Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Thoi xa vang tap 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.66 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Thời xa vắng</b>



<b>Chương 1</b>


Làng bập bềnh như trôi trong đêm sương muối. Những cây cau thẳng đuột cao vóng như chỉ chực lao
thẳng đến tận trời chìm ngập giữa âm thầm giá lạnh Đã năm đêm nay sương làm táp đen những luống
khoai làng và những cây địn tay bằng tre ngâm nổ toang tốc. Nhưng có lẽ đêm nay cái lạnh mới thấu
từng khớp xương ông đồ Khang. Từ trưa hôm qua đến giờ chưa có hạt gì vào miệng, ơng cứ siết mãi sợi
dải rút như dính ệp vào xương sống. Sau khi đã trút nỗi uất giận lên đầu thằng con trai út, thằng Sài,
ông thấy tủi phận và bây giờ sự trống trải giá buốt như từ giữa ruột mà tràn ra. Ông lẩy bẩy đứng dậy.
Lần ra đầu ngõ, lặng lẽ đứng giữa sương giá, một thống tái tê cám cảnh phận mình, ơng phải đưa bàn
tay xương xẩu bấu vào thân cây ổi trước cổng. Nhưng cơn giận vẫn chưa thể nguôi, nề nếp và danh dự
vẫn như sợi dây đay xiết chặt, ông trở lại nhà, ngồi xuống chỗ cũ. Chiếc tràng kỷ lạnh tốt như có ai vừa
dội nước. Nếu cách đây mấy phút ông muốn thốt lên: "Liệu bây giờ nó ở đâu, rét mướt thế này" thì bây
giờ nỗi hậm hực lại muốn trào ra: "Cho mày chết, cá không ăn muối cá ươn. Trời ơi mặt mũi nào ăn nói
với người ta". Thằng Sài đuổi vợ nó đi, nhưng việc ấy đâu có phải là của nó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Trưa qua có khách ơng phải nhường bát, sáng nay lại thay bà ấy vác mấy đoạn tre đi chợ, trở về, hai
chân đã run run. Vừa nhả hơi thuốc ông vừa quay ra cửa thấy con dâu ơng giàn giụa nước mắt, cắp gói
quần áo mếu máo "Con xin thầy mẹ con về nhà con". Con bé kể rành rọt và khúc triết sự tình xảy ra.
Càng nghe, mặt ơng càng tối rầm lại. "Thôi thầy xin con, con cứ ở nhà" . Nhưng con bé nhất quyết ra đi,
đi một cách bình thản, tự tin và bất chấp lời can gọi vừa tha thiết vừa có phần gắt xẵng của ơng.


Thằng Sài được người mách bảo, che chắn ông đồ Khang không tìm thấy nó. Ơng gọi tất cả con dâu, con
giai kể cả anh Tính là cán bộ của phịng thuế nông nghiệp huyện học ba tháng trên tỉnh vừa dắt chiếc xe
đạp vê, ông đã bắt vứt đi từng nhà tìm thằng Sài. "Khơng có con thì đừng" - "Ai thấy nó đầu làm ơn
mách tơi. Thằng này mà sống, cả nhà tơi chết đứng vì nó".


Bằng cách nào đó thằng Sài nghe thấy tất cả lời lẽ có khi cịn nghiêm trọng hơn sự uất hận của ơng đồ.
Trời chạng vạng tối nó vuột ra cánh đồng. Nhờ sương hôm xuống dày đặc, chỉ chạy cách rặng tre chừng
dăm chục bước đã thấy mờ mịt, nhưng tiếng ồn ào phía trong vẫn vọng lên, muốn ồ tố theo. Có lẽ ai


trơng thấy nó ư? Nó chạy sấp ngửa trên những thửa ruộng mới cày vỡ, những sá cày đất gan trâu lật lên
như những cánh phản rắn bóng nhếnh nháng. Chốc chốc vấp ngã, mặt nó đập vào đá, đau đến nỗi chỉ
thấy nước mắt ứa ra mà khơng sao dậy nổi. Nó nằm úp mặt vào đất, nước mắt thấm xuống làm tảng đất
cầy nhão ra, da mặt nó cứng lại, dính ập vào hịn đất mới cầy vỡ. Nhưng rồi nó vẫn phải cố bò dậy lấy
sức chạy, vừa thở vừa chạy, vừa nghiến răng nén đau mỗi lần vấp ngã. Mãi đến khi khơng thể đứng dậy
được và có lẽ đã xa lắm rồi, khơng ai cịn đuổi được, nó mới nằm lại chỗ đống cỏ gà, cỏ gấu nhà ai đốt
dở từ hơm nào, khơng cịn lửa nhưng tro vẫn âm ấm. Nó lấy tay san đống tro lựa chỗ nằm và vơ những
vầng cỏ chưa cháy đắp lên đầu, lên lưng để khơng ai nhìn thấy. Nằm chưa ấm chỗ lại nghe lao xao,
tiếng gào kêu tên thằng Sài hoảng hốt. Có cả tiếng anh Tính và chú Hà. Vẫn gần nhà quá. Nhưgn nó mệt
muốn đứt hơi, khơng cịn ngồi dậy được nữa. Nằng nghe tiếng gọi của chú và anh, nó vừa mừng vừa
thấy tủi thân, nước mắt ứa ra và mồ hôi cũng ướt đầm chiếc áo cánh vải phin gụ. mọt thống sau nó lại
thấy run, khắp người run bắn lên, nó vội vã cào cỏ, cào tro, cào đất gạt lên người, chỗ nào con hở lạnh
phải kéo cả tảng đất cày đắp lên, nó nằm cong như một con sâu đo nằm nghiêng, thiếp đi trong nỗi
hoảng sợ và đói mệt từ lúc nào khơng thể biết.


Cái điều nó phấp phỏng chờ đợi đã khơng xảy ra. Anh Tính đã về và chú Hà cũng đi tìm nó. Ơi, chú Hà!
Nghe nói hồi cưới Sài, chú Hà khơng lên vì chú khơng bằng lịng cho trẻ con lấy vợ. Hơm nay có chú, có
nghĩa là tội lỗi của Sài được che chở. Chỉ cần thấy chú khơng vui, cả nhà cả xóm sẽ ồ tố ra cánh đồng
kêu la tìm kiếm. Người ta sẽ reo lên ngỡ ngàng khi tìm ra nó và bế nó về xuýt xoa và mắng mỏ, sai
khiến và giục giã nhau thay quần áo, lấy khăn ướt lau mặt, dỗ dành chiều chuộng nó. Lúc ấy nó đã khoẻ
hẳn rồi, đã muốn nhỏm dậy làm lấy mọi việc nhưng mắt vẫn phải hơi nhắm lại, miệng há ra thở, đôi môi
khô lại, hcana tay vẫn mềm oặt thõng thượi theo những bàn tay nâng niu nắn bóp và vẫn phải thều thào
đáp lại ú ớ những câu gọi hỏi của mọi người. Cái phút thấp thống nghe tiếng của anh, của chú, nó đã
mừng đến ứa nước mắt, đã tủi thân giận dỗi đến run lên.


Chính lúc ấy chú Hà hỏi, cái lời lạnh như đêm sương muối:
- Ai như anh Tính?


- Gì đấy? Ai hỏi gì.
- Tơi đây!



- A ơng. Con tưởng ai. Con vừa mới về.


Đợi anh vội vã đến gần, đứng một đoạn tre cắm xuống đất và sẵn sàng hứng đỡ mọi lời, ơng Hà mới nói,
giọng nhỏ, đã cố ghìm nỗi bực.


- Anh vơ ý thức lắm!
- Dạ chú bảo..


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Cháu vừa về đến nhà đã thấy...


- Thấy thế nào, anh cũng phải trị thằng em anh khơng được hỗn. Tý tuổi đầu đã mất đồn kết với vợ
con. Hỉ mũi chưa sạch đã lên mặt làm chồng đánh chửi con người ta. Đấy là t ơi chưa kể quyền nam nữ
bình đẳng, nhà nó mà kiện là mất hết, cả tơi, cả anh đeo mo vào mặt. Đứng trước việc đó vai trị của
anh, của người cán bộ hoạt động cách mạng để ở đâu? Lẽ ra, phải biết giải thích đường lối chính sách
cho bố mẹ anh thấm nhuần. Cịn thằng Sài phải cho nó vài cái bạt tai.


- Vâng.


- Nhưng có đánh nó thì cũng phải kín, kẻo người ta lại bảo cán bộ không gương mẫu.
- Vâng.


- Nhưng mà... chủ yếu là đe nẹt rồi báo cho thầy giáo và phụ trách kiểm điểm ở lớp, ở đội, đừng làm gì
ầm ĩ lên.


Nói được đến đâu nỗi giận của chú hả vợi đến đấy. Tính khơng ngờ vì thương em và vốn khơng ưa gì cái
lề lối gia giáo của bố, anh đã hoảng hốt đi tìm nó. Thấy anh hoảng, vợ anh cũng hoảng, mấy bà thím dù
thực lịng khơng để tâm lắm cũng giục giã con cái đi tìm anh Sài làm ồn ã cả một góc xóm. Cái việc nhỏ
ấy đã biểu hiện ý thức non nớt của anh, anh đã để chú Hà cho rằng mấy tháng nay tuy đi học trên tỉnh
nhưng anh vẫn chưa hề có tiến bộ gì.



Anh lững thững đi về nhà, ngồi vào chiếc tràng kỉ âm thầm như một bóng ma. Mãi mới ngẩng lên anh
quát xuống bếp:


- Đi đằng nào, có châm hộ cái đèn không? Nhà cửa mù mịt lạnh lẽo như nghĩa địa mà vẫn để được, tôi lạ
thật.


Anh qt vợ. Khơng ngờ, nói vừa dứt đã thấy một ngọn lửa xoè lên ở tràng kỷ bên kia. Bố đã ngồi lặng
lẽ ở đấy khi nào. Ông lật bật nhắc bóng đèn dầu, đặt ngang chiếc đóm tre ngâm đang cháy, gạt gạt ống
muỗng cho tàn than trên đầu bấc rời ra, kéo chiếc đóm lùi lại để ngọn lửa chèm lên đầuu muỗng và khi
ngòi bấc nhú lên, bắt được ngọn lửa, ông chụp chiếc bóng ngay ngắn rồi mới dụi đóm vào khe chiếc điếu
bát. Tất cả cử động ấy của ông của ông diễn ra một cách rụt rè và chậm, dường như nó là cái cớ để ơng
nghĩ ra một điều gì đó, sẽ nói một lời nào đó với thằng con ơng. Vợ chồng ơng có tám mặt con nhưng chỉ
cịn ba. Ba thằng con trai. Thằng cả thì đần và đã ở chỗ khác, cả nó, cả ơng đều thấy yên phận kẻ làm
con và người làm cha, khơng thấy phiền muộn trói buộc gì nhau. Thằng thứ hai, anh Tính - ơng vẫn
quen gọi một cách vị nể mà lạnh nhạt ấy. Nó đã có vợ và cũng đã ăn riêng, nhưng vẫn ở cùng nhà, quan
trọng hơn, nó cùng hoạt động với ơng Hà, người em ruột ơng. Nó với ơng như hai đầu của sự đầy vơi có
thể san lấp cho yên bằng mỗi khi sóng gió. Ví như khi nó lén lút liên lạc với ơng Hà có bắt bớ, giam cầm
thì nhờ vào sự q trọng của ơng, một thầy đồ đã một thời nổi danh nhất thì ở vùng này, người ta đã
cứu giúp nó. Người ơng phải chịu ơn nhiều là ơng phó tổng Cự, bố vợ thằng Sài bây giờ. Dăm bẩy tháng
nay hồ bình được lập lại có ai khinh rẻ những người cổ hủ phong kiến thì vẫn phải nể ơng, "ơng cụ nhà
anh Tính", "Cụ là anh của ơng Hà". Ơng và nó đều có những đận khổ sở, khốn đốn về nhau nhưng lại có
lúc hãnh diện mừng thầm mình có thằng con (hoặc ơng bố) thức thời, chịu lấy vất vả gian truân mà học
hành, hoạt động. Nhưng ơng và nó chưa mấy khi nói năng với nhau dễ dàng. Hai cha con vẫn như hai
người khách! Ngẫm kĩ, ơng thấy nó cũng như vơ số loại người khi hưởng lộc do công lao người khác đem
lại thì hỉ hả dễ chịu, cịn lúc phải gánh xẻ nỗi cay đắng với kẻ khác, dù đó là máu mủ ruột thịt, cũng thấy
ngại, dễ nổi xung và có quyền được xỉ vả hắt hủi kể yếm thế. Lẽ đời là thế nên nó sẵn sàng bắt bẻ hạch
sách ơng theo cái lối của nó, gọi là phê bình. Nhưng ơng có lý của ơng. Một nề nếp, một thói quen, một
thơng tục cha truyền con nối từ mấy đời nay: con cái không được quyền muốn sao được vậy vì như thế
là trái với phép tắc gia phong. Nghĩ đến đây ông thấy mình có lý, thấy vững tâm hơn, cũng lại thấy sự


lặng lẽ của nó cứ lù lù mỗi lúc một trương lên, đè trùm xuống cả ba gian nhà lạnh lẽo.


- Tôi thấy thầy nuông thằng Sài lắm rồi bây giờ mới khổ.


Nó định ăn nói kiểu gì thế này. Mặc dù kiểu gì ơng cũng cso cớ để bắt chuyện với nó được dễ dàng.
- Anh bảo tơi sung sướng với thằng em anh lắm à?


- Nếu ngày nào thầy cũng đe nẹt nghiêm ngặt với nó thì đâu đến nỗi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cái tội "cùng ăn, cùng làm" và chuyện trị với "vợ", anh thấy tội nó qua. Hơn nữa, anh vẫn mang nỗi hận
với nhà phó Cự. Dù hắn đã xin cho anh được tha từ đồn Tây về nhưng nó vẫn thì thụt tố giác, chỉ điểm
bao nhiêu việc anh và cán bộ nằm vùng. Anh biết rằng điều anh vừa nói khơng thật lịng với mình nhưng
chú Hà đã bảo lúc này phải hết sức tránh cái gì có thể làm ồn lên. Nhất là chú lại đang bực về việc làm
vô ý thức của anh.


Hơi ngỡ ngàng về sự đồng tình của con trong việc này, ơng đồ đã thấy n tâm hơn rất nhiều. Nhưng
đến khuya, thì xóm mạc lại xáo xác bởi tiếng kêu khóc của bà đồ Khang.


Từ nửa đêm hôm qua bà phải đội lọ lục bình lên tận Đa Hồi mới cầm đổi được lưng thúng gạo về chống
đói. Về đến nhà đặt thúng xuống phản, bà nằm ln đấy thiếp đi. Ơng đồ nhờ con dâu nấu cho nồi cháo.
"Nấu kha khá vào anh chị ăn một thể". Cháo chín, bà được lay dậy. Mắt nhắm, mắt mở húp gần hết bát
cháo bà mới nhận ra khơng có vợ chồng thằng Sài. Bằng sự dồn hỏi hoảng hốt bà biết mọi sự xảy ra.
Đặt bát cháo húp dở xuống mâm bà lao ra sân ngửa mặt lên trời kêu than rồi sai con dâu đốt cho bó
đuốc bằng cây đay khô. Bà cầm đuốc vừa chạy vừa gọi con vừa kêu giời đất, bất chấp cả mọi tai tiếng
ảnh hưởng cả đến danh dự, uy tín mà con trai ra sức gìn giữ. Bà chạy đi. Vợ Tính cũng phải chạy đi. Mấy
đứa cháu ruột cũng chạy đi. Sự hoảng sợ của bà cộng thêm nỗi huyên náo rất hệ trọng của đám trẻ,
làng Hạ Vị đêm nay sẽ vợi đi nỗi đói rét ra cánh đồng, chỗ người ta xúm đông đặc quanh đống tro thằng
Sài phủ lên người nó.


Đã qua cái đêm cả làng, cả xóm đổ đến xơ đẩy nhau nhốn nháo ở ngoài cổng và khi vào đến sân tất cả


đều nghiêm trang nín thở để nghe tiếng gọi dồn dập của không biết bao nhiêu người nêm chặt trong ba
gian ơng đồ Khang.


Bẩy vía ba hồn Sài ơi về với mẹ đi con" "Bẩy vía ba hồn thằng Sài" ở đâu thì về với bố, với mẹ Sài ơi".
Những tiếng gọi hoảng hốt. Những ngón tay bóp chặt lấy ngón tay cái và chí vào hai bên thái dương
thằng Sài một cách hoảng hốt. Những bát lông gà, bồ kết đốt khỏi sục vào mũi thằng Sài môt cách
hoảng hốt. Những đĩa rượu đốt cháy bùng xanh chườm tóc rối và gói gừng giã nhỏ đánh trên lưng, trên
ngực, trên tay thằng Sài một cách hoảng hốt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Cho nên mỗi lần bàn bạc gia đình chị có ngồi đấy hay khơng cũng chẳng ai để ý nếu như chè và thuốc
lào, đóm và nước đã đầy đủ tinh tươm.


Bốn người cịn lại tuy sự kìm nén khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ ai cũng cảm thấy chỉ có mình
là người khổ tâm nhất trong việc này.


Trước hết, nói về thằng Sài, nhân vật chính của sự cười chê ồn ã hàng tuần lễ nay. Dù cả nhà đều nhìn
nó âu yếm, nói năng vui vẻ và nói những chuyện tận đâu, nhưng khi được chị Tính dìu từ dưới bếp lên
thằng Sài khóc ồ ra và lao vào ơm ngang lấy thắt lưng mẹ, người nó run lên bật bần. Nước mắt bà đồ
tự nhiên ứa ràn xuống hai má. Bà cúi lấy vạt áo lặng lẽ chấm nước mắt, quay ra ơm ghì lấy con, gắt.
- Bàn bạc gì thì bàn đi, thằng bé sợ hết hồn rồi đây này.


Ơng đồ vẫn nói dịu dàng:
- Ơ hay ai làm gì nó.


Chị cả cũng động lịng thương xót.


- Chú Sài, sợ gì em. Để thầy mẹ và các anh chị liệu xem công việc thế nào, có ai mắng mỏ hắt hủi gì em
mà sợ.


Tính nghiêm mặt:



- Sài nín. Thầy có ý kiến thì nói đi rồi mọi người trong gia đình đều phải ghé vai mà làm. Tôi rất khổ tâm
cứ mỗi lần về đến nhà khơng chuyện nọ thì chuyện kia. Mỗi người nghĩ một phách, làm một nẻo, mạnh
ai người nấy lo, cịn thì "sống chết mặc bay".


Xem cung cách, lời lẽ ấy Tính đã ý thức được mình mới là người lo lắng và quyết đoán tất cả mọi việc.
Khơng phải anh muốn như thế. Cái chính là mọi điều tiếng, xấu xa của gia đình đều đổ lên đầu anh. Thử
hỏi cả huyện, cả xã ai biết anh cả là ai. Ngay đến tiếng tăm của thầy đã mấy ai ở xã ngồi biết đến.
Chuyện gì xẩy ra, thiên hạ cũng chỉ biết bố mẹ đồng chí Tính cán bộ huyện chứ ai có thể thay anh nhận
lấy sự xỉ nhục. Là chưa kể chuyện thằng Sài không biết đến bao giờ mới hết tai tiếng.


Cũng là danh dự của gia phong, ông đồ lại thấy Tính khơng thể hiểu và san sẻ nỗi khổ của riêng ơng. Nó
cứ đi biền biệt, hoạ hoằn mới đáo qua nhà, làm sao nó biêt ơng điêu đứng như thế nào. Mang tiếng là
ông đồ nho, mấy đời nay chưa hề để ai chê cười nhà mình có chuyện ăn ở trên dưới như "họ nhà tơm",
chưa có khi nào con cái lại trái ý cha mẹ. Chưa khi nào ăn nói sai ngoa, lá mặt, lá trái. Con mình đuổi
con người ta đi, ai biết đâu là chuyện trẻ con. Tất cả những chuyện đó thằng Tính làm ơng phải rụt rè,
ngần ngại là thằng Tính. Bây giờ khơng những ơng được thể quát nạt, đe nẹt được nó, ngược lại, làm
việc gì ơng cũng phải lựa xem ý nó thế nào cịn liệu. Suốt bao ngày nay ơng vẫn chưa phải lo nghĩ điều
đó nên giọng ơng lúc này cịn chưa thể quả quyết.


- Cũng chả ai muốn xẩy ra như thế. Nhưng dẫu sao thì cũng là việc đã rồi. Bây giờ bà với các anh các chị
có cả anh Tính về đây ta bàn xem cách nào đến xin lối người ta để cho con nó về. "Con dại cái mang".
Không ngờ bà đồ bốp chát ngay:


- Tôi khơng phải xin xỏ gì ải cả. Con tơi ốm chín phần chết khơng được phần sống, nhà nó có ai thèm lai
vãng đến đây? Mà tôi hỏi cớ gì khi thằng chồng ốm con vợ lại khơng về.


- Thì con mình đã đuổi nó đi.


- Chấp gì thằng bé hỉ mũi chưa sạch ấy. Mà nó có quyền gì. Trừ phi ơng hay tơi thấy cơ ăn đổ làm vỡ


khơng thể chứa được thì mới được phép ra khỏi nhà tơi. à, ra nhà nó quen thói hà hiếp thiên hạ rẻ rúng,
bỉ mặt ai cũng được.


- Bà liệu mà ăn nói, cịn có người nọ người kia nghe.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

này. Ông đồ hết hút thuốc lại uống nước chè tươi. Hai mắt hình như cả đôi tai ông chăm chú vào những
cử chỉ cố kéo dài ra của cơng việc tước đóm và hút thuốc, lau chùi đĩa chén và uống nước nhưng ông
cũng biết hết ý tứ của từng người, trừ có thằng Tình là ơng khơng hiểu nó đang nghĩ gì. Đó là cái điều đã
từ lâu, từ khi nó tham gia hoạt động đến nay ông luôn ngại, bực bội và thú thật đôi khi cũng phải chịu
lép với những lời lẽ lý sự của nó. Ơng biết, việc gì trong nhà này bây giờ ai cũng nghe nó hơn là nghe
ơng. Ngẫm ra cũng phải thơi. Thời này người có chức tước nói mà chả hay ho mẫu mực.


Tính nói. Cái điều lo sợ nhất của ông đồ đã đến rồi. Chỉ cần ý của nó nữa là biết rõ sự tình sẽ đi đến đâu.
Ơng ngồi nghiêng mặt ra chỗ tối ánh đèn, mải vê điếu thuốc nhồi vào nõ để tránh nỗi phấp phỏng chờ
đợi sự kết cục không thể gọi là nhỏ. Chỉ việc này không thành cũng đã coi như ông sống bằng thừa,
sống vô vị như một xác chết. Nhưng ơng đã lầm. Tính cịn lo hơn cả ơng. Anh hiểu rõ hậu quả những
chuyện gia đình kiểu thế này không thu xếp ổn thoả sẽ dẫn tới đâu! Anh nói từng tiếc chắc nình nịch như
thể vốn nó là thế, khơng thể là khác, khơng ai có thể thay đổi được.


- Chú Sài đuổi thím Tuyết khơng có gì phải ầm lên. Thầy làm như thế là chưa đúng. Thì lúc ấy anh bảo
tơi làm sao mà nén được. Những ngày chú Sài ốm nhà ông phó Cự im lặng thờ ơ là sai, rất đáng trách.
Tơi thấy mẹ đã nói lên tất cả nỗi tức giận của nhà ta. Phải tỏ thái độ như thế mới đúng. Thế là nó vào
hùa với mẹ nó thật rồi. Nhà mình gây ra sự lại đổ lỗi cho người ta. Kệ, anh nói thế nào thì nói, mẹ con
anh định thế nào thì tuỳ nhưng với lão đồ Khang thì thằng Sài khơng thể bỏ con người ta được. Thời buổi
này không phải là lúc họ muốn coi ai ra gì cũng được như trước đây. Nhưng đấy là việc sau. Trước sau
tôi sẽ có cách để nhà họ phải mở mắt ra. Cịn trước mắt ta sử xự khác. Ta không thèm tầm thường chấp
vặt. Không thèm đôi co xem ai đúng, ai sai, khơng thèm đợi họ phải nói trước. Quả đi đây đi đó nó cũng
có hơn.


- Anh bảo nhà mình phải đi nói trước với họ?



- Đằng nào thì chú Sài cũng khơng thể bỏ được thím Tuyết. Mọi việc mẹ cứ mặc tơi. Ta nói trước mới
chứng tỏ ta là người lớn không chấp chuyện trẻ con. Ngày mai nhà Tính đưa chú Sài sang. Chú chỉ cần
nói một câu: "Con đã trót dại đuổi nhà con đi, con xin lỗi ông bà cho nhà con về". Chỉ cần nói thế rồi về.
Xem nhà họ đối xử thế nào, sau đó tơi sẽ liệu.


Anh dừng lại, uống nước như tự thưởng cho những quyết định của mình và cũng để dị xem phản ứng
của mẹ, của thằng Sài. Ơng đồ khơng nhìn anh, trong đầu ơng vẫn thì thầm đắc ý: Phải thế mới ra người
có học. Cứ tưởng cha con xung khắc, khơng ngờ nó hợp ý ơng như thế. Chỉ có điều nó theo lối mới nói
năng lưu lốt, dễ lôi cuốn người ta hơn.


Bà đồ ngập ngừng
- Thế ngộ nhỡ...


- Mẹ khơng có "nhỡ" gì cả. Ngày mai cứ thế làm khơng phải bàn gì nữa. Khuya rồi, đi ngủ.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×