Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin _ Về quy luật giá trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.49 KB, 23 trang )

I. Khái quát chung:
1. Giới thiệu một số khái niệm:
 Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong Kinh tế chính trị
Marx-Lenin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế, trong đó sản phẩm được
sản xuất ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực
tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác,
thơng qua việc trao đổi, mua bán. Hay nói một cách khác, sản xuất hàng hóa
là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm sản xuất ra là để bán.
Thuật ngữ “sản xuất hàng hóa” bắt đầu xuất hiện từ khi kinh tế hàng hóa
được hình thành và vì thế nó cũng gắn liền 2 điều kiện:
- Phân cơng lao động xã hội là sự chun mơn hóa lao động trong phạm vi
xã hội , kết quả là hình thành những ngành, nghề khác nhau, sản xuất ra
những sản phẩm khác nhau.
VD: muốn sản xuất một chiếc lò vi sóng thì mỗi chi tiết như buồng nấu,
mạch vi điều khiển, máy phát sóng cao tần,…đều phải qua từng cơng ty chuyên
sản xuất chi tiết để tạo thành một chiếc lị vi sóng hồn chỉnh.

- Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất tức là
những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với
nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông
qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
VD: Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở
hữu của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ.

Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa, nếu thiếu một
trong hai điều kiện thì khơng có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động
khơng mang hình thái hàng hóa.
 Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất
định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.



Trong kinh tế chính trị Marx-Lenin, hàng hóa cũng được định nghĩa là sản
phẩm của lao động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là hữu
hình như sắt thép, quyển sách hay ở dạng vơ hình như sức lao động.
-Giá trị sử dụng của một hàng hóa là cơng dụng của nó hay khả năng thoả
mãn một nhu cầu nào đó của người mua.
-Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa.
 Giá trị là cơ sở để các chủ thể kinh tế trao đổi sản phẩm cho nhau, cụ thể
hơn là giá trị xã hội. Giá trị xã hội mang trong nó lợi ích của cả người mua
và người bán, họ đồng ý trao đổi sản phẩm cho nhau có nghĩa là lợi ích của
người bán và người mua được thực hiện.
2. Khái luận chung về quy luật giá trị:
 Khái niệm của quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa, nó quy định
việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội
cần thiết.
 Nội dung của quy luật giá trị:
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm
sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao
động xã hội cần thiết có như vậy họ mới tồn tại được; cịn trong trao đổi hay
lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: tức giá cả bằng giá trị.
Quy luật giá trị buộc những người sản xuất hàng hóa phải tuân theo “mệnh
lệnh” của giá cả thị trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ
thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống một
cách tự phát xoay quanh giá trị hàng hóa và biểu hiện sự tác động của quy
luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hóa.
II. Vai trị của quy luật giá trị
1. Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa
1.1 Điều tiết sản xuất

Điều tiết sản xuất là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luật giá trị thông qua sự
biến đổi của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy luật cung


cầu. Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường
hợp sau:
- Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa
bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư
thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng
hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản
xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở
rộng.
- Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ
vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này
hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao
động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
- Cịn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể
tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Mục đích của nguời sản xuất là thu nhiều lãi. Dựa vào sự biến động của giá
cả thị trường do tác động của cung – cầu người ta biết hàng nào đang thiếu
đang thừa, từ đó người sản xuất sẽ mở rộng sản xuất thu nhiều lãi thậm chí
đóng cửa những mặt hàng ế, thừa, giá thấp.

Cung = Cầu: Giá cả = Giá trị => Lãi suất trung bình => Hiếm khi xảy
ra.

Cung > Cầu: Giá cả < Giá trị => Thua lỗ => Thu hẹp quy mô sản xuất,
chuyển sang đầu tư ngành khác.


Cung < Cầu: Giá cả > Giá trị => Lãi cao => Người sản xuất đổ xô
vào ngành => Sức lao động, tư liệu sản xuất chuyển dịch vào càng tăng.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và
sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
1.2 Điều tiết lưu thông
Yêu cầu của qui luật là phải trao đổi ngang giá, nhưng thực tế do tác động
của qui luật cung cầu nên có thể nơi này bán cao hơn giá trị nhưng nơi khác lại
phải bán thấp hơn giá trị. Nội dung của qui luật của quy luật giá trị thể hiện ở
chỗ nó thu hút hàng hố từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao và do đó,
góp phần làm cho hàng hố giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. Nếu giá trị
thị trường hạ thấp thì nói chung nhu cầu xã hội sẽ mở rộng thêm và trong giới
hạn nhất định có thể thu hút những khối lượng hàng hóa lớn hơn. Nếu giá trị thị
trường tăng lên thì nhu cầu xã hội về hàng hóa sẽ thu hẹp và khối lượng hàng
hóa tiêu thụ cũng sẽ giảm xuống. Cho nên nếu cung cầu điều tiết giá cả thị
trường (điều tiết sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị thị trường) thì chính giá trị


thị trường điều tiết quan hệ cung cầu hay cấu thành trung tâm đó là những sự
thay đổi trong cung cầu làm cho những giá cả thị trường phải lên xuống.
Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường không những chỉ rõ sự biến
động về kinh tế mà cịn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa.
1.3 Vận dụng thực tế
Thị trường gạo Việt Nam những năm gần đây là minh chứng cho tác động
điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa của quy luật giá trị. Nhìn lại quá trình
tham gia thị trường gạo thế giới, có thể thấy đến năm 2007, kinh tế Việt Nam
mới chính thức hội nhập vào kinh tế tồn cầu, nhưng người nông dân sản xuất
gạo Việt Nam đã tham gia thị trường lúa gạo thế giới trước đó 2 thập kỉ. Việt
Nam đã trở thành quốc gia cung cấp gạo quan trọng trên thị trường thế giới.
Trong giai đoạn 1989-2008 VN đã xuất khẩu gạo sang 128 nước trên thế
giới, trên 3 triệu tấn gạo. Trong năm 2009, xuất khẩu gạo đã tăng vọt lên hơn 6

triệu tấn. Đến năm 2010, xuất khẩu gạo tiếp tục đạt kỷ lục mới về cả số lượng
và trị giá với 6,75 triệu tấn và thu được 3 tỷ USD.
Nhìn vào những thành cơng trong xuất khẩu gạo của nước ta, có thể thấy rõ
sự tác động của quy luật giá trị vào nền kinh tế. Xét riêng trong trường hợp này
là trong lưu thơng hàng hóa. Do nguồn cung cấp gạo trên thế giới bị thiếu hụt,
nhiều nước muốn nhập khẩu gạo, giá gạo được đẩy lên cao, những nhà đầu tư
sẽ chung chuyển gạo từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao, làm cho lưu thơng
hàng hóa thơng suốt, góp phần làm thị trường gạo trên thế giới có sự cân bằng
nhất định.
2. Kích thích lực lượng sản xuất phát triển, kích thích cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm
2.1 Lý luận
Hàng hoá sản xuất trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí
lao động cá biệt (giá thành) khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá đều
được trao đổi theo mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã
hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp thì lãi càng nhiều. Điều này
kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao
động, hạ chi phí sản xuất để thu được nhiều lợi hơn. Lợi ích kinh tế thúc đẩy
các nhà sản xuất cạnh tranh quyết liệt, hệ quả là năng suất lao động trong tồn
xã hội khơng ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng tăng lên.
Để tránh bị phá sản, giành được ưu thế trong cạnh tranh và thu hút được
nhiều lãi, từng người sản xuất hàng hoá đều tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, hợp
lý hố sản xuất để giảm hao phí lao động cá biệt của mình, giảm giá trị cá biệt


của hàng hố do họ sản xuất ra. Từ đó làm cho kỹ thuật của toàn xã hội càng
phát triển lên trình độ cao hơn, năng suất càng tăng cao hơn. Thực tế chúng ta
thấy rằng phương thức sản xuất tư liệu sản xuất luôn biến đổi dẫn đến sự phân

cơng tỉ mỉ, dùng nhiều máy móc thiết bị hiện đại hơn. Đó là quy luật đưa sản
xuất ra khỏi con đường cũ và luôn buộc sản xuất phải làm cho sức sản xuất lao
động khẩn trương hơn nhằm giữ cho giá cả hàng hố ngang bằng với chi phí
sản xuất của chính hàng hố đó trong giới hạn của những biến động chu kỳ của
thương mại...
Nếu một người nào sản xuất được rẻ hơn, có thể bán được nhiều hàng hố
hơn và do đó chiếm lĩnh được ở trên thị trường một địa bàn rộng hơn bằng
cách bán ra có giá thấp hơn giá thị trường hay hạ thấp hơn giá trị thị trường thì
người đó sẽ làm ngay như vậy và dần dần buộc những người khác cũng phải áp
dụng các phương pháp ít tốn kém hơn và làm cho thời gian lao động xã hội cần
thiết giảm xuống một mức thấp hơn.
Quy luật giá trị có vai trị vơ cùng quan trọng trong thực tiễn đổi mới nền
kinh tế của bất kì quốc gia nào, đặc biệt trong việc kích thích sản xuất phát triển.
Mỗi doanh nghiệp đều phải cố gắng cải tiến máy móc mẫu mã, nâng cao tay nghề
lao động. Nếu không quy luật giá trị sẽ thực hiện vai trị đào thải của nó: loại bỏ
những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân, ngành, doanh nghiệp phát huy hết
tính hiệu quả tiềm năng của nó. Từ đó tất yếu dẫn đến sự phát triển của lực lượng
sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có chun mơn tay nghề ngày càng cao,
công cụ lao động luôn luôn được nâng cao, cải tiến. Vì vậy, sự xã hội hố, chun
mơn hố lực lượng sản xuất được phát triển, nền kinh tế xã hội sẽ luôn trên đà đổi
mới, phát triển mạnh mẽ.
2.2 Biểu hiện thực tế
Lúc này, trình độ khoa học, kỹ thuật cơng nghệ nước ta đang cịn rất yếu,
khơng có thành tựu nào đáng kể trong nghiên cứu khoa học mà chỉ thừa hưởng
những công nghệ đã lạc lậu của các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới
chuyển giao lại. Điều đáng nói là ngay cả việc giám định các cơng nghệ chuyển
giao cũng khơng có. Nó đã gây lãng phí ngân sách Nhà nước rất nhiều vì chúng ta
phải nhận mua những máy móc thiết bị công nghệ đã qua sử dụng với giá cả ngang
bằng với giá của máy móc, cơng nghệ mới. Ngun nhân là do Nhà nước khơng có
những chính sách đầu tư chính đáng cho nghiên cứu, ứng dụng triển khai các thành

tự khoa học kỹ thuật mới. Nhận thức và vận dụng quy luật giá trị thể hiện chủ yếu
trong việc hình thành giá cả (giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải
lấy giá trị làm cơ sở thì mới có căn cứ kinh tế, mới có tác dụng kích thích tăng
năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật), Nhà nước ta đã chủ động lợi dụng cơ chế
hoạt động của quy luật giá trị nghĩa là khả năng giá cả tách rời giá trị và xu hướng
giá cả tách rời giá trị. Thông qua chính sách giá cả, Nhà nước vận dụng quy luật


giá trị nhằm điều hồ lưu thơng hàng tiêu dùng; phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân; tổ chức và hạch toán kinh tế; và hơn cả là kích thích sản xuất phát
triển: đối với xí nghiệp quốc doanh, chủ yếu là xây dựng một hệ thống giá bán để
đưa hạch toán kinh tế đi vào nền nếp và có căn cứ vững chắc.

=> Kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị vào nước ta:
Đối với năng lực cạnh tranh dịch vụ của nước ta trong những năm gần đây
đã được nâng cao song cũng không ít những sản phẩm dịch vụ năng lực cạnh tranh
còn thấp. Nhóm các sản phẩm có khả năng cạnh tranh chủ yếu là sản phẩm nơng
nghiệp, khống sản chưa qua chế biến là những mặt hàng lao động có tỉ lệ cao, dựa
vào lợi thế so sánh về sự khéo léo, chi phí tiền cơng lao động thấp. Tuy nhiên các
mặt hàng này chưa có thương hiệu, kiểu dáng riêng, chưa tạo được cơ sở nguyên
liệu, phụ liệu, cơ sở cơng nghệ và kĩ thuật cần thiết, giá thành cịn cao. Hàng thủ
cơng mĩ nghệ có khả năng cạnh tranh tương đối tốt song chất lượng còn thiếu ổn
định, năng lực hạn chế, chưa đáp ứng được đơn hàng lớn.
3.
Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo
3.1 Sự lựa chọn tự nhiên
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa,
ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng
của quy luật giá trị. Yêu cầu chung của quy luật này là việc sản xuất và trao đổi

hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Yêu cầu này cho ta
biết, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt cao hơn mức chi phí mà xã
hội chấp nhận được thì sẽ khơng có lãi. Trong xã hội, bên cạnh người sản xuất cá
thể, nhỏ lẻ, tự phát; còn xuất hiện phương thức sản xuất xác lập được sự phân
công, tổ chức theo kế hoạch (sản xuất xã hội). Tất nhiên, tổ chức có kế hoạch
mạnh hơn nhiều so với sự phân cơng tự phát. Ví dụ sản phẩm của một công xưởng
đưa lại nhiều lợi thế kinh tế hơn so với sản phẩm của cá nhân, sản xuất tự phát,
nhỏ lẻ. Theo như quy luật giá trị, những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có
trình độ, kiến thức cao, trang bị kĩ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp
hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó mà phát tài. Ngược lại, nếu khơng
có những điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi sẽ dẫn tới thua lỗ, phá sản và nghèo
khó. Quy luật giá trị đã chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích
thích các nhân tố tích cực phát triển.
3.2 Sự phân hóa giàu nghèo


Từ sự chi phối lựa chọn tự nhiên, quy luật giá trị dẫn tới sự phân hóa giàu
nghèo. Những người có điều kiện thuận lợi, tinh nhạy trong sản xuất, có tổ chức,
kế hoạch sẽ sớm phát tài. Họ dùng tiền có từ hoạt động sản xuất để mở rộng kinh
doanh, thuê lao động, mua máy móc,… và dần dần trở thành những ông chủ.
Ngược lại những người thua lỗ trong sản xuất vì khơng có điều kiện thuận lợi,.làm
việc khơng có kế hoạch, sẽ dần mất hết vốn và cuối cùng trở thành người làm thuê.
3.3 Ví dụ về sự phân hóa giàu nghèo
Anh Ba đầu tư xưởng dệt may ở một địa điểm gần trung tâm thành phố nên
giá thành cao, nhân công của công ty anh chủ yếu là con cháu của bà con anh em
họ hàng nhờ gửi nên mức lương khá cao, thấp quá anh Ba sợ khó ăn nói. Nguồn
nguyên liệu anh chủ yếu phải nhập từ các vùng nông thôn lại thêm tiền vận
chuyển. Công ty anh chủ yếu làm những loại vải bình thường trên thị trường nên
có sức cạnh tranh rất mạnh. Do đó, làm được một thời gian, cơng ty anh Ba đã bị
phá sản do thiếu vốn, anh Ba phải đi làm thuê cho một công ty khác.

=> Như vậy, cùng là sản xuất hàng hóa, xã hội đã phân hóa giàu nghèo.
Trong những năm qua, Việt Nam dần đưa nền kinh tế phát triển theo hướng
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vận dụng quy luật giá trị, nền kinh
tế việt nam ngày một phát triển, đồng thời tỉ lệ người nghèo cũng giảm xuống.
TỶ LỆ HỘ NGHÈO NĂM 2004 VÀ NĂM 2006
THEO CHUẨN MỚI CỦA CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2006-2010 (%)
Năm 2004

Năm 2006

(Tính theo chuẩn mới của Chính phủ
giai đoạn 2006-2010 quy về giá tháng
1/2004)
Cả nước

18,1

15,5

Thành thị

8,6

7,7

Nông thôn

21,2

17


12,9

10,1

Chia theo khu vực

Chia theo vùng
Đồng bằng sông Hồng


Đông Bắc

23,2

22,2

Tây Bắc

46,1

39,4

Bắc Trung Bộ

29,4

26,6

Duyên hải


21,3

17,2

Tây Nguyên

29,2

24,0

Đông Nam Bộ

6,1

4,6

Đồng bằng

15,3

13,0

Nam Trung Bộ

sông Cửu Long
Tuy nhiên khoảng cách giàu nghèo lại tăng lên. một nghiên cứu của Oxfam
về tình trạng bất bình đẳng tại Việt Nam mới đây cũng cho thấy, khoảng cách giàu
nghèo tại Việt Nam ngày càng tăng. Thu nhập 1 năm của nhóm 210 người siêu
giàu tại Việt Nam đủ sức để đưa 3,2 triệu người thoát nghèo, chấm dứt nghèo cùng

cực trên cả nước.
Vì vậy nhà nước cần có biện pháp khắc phục tác động hạn chế này của quy
luật giá trị.
4. Ý nghĩa của vai trò của quy luật giá trị
C. Mác đã nói “Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hố thì ở đó có quy luật
giá trị” (Tư bản quyển III STH 1978 Tr.309). Đúng vậy, tác dụng của quy luật giá
trị có ý nghĩa khách quan, khả năng nhận thức của con người nhận thức và vận
dụng quy luật sẽ quy định tính chất tiêu cực hay tích cực mà việc vận dụng nó sẽ
mang lại cho xã hội, vì vậy nghiên cứu để có thể áp dụng quy luật giá trị một cách
khoa học hiệu quả tận dụng một cách tối ưu nhất những ưu điểm của nó khi tham
gia vào nền kinh tế đất nước.
Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên giá trị của
nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết.
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hố có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn to lớn:
Một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém,
kích thích các nhân tố tích cực phát triển.
Một khi các yếu tố cũ, lạc hậu, yếu kém khơng cịn phù hợp nữa thì khơng sớm
thì muộn nó sẽ bị thay thế, đào thải,...tạo tiền đề để những nhân tố tích cực phát
triển tốt hơn.


Tác động của việc điều tiết hàng hoá của quy luật giá trị thể hiện nó thu hút
hàng hố ở nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá trị cao hơn. Điều này góp phần
làm cho hàng hố ở mỗi khu vực có sự cân bằng nhất định.
Sự tác động của việc kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng
suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển đã góp phần cho chúng
ta thấy được thực tế phương thức sản xuất, tư liệu sản xuất luôn bị biến đổi khơng
ngừng. Từ đó dẫn đến sự phân cơng lao động, áp dụng cải tiến hơn các loại máy
móc trên một quy mô lớn để đưa đến lao động trên một quy mơ lớn hơn như thế

nào.
Ví dụ: Cổ phần Cao su Đồng Phú sau hơn 30 năm hoạt động, diện tích cao su
của Đồng Phú đã phát triển lên đến hơn 10.000 ha và cho năng suất bình quân 2,5
tấn/ha. Có được như vậy là nhờ cơng ty đã nhập khẩu các giống cao su mới cho
năng suất cao, cải tiến kĩ thuật trồng và khai thác mủ cao su. Ngoài việc trồng và
khai thác mủ cao su, Đồng Phú còn là đơn vị đi tiên phong và duy nhất trong Tập
đồn Cơng nghiệp Cao su Việt Nam đầu tư công nghệ sản xuất sản phẩm tiêu dùng
từ cao su, nhằm giảm việc xuất khẩu nguyên liệu thô, tạo thêm việc làm, tăng thêm
chuỗi lợi nhuận và khẳng định thương hiệu cao su Việt Nam trên thị trường quốc
tế.
Như vậy, với chiến lược cải tiến kĩ thuật, áp dụng giống mới, hợp lý hóa sản xuất,
tăng năng suất lao động, ngành cao su nước ta đã có những bước tiến mới, chỗ
đứng trên thị trường thế giới. Sự tiến bộ này đã tạo ra thế cạnh tranh giữa các nước
trong ngành sản xuất mặt hàng cao su buộc tất cả các nước đang sản xuất cao su
phải tuân theo quy luật giá trị. Áp dụng tốt quy luật giá trị, sáng tạo, đổi mới công
nghệ sản xuất, ngành cao su khơng những tạo ra uy tín của mình trên thị trường mà
cịn góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước nhà phát triển.
Mặt khác, phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng
trong xã hội.
Ví dụ : Cùng là những người nơng dân xuất thân từ vùng q nghèo khó làm
nghề ni trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau, nhưng trong vài năm gần đây, mức thu
nhập của những người dân ở đây có sự phân hóa rõ rệt. Với kinh nghiệm, kiến thức
sẵn có khi cịn trồng lúa, nay chuyển sang ni tơm, một số nông dân Cà Mau tiếp
thu rất nhanh, áp dụng khá tốt những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào nghề ni tơm.
Từ đó, ni trồng thủy sản phát triển theo hướng đa dạng hóa các loại hình ni,
đối tượng nuôi gắn với chọn lựa con giống, xử lý nguồn nước, dịch bệnh. Anh
Ðoàn Văn Túc, anh mạnh dạn vay vốn Ngân hàng và quyết định đầu tư vào nuôi
trồng thủy sản. Nhận thức được đây là vùng đất nhiều tiềm năng, phù hợp với nuôi
trồng thủy hải sản và sản xuất con giống, anh trăn trở để tìm cách giải quyết vấn đề



về vốn và kĩ thuật. Trong hai năm vừa qua, gia đình anh Túc sản xuất gần 400 triệu
con giống cung ứng cho thị trường, đạt doanh thu hơn 5 tỉ đồng.
Tóm lại, sự vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam cũng đã đem lại
những hiệu quả nhất định. Tuy vẫn còn mặt hạn chế nhưng cũng đã có những khía
cạnh đáng kể. Để khơng gặp khó khăn thì chúng ta cần có sự sáng tạo bên cạnh kế
thừa để phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nền kinh tế. Nước ta vốn đi lên
XHCN không qua trung gian TBCN nên nền kinh tế cịn mang nặng tính nơng
nghiệp lạc hậu. Cần tăng cường liên kết các quan hệ hàng hoá tiền tệ với các quan
hệ xã hội. Nâng cao nhận thức và trình độ của con người vì đội ngũ vận dụng quy
luật giá trị vào sản xuất là yếu tố quan trọng nhất.

III. Kết quả của sự vận dụng quy luật kinh tế vào nền kinh tế hiện đại
1. Sự vận dụng quy luật vào nền kinh tế hiện đại ở việt Nam
1.1Biểu hiện:
Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế Thế giới với chính sách
mở cửa hợp tác với các nước. Ngay từ đầu, Đảng ta đã đưa ra quan điểm rõ
ràng "Một nền kinh tế phát triển theo mơ hình nền kinh tế nhiều thành phần,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa và dưới sự quản lý của nhà nước". Trong quá
trình phát triển nền kinh tế nước ta chiụ tác động của nhiều nhân tố khách
quan, một trong những nhân tố khách quan chủ yếu là quy luật giá trị. Đó là
một quy luật kinh tế căn bản tác động vào nền kinh tế, ở đâu có hàng hố và sản
xuất hàng hố thì quy luật giá trị cịn tồn tại và phát triển, thơng qua đó ta thấy vai
trị to lớn của quy luật giá trị . Nó duy trì và mở rộng sản xuất của xí nghiệp và của
xã hội. Việc phân phối thu nhập quốc dân và đạt những cân đối cần thiết của nền
kinh tế theo hình thức giá trị, mặt khác kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao
động xã hội cần thiết, đồng thời tính tốn kinh tế để bố trí lực lượng sản xuất trong
cả nước nhằm thực hiện tốt yêu cầu của quy luật phát triển kinh tế có kế hoạch.
Với những vai trị đó quy luật giá trị có tác động mạnh trong phân phối xã hội chủ



nghĩa: Phân phối theo lao động thông qua giá cả, tiền tệ... nó có tác động đẩy
nhanh hoặc kìm hãm tốc độ thực hiện kế hoạch lưu thơng, hồn thiện hoặc phá
vỡ kế hoạch đó. Nhưng trong đó nhân tố giá cả là yếu tố biểu hiện cơ bản của quy
luật gía trị. Trong thực trạng nước ta hiện nay nó đang biểu hiện nhiều mặt tích
cực, kích thích lưu thông nâng cao hiệu quả sản xuất, nhưng bên cạnh nó những
biểu hiện nhiều mặt tiêu cực... Hạn chế rất lớn đối với sự phát triển của nước ta
hiện nay vì vậy cần phải nghiên cứu kỹ quy luật giá trị để có những hiểu biết
thêm về những biểu hiện mới của nó từ đó có những chính sách và hướng đi rõ
ràng cụ thể để nước ta ngày càng phát triển đi lên.Với các đặc trưng của mơ
hình này như đã nói ở trên, các quy luật kinh tế được phép huy tác dụng của nó,
trong đó quy luật kinh tế căn bản chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế.
a. Trong lĩnh vực sản xuất
Nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức
là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thơng qua thị trường, sản phẩm phải thành
hàng hóa. Đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị - sản xuất và trao đổi
hàng hóa phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:
- Xét ở tầm vi mô: mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng
làm cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.
- Xét ở tầm vĩ mô: mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.
Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì trong sản xuất giá trị cá biệt của
từng xí nghiệp phải phù hợp hoặc thấp hơn giá trị xã hội, do đó quy luật giá trị
dùng làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong sản xuất
kinh doanh. Các cấp quản lí kinh tế cũng như các ngành sản xuất, các đơn vị
sản xuất ở cơ sở, khi đặt kế hoạch hay thực hiện hoạch kinh tế đều phải tính đến
giá thành, quan hệ cung cầu, để định lượng, kết cấu hàng hóa,…


Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị

mà chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của CNXH và quy luật phát
triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân, tuy nhiên quy luật giá trị
khơng phải khơng có ảnh hưởng đến sản xuất. Những vật phẩm tiêu dùng cần
thiết để bù đắp vào sức lao động đã hao phí trong q trình sản xuất, đều được
sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức hàng hóa và chịu sản xuất sự tác động của
quy luật giá trị. Trong những thành phần kinh tế khác nhau, tác động của quy
luật giá trị có những điểm khơng giống nhau. Vì thế các xí nghiệp của chúng ta
khơng thể và không được bỏ qua quy luật giá trị.
Do vậy, nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình
độ chun mơn. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã,
nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai
trị đào thải của nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân,
ngành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát
triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên
môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn ln được cải tiến. Và cùng với nó,
sự xã hội hóa, chun mơn hóa lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây là
những vận dụng đúng đắn của nhà nước.
b. Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế
Việc chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong
hoạt động đáng bởi các chi tiêu sản xuất mà nhà nước đưa ra và phải tự nghiên
cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự
phân đoạn thị trường để xác định tấn cơng vào đâu, bằng những sản phẩm gì.
Mặt khác, cùng với xu hướng cơng khai tài chính doanh nghiệp để giao
dịch trên sàn giao dịch chứng khoán , thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA.
WTO; mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của


mình để có thể đứng vững khi bão táp của quá trình hội nhập quốc tế hội nhập
đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức canh tranh giữa các

doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước
ngoài , giữa các cá nhân trong nước và các nhân nước ngoài.
c. Tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế
năng động lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm cho mình một con
đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh doanh tạo nên sự sản xuấ hiệu
quả nhất. Các con đường đó sẽ vơ vàn khác nhau, ln tạo ra những lĩnh vực
sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh năng động sẽ làm cho sản phẩm hàng
hóa đa dạng về mẫu mã, nhiều chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy luật giá
trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại nhiều lợi ích cho
người tiêu dùng.
Sự năng động thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Vì, việc
phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các
thành phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều
hàng hóa thu lợi nhuận hay nâng cao trình độ sản xuất một ngành, một lĩnh
vực nhất định.
d. Thúc đẩy q trình hội nhập quốc tế
Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận, sự đầu tư trong nước
và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy
q trình hội nhập quốc tế.
Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ
xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên có nước cần vốn thì nước thừa
vốn. Do tốc độ phát triển khác nhau nên có nước phát triển có nước lạc hậu; do
sự phân bố tài nguyên khác nhau nên mỗi nước lại có điều kiện sản xuất khác
nhau và tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường. Điều này thúc đẩy sự


chun mơn hóa, hiệu tác sản xuất để có chi phí sẽ làm cho giá cả thấp, và do
đó thắng trên thương trường.
Ngoài ra, quy luật giá trị tác động có tác dụng giáo dục những cán bộ

lãnh đạo kinh tế tiến hành sản xuất hợp lý, tôn trọng kỉ luật, học hỏi tiềm lực
của sản xuất, tính tốn chính xác, nắm bắt tình hình thực hiện của sản xuất, biết
tìm cách lực lượng dự trữ tiềm tàng giấu kín trong sản xuất.
Tuy nhiên vẫn còn các cán bộ lãnh đạo, các nhà chuyên môn về công tác
kế hoạch đều hiểu không thấu đáo tác dụng của quy luật giá trị, không nghiên
cứu và không biết chú ý đến tác dụng đó trong khi tính tốn. Là ngun nhân
vì sao chính sách nước ta cịn hay mơ hồ.
e.Trong lĩnh vực lưu thông.
Phân phối và lưu thông trong xã hội chủ nghĩa có sự tác động khách
quan của quy luật giá trị. Việc vận dụng quy luật lưu thông, phân phối được thể
hiện ở những mặt sau.
Hình thành giá cả
Giá cả là một phạm trù phức tạp, sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là
một tất yếu khách quan của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã vận
dụng quy luật giá trị vào những mục đích nhất định, đã phải tính đến những
nhiệm vụ kinh tế, chính trị trước mắt và lâu dài, căn cứ vào nhiều quy luật kinh
tế xã hội chủ nghĩa.
Hình thành giá cả là hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất.
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, cho nên khi xác định giá cả
phải đảm bảo yêu cầu khách quan là lấy giá trị cơ sở, phản ánh đầy đủ những
hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hóa. Giá cả phải bù đắp chi phí
sản xuất hợp lý, tức là bù đắp giá thành sản xuất, đồng thời bảo đảm một mức
lãi thích đáng để tái sản xuất mở rộng. Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ


biến cho mọi quan hệ trao đổi, quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh nghiệp
với nhau, cũng như nhà nước với nông dân.
Nguồn hàng lưu thông.
Trong nền kinh tế XHCN, việc cung cấp hàng hóa cho thị trường thực
hiện một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc

tế dân sinh, nếu cung cầu khơng cân đối thì nhà nước dùng biện pháp đẩy
mạnh sản xuất, tăng cường thu mua, cung cầu theo định lượng, theo tiêu chuẩn
mà không thay đổi giá cả. Chính thơng qua hệ thống giá cả quy luật có ảnh
hưởng nhất định đến việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ
khơi thêm nguồn hàng, gái bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ, và ngược lại.
Do đó mà nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay
quanh gái trị để kích thích cải tiến kĩ thuật tăng cường quản lí. Khơng những
thế nhà nước ta cịn chủ động tách giá cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa
trong từng thời kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để
điều tiết một phần sả xuất và lưu thông , điều chỉnh cung cầu cà phân phố. Giá
cả được coi là một cơng cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng
của xã hội.
1.2.Ví dụ:
a. Giá cả của sản phẩm công nghiệp nặng lại đặt thấp hơn giá
trị để khuyến khích sự đầu tư phát triển, áp dụng kĩ thuật vào sản xuất.
Tuy nhiên sự điều chỉnh này ở nước ta không phải bao giờ cũng phát huy tác
dụng tích cực, nhiều khi những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn, tạo
điều kiện cho hàng hóa nước ngoài tràn vào nước do giá cả hợp lý hơn.
Kinh tế thị trường tuân thủ nguyên tắc trao đổi ngang giá hàng hóa, theo
đuổi hiệu quả phân phối tối ưu của các nguồn. Thước đo giá trị chú trọng hiệu
quả kinh tế thị trường; một khi mở rộng, vận dụng vào lĩnh vực đời sống xã hội
và quan hệ con người, không tránh khỏi sản sinh những quan hệ khác nhau gắn


bó đạo đức con người đó chuẩn mực giá trị coi trọng tình nghĩa, xem thường
lợi ích hay coi trọng lợi ích, xem thường tình nghĩa . “do vậy, ở nước ta, phát
triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải chú ý sự chuyển đổi
quan niệm sao cho phù hợp với đạo đức dân tộc truyền thống và hiện đại. thể
hiện rõ nhất ở nước ta hiện nay là nạn nhân hàng giả, trốn thuế, buôn lậu…..”


2. Tác động của quy luật kinh tế đối với nền kinh tế hiện nay:
2.1.Quy luật giá trị đối với thực tiễn nền kinh tế Việt nam
2.1.1.Tình hình kinh tế nước ta trước thời kì dổi mới ( thời kì bao cấp)
(mặt tiêu cực)
Trước năm 1986, đất nước ta bước đầu tiến lên CNXH,mà nổi bật đó chính
là thành tựu của việc thực hiện liên tiếp 2 kế hoạch 5 năm ( đó là sự phục hồi
về cơ sở nông, công nghiệp và các cơ sở giao thơng vận tải bị địch đáng phá
trước đó, xóa bỏ hồn tồn giai cấp tư sản hay đó là nhà nước ta tiến hành
quốc hữu hóa các xí ngiệp qc doanh hoặc cơng tư….)
Tuy đạt được một số thành tựu như thế, dù vậy không thể nào phủ nhận rằng
vấn dề phát triển kinh tế vẫn là một bài tốn nan giải đối với nước ta trong
cơng cược đổi mới thời bấy giờ. Nguyên nhân có thể xác định chính là do
thời kì này, nước ta đã có cách hiểu sai lệch dẫn đến việc vận dụng quy luật
giá trị trong phát triển nền kinh tế quốc gia đã có một số sai lầm ( đó chính là
việc nhà nước thực hiện phân phát lương thực và sản phẩm lao động như
nhau cho tất cả mọi người. Triệt tiêu đi tính tích cực và năng động trong xã
hội dẫn đến nên kinh tế của nước ta bị trì trệ, kém phát triển chính là những
hậu quả do những sai lầm trong việc vận dụng sai lệch các quy tắc phát triển
kinh tế mà trong đó có quy luật giá trị gây ra.
*Nền kinh tế nước ta trong thời kì đổi mới (1986 -2000) và sau đổi mới
( từ 2000 đến nay)


a) Trong đổi mới:
Với đường lối đổi mới của Đảng, hầu hết các hạn chế của thời kì trước đổi
mới đều được khắc phục và hoàn thiện. Về mặt kinh tế, nhìn chung giai
đoạn này có phần tiến bộ hơn ( kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhiều
ngành, nhiều nghề theo định hướng XHCN, mở rộng các mối quan hệ về
kinh tế với các quốc gia trong khu vực và quốc tế,,,).

Tuy nhiên, lại đặt ra vấn đề cho giai đoạn này chính là những hạn chế về
quy mơ các cơ sở, lực lượng sản xuất nhỏ lẻ, rải rác không tập trung, cơ sở
vật chất – kĩ thuật kém phát triển, trình độ người lao động tuy đơng đảo về
số lượng nhưng lại bị hạn chế rất nhiều về chất lượng,,,,). Vậy phải chăng,
trong giai đoạn này, đường lối đổi mới của Đảng ta mới chỉ giải quyết
được phần ngọn mà chưa giải quyết được phần gốc ? Có phải việc vận
dụng những quy luật kinh tế của Đảng và NN ta lại có sự sai lệch?
b) Sau đổi mới:
Khi nói đến việc vận dụng những quy luật nhằm phát triển kinh tế trong
đó có quy luật giá trị thì khơng chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế
giới đều xem việc vận dụng có hiệu quả quy luật này nhằm phát triển kinh
tế của quốc gia mình.
Nếu như khi nói đến việc phát triển tồn bộ các lĩnh vực trong xã hội thì
chúng ta ln nói đến con người. Bởi con người ln được xem là chìa
khóa vàng cho mọi cơng việc. thì khi nói đến sự phát triển kinh tế của Việt
nam nói riêng và thế giới nói chung thì việc vận dụng đúng đắn, có hiệu
quả quy luật giá trị ln được coi là nhân tố hàng đầu cho sự phát triển
kinh tế của từng quốc gia. Vì vậy, để vận dụng tốt nó thì Việt Nam cần
phải làm gì để đất nước ta dần dần thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu để
dưa nước ta thàng một quốc gia có một nền kinh tế phát triển hơn, hoàn
chỉnh hơn.
2.1.2Thực trạng nền kinh tế ta hiện nay:
Nên kinh tế của các nước trên thế giới nói chung và VN nói riêng ln
biến động khơng ngừng qua các thời kì khác nhau. Nhưng nhìn chung
nền kinh tế của bất kì quốc gia nào ln luôn bị phụ thuộc vào sự biến
động của nền kinh tế thế giới. Tìm ra được những vấn đề bất cập tồn tại
trong nên kinh tế nước ta để từ đó chúng ta có thể lưu tâm tìm ra biện
pháp khắc phục và giải quyết vấn đề đó một cách triệt để. Dưới đây là
một số những vấn đề mà nước ta gặp hiện nay:
-Thứ nhất, đó chính là con người, con người được xem là chìa khóa vàng

cho sự phát triển của một nền kinh tế của một quốc gia. Việt Nam được đánh


giá là một quốc gia có lực lượng lao động dồi dào. Tuy nghiên đó cũng là
một nhược điểm đối với chất lượng người lao động ở nước ta. Bởi lẽ, tuy
động đảo về số lượng nhưng chỉ số ít trong đó là những người lao động có
trình độ cao, được đào tạo chun mơn. Ngồi ra tuy được đáng giá là thông
minh nhưng đa phần lực lượng lao động ở nước ta lại chưa thật sư nghiêm
túc và chưa cho thấy sự chun nghiệp của mình trong các mơi trường làm
việc.
-Thứ hai, sự phát triển về KH – KT và các điều kiện cơ sở vật chất của đất
nước ta. Điều không thể chối cãi là so với các nước đang phát triển thì nước
ta có cở sở vật chất kém phát triển hơn so với các nước còn lại.
Hơn nữa , đa phần
các công ty, doanh nghiệp ở VN chỉ ở quy mơ vừa và nhỏ. Ngồi ra, sự phát
triển của nên kinh tế nước ta còn phụ thuộc một phần vào mức độ hoàn thiện
cở sở hạ tầng , sự lãng phí các tài nguyên thiên nhiên của quốc gia. Những
điều đó đã gây ra tác động không nhỏ đến nên kinh tế của nước ta.
-Thứ ba, vấn đề về nguồn vốn để phát triển kinh tế, đó là vấn đề hàng đầu
khi nói về phát triển kinh tế. Nhưng trên thực tế, nước ta trong một số năm
gần đây ln bị vấp phải tình trạng thiếu hụt ngiêm trọng về nguồn vốn vì
tổng thu ngân sách luôn thấp hơn tong chi ngân sách (theo m.vov.vn – theo
cập nhật của tổng cục thơng kê, tính đến ngày 15/12/2016, tong thu ngân
sách nhà nước ước tính đạt 943 300 tỷ đồng nhưng tổng chi ngân sách lại đạt
đến con số 1135500 tỷ đồng _ tức bội chi ngân sách xấp xỉ đạt tới con số 200
000 tỷ đồng; tiếp đến năm 2017 ,tính đến ngày 15/12/2017 tổng thu ngân
sách ước tính đạt 1104000 tỷ đồng, trong khi tổng chi ngân sách lên đến con
số1 219 500 tỷ đồng _ tức bội chi ngân sách lên đến con số 115 500 tỷ đồng).
Tuy có giảm so với năm 2016 nhưng vẫn còn ở mức khá cao.
-Thứ tư, là cơ cấu kinh tế. Nước ta phát triển kinh tế theo định hướng xã

hội chủ nghiã. Tuy nhiên cơ cấu kinh tế nước ta được tổ chức khá lỏng lẻo,
cơ cấu ngành còn nhiều bất cập. Việc đầu tư phát triển các vùng kinh tế chưa
có sự đồng đều.
-Thứ năm, là vấn đề dân số. Việc tăng dân số khá nhanh cũng là một trong
những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Tuy dân số đông
tạo thuận lợi cho nước ta về vấn đề nguồn lao động, kích thích tiêu dùng
nhưng vấn đề nan giải đặt ra đó chính là vấn đề giải quyết việc làm, nguy cơ
thất nghiệp, tệ nạn xã hội cao.
-Cuối cùng, là vấn đề thể chế chính trị và quản lý nhà nước. Nước ta tuy
đã thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư và thực hiện nhiều chương trình
khuyến khích khởi nghiệp, thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài và các bạn


trẻ có mong muốn khởi nghiệp nhưng thủ tục và các loại giáy phép cho q
trình đăng kí thật sự rất phức tạp và cịn tồn tại khá nhiều khó khăn.

Việc vận dụng quy luật giá trị đối với VN nói riêng và đối với các
quốc gia trên thế giới nói chung thì việc vận dụng quy luật giá trị được
thể hiện chủ yếu trong việc hình thành giá cả.
Nắm được vấn đề giá cả phải được hình thành trên cơ sở giá trị
nên nhà nước ta đã chủ động lợi dụng cơ chế hoạt động của quy luật
này đó là giá cả tách rời khỏi giá trị và định hướng theo xu hướng đưa
giá cả trở về giá trị. Vì vậy nhà nước ta đã những ưu điểm của quy luật
này vào thực tiển trong nên kinh tế VN nhằm:
 Kích thích sản xuất phát triển
 Điều hịa lưu lượng hàng hóa trên thị trường và kiểm sốt lưu
thơng hàng hóa
 Phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân thơng qua chính
sách giá cả. Thơng qua việc quy định một cách hợp lý các giá
cả, NN phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các

ngành nhằm phục vụ nâng cao đời sống của nhân dân lao động.
 Tạo một đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế hành hóa như giá
cả, lợi nhuận,….dựa trên cơ sở lao động xã hội cần thiết.
2.1.3 Kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị ở VN
Trong khoảng thời gian khoảng 20 năm trở lại đây, nước ta ln có chỉ số
tăng trưởng kinh tế ở chỉ số dương ( từ năm 1995 đến cuối quý III năm
2018); chỉ số giá tiêu dung liên tục giảm từ 67.5% vào năm 1991 thì đến
nay chỉ só này khơng bao giờ vượt quá 2 con số, kỉ lục nhất chính là con số
0.1% vào năm 1999. Nền kinh tế VN thay đổi rõ rệt theo hướng tích cực.
Lý do là nhà nước ta đã vận dụng quy luật này một cách khá hiệu quả, chủ
yếu nhờ các biện pháp tận dụng tương đối triệt để các biện pháp giải phóng
sức lao động trong nước cũng như tận dụng tối đa các nguồn lực từ bên
ngoài. Ngài ra, nước ta cũng đang tiến hành thay đổi cơ cấu ngành từng
bước đưa nước từ một nước nông nghiệp thành một nước cơng nghiệp.
2.1.4 Phương hướng cho việc vận dụng có hiệu quả quy luật giá trị ở VN
trong thời gian sắp tới
Tuy sự phát triển của nước ta là điều không thể phủ nhận, song cũng phải
nhìn nhận lại tính ổn định đối với nền kinh tế nước ta. Sự phát triển mang
tính ổn định ở nước ta chưa thật sự rõ nét. Khả năng cạnh tranh của các
loại hàng hóa ở nước ta là chưa cao. Khả năng cạnh tranh của các mơ hình
dịch vụ và các sản phảm dịch vụ phục vụ cho ngành này còn bị hạn chế


Các loại hàng hóa mang tính cạnh tranh chủ yếu của nước ta phần lớn
là các mặt hàng về nông nghệp, tài nguyên thiên nhiên thô sơ chưa qua chế
biến hay là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Tuy đảm bảo về tính cạnh
trạnh, những vấn đề chất lượng sản phẩm của các loại hàng hóa này chưa
ổn định. Chưa thể đáp ứng được yêu cầu của các đơn hàng lớn.
Do vậy, để đảm bảo tính hiệu quả cho việc vận dụng quy luật giá trị có
hiệu quả ở nước ta nhằm đưa nền kinh tế phát triển ổ định lâu dài. Ngoài

việc chú trọng phát triển các mặt ưu điểm của quy luật giá trị như đã nêu
trên thì vấn đề khắc phục những vấn đề nan giả giải tiềm ẩn trong những
điều kiện vốn có của nước ta- đó là vấn đề nâng cao trình độ của con
người, ngày càng tăng cường số lượng lao động được đào tạo chuyên môn
bày bản nhằm phục vụ tốt nhất cho công việc, đáp ứng nhu cầu của các nhà
tuyển dụng trong thời kì phát triển; đó là vấn đề tăng cường cải tiến trình
độ KH – KT, nâng cao mức độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng của nước ta, góp
phần tạo thuận lợi hơn đối với vấn đề lưu thơng hàng hóa, làm dễ dàng hơn
việc đưa các mặt hàng tới gần hơn đến những người tiêu dung; đó là vấn đề
tăng cường vốn đầu tư cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiếp tục
thực hiện mở cửa nhằm thu hút các nguồn đầu tư từ trong và ngồi nước,…
Có như vậy thì nền kinh tế của nước ta mới có thể phát triển một cách ổn
định lâu dài trong thời gian tới.
2.2 Tác động đối với Thế Giới
Mặt tích cực:
Việc vận dụng đúng đắn quy luật giá trị vào trong các hoạt động kinh doanh
sản xuất là một yếu tố hết sức cần thiết đối với nền kinh tế Thế Giới hiện nay. Việc
vận dụng tốt quy luật giá trị sẽ mang lại nhiều điều kiện cơ hội thúc đẩy nền kinh
tế thế giơi phát triển
Quy luật giá trị hoạt động trong các hình thái xã hội khác nhau và trong hệ
thống các quy luật kinh tế của mỗi hình thái, nó đóng vài trị phụ thuộc, vai trò
“phục vụ”. Xuất phát từ vài trò thứ nhất của quy luật đó là điều tiết sản xuất và lưu
thơng hàng hóa.Trong nền kinh tế hiện nay ,sự trao đổi mua bán hợp tác kinh tế
giữa các nước diễn ra theo chiều hướng tích cực,hợp tác lẫn nhau, dần dần quốc tế
hóa nền kinh tế Thế Giới. Mỗi nước không chỉ tăng cường tiềm lực kinh tế của
nước mình mà cịn phải mở rộng bn bán với các nước trên Thế Giới. Trong mối
quan hệ kinh tế,hợp tác mua bán các nước cần phải giảm hao phí lao động cá biệt
của các ngành sản xuất trong nước mình sao cho phù hợp với hao phí lao động xã
hội cần thiết thì mới có thể tồn tại và phát triển mạnh mẽ cạnh tranh với các nước
trên Thế Giới. Tác động này của quy luật thông qua sự biến động của giá cả dưới



tác động của quy luật cung-cầu. Từ đó nền kinh tế trị trường thế giới có sự cung
ứng cần thiết cho nhau, thông qua giá cả và nhu cầu cần thiết của nền kinh tế thế
giới mà mà các nước biết đầu tư vào ngành nào,mở rộng quy mô sản xuất loại hàng
hóa gì mà thị trường thế giới đang cần để đạt được lợi nhuận cao nhất và hạn chế
thu hẹp những loại hình sản xuất kinh doanh thấp hoặc những ngành mà thị trường
thế giới khơng có nhu cầu cao.Việc này giúp cho cung và cầu trên thị trường thế
giới luôn hướng đến trạng thái cân bằng, ổn đinh,cân bằng thị trường,tạo ra sự luân
chuyển hàng hóa giữa các nước một cách đồng đều, sự giao lưu trao đổi mua bán
giữa các nước ngày càng mở rộng hơn góp phần mở rộng thị trường Thế Giới.
Nhờ vận dụng tốt quy luật giá trị và thơng qua vai trị của quy luật đã thúc đẩy nền
kinh tế thế giới có những chuyển biến tích cực phát triển mạnh mẽ .Mặt khác từ sự
biến động của giá cả thị trường trên thế giới mà nó thu hút nguồn hàng từ nới giá
cả thấp đến nơi giá cả cao, giúp cho hàng hóa khơng bị thừa thải ở nơi này và thiếu
hụt ở nơi kia mà có sự điều phối đồng đều về hàng hóa từ đó việc lưu thơng hàng
hóa được thông suốt giữa các nước với nhau.
Điều kiện của mỗi quốc gia khác nhau nên sự phát triển kinh tế giữa các nước
cũng khác nhau. Nhưng khi vận dụng quy luật giá trị thì sự tác động của quy luật
đều kích thích các nước phải ln tìm cách cải tiến kĩ thuật,hợp lí hóa sản xuất,cải
tiến tổ chức quản lí để nhằm tăng năng suất lao động,hạ chi phí sản xuất để đạt lợi
nhuận cao nhất. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh
mẽ hơn,mang tính xã hội. Đã có nhiều cường quốc kinh tế trên Thế Giới vận dụng
tốt quy luật này mà cải tiến kĩ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ trong các hoạt
động kinh tế và hệ quả là nền kinh tế phát triển vượt bậc trở thành những siêu
cường kinh tế Thế Giới. Điển hình như Mỹ, nhờ luôn ứng dụng những thành tựu
khoa học kĩ thuật,cải tiến điều hành quản lí,hạ giá trình sản phẩm,điều tiết sản xuất
đã đóng vai trị to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tê
Mỹ như hiện nay. Hoặc Nhật Bản bên cạnh yếu tố con người thì việc ứng dụng
khoa học kĩ thuật, mua các bằng phát minh sáng chế trên Thế Giới phục vụ cho sự

phát triển tiến bộ của nền kinh tế Nhật là một yếu tố đóng vai trị hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó trong mối quan hệ hợp tác phát triển hiện nay, giữa các nước có sự
trao đổi học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong việc ứng dụng khoa học kĩ thuật với
nhau, tạo điều kiện cho nhau để có những cơ hội thuận lợi phát triển kinh tế, góp
phần vào sự tăng trưởng kinh tế cũng như kéo theo sự phát triển,tiến bộ của nền
kinh tế Thế Giới.
Mặt tiêu cực:
Ngồi những tác động tích cực thì quy luật giá trị cũng mạng lại khơng ít
những tác động tiêu cực cho nền kinh tế Thế Giới. Chỉ những quốc gia nào am hiểu
vận dụng đúng đắn cũng như hiệu quả quy luật giá trị thì có được những tiến bộ,đạt


được những thành tựu và có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ . Ngược lại quốc gia
nào vận dụng không đúng đắn cũng như không vận dụng không triệt để quy luật thì
khơng đạt được những kết quả những thành tựu trong sự phát triển kinh tế,thậm chí
là khủng hoảng,nợ nần. Từ đó dẫn đến sự phân hóa sâu sắc giữa các nước trên Thế
Giới, nền kinh tế Thế Giới sẽ không đồng đều và chậm phát triển. Bên cạnh đó,
một số nước cịn kém phát triển do khơng có điều kiện ứng dụng thành tựu khoa
học tiên tiến của Thế Giới dẫn đến nền kinh tế họ bị lac hậu nghèo nàn và bị bỏ lại
phía sau so với với các nước khác, nền kinh tế có sự chênh lệch.
Phương hướng:
Trong xu thế hiện nay việc hội nhập quốc tế là chìa khóa góp phần dẫn đến
thành cơng trong sự phát triển của các nước về kinh tế. Các nước cần phải chủ
động và tích cực chuẩn bị các điều kiện hội nhập, đồng thơi lựa chọn đúng giải
pháp và bước đi đúng đắn phù hợp trong quá trình hội nhập. Tăng cường giao lưu
học hỏi các nền kinh tế phát triển mà vận dụng thành công và có hiệu quả quy luật
giá trị để khắc phục hạn chế những sai xót thiếu hụt trong q trình vận dụng.
Các nước cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu tăng cường đầu tư khoa học kĩ thuật,
ứng dụng thành tựu khoa học hiện đại vào sản xuất
Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đó là mở rộng quan hệ song phương

và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ cũng như với các trung tâm kinh tế
lớn, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Hinh thành,tạo lập phát triển đồng bộ các loại thi trường. có như thế giữa các nước
mới tận dụng tối đa được các nguồn lợi giữa các nước với nhau thông qua các thị
trường thế giới.

KẾT LUẬN
Tóm lại, quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu
thơng hàng hóa. Và sự ra đời của nó cũng gắn liền với sản xuất và lưu thơng hàng
hóa. Ở đâu có sản xuất và lưu thơng hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật
giá trị.


Quy luật giá trị có đóng góp rất lớn trong việc điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng
hóa, nó cịn kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động, thúc đẩy lực lượng xã hội phát triển, hạ thấp giá thành sản phẩm... Bên cạnh
những mặt tác động tích cực, thì quy luật giá trị cũng có mặt hạn chế. Đó là sự
phân hóa giàu-nghèo, vấn nạn ơ nhiễm mơi trường do Việt Nam vẫn cịn thiếu
những chính sách và quy định bảo vệ môi trường nghiêm ngặt, trong khi Việt Nam
đang thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư để phát triển nên dễ tiếp nhận nhiều
ngành công nghiệp bẩn, cạn kiệt tài nguyên...
Ta thấy rằng, giá cả thị trường sẽ lên xuống xung quanh giá trị hàng hóa, trở thành
cơ chế tác động của quy luật giá trị và được phát sinh lên thị trường thông qua
cạnh tranh, cung-cầu, sức mua của đồng tiền. Đây cũng là giải thích cho câu hỏi tại
sao khi trình bày về quy luật kinh tế chi phối hoạt động sản xuất, lưu thơng hàng
hóa và tác động của quy luật kinh tế đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường
Việt Nam, ta chỉ nói đến quy luật giá trị, một quy luật bao quát chung được cả bản
chất, các nhân tố cấu thành và cơ chế tác động của nó đến nền kinh tế thị trường
Việt Nam.




×