trung làm sáng tỏ những dấu hiệu pháp lý hình sự, hình phạt và
một số đặc trưng trong từng tội danh tương xứng XPSK của con người
Điều 104 đến 119 BLHS, Điều 117, Điều 118 theo hai nhóm chính căn
cứ vào dấu hiệu lỗi lỗi cố ý hoặc vơ ý .
3.2.3.1. Những dấu hiệu pháp lý hình sự của nhóm tội cố ý xâm
phạm sức khỏe của con người
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác Điều 104 , tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trangj thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 105), tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt q
giới hạn phịng vệ chính đáng Điều 106 , tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ Điều 107), tội
hành hạ người khác Điều 110), tội lây truyền HIV cho người khác Điều 117
và tội có ý truyền HIV cho người khác Điều 118
3.2.3.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự của nhóm tội vơ ý xâm
phạm sức khỏe của con người
- Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác Điều 108 và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc hành chính Điều 109)
3.2.3.3. Hình phạt
TNHS đối với các tội XPSK của con người được nhà làm luật quy
định đầy đủ trong BLHS. Hình phạt chính gồm : cảnh cáo, cải cạo khơng
giam giữ, tù có thời hạn và tù chung thân; trong đó cải tạo khơng giam giữ
cao nhất đến ba năm, tù có thời hạn cao nhất là hai mươi năm. Hình phạt
cảnh cáo được quy định đối với 04 CTTP khoản 1 các Điều 105, 106, 108
và 110 . Hình phạt cải tạo khơng giam giữ được quy định với 06 CTTP
14


khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 107, 108 và 110 . Hình phạt tù có thời hạn
được quy định đối với tất cả các tội. Hình phạt tù chung thân được quy định
với 02 CTTP khoản 4 Điều 104 và khoản 2 Điều 109 . Hình phạt bổ sung
là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
được áp dụng đối với 03 CTTP Điều 107, 109 và 119 .
3.2.4. Quy định về TNHS đối với các tội X SK của con người
trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 sau đây gọi là
BLHS năm 2015 đã kế thừa các quy định về TNHS đối với các tội XPSK
của con người trong BLHS năm 1999 và kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy
định về TNHS đối với các tội XPSK của con người, khắc phục một số tồn
tại hạn chế
3.3. Các quy định của pháp luật về TNHS đối với các tội xâm
ph m sức khỏe của con ngƣời ở một số nƣớc trên thế giới và những vấn
đề đặt ra đối với pháp luật hình sự Việt Nam
3.3.1. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội
X SK của con người của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
3.3.2. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội

X SK của con người của Nhật Bản
3.3.3. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội
X SK của con người của Liên bang Nga
3.3.4. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội
X SK của con người của Thụy iển
3.3.5. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội
X SK của con người của Liên bang ức
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối
với các tội XPSK của con người của các nước trên thế giới, trong đó có của
Cộng hịa nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản, Liên bang Nga, Thụy Điển và
Đức; chúng ta cần tiếp thu những quy định tiến bộ, phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của
15


nước ta để nghiên cứu, áp dụng trong việc sửa đổi bổ sung các quy định về
TNHS đối với các tội XPSK của con người trong BLHS phù hợp với sự
phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế.
Chƣơng 4
ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỨC KHOẺ CỦA CON NGƢỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH
HẢI DƢƠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
4.1. Tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Hải Dƣơng
4.1.1. Khái quát tình hình kinh tế, xã hội
4.1.2. Khái quát tình hình tội phạm
4.1.3. Tình hình các cơ quan tiến hành tố tụng của tỉnh Hải Dương
4.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với
các tội xâm phạm sức khỏe của con người từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương
4.2.1. Kết quả đạt đư c

Trong những năm qua, mặc dù các quy định của pháp luật hình sự,
nhất là BLHS đã phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh phịng, chống tội
phạm, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Tuy nhiên, tình hình tội
phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ
đoạn tinh vi, xảo quyệt. Nổi bật là cố ý gây thương tích, xuất hiện tình trạng
trẻ hóa tội phạm, hoạt động tội phạm theo các băng nhóm tội phạm có tổ
chức, hoạt động theo kiểu xã hội đen mặc dù chỉ là nhóm nhỏ nhưng hoạt
động hết sức manh động và liều lĩnh.
4.2.2. Hạn chế, vướng mắc
Qua nghiên cứu 385 bản án sơ th m và phúc th m của TAND 2 cấp
tỉnh Hải Dương và thực tiễn việc áp dụng các quy định về TNHS đối với các
tội XPSK của con người từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 13
năm 2006 đến 2018 ; qua việc kiểm tra, hướng dẫn của VKSND tỉnh và

16


TAND tỉnh Hải Dương thấy nhóm tội phạm này vẫn cịn tồn tại một số hạn
chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng. Điển hình là:
4.2.2.1. Việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội, chưa đầy đủ nên áp dụng hình phạt chưa chính xác.
4.2.2.2. Việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh chưa đúng theo
quy định.
4.2.2.3. Việc áp dụng các quy định về TNHS chưa thống nhất ( tình
tiết phạm tội với người già yếu ), chưa được hướng dẫn kịp thời; dẫn đến
việc giải quyết vụ án kéo dài
4.2.2.4. Việc đánh giá chứng cứ, tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội chưa đúng, dẫn đến việc quyết
định hình phạt chưa đảm bảo tính nghiêm minh, cơng bằng. Điển hình là các

vụ án:
+ Cùng tỷ lệ thương tích nhưng mức hình phạt khác nhau.
+ Cùng một hậu quả nhưng Tòa án các huyện lại tuyên mức hình
phạt khác nhau
4.2.2.6. Việc giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của Cơ quan giám
định khơng chính xác, dẫn đến việc giải quyết vụ án kéo dài.
4.2.3. Nguyên nhân và những hạn chế, vướng mắc
4.2.3.1. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
- Quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người chưa đầy đủ
- Việc giám định tỷ lệ thương tích cịn nhiều bất cập
- Các văn bản pháp luật có liên quan chưa đồng bộ
4.2.3.2. Những vướng mắc cụ thể trong thực tiễn
Một là, Những quy định của BLHS hiện hành về nhóm tội XPSK
của con người có một số CTTP chưa phù hợp với thực tế, khó chứng minh
trên thực tế, gây khó khăn cho cơng tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm (
quy định hậu quả tỷ lệ % thương tích .

17


Hai là, Ngồi ra, có thể thấy hầu hết Khoản 1 của các tội XPSK
của con người chỉ có thể coi là tội phạm khi có yêu cầu khởi tố của người bị
hại theo quy định của BLTTHS.
Ba là, vấn đề giám định thương tích sức khoẻ để làm căn cứ khởi
tố, truy tố người phạm tội XPSK của con người còn nhiều bất cập.
Bốn là, Một số tội XPSK của con người còn quy định chung chung,
chưa rõ ràng và chưa được sự hướng dẫn của cơ quan có th m quyền nhất là
các quy định mang tính chất định tính.
Năm là, một số tình tiết định khung tăng nặng quy định từ điểm a
đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS gần tương tự tình tiết tăng nặng TNHS

quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS do vậy đã gây khơng ít khó khăn trong
việc định tội cũng như định khung hình phạt.
Sáu là, Mức hình phạt đối với một số tội phạm q nghiêm khắc,
khơng cịn phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới,
Bẩy là, trong cấu thành cơ bản của một số tội XPSK của con người
chưa phù hợp.
Tám là, Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ người khác quy định về hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe của người
khác được quy định trong BLHS không mô tả rõ ràng dấu hiệu của hành vi
khách quan gây khơng ít khó khăn cho việc xác định chính xác tội danh; có
trường hợp gây thương tích cho nạn nhân chỉ 1% hoặc 2% có thể bị khởi tố,
truy tố và xét xử về tội Cố ý gây thương tích là điều thực sự không cần
thiết, chỉ làm tăng thêm mâu thuẫn trong nội bộ quần chúng nhân dân.
Trường hợp này có thể xử lý hành chính hoặc thơng qua hồ giải
Chín là, BLHS quy định nhiều loại tội phạm có hành vi khách quan
tương tự với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.
18


4.3. Những vƣớng mắc đã đƣợc khắc phục trong Bộ luật Hình sự
năm 2015
1. BLHS năm 2015 đã lượng hóa nhiều tình tiết định tính trong
Chương XII của Bộ luật hình sự năm 1999 như: “nhiều người”, “nhiều
lần”, “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “trẻ em”,... bằng các quy định cụ thể
trong Chương XIV của BLHS năm 2015.
2. Sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 134); đã bổ sung tình

tiết, cụ thể hóa các tình tiết dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng khác” bằng các tình tiết cụ thể, rõ ràng hơn, bổ sung
trường hợp chu n bị phạm tội ở khoản 6. Về hình phạt, để cá thể hóa hình
phạt, điều luật đã chia nhỏ khung hình phạt cho hợp lý hơn
4.4. Một số kiến nghị
4.4.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS về TNHS đối
với các tội X SKcủa con người
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác ( iều 134 BLHS 2015, sửa đổi năm 2017 )
+ Để tránh việc truy cứu TNHS trong một số trường hợp gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có mức độ tổn
thương cơ thể rất nhỏ, đồng thời hạn chế thấp nhất vật chất, kinh phí cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và đữa được hòa giải cần quy định cụ thể trong
điều luật tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng phải là thương tích đáng kể từ 5%
trở lên nếu thuộc một trong các trường hợp từ điểm quy định tại khoản 1 Điều
134 thì phải chịu TNHS. Do đó, khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 c n sửa đổi bổ
sung là:
"...1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho khỏe
của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 5%
đến dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây,...".

19


+Theo quy định của BLHS hiện hành, khung hình phạt hiện nay
đối với một số tội liên quan đến những hành vi bạo lực trong gia đình có
mức hình phạt cao nhất cũng chỉ tới ba năm tù là chưa nghiêm, chưa đủ để
mang tính răn đe. Cần quy định mức hình phạt đối với các hành vi bạo lực
gia đình cao hơn mới có tác dụng ngăn chặn tình trạng bạo lực gia đình hiện
nay ở Việt Nam. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác thì khơng có sự khác biệt giữa người thực hiện hành vi
là thành viên gia đình hay khơng phải thành viên gia đình. Do đó pháp luật
hình sự cần bổ sung thêm các tình tiết định khung như: "phạm tội đối với
vợ, chồng, con cái" và "gây tổn hại sức khỏe cho các thành viên trong gia
đình" vào các tội danh trên.
- Sửa đổi mức hình phạt, đảm bảo tính cơng bằng trong các tội
X SK của con người với các tội phạm khác
Để phù hợp với quy định tội Giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh theo khoản 2 Điều 125 và tội Giết người do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội theo Điều 126 BLHS 2015; đảm bảo công bằng hơn khi cùng hậu quả xảy
ra và không để lọt tội phạm, cần sửa đổi bổ sung như sau:
+ Tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, quy định tại Điều
135 BLHS năm 2015, cần bổ sung quy định như sau:
"....3. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 07 năm"
+ Tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá
mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, quy định tại Điều 136 BLHS,
câng sửa đổi bổ sung quy định như sau:
Sửa đổi khoản 3 Điều 136 BLHS năm 2015 theo hướng giảm mức
hình phạt khi hậu quả dẫn đến chết người để phù hợp với tội giết người do

20


vượt q phịng vệ chính đáng hoặc do vượt q mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 126 BLHS
" ...3, Phạm tội dẫn đến chết người,,,. thì bị phạt tù từ 03 tháng đến

02 năm...
4. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
05 năm"
- Hồn thiện BLHS trong việc xây dựng CTT mơ tả dấu hiệu lỗi
trong tất cả các CTT .
Cần sửa đổi các tội danh trong đó có 02 tội thuộc nhóm XPSK của
con người là tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trong khi thi hành công vụ, tội hành hạ người khác theo hướng thể
hiện rõ thuộc loại tội cố ý hay vô ý. Sửa đổi mức hình phạt của nhóm tội
xâm phạm sức khoẻ, theo hướng xử phạt nghiêm khắc hơn người phạm tội
được thực hiện với lỗi cố ý so với phạm tội do lỗi vô ý.
- Ban hành văn bản hướng dẫn, giải thích áp dụng thống nhất
pháp luật về TNHS đối với các tội S SK của con người
4.4.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan:
- Bộ luật tố tụng hình sự: Cùng với việc sửa đổi BLHS như trên,
chúng tôi đề xuất sửa đổi BLTTHS năm 2015 như sau nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về các tội xâm phạm sức khỏe
người khác.
+ Bổ sung quy định tại Khoản 4 Điều 62 BLTTHS 2015:
“ 4. Người bị hại có nghĩa vụ:
a

có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có th m quyền, trường

hợp cố ý vắng mặt hoặc từ chối hoặc cản trở việc giám định khơng vì lý do
bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải, hoặc phải
chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 383 của Bộ luật hình sự.”.
+ Bỏ các quy định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại đối với các
tội quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138 và 139 BLHS năm
2015.

21


- Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Nghị định, thơng tư,...
quy định thống nhất về trình tự, thủ tục giám định tỷ lệ thương tích, nhất là
trường hợp giám định thương tích nạn nhân qua hồ sơ bệnh án khi người bị
hại bị đối tượng đe doạ, mua chuộc, khống chế hoặc đòi bồi thường, nên đã
từ chối giám định xác định tỷ lệ thương tích.
4.4.3. Các giải pháp khác
- Nâng cao trình độ chun mơn của chủ thể áp dụng trách nhiệm
hình sự
- Giáo dục ý thức chính trị, bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp cho
chủ thể áp dụng trách nhiệm hình sự
- Đẩy mạnh cơng tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Nâng cao hiệu quả cơng tác phịng ngừa, phối hợp phát hiện điều
tra, xử lý các tội xâm phạm sức khỏe của con người
KẾT LUẬN
Tóm lại, từ kết quả nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ luật “ Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con người từ thực
tiễn của tỉnh Hải Dương” cho phép rút ra các kết luận sau đây:
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên Hợp quốc năm
1984 đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do và an ninh cá nhân”.
Hiến pháp và hệ thống pháp luật Việt Nam, các quyền con người, quyền
bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân ph m có vị trí
đặc biệt quan trọng. Hiến pháp năm 2013 của nước ta quy định: “Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm ...”[59,tr.19]. Do đó, cùng với quyền
sống, danh dự, nhân ph m, thì quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của

22


con người là trong những yếu tố cơ bản của quyền con người, đồng thời
một trong những khách thể quan trọng cần bảo vệ bằng luật hình sự Việt
Nam.
2. Trong q trình pháp điển hóa luật hình sự, quy định trong các
BLHS Việt Nam cho thấy đã có sự kế thừa cơ bản những thành tựu của
công tác xây dựng pháp luật trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta, đặc
biệt là quy định của BLHS năm 1985. Sau đó, các quy định của BLHS
năm 1999, sửa đổi năm 2009 và đến BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ
sung năm 2017 về TNHS đối với các tội XPSK của con người đã tương
đối đầy đủ và ngày càng hoàn thiện hơn, nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh, chống tội phạm. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của đất nước vẫn
cịn một số vấn đề cần tiếp tục hồn thiện mà Chương 4 luận án đã chỉ ra.
3. Luận án đã phân tích làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng quy định
của BLHS năm 1999 trong hoạt động xét xử của TAND các cấp trong
việc áp dụng các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người
người, cũng như những tồn tại, vướng mắc trong quá trình áp dụng quy
định của BLHS về các tội phạm này trên địa bàn cả nước nói chung và từ
thực tiễn của tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 13 năm 2006- 2018 . Đồng
thời, luận án cũng đã nghiên cứu, phân tích 385 bản án, quyết định của
TAND 2 cấp của tỉnh Hải Dương về các tội phạm này, qua đó cho thấy,
quy định của BLHS đã được áp dụng đúng, đáp ứng được yêu cầu, đấu
tranh phong, chống các tội XPSK của con người xảy ra trên địa bàn toàn
tỉnh, đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tuy nhiên,
vẫn còn một số sai lầm, thiếu sót trong việc thực hiện các quy định về
TNHS đối với các tội XPSK của con người như: định tội danh, quyết định
hình phạt, .... làm ảnh hưởng cơng tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm,


23


×